You are on page 1of 130

TRƯỜNG ĐẠI HỌC TÀI CHÍNH- MARKETING

KHOA LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ

Tài liệu học tập

TRIẾT HỌC MÁC - LÊNIN


(Chương trình chất lượng cao)

LƯU HÀNH NỘI BỘ

THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH, THÁNG 8 NĂM 2020


TRƯỜNG ĐẠI HỌC TÀI CHÍNH- MARKETING
KHOA LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ

Tài liệu học tập

TRIẾT HỌC MÁC - LÊNIN


(Chương trình chất lượng cao)

LƯU HÀNH NỘI BỘ

THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH, THÁNG 8 NĂM 2020


CHỈ ĐẠO BIÊN SOẠN
BAN GIÁM HIỆU TRƯỜNG ĐẠI HỌC TÀI CHÍNH - MARKETING

Chủ biên
Thạc sĩ Nguyễn Minh Hiền – Thạc sĩ Đặng Chung Kiên

Tham gia biên soạn


Chương 1: Th.s. Nguyễn Minh Hiền
Th.s. Lê Thị Hoài Nghĩa
Th.s. Đàm Thị Hằng
Chương 2: Th.s. Nguyễn Minh Hiền
Th.s. Đặng Chung Kiên
Th.s. Đỗ Thị Thanh Huyền
Chương 3: T.S. Lại Văn Nam
Th.s. Bùi Minh Nghĩa
Th.s. Ngô Quang Thịnh
MỤC LỤC
CHƯƠNG 1: TRIẾT HỌC VÀ VAI TRÒ CỦA TRIẾT HỌC TRONG ĐỜI SỐNG
XÃ HỘI ....................................................................................................................... 1
I. TRIẾT HỌC VÀ VẤN ĐỀ CƠ BẢN CỦA TRIẾT HỌC ....................................... 2
1. Khái lược về triết học .............................................................................................. 2
2. Vấn đề cơ bản của triết học ..................................................................................... 6
3. Biện chứng và siêu hình .......................................................................................... 8
II. TRIẾT HỌC MÁC – LÊNIN VÀ VAI TRÒ CỦA TRIẾT HỌC MÁC – LÊNIN
TRONG ĐỜI SỐNG XÃ HỘI .................................................................................... 10
1. Sự ra đời và phát triển của Triết học Mác - Lênin.................................................. 10
2. Đối tượng và chức năng của Triết học Mác - Lênin ............................................... 19
3. Vai trò của triết học Mác - Lênin trong đời sống xã hội và trong sự nghiệp đổi mới ở
Việt Nam hiện nay ...................................................................................................... 20

CHƯƠNG 2: CHỦ NGHĨA DUY VẬT BIỆN CHỨNG ....................................... 29

I. VẬT CHẤT VÀ Ý THỨC ...................................................................................... 30


1. Vật chất và các hình thức tồn tại của vật chất ........................................................ 30
2. Nguồn gốc, bản chất và kết cấu của ý thức ............................................................ 35
3. Mối quan hệ giữa vật chất và ý thức ....................................................................... 37
II. PHÉP BIỆN CHỨNG DUY VẬT ......................................................................... 39
1. Hai loại hình phép biện chứng và phép biện chứng duy vật .................................. 39
2. Nội dung của phép biện chứng duy vật .................................................................. 41
III. LÝ LUẬN NHẬN THỨC CỦA CHỦ NGHĨA DUY VẬT BIỆN CHỨNG....... 68
1. Các nguyên tắc của lý luận nhận thức duy vật biện chứng .................................... 68
2. Nguồn gốc, bản chất của nhận thức ........................................................................ 69
3. Thực tiễn và vai trò của thực tiễn đối với nhận thức .............................................. 70
4. Các giai đoạn của quá trình nhận thức.................................................................... 72
5. Tính chất của chân lý .............................................................................................. 74

CHƯƠNG 3: CHỦ NGHĨA DUY VẬT LỊCH SỬ ................................................ 80

I. HỌC THUYẾT HÌNH THÁI KINH TẾ - XÃ HỘI ................................................ 81


1. Sản xuất vật chất là cơ sở của sự tồn tại và phát triển xã hội ................................. 81
2. Biện chứng giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất ...................................... 82
3. Biện chứng giữa cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng của xã hội ...................... 85
4. Sự phát triển các hình thái kinh tế - xã hội là một quá trình lịch sử - tự nhiên ...... 87
II. GIAI CẤP VÀ DÂN TỘC ..................................................................................... 90
1. Vấn đề giai cấp và đấu tranh giai cấp ....................................................................... 90
2. Dân tộc ...................................................................................................................... 95
3. Mối quan hệ giai cấp – dân tộc – nhân loại .............................................................. 97
III. NHÀ NƯỚC VÀ CÁCH MẠNG XÃ HỘI ............................................................ 98
1. Nhà nước ................................................................................................................... 98
2. Cách mạng xã hội ....................................................................................................100
IV. Ý THỨC XÃ HỘI .................................................................................................103
1. Khái niệm tồn tại xã hội và các yếu tố cơ bản của tồn tại xã hội ............................103
2. Ý thức xã hội và kết cấu của ý thức xã hội ..............................................................104
3. Quan hệ biện chứng giữa tồn tại xã hội và ý thức xã hội ........................................107
V. TRIẾT HỌC VỀ CON NGƯỜI ..............................................................................109
1. Khái niệm con người và bản chất con người ...........................................................109
2. Hiện tượng tha hoá con người và vấn đề giải phóng con người ..............................111
3. Quan điểm của triết học Mác - Lênin về quan hệ cá nhân và xã hội, vai trò của quần
chúng nhân dân và lãnh tụ trong lịch sử ......................................................................113
4. Vấn đề con người trong sự nghiệp cách mạng ở Việt Nam ....................................115
TÀI LIỆU THAM KHẢO ...........................................................................................122
LỜI NÓI ĐẦU
Thực hiện công văn số 3056/BGDĐT-GDĐH, ngày 19 tháng 7 năm 2019 của Bộ Giáo
dục và Đào tạo về hướng dẫn thực hiện chương trình, giáo trình các môn lý luận chính
trị, Trường Đại học Tài chính-Marketing đã ra Thông báo số 1472/TB-ĐHTCM, ngày
30 tháng 8 năm 2019, về việc thay đổi các môn học lý luận chính trị trong chương trình
đào tạo các chuyên ngành bậc đại học. Theo đó, tổng số có 11 tín chỉ và phân bổ cụ thể
như sau:
- Triết học Mác-Lênin: 3 tín chỉ
- Kinh tế Chính trị Mác-Lênin: 2 tín chỉ
- Chủ nghĩa xã hội khoa học:2 tín chỉ
- Lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam: 2 tín chỉ
- Tư tưởng Hồ Chí Minh: 2 tín chỉ
Từ học kỳ cuối năm 2019, Khoa Lý luận Chính trị và Nhà trường đã bắt đầu triển khai
thực hiện giảng dạy theo kết cấu chương trình này. Trong quá trình giảng dạy, Bộ môn
chuyên môn và giảng viên thực hiện thống nhất việc sử dụng Giáo trình Tập huấn của
Bộ Giáo dục và Đào tạo. Việc giảng dạy và học tập cho đến thời điểm này được thực
hiện nghiêm túc, đảm bảo chất lượng theo đúng yêu cầu về chuẩn đầu ra được xác định
trong Đề cương học phần đã được Nhà trường ban hành.
Phát huy tinh thần trên đây, đồng thời nhằm tạo điều kiện thuận lợi hơn nữa cho việc tự
học, tự nghiên cứu của sinh viên trong Nhà trường, Bộ môn Chủ nghĩa Mác-Lênin thuộc
Khoa Lý luận Chính trị đã đăng ký và triển khai biên soạn Tài liệu học tập Triết học
Mác - Lênin, áp dụng cho Chương trình đào tạo chất lượng cao.
Đây là học phần bắt buộc trong chương trình giảng dạy đại học, nhằm bồi dưỡng tư duy
triết học, rèn luyện thế giới quan và phương pháp luận triết học cho sinh viên trong việc
nhận thức, nghiên cứu và vận dụng vào hoạt động thực tiễn. Qua đó góp phần quan trọng
vào việc giáo dục lý luận chính trị, lý tưởng cách mạng cho sinh viên - đội ngũ trí thức
trẻ của nước nhà; góp phần đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao nhằm tiến hành thắng
lợi sự nghiệp đổi mới đất nước.
Với mỗi chương của tài liệu, các tác giả triển khai theo cấu trúc sau: (i) Xác định mục
tiêu cần đạt được sau khi học xong mỗi chương về kiến thức, kỹ năng, thái độ, (ii) Nội
dung của chương, (iii) Văn bản và câu hỏi kết chương, (iv) Câu hỏi ôn tập, (v) Câu hỏi
thảo luận.
Dù đã cố gắng, nỗ lực nhưng tài liệu biên soạn này không tránh khỏi những thiếu sót,
hạn chế, cần được bổ sung, sửa chữa và hoàn thiện. Chúng tôi sẽ tiếp tục điều chỉnh, bổ
sung khi nhận được các ý kiến, góp ý của các nhà khoa học, nhà quản lý, đồng nghiệp
và người học.
Xin trân trọng cảm ơn!
TẬP THỂ TÁC GIẢ
Chương 1
TRIẾT HỌC VÀ VAI TRÒ CỦA TRIẾT HỌC TRONG ĐỜI SỐNG XÃ HỘI

Mục tiêu
Về kiến thức
- Trình bày và phân tích được khái niệm triết học, nguồn gốc ra đời, vấn đề cơ
bản của triết học, hai trường phái lớn trong triết học và phương pháp nghiên cứu
của triết học.
- Luận giải sự ra đời của triết học Mác – Lênin là một tất yếu khách quan.
- Làm sáng tỏ đối tượng nghiên cứu, chức năng của triết học Mác – Lênin.
- Chứng minh được vai trò của triết học Mác - Lênin trong đời sống xã hội nói
chung, trong sự nghiệp đổi mới ở Việt Nam nói riêng.
Về kỹ năng
- Chứng minh được đặc trưng của tri thức triết học.
- Phân tích được mối quan hệ giữa triết học và các khoa học cụ thể.
- Vận dụng những kiến thức triết học để bước đầu trả lời những câu hỏi mang
tính suy tư triết học.
Về thái độ
- Nhìn nhận, đánh giá một cách khách quan, khoa học về sự cần thiết phải học
tập và vận dụng tri thức của triết học Mác – Lênin trong công việc, trong cuộc
sống.
- Ý thức tự giác trong phản biện những luận điểm xuyên tạc, phủ nhận tri thức,
vai trò chủ nghĩa Mác – Lênin nói chung và triết học Mác – Lênin nói riêng.

Triết học là hệ thống tri thức lý luận chung nhất của con người về thế giới; về
vị trí, vai trò của con người trong thế giới ấy. Triết học ra đời từ rất sớm trong lịch
sử nhân loại với hai nguồn gốc: nguồn gốc nhận thức và nguồn gốc xã hội. Vấn
đề cơ bản của triết học là mối quan hệ giữa tư duy và tồn tại. Việc giải quyết vấn
đề cơ bản của triết học đã hình thành hai trường phái triết học đối lập nhau là chủ
nghĩa duy vật và chủ nghĩa duy tâm. Hai phương pháp tư duy chung nhất, đối lập
nhau của triết học là phương pháp biện chứng và phương pháp siêu hình.
Chủ nghĩa duy vật biện chứng là sự thống nhất giữa thế giới quan duy vật và
phương pháp biện chứng. Với tư cách là một thế giới quan và phương pháp luận
khoa học, học thuyết Mác - Lênin vẫn không ngừng đổi mới và phát triển. Với tư

1
cách là nền tảng tư tưởng và kim chỉ nam cho hoạt động thực tiễn của giai cấp vô
sản, đòi hỏi Đảng lãnh đạo của giai cấp này phải luôn biết vận dụng chủ nghĩa
Mác - Lênin một cách sáng tạo.
I. TRIẾT HỌC VÀ VẤN ĐỀ CƠ BẢN CỦA TRIẾT HỌC
1. Khái lược về triết học
1.1. Nguồn gốc của triết học
Triết học là dạng tri thức lý luận xuất hiện sớm nhất trong lịch sử nhân loại, ra
đời ở cả Phương Đông và Phương Tây khoảng từ thế kỷ VIII đến thế kỷ VI tr.CN
tại các trung tâm văn minh lớn như Trung Quốc, Ấn Độ, Hy Lạp.
Triết học ra đời từ thực tiễn, do nhu cầu của thực tiễn; nó có nguồn gốc nhận
thức và nguồn gốc xã hội.
* Nguồn gốc nhận thức
Trước khi triết học xuất hiện thế giới quan thần thoại đã chi phối hoạt động
nhận thức của con người.
Về mặt lịch sử, tư duy huyền thoại và tín ngưỡng nguyên thủy là loại hình triết
lý đầu tiên mà con người dùng để giải thích thế giới xung quanh. Triết học chính
là hình thức tư duy lý luận đầu tiên trong lịch sử tư tưởng nhân loại, thay thế được
cho tư duy huyền thoại và tôn giáo.
Nói đến nguồn gốc nhận thức của triết học là nói đến sự hình thành, phát triển
của tư duy trừu tượng, của năng lực khái quát trong nhận thức của con người. Tri
thức cụ thể, riêng lẻ về thế giới đến một giai đoạn nhất định phải được tổng hợp,
trừu tượng hóa, khái quát hóa thành những khái niệm, phạm trù, quan điểm, quy
luật, luận thuyết… đủ sức phổ quát để giải thích thế giới. Đó là lúc triết học xuất
hiện.
* Nguồn gốc xã hội
Triết học ra đời khi nền sản xuất xã hội đã có sự phân công lao động và xuất
hiện giai cấp. Khi lao động trí óc tách khỏi lao động chân tay thì đội ngũ trí thức
xuất hiện với tư cách là một tầng lớp xã hội, có vị thế xã hội xác định. Tầng lớp
này có điều kiện, năng lực và nhu cầu nghiên cứu. Những người xuất sắc trong
tầng lớp này đã hệ thống hóa tri thức thời đại dưới dạng các quan điểm, các học
thuyết lý luận; giải thích được sự vận động, quy luật hay các quan hệ nhân quả
của một đối tượng nhất định. Họ được xã hội công nhận là các nhà thông thái, các
triết gia.
1.2. Khái niệm Triết học

2
Ở Trung Quốc, chữ Triết có nghĩa là Trí, nhằm diễn đạt sự truy tìm bản chất
của đối tượng nhận thức, thường là con người, xã hội, vũ trụ và tư tưởng tinh thần.
Ở Ấn Độ, thuật ngữ Dar'sana nghĩa gốc là chiêm ngưỡng, hàm ý là con đường
suy ngẫm để dẫn dắt con người đến với lẽ phải, thấu đạt được chân lý về vũ trụ
và nhân sinh. Ở phương Tây, thuật ngữ triết học - Philosophia - vừa mang nghĩa
giải thích vũ trụ, định hướng nhận thức và hành vi, vừa nhấn mạnh đến khát vọng
tìm kiếm chân lý.
Như vậy, cả ở phương Đông và phương Tây, ngay từ đầu, triết học đã là hoạt
động tư duy lý luận có trình độ trừu tượng hóa và khái quát hóa rất cao.
Trên cơ sở khái quát đối tượng nhận thức và đặc trưng của tri thức triết học,
chủ nghĩa Mác – Lênin định nghĩa: Triết học là hệ thống quan điểm lí luận chung
nhất về thế giới và vị trí con người trong thế giới đó, là khoa học về những quy
luật vận động, phát triển chung nhất của tự nhiên, xã hội và tư duy.
Triết học khác với các khoa học khác ở tính đặc thù của hệ thống tri thức và
phương pháp nghiên cứu. Tri thức triết học mang tính khái quát cao dựa trên sự
trừu tượng hóa sâu sắc về thế giới, về bản chất cuộc sống con người. Phương pháp
nghiên cứu của triết học là xem xét thế giới như một chỉnh thể trong mối quan hệ
giữa các yếu tố và tìm cách đưa lại một hệ thống các quan niệm về chỉnh thể đó.
Triết học là sự diễn tả thế giới quan bằng lí luận. Triết học chỉ có thể thực hiện
được điều đó bằng cách tổng kết toàn bộ lịch sử của khoa học và lịch sử của bản
thân tư tưởng triết học
1.3. Vấn đề đối tượng của triết học trong lịch sử
Trong quá trình phát triển, đối tượng của triết học thay đổi theo từng giai đoạn
lịch sử.
Ngay từ khi mới ra đời, triết học được xem là hình thái cao nhất của tri thức,
bao hàm trong nó tri thức về tất cả các lĩnh vực không có đối tượng riêng. Đây là
nguyên nhân sâu xa làm nảy sinh quan niệm cho rằng, triết học là khoa học của
mọi khoa học, đặc biệt là ở Triết học tự nhiên của Hy Lạp cổ đại.
Nền triết học tự nhiên là khái niệm chỉ triết học ở phương Tây thời kỳ còn bao
gồm trong nó tất cả những tri thức mà con người có được, trước hết là các tri thức
thuộc khoa học tự nhiên.
Thời kỳ trung cổ, ở Tây Âu, khi quyền lực của Giáo hội bao trùm mọi lĩnh vực
đời sống xã hội thì nền triết học tự nhiên đã bị thay bằng nền Triết học kinh viện.
Đối tượng của triết học kinh viện chỉ tập trung vào các chủ đề nhằm làm sáng tỏ
niềm tin tôn giáo.
Sự phát triển của các khoa học chuyên ngành trong thế kỷ XVII – XVIII, từng
bước xóa bỏ vai trò của triết học tự nhiên cũ, làm phá sản tham vọng của triết học
3
muốn đóng vai trò khoa học của các khoa học.
Hoàn cảnh kinh tế - xã hội và sự phát triển mạnh mẽ của khoa học vào đầu thế
kỷ XIX đã dẫn đến sự ra đời của triết học Mác. Triết học Mác xác định đối tượng
nghiên cứu của mình, là tiếp tục giải quyết mối quan hệ giữa tồn tại và tư duy,
giữa vật chất và ý thức trên lập trường duy vật triệt để và nghiên cứu những quy
luật chung nhất của tự nhiên, xã hội và tư duy.
1.4. Triết học - hạt nhân lý luận của thế giới quan
* Thế giới quan
Bằng trí tuệ, kinh nghiệm và sự mẫn cảm của mình, con người phải xác định
những quan điểm về toàn bộ thế giới làm cơ sở để định hướng cho nhận thức và
hành động của mình. Những quan điểm đó chính là sự thể hiện thế giới quan của
con người.
Thế giới quan là khái niệm triết học chỉ hệ thống các tri thức, quan điểm, tình
cảm, niềm tin, lý tưởng về thế giới và về vị trí của con người trong thế giới đó.
Thế giới quan quy định các nguyên tắc, thái độ, giá trị trong định hướng nhận thức
và hoạt động thực tiễn của con người. Một cách ngắn gọn, thế giới quan là hệ
thống quan điểm của con người về thế giới.
Thế giới quan thể hiện dưới nhiều hình thức đa dạng. Chẳng hạn, thế giới quan
tôn giáo, thế giới quan khoa học và thế giới quan triết học. Thế giới quan chung
nhất, phổ biến nhất, được sử dụng trong mọi ngành khoa học và trong toàn bộ đời
sống xã hội là thế giới quan triết học.
Những thành phần chủ yếu của thế giới quan là tri thức, niềm tin và lý tưởng.
Trong đó tri thức là cơ sở trực tiếp hình thành thế giới quan, nhưng tri thức chỉ
gia nhập thế giới quan khi đã được kiểm nghiệm trong thực tiễn và trở thành niềm
tin. Lý tưởng là trình độ phát triển cao nhất của thế giới quan của con người.
* Hạt nhân lý luận của thế giới quan
Với phương thức tư duy đặc thù của mình, triết học đã tạo nên hệ thống lý luận
bao gồm những quan niệm chung nhất về thế giới, giữ vai trò định hướng cho quá
trình củng cố và phát triển thế giới quan của mỗi cá nhân, mỗi cộng đồng trong
lịch sử. Như vậy, triết học là hạt nhân lý luận của thế giới quan.
Nói triết học là hạt nhân lý luận của thế giới quan, bởi thứ nhất, bản thân triết
học chính là thế giới quan. Thứ hai, trong các thế giới quan khác, triết học bao giờ
cũng là thành phần quan trọng, đóng vai trò là nhân tố cốt lõi. Thứ ba, so với các
loại hình thế giới quan khác thì triết học luôn giữ sự ảnh hưởng và chi phối thường
xuyên. Thứ tư, thế giới quan triết học như thế nào sẽ quy định các thế giới quan
và các quan niệm khác như thế đó.
Triết học ra đời với tư cách là hạt nhân lý luận của thế giới quan, làm cho thế
4
giới quan phát triển như một quá trình tự giác, dựa trên sự tổng kết kinh nghiệm
thực tiễn và tri thức do các khoa học đưa lại. Đó là chức năng thế giới quan của
triết học.

Hộp 1.1. Một số định nghĩa triết học


1. Triết học là học về Đạo đức và Chính trị (Xôcrát).
2. Triết học là học về Con Người, là con đường đi tới Chân, Thiện, Mỹ (Plato).
3. Triết học là khoa học tìm hiểu vạn vật bằng những nguyên lý tối thượng, là sự khôn
ngoan con người tìm hiểu chính mình và về thế giới (Aritxtốt).
4. Triết học là nhận thức về các lý do cao xa nhất của sự vật (Tôma Aquinô).
5. Triết học là sự hiểu biết hoàn toàn mọi sự mà con người có thể biết.
6. Triết học là khoa học về tinh thần (I. Kantơ).
7. Triết học mà trạng thái tạm thời và quá thời của tư tưởng con người (A. Côngtơ).
8. Triết học là học cách sống và sống một cuộc sống xứng đáng (H. Becxon).
9. Triết học là học cái biết nhờ kinh nghiệm khách quan và chủ quan (P. Valêry).
10. Triết học là đòi hỏi sự thỏa mãn về chân lý (E. Huxen).
11. Triết học là hiện tượng khủng hoảng của đời sống nhân loại (W. Jêm).
12. Triết học là sự mở rộng kiến thức về bốn phương để thu gọn vũ trụ và nhân sinh về
một mối (K. Jaxpơ).
13. Triết học chẳng qua chỉ là những suy tư của con người rốt cuộc không đi tới đâu
(J.P. Xactơrơ).
14. Triết học là suy nghĩ về cuộc sống và diễn tả ý nghĩ mình cho có hệ thống (Fung
Yu-Lan)
15. Triết học là hoạt động của tư duy mô xẻ cho đến tận cùng cái lý.
16. Triết học là khoa học của các khoa học.
17. Tiến sĩ Nguyễn Quang Điển định nghĩa: “Triết học là hình thái ý thức xã hội đặt
biệt; để hiểu triết học phải tiếp cận nó từ nhiều hướng, trong đó nổi lên là sự tổng hợp
của ba hướng cơ bản: Triết học là hệ thống tri thức phổ quát về thế giới và con người
cũng như quan hệ của con người với thế giới đó; triết học là hệ thống giá trị về mục
đích, ý nghĩa, lý tưởng mà con người vươn tới nhằm hoàn thiện nhân cách của mình;
triết học còn là hệ thống phương pháp luận phổ biến hướng dẫn con người trong hoạt
động thực tiễn nhằm tạo dựng cuộc sống tốt đẹp hơn, trong sự hòa hợp giữa con người
với con người, trong sự hòa hợp giữa con người với tự nhiên”.
Nguồn: Lê Văn Thiện (2005), Nhập môn triết học Tây phương (Theo quan điểm Thiên chúa giáo),
Nxb Tôn giáo, Hà Nội.

2. Vấn đề cơ bản của triết học


2.1 Nội dung vấn đề cơ bản của triết học
Triết học, cũng như những khoa học khác, phải giải quyết nhiều vấn đề có liên
5
quan với nhau. Trong hệ thống các vấn đề đó, có vấn đề giữ vai trò nền tảng, là
điểm xuất phát để giải quyết những vấn đề còn lại. Vấn đề đó được gọi là vấn đề
cơ bản của triết học. Sở dĩ như vậy vì bất kỳ trường phái triết học nào cũng không
thể lảng tránh giải quyết vấn đề mối quan hệ giữa vật chất và ý thức, giữa tồn tại
và tư duy.
Vấn đề cơ bản của triết học có hai mặt, trả lời hai câu hỏi lớn sau:
Mặt thứ nhất (gọi là mặt bản thể luận) trả lời câu hỏi: giữa ý thức và vật chất
thì cái nào có trước, cái nào có sau, cái nào quyết định cái nào? Nói cách khác,
khi truy tìm nguyên nhân cuối cùng của hiện tượng, sự vật, hay sự vận động đang
cần phải giải thích, thì nguyên nhân vật chất hay nguyên nhân tinh thần đóng vai
trò là cái quyết định?
Mặt thứ hai (gọi là mặt nhận thức luận) trả lời câu hỏi: con người có khả năng
nhận thức được thế giới hay không? Nói cách khác, khi khám phá sự vật và hiện
tượng, con người có tin rằng, mình sẽ nhận thức được sự vật và hiện tượng hay
không?
Cách trả lời hai câu hỏi trên quy định lập trường của nhà triết học, liên quan
mật thiết đến việc hình thành các trường phái triết học và các học thuyết về nhận
thức của triết học.
Hộp 1.2. Giá trị của 3 lần gõ búa
(Để giải quyết mâu thuẫn, cần tìm ra vấn đề cơ bản)
Nhà máy hoạt động bình thường thì bỗng xảy ra sự cố khiến toàn bộ hệ thống không
làm việc. Giám đốc nhà máy liền mời một chuyên gia tới khắc phục. Chuyên gia xem
xét hồi lâu, rồi nói: Mang cái búa nhỏ tới đây!
Chỉ bằng 3 nhát đập vào một chỗ nào đấy, toàn bộ hệ thống hoạt động lại bình
thường.
Xong việc, chuyên gia tính tiền công là 3.000 USD. Vị giám đốc kinh ngạc, hỏi:
– Gì vậy? Chỉ 3 cái gõ búa mà ông tính tiền 3.000 USD. Ông có thể ghi ra chi tiết
từng khoản được không?
– Được thôi! Chuyên gia ghi:
+ Sức gõ búa 3 lần: 3 USD
+ Biết chỗ nào cần gõ búa: 2.997 USD
Nguồn: (Sưu tầm có biên tập lại)

2.2 Chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa duy tâm


Việc giải quyết mặt thứ nhất của vấn đề cơ bản của triết học đã chia các nhà
triết học thành hai trường phái lớn. Những người cho rằng vật chất, giới tự nhiên

6
là cái có trước và quyết định ý thức của con người được gọi là các nhà duy vật.
Học thuyết của họ hợp thành các phái khác nhau của chủ nghĩa duy vật. Ngược
lại, những người cho rằng ý thức, tinh thần, ý niệm, cảm giác là cái có trước giới
tự nhiên, được gọi là các nhà duy tâm. Các học thuyết của họ hợp thành các phái
khác nhau của chủ nghĩa duy tâm.
Chủ nghĩa duy vật được thể hiện dưới ba hình thức cơ bản: chủ nghĩa duy vật
chất phác, chủ nghĩa duy vật siêu hình và chủ nghĩa duy vật biện chứng.
Chủ nghĩa duy vật chất phác là kết quả nhận thức của các nhà triết học duy vật
thời Cổ đại. Chủ nghĩa duy vật thời kỳ này thừa nhận tính thứ nhất của vật chất,
nhưng đồng nhất vật chất với một hay một số chất cụ thể và đưa ra những kết luận
mang tính trực quan, chất phác.
Chủ nghĩa duy vật siêu hình thể hiện khá điển hình là ở thế kỷ thứ XVII, XVIII.
Đây là thời kỳ mà cơ học cổ điển đạt được những thành tựu rực rỡ. Phương pháp
tư duy siêu hình của cơ học cổ điển đã ảnh hưởng đến triết học, làm cho chủ nghĩa
duy vật mang hình thức siêu hình.
Chủ nghĩa duy vật biện chứng là hình thức cơ bản thứ ba của chủ nghĩa duy
vật, do C.Mác và Ph.Ăngghen xây dựng, V.I.Lênin phát triển. Với sự kế thừa tinh
hoa của các học thuyết triết học trước đó và sử dụng khá triệt để thành tựu của
khoa học đương thời, chủ nghĩa duy vật biện chứng đã khắc phục được hạn chế
của chủ nghĩa duy vật thời cổ đại, chủ nghĩa duy vật siêu hình. Chủ nghĩa duy vật
biện chứng không chỉ phản ánh hiện thực đúng như chính bản thân nó tồn tại, mà
còn là một công cụ hữu hiệu giúp những lực lượng tiến bộ trong xã hội cải tạo
hiện thực ấy.
Chủ nghĩa duy tâm gồm có hai phái: chủ nghĩa duy tâm chủ quan và chủ nghĩa
duy tâm khách quan.
Chủ nghĩa duy tâm chủ quan thừa nhận tính thứ nhất của ý thức con người.
Trong khi phủ nhận sự tồn tại khách quan của hiện thực, chủ nghĩa duy tâm chủ
quan khẳng định mọi sự vật, hiện tượng chỉ là phức hợp của cảm giác.
Chủ nghĩa duy tâm khách quan cũng thừa nhận tính thứ nhất của ý thức nhưng
coi đó là thứ tinh thần khách quan có trước và tồn tại độc lập với con người. Thực
thể tinh thần này thường được gọi bằng những cái tên khác nhau như Đấng sáng
tạo, Thượng đế, Tinh thần tuyệt đối, Lý tính thế giới…
Do thừa nhận ý thức, tinh thần là cái có trước và sản sinh ra giới tự nhiên, chủ
nghĩa duy tâm khách quan đã thừa nhận sự sáng tạo của một lực lượng siêu nhiên
đối với toàn bộ thế giới. Vì vậy, tôn giáo thường sử dụng các học thuyết duy tâm
làm cơ sở lý luận, luận chứng cho các quan điểm của mình.
Trong lịch sử triết học cũng có những nhà triết học giải thích thế giới bằng cả
7
hai bản nguyên vật chất và tinh thần. Học thuyết triết học như vậy được gọi là nhị
nguyên luận. Thường thì trong trường hợp giải quyết một vấn đề nào đó, ở vào
một thời điểm nhất định, những người nhị nguyên luận là người duy vật, nhưng ở
vào một thời điểm khác, và khi giải quyết một vấn đề khác, lại là người duy tâm.
Song, xét đến cùng, nhị nguyên luận thuộc về chủ nghĩa duy tâm.
Như vậy, trong lịch sử, tuy những quan điểm triết học biểu hiện đa dạng nhưng
suy cho cùng, triết học chia thành hai trường phái chính: chủ nghĩa duy vật và chủ
nghĩa duy tâm.
Hộp 1.3. Duy vật hay duy tâm?
Giả sử bạn không tin vào Đấng tối cao, liệu bạn có nghĩ mình sẽ cầu nguyện không khi
ở trong tình huống mà bạn cho rằng bản thân đang đối diện cái chết?
Nguồn: Nhóm tác giả biên soạn, 2020

2.3. Thuyết có thể biết (Khả tri) và thuyết không thể biết (Bất khả tri)
Thuyết có thể biết và thuyết không thể biết như là kết quả của cách giải quyết
mặt thứ hai vấn đề cơ bản của triết học. Với câu hỏi Con người có thể nhận thức
được thế giới hay không? học thuyết triết học khẳng định khả năng nhận thức của
con người được gọi là thuyết có thể biết. Học thuyết triết học phủ nhận khả năng
nhận thức của con người được gọi là thuyết không thể biết.
Ít nhiều liên quan đến thuyết bất khả tri là sự ra đời của trào lưu hoài nghi luận
từ triết học Hy Lạp cổ đại. Những người theo trào lưu này, nâng sự hoài nghi lên
thành nguyên tắc trong việc xem xét tri thức đã đạt được và cho rằng con người
không thể đạt đến chân lý khách quan.
3. Biện chứng và siêu hình
3.1. Khái niệm biện chứng và siêu hình
Khái niệm “biện chứng” và “siêu hình” trong triết học Mác - Lênin được dùng,
trước hết, để chỉ hai phương pháp tư duy chung nhất, đối lập nhau. Sự đối lập giữa
hai phương pháp tư duy thể hiện ở đặc trưng của chúng.
* Đặc trưng của phương pháp siêu hình
Nhận thức đối tượng ở trạng thái cô lập, tách rời đối tượng ra khỏi các quan hệ
được xem xét và cho rằng giữa các mặt đối lập có một ranh giới tuyệt đối.
Nhận thức đối tượng ở trạng thái tĩnh tại; đồng nhất đối tượng với trạng thái
tĩnh nhất thời đó; Thừa nhận sự biến đổi chỉ là sự biến đổi về số lượng, về các
hiện tượng bề ngoài; Nguyên nhân của sự biến đổi nằm ở bên ngoài đối tượng.
Kết quả của việc sử dụng phương pháp siêu hình sẽ cho chủ thể biết sự vật hiện
tượng là gì, nhưng không cho biết được bản chất của sự vật đó như thế nào khi
đặt trong mối quan hệ, tác động với sự vật hiện tượng khác.
8
* Đặc trưng của phương pháp biện chứng
Nhận thức đối tượng trong các mối liên hệ phổ biến vốn có của nó. Đối tượng
và các thành phần của nó luôn trong sự lệ thuộc, ảnh hưởng, ràng buộc, quy định
lẫn nhau.
Nhận thức đối tượng ở trạng thái vận động biến đổi, nằm trong khuynh hướng
phổ quát là phát triển.
Nhờ phản ánh hiện thực đúng như nó tồn tại, nên phương pháp biện chứng trở
thành công cụ hữu hiệu giúp con người nhận thức và cải tạo thế giới và là phương
pháp luận tối ưu của nhiều khoa học. Kết quả của việc sử dụng phương pháp biện
chứng sẽ cho biết sự vật hiện tượng là gì, và như thế nào khi đặt trong mối quan
hệ, tác động với sự vật hiện tượng khác.
3.2. Các hình thức của phép biện chứng trong lịch sử
Hình thức thứ nhất là phép biện chứng tự phát thời cổ đại. Các nhà biện chứng
thời cổ đại đã thấy được các sự vật, hiện tượng vận động trong sự sinh thành, biến
hóa vô cùng vô tận. Tuy nhiên, những gì họ thấy được chỉ là trực kiến, chưa có
các kết quả của nghiên cứu và thực nghiệm khoa học minh chứng.
Hình thức thứ hai là phép biện chứng duy tâm mà đỉnh cao được thể hiện trong
triết học cổ điển Đức. Biện chứng theo các nhà triết học duy tâm, bắt đầu từ tinh
thần và kết thúc ở tinh thần. Thế giới hiện thực chỉ là sự phản ánh biện chứng của
ý niệm nên phép biện chứng của các nhà triết học cổ điển Đức là biện chứng duy
tâm.
Hình thức thứ ba là phép biện chứng duy vật. Phép biện chứng duy vật được
thể hiện trong triết học do C.Mác và Ph.Ăngghen xây dựng, sau đó được V.I.Lênin
và các nhà triết học thế hệ sau phát triển.

Hộp 1.4. Đâu chỉ là cái cây


Khi nghĩ đến cái cây, ta ưa nghĩ đến một sự vật được xác định rõ rệt, và ở một bình
diện, nó quả như vậy. Nhưng khi nhìn kỹ hơn, ta sẽ thấy nó tan biến vào một mạng lưới
tương quan vô cùng vi tế trải dài suốt vũ trụ. Cơn mưa rơi trên lá, gió lay cành, đất nuôi
dưỡng và nâng đỡ, bốn mùa và thời tiết, trăng sao và ánh mặt trời - tất cả đều là một
phần của cái cây. Khi ta khởi sự nghĩ về cái cây càng nhiều hơn nữa, ta sẽ khám phá
rằng, mọi sự trong vũ trụ đều phụ lực để làm cho cây trở thành cái nó đang thành, rằng
không một lúc nào nó có thể tách biệt ra khỏi những cái khác.
Nguồn: (Sưu tầm có biên tập lại)

II. TRIẾT HỌC MÁC - LÊNIN VÀ VAI TRÒ CỦA NÓ TRONG ĐỜI
SỐNG XÃ HỘI
1. Sự ra đời và phát triển của triết học Mác - Lênin
9
1.1. Những điều kiện lịch sử của sự ra đời triết học Mác
* Điều kiện kinh tế - xã hội
Sự hình thành và phát triển của phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa, trong
điều kiện cách mạng công nghiệp đã xuất hiện mâu thuẫn giữa tính chất xã hội
của lực lượng sản xuất với hình thức sở hữu tư nhân tư bản chủ nghĩa về tư liệu
sản xuất. Biểu hiện về mặt xã hội là mâu thuẫn giữa tư bản và lao động, giữa giai
cấp tư sản và gia cấp công nhân.
Sự xuất hiện của giai cấp công nhân trên vũ đài lịch sử với tính cách một lực
lượng chính trị - xã hội độc lập, đặt ra nhu cầu khách quan đòi hỏi phải giải thích
một cách khoa học về mâu thuẫn giữa giai cấp tư sản và giai cấp công nhân, về
vai trò, vị trí của giai cấp công nhân đối với sự phát triển của lịch sử; làm cho
phong trào công nhân từ tự phát chuyển thành tự giác. Đây là nhân tố chính trị -
xã hội quan trọng, là cơ sở chủ yếu nhất cho sự ra đời triết học Mác.
* Nguồn gốc lý luận và tiền đề khoa học tự nhiên
Nguồn gốc lý luận
Cùng với những điều kiện kinh tế - xã hội, thì sự xuất hiện của chủ nghĩa Mác
còn là sự kế thừa những tinh hoa trong toàn bộ lịch sử tư tưởng nhân loại, trong
đó trực tiếp nhất là triết học cổ điển Đức, kinh tế chính trị cổ điển Anh, chủ nghĩa
xã hội không tưởng Pháp.
Triết học cổ điển Đức, đặc biệt với hai triết gia Hêghen và Phoiơbắc là nguồn
gốc lý luận trực tiếp của triết học Mác.
Hêghen là người đầu tiên, trên lập trường duy tâm khách quan, trình bày một
cách hệ thống, rõ ràng những quy luật và phạm trù của phép biện chứng như là lý
luận sâu sắc về sự phát triển. Trên cơ sở phê phán chủ nghĩa nghĩa duy tâm, giải
phóng phép biện chứng của Hêghen khỏi tính chất duy tâm thần bí, C.Mác và
Ph.Ăngghen đã xây dựng nên phép biện chứng duy vật – hình thức cao nhất của
phép biện chứng.
Với triết gia Phoiơbắc, C.Mác và Ph.Ăngghen tiếp thu những nguyên lý cơ bản
thuộc chủ nghĩa duy vật của ông, cải tạo và phát triển những tư tưởng đó, bằng
cách gắn nó với phạm trù thực tiễn nhằm khắc phục tính duy tâm, trực quan và
siêu hình khi giải thích xã hội. Thành quả có được là quan điểm duy vật và phương
pháp biện chứng thống nhất với nhau, gọi là duy vật biện chứng.

10
Kinh tế chính trị cổ điển Anh. Việc kế thừa và cải tạo tư tưởng của những đại
biểu xuất sắc như A.Xmit và Đ. Ricacđô, không những là nguồn gốc để chủ nghĩa
Mác xây dựng học thuyết kinh tế, mà còn là cơ sở để phát triển quan niệm duy vật
về lịch sử.
Chủ nghĩa xã hội không tưởng Pháp là nguồn gốc lý luận trực tiếp về chủ nghĩa
xã hội khoa học. Những đại biểu nổi tiếng như Xanh Ximông, Sáclơ Phuriê tuy
vạch ra những mâu thuẫn xã hội của chủ nghĩa tư bản, sự đối lập giữa tư bản và
lao động… nhưng họ lại không phát hiện được các quy luật phát triển của xã hội;
về vị trí, vai trò của giai cấp công nhân. Nhưng những tư tưởng của họ ảnh hưởng
rất lớn đến việc hình thành thế giới quan duy vật, phép biện chứng, những quan
điểm cộng sản chủ nghĩa của triết học Mác.
Tiền đề khoa học tự nhiên
Ba phát minh lớn đối với sự hình thành triết học duy vật biện chứng: định luật
bảo toàn và chuyển hóa năng lượng (chứng minh các hình thức vận động của vật
chất liên hệ và chuyển hoá lẫn nhau), thuyết tế bào (chứng minh cơ thể động vật
và thực vật đều do tế bào cấu tạo thành, phát triển bằng cách nhân lên và phân hoá
của tế bào theo những quy luật nhất định) và thuyết tiến hóa của Đácuyn (chứng
minh giới hữu sinh là sản phẩm của quá trình phát triển lâu dài). Với những phát
minh đó, khoa học đã vạch ra mối liên hệ thống nhất giữa những dạng tồn tại khác
nhau, các hình thức vận động khác nhau trong tính thống nhất vật chất của thế
giới, vạch ra tính biện chứng của sự vận động và phát triển của nó.
* Nhân tố chủ quan trong sự hình thành triết học Mác
Triết học Mác xuất hiện không chỉ là kết quả của sự vận động và phát triển có
tính quy luật của các nhân tố khách quan mà còn được hình thành thông qua vai
trò của nhân tố chủ quan. Đó là tài năng và hoạt động thực tiễn, chiều sâu của tư
duy triết học, chiều rộng của nhãn quan khoa học, quan điểm sáng tạo trong việc
giải quyết những nhiệm vụ do thực tiễn đặt ra hoà quyện với tình bạn của hai nhà
cách mạng là phẩm chất đặc biệt nổi bật của của C.Mác và Ph.Ăngghen.
1.2. Những thời kỳ chủ yếu trong sự hình thành và phát triển của Triết học Mác
* Thời kỳ hình thành tư tưởng triết học với bước quá độ từ chủ nghĩa duy tâm
và dân chủ cách mạng sang chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa cộng sản (1841 -
1844)

11
Tháng 4 năm 1841, sau khi nhận bằng tiễn sĩ triết học, C.Mác tham gia hoạt
động chính trị, trực tiếp chống chủ nghĩa chuyên chế Phổ, giành quyền tự do dân
chủ. Vào đầu năm 1842, tờ báo Sông Ranh ra đời. Sự chuyển biến bước đầu về tư
tưởng của C.Mác diễn ra trong thời kỳ ông làm việc ở báo này. Thời kỳ này, thế
giới quan triết học của ông, nhìn chung, vẫn đứng trên lập trường duy tâm, nhưng
chính thông qua cuộc đấu tranh chống chính quyền nhà nước đương thời, ông
cũng đã nhận ra rằng, các quan hệ khách quan quyết định hoạt động của nhà nước
là những lợi ích.
Sự phê phán sâu rộng triết học của Hêghen, việc khái quát những kinh nghiệm
lịch sử phong phú, cùng với ảnh hưởng to lớn của quan điểm duy vật và nhân văn
trong triết học Phoiơbắc đã tăng thêm xu hướng duy vật trong thế giới quan của
C.Mác.
Cuối tháng 10-1843, C.Mác sang Pháp. Ở đây, không khí chính trị và sự tiếp
xúc với các đại biểu của giai cấp vô sản đã dẫn đến bước chuyển dứt khoát của
ông sang lập trường của chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa cộng sản. Quá trình hình
thành và phát triển tư tưởng triết học duy vật biện chứng và triết học duy vật lịch
sử cũng đồng thời là quá trình hình thành chủ nghĩa cộng sản khoa học.
Cũng trong thời gian ấy, thế giới quan cách mạng của Ph.Ăngghen đã hình
thành một cách độc lập với C.Mác. Thời gian gần 2 năm sống ở Manchester (Anh),
từ mùa thu năm 1842, với việc tập trung nghiên cứu đời sống kinh tế và sự phát
triển chính trị của nước Anh, nhất là việc trực tiếp tham gia vào phong trào công
nhân mới dẫn đến bước chuyển căn bản trong thế giới quan của ông sang chủ
nghĩa duy vật và chủ nghĩa cộng sản.
Năm 1844, thông qua nhiều bài viết, Ph.Ăngghen đã thể hiện quá trình chuyển
từ chủ nghĩa duy tâm và dân chủ - cách mạng sang chủ nghĩa duy vật biện chứng
và chủ nghĩa cộng sản. Sự nhất trí về tư tưởng đã dẫn đến tình bạn vĩ đại của
C.Mác và Ph.Ăngghen, gắn liền tên tuổi của hai ông với sự ra đời và phát triển
một thế giới quan mới mang tên Mác - thế giới quan cách mạng của giai cấp vô
sản.
Mặc dù C.Mác và Ph.Ăngghen hoạt động chính trị - xã hội và khoa học trong
những điều kiện khác nhau, nhưng những kinh nghiệm thực tiễn và kết luận rút ra
từ nghiên cứu khoa học của hai ông lại thống nhất, đều gặp nhau ở phát hiện sứ

12
mệnh lịch sử giai cấp vô sản, từ đó hình thành quan điểm duy vật biện chứng và
tư tưởng cộng sản chủ nghĩa.
* Thời kỳ đề xuất những nguyên lý triết học duy vật biện chứng và duy vật lịch
sử (1844 - 1848)
Đây là thời kỳ C.Mác và Ph.Ăngghen, sau khi đã tự giải phóng mình khỏi hệ
thống triết học cũ, bắt tay vào xây dựng những nguyên lý nền tảng cho một triết
học mới.
Mùa hè 1844, C.Mác viết Bản thảo kinh tế - triết học 1844. Trong tác phẩm
này, C.Mác đã trình bày khái lược những quan điểm kinh tế và triết học của mình.
Lần đầu tiên, C.Mác đã vạch ra mặt tích cực trong phép biện chứng của triết học
Hêghen. Ông phân tích sự tha hóa của lao động và những vấn đề có liên quan đến
phạm trù cơ bản này. Việc khắc phục sự tha hóa ấy chính là sự xoá bỏ chế độ sở
hữu tư nhân, giải phóng người công nhân khỏi "lao động bị tha hóa" dưới chủ
nghĩa tư bản, cũng là sự giải phóng con người nói chung.
Tác phẩm Gia đình thần thánh là công trình của C.Mác và Ph.Ăngghen, được
xuất bản tháng 2-1845 đã phê phán quan điểm duy tâm về lịch sử và đề xuất một
số nguyên lý cơ bản của triết học Mácxít và chủ nghĩa cộng sản khoa học.
Năm1845, Luận cương về Phoiơbắc ra đời. Trong văn kiện này, C.Mác đã vận
dụng quan điểm duy vật biện chứng để chỉ ra mặt xã hội của bản chất con người,
với luận điểm trong tính hiện thực của nó, bản chất con người là tổng hoà những
quan hệ xã hội.
Cuối năm 1845 đầu năm 1846, C.Mác và Ph.Ăngghen viết tác phẩm Hệ tư
tưởng Đức, trình bày quan điểm duy vật lịch sử một cách hệ thống và nhiều
nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa cộng sản khoa học. Bằng việc thừa nhận sản xuất
vật chất là cơ sở của đời sống xã hội, hai ông nghiên cứu biện chứng giữa lực
lượng sản xuất và quan hệ sản xuất, phát hiện ra quy luật vận động và phát triển
nền sản xuất vật chất của xã hội. Triết học Mác đã đi tới nhận thức đời sống xã
hội bằng một hệ thống các quan điểm lí luận thực sự khoa học; đã hình thành, tạo
cơ sở lí luận khoa học vững chắc cho sự phát triển tư tưởng cộng sản chủ nghĩa.
Năm 1847, C.Mác viết tác phẩm Sự khốn cùng của triết học, tiếp tục đề xuất
các nguyên lý triết học và chủ nghĩa cộng sản khoa học.

13
Năm 1848, C.Mác cùng với Ph.Ăngghen viết tác phẩm Tuyên ngôn của Đảng
Cộng sản. Đây là văn kiện có tính chất cương lĩnh đầu tiên của chủ nghĩa Mác,
trong đó, cơ sở triết học của chủ nghĩa Mác được trình bày một cách thống nhất
hữu cơ với các quan điểm kinh tế và các quan điểm chính trị - xã hội.
* Thời kỳ C.Mác và Ph.Ăngghen bổ sung và phát triển toàn diện lí luận triết
học (1848 - 1895)
Bằng hoạt động lí luận của mình, C.Mác và Ph.Ăngghen đã đưa phong trào
công nhân từ tự phát thành phong trào tự giác và phát triển ngày càng mạnh mẽ.
Và chính trong quá trình đó, học thuyết của các ông không ngừng được phát triển
một cách hoàn bị.
Sau năm 1848, C.Mác cho ra đời hai tác phẩm: Đấu tranh giai cấp ở Pháp và
Ngày 18 tháng Sương mù của Lui Bônapáctơ để tổng kết cuộc cách mạng Pháp
(1848-1849). Các năm sau, cùng với những hoạt động tích cực để thành lập Quốc
tế I, C.Mác đã tập trung viết bộ Tư bản (Tập 1 xuất bản 9/1867), Góp phần phê
phán kinh tế chính trị học (1859).
Bộ Tư bản không chỉ là công trình đồ sộ của C.Mác về kinh tế chính trị học,
mà còn là bổ sung, phát triển của triết học Mác nói riêng, của học thuyết Mác nói
chung.
Năm 1871, C.Mác viết Nội chiến ở Pháp, phân tích sâu sắc kinh nghiệm của
Công xã Paris. Năm 1875, C.Mác cho ra đời một tác phẩm quan trọng về con
đường và mô hình của xã hội tương lai, xã hội cộng sản chủ nghĩa - tác phẩm Phê
phán Cương lĩnh Gô ta.
Trong khi đó, Ph.Ăngghen đã phát triển triết học Mác thông qua cuộc đấu tranh
chống lại những kẻ thù của chủ nghĩa Mác và bằng việc khái quát những thành
tựu của khoa học. Biện chứng của tự nhiên và Chống Đuyrinh lần lượt ra đời trong
thời kỳ này. Sau đó Ph.Ăngghen viết tiếp các tác phẩm Nguồn gốc của gia đình,
của chế độ tư hữu và của nhà nước (1884) và Lútvích Phoiơbắc và sự cáo chung
của triết học cổ điển Đức (1886)... Với những tác phẩm trên, Ph.Ăngghen đã trình
bày học thuyết Mác nói chung, triết học Mác nói riêng dưới dạng một hệ thống lí
luận tương đối độc lập và hoàn chỉnh.
1.3. Thực chất và ý nghĩa cuộc cách mạng trong triết học do C.Mác và
Ph.Ăngghen thực hiện

14
Mác và Ph.Ăngghen đã khắc phục tính chất trực quan, siêu hình của chủ nghĩa
duy vật cũ và khắc phục tính chất duy tâm, thần bí của phép biện chứng duy tâm,
sáng tạo ra chủ nghĩa duy vật triết học hoàn bị, đó là chủ nghĩa duy vật biện
chứng
Trước C.Mác, do sự hạn chế của điều kiện xã hội và của trình độ phát triển
khoa học nên tính chất siêu hình vẫn là một nhược điểm chung của chủ nghĩa duy
vật. Chủ nghĩa duy vật Phoiơbắc xem xét con người gắn với tộc loài, phi lịch sử,
phi giai cấp; không nhìn thấy con người vừa là chủ thể, vừa là sản phẩm của lịch
sử, gắn liền với thực tiễn của mình. Trong khi đó, phép biện chứng lại được phát
triển trong cái vỏ duy tâm thần bí của một số đại biểu triết học cổ điền Đức, đặc
biệt trong triết học Hêghen, nên đã bất lực trước sự phân tích thực tiễn, phân tích
sự phát triển của nền sản xuất vật chất và đặc biệt là bất lực trước sự phân tích các
sự kiện chính trị. Triết học Mác khắc phục sự tách rời giữa chủ nghĩa duy vật và
phép biện chứng trong các hệ thống triết học trước đó. Đây là sự chuyển biến về
chất của cả chủ nghĩa duy vật và của phép biện chứng.
C.Mác và Ph.Ăngghen đã vận dụng và mở rộng quan điểm duy vật biện chứng
vào nghiên cứu lịch sử xã hội, sáng tạo ra chủ nghĩa duy vật lịch sử - nội dung
chủ yếu của bước ngoặt cách mạng trong triết học
Những nhà triết học trước C.Mác tuyệt đối hoá vai trò của hoạt động chính trị,
khoa học, nghệ thuật, tôn giáo; xem nhẹ hoạt động sản xuất ra các sản phẩm vật
chất cũng như vai trò của người quần chúng lao động. Do vậy, họ đã giải thích
lịch sử trước hết từ hoạt động “làm chính trị, khoa học, nghệ thuật, tôn giáo”, chứ
không phải xuất phát từ hoạt động sản xuất ra của cải vật chất. Nói cách khác, họ
đã giải thích lịch sử xã hội theo quan điểm duy tâm chứ không theo quan điểm
duy vật.
Chủ nghĩa duy vật lịch sử chính là sự vận dụng triệt để những nguyên lý của
chủ nghĩa duy vật để xem xét lĩnh vực các hiện tượng xã hội. Điều đó được thể
hiện ở chỗ, chủ nghĩa duy vật lịch sử đã vận dụng quan điểm về mối quan hệ giữa
vật chất và ý thức để nghiên cứu và giải thích sự phát triển xã hội, các nguyên lý
của phép biện chứng cũng được áp dụng triệt để vào việc xem xét và lý giải sự
phát triển của xã hội.
C.Mác và Ph.Ăngghen đã sáng tạo ra một triết học chân chính khoa học, với
những đặc tính mới của triết học duy vật biện chứng

15
Hệ thống triết học trước Mác không thấy được vai trò của thực tiễn trong sự
phát triển của khoa học và triết học. Do vậy, nó không có ý nghĩa cách mạng để
cải tạo thế giới, mà chủ yếu nhấn mạnh đến vai trò quyết định của hoạt động tinh
thần đối với tự nhiên, xã hội và bản thân con người, cũng như là sự quan sát, giải
thích thế giới bằng cách này hay cách khác.
Sự khách nhau căn bản giữa triết học Mác với các hệ thống triết học trước đây
ở chỗ, không chỉ giải thích thế giới mà chủ yếu vạch ra con đường cải tạo hiện
thực khách quan, định hướng cho sự vận động và phát triển của xã hội. Với quan
điểm về sự thống nhất giữa lí luận và thực tiễn, C.Mác xác định nhiệm vụ của triết
học là phải cải tạo thế giới; chứng minh vai trò của quần chúng nhân dân, của giai
cấp vô sản đối với sự phát triển của lịch sử.
Sáng tạo ra chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử, C.Mác
và Ph.Ăngghen đã biến đổi và hoàn thiện tính chất, đối tượng và mối quan hệ giữa
triết học với các khoa học khác. Đó là mối quan hệ giữa việc nghiên cứu những
quy luật chung nhất của thế giới và các quy luật đặc thù trong các khoa học cụ
thể. Triết học không có tham vọng giải quyết những vấn đề chuyên biệt thuộc
phạm vi giải quyết của các khoa học cụ thể.
1.4. Giai đoạn V.I.Lênin trong sự phát triển Triết học Mác
Giai đoạn V.I.Lênin sống và hoạt động, khoa học tự nhiên đã đạt được những
thành tựu mới đặc biệt, nhất là trong nghiên cứu thế giới vi mô. Những phát minh
khoa học về vật lý học, hóa học đã làm cho nhiều quan niệm siêu hình trong triết
học bị đánh đổ. Đồng thời, về chính trị - xã hội là sự xuất hiện chủ nghĩa đế quốc.
Bước sang thế kỷ XX, phong trào cách mạng ở nước Nga trở nên sôi động, đỉnh
cao là cuộc Cách mạng Tháng mười năm 1917. Trong bối cảnh ấy, trên thế giới
cũng như ở nước Nga, đã xuất hiện một số khuynh hướng tư tưởng không khoa
học nhằm chống lại chủ nghĩa Mác. Đồng thời, sau Cách mạng Tháng mười, nước
Nga bước vào xây dựng chủ nghĩa xã hội. Tất cả những điều kiện đó đã thôi thúc,
đòi hỏi V.I.Lênin phải bảo vệ sự trong sáng, khoa học, cách mạng cũng như phát
triển chủ nghĩa Mác nói chung, triết học Mác nói riêng đáp ứng yêu cầu của thời
đại mới.
Toàn bộ giai đoạn V.I.Lênin trong sự phát triển Triết học Mác được chia làm 3
thời kỳ lớn:
- Từ 1893 - 1907, là thời kỳ V.I.Lênin bảo vệ và phát triển triết học Mác, nhằm

16
thành lập đảng Mácxít ở Nga và chuẩn bị cho cuộc cách mạng dân chủ tư sản lần
thứ nhất
- Từ 1907 – 1917, là thời kỳ V.I.Lênin phát triển toàn diện triết học Mác và
lãnh đạo phong trào công nhân Nga, chuẩn bị cho cách mạng xã hội chủ nghĩa.
- Từ 1917 – 1924, là thời kỳ V.I.Lênin tổng kết kinh nghiệm thực tiễn cách
mạng, bổ sung, hoàn thiện triết học Mác, gắn liền với việc nghiên cứu các vấn đề
xây dựng chủ nghĩa xã hội
Trong 3 thời kỳ trên, V.I.Lênin bảo vệ và phát triển chủ nghĩa Mác - Ăngghen
thể hiện qua các cuộc đấu tranh lý luận của ông chống lại chủ nghĩa dân túy, chủ
nghĩa kinh nghiệm phê phán, chủ nghĩa cơ hội, chủ nghĩa xét lại gắn liền với các
tác phẩm và bài báo nổi tiếng.
Tác phẩm Những người bạn dân là thế nào và họ đấu tranh chống những người
dân chủ - xã hội ra sao? (xuất bản năm 1894), V.I.Lênin vừa phê phán tính chất
duy tâm và những sai lầm nghiêm trọng của phái dân túy khi nhận thức những
vấn đề về lịch sử - xã hội, vừa vạch ra ý đồ của họ khi muốn xuyên tạc chủ nghĩa
Mác bằng cách xóa nhòa ranh giới giữa phép biện chứng duy vật của chủ nghĩa
Mác với phép biện chứng duy tâm của Hêghen.
Trong tác phẩm Làm gì (xuất bản năm 1902), V.I.Lênin phê phán tính tự phát
của phong trào công nhân. Ông lập luận khoa học về ý nghĩa của lý luận cách
mạng. Không có lý luận cách mạng thì không có hành động cách mạng.
Trong tác phẩm Chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa kinh nghiệm phê phán (xuất
bản năm 1909), V.I.Lênin phân tích cuộc cách mạng khoa học tự nhiên cuối thế
kỷ XIX, đầu thế kỷ XX, đặc biệt trong vật lý học. Ông chống lại những kết luận
duy tâm rút ra từ các phát minh vật lý mới nhất, phát triển quan niệm duy vật biện
chứng về vật chất.
Trong tác phẩm Bút ký triết học (xuất bản năm 1916), V.I.Lênin đã tạo ra những
mẫu mực về sự nghiên cứu các quy luật và phạm trù của phép biện chứng duy vật;
nguyên tắc về sự thống nhất giữa phép biện chứng, logic học và lý luận nhận thức;
các nguồn gốc nhận thức của chủ nghĩa duy tâm, tính chất mâu thuẫn của sự phản
ánh trong những sự trừu tượng khoa học, đường lối tiếp tục phát triển lý luận nhận
thức của chủ nghĩa duy vật biện chứng.
Trong bài báo Về tác dụng của chủ nghĩa duy vật chiến đấu (xuất bản năm
1922), V.I.Lênin trình bày khoa học nhiệm vụ xây dựng và củng cố sự liên minh

17
giữa các nhà triết học Mácxít và các nhà khoa học tự nhiên; chỉ ra sự cần thiết kế
thừa biện chứng những truyền thống duy vật biện chứng trước đây.
Trong tác phẩm Chủ nghĩa đế quốc – giai đoạn tột cùng của chủ nghĩa tư bản
(xuất bản năm 1916) và các tác phẩm có mối liên hệ như Về vấn đề dân tộc, Về
sự phá sản của Quốc tế II… chứa đựng sự phân tích sâu sắc thời đại mới, vạch ra
những quy luật và khuynh hướng phát triển của chủ nghĩa tư bản độc quyền.
* Sự phát triển của Triết học Mác – Lênin trong giai đoạn từ 1924 đến nay
Sau chiến tranh thế giới thứ II, với sự ra đời của hệ thống các nước xã hội chủ
nghĩa, triết học Mác – Lênin được truyền bá một cách rộng rãi, ảnh hưởng sâu
rộng trong quần chúng. Triết học Mác – Lênin đóng vai trò quan trọng trong sự
phát triển của thực tiễn xây dựng xã hội mới với những thành tựu to lớn không
thể phủ nhận.
Thực tiễn xây dựng chủ nghĩa xã hội cũng làm nảy sinh nhiều vấn đề cần được
giải đáp về mặt lý luận. Chẳng hạn xóa bỏ chế độ tư hữu về tư liệu sản xuất, xác
lập chế độ công hữu, hoặc vấn đề vai trò của nhà nước trong việc quản lý nền sản
xuất xã hội theo một kế hoạch thống nhất trong phạm vi toàn xã hội, về xây dựng
nhà nước trong thời kỳ quá độ, về vai trò của đảng cộng sản trong quản lý xã hội,
về quyền làm chủ của quần chúng lao động... Chính sự lạc hậu về tư duy lý luận
của đội ngũ lãnh đạo các đảng cộng sản, đã trở thành một trong những nguyên
nhân dẫn đến sự khủng hoảng của chủ nghĩa xã hội.
Sự khủng hoảng của chủ nghĩa xã hội, sự phát triển của xã hội trong điều kiện
mới làm cho yêu cầu phát triển triết học Mác – Lênin càng trở nên cấp bách. Một
mặt bảo vệ những giá trị và thành quả của việc vận dụng triết học Mác – Lênin
trong đời sống thực tiễn, đồng thời khái quát, bổ sung, phát triển lý luận những
vấn đề thực tiễn đặt ra. Mặt khác, khắc phục bệnh giáo điều, chống lại những tư
tưởng, quan điểm xuyên tạc bản chất cách mạng, khoa học của triết học Mác. Nếu
không đáp ứng các yêu cầu quan trọng đó, thì không thể hiểu được biện chứng
của sự vận động phát triển xã hội; không thể xây dựng thành công chủ nghĩa xã
hội.

Hộp 1.5. Chủ nghĩa Mác và triết học Mác qua sự đánh giá của các học giả phương Tây
Nhà triết học người Pháp, Jean Paul Sartre cho rằng: “Chủ nghĩa Mác không những không
già nua đi, trái lại vẫn đang ở độ phát triển của tuổi thanh xuân. Do vậy, nó vẫn là triết học
của thời đại chúng ta”. Cũng đánh giá về tương lai của chủ nghĩa Mác, nhà triết học người
Pháp là Derrida cho rằng: “Luôn luôn sẽ là một sai lầm, nếu không đọc đi đọc lại và tranh
luận những tác phẩm của Mác... không có tương lai mà lại không có Mác. Nếu không có ký
ức về Mác và không có di sản của Mác”. 18
Ở một khía cạnh khác, khi đánh giá về giá trị phương pháp luận của chủ nghĩa Mác như
một định hướng cho cách nhìn về lịch sử xã hội, Martin Heidegger, nhà triết học người Đức
2. Đối tượng và chức năng của triết học Mác – Lênin
2.1. Khái niệm triết học Mác – Lênin
Triết học Mác – Lênin là hệ thống quan điểm duy vật biện chứng về tự nhiên,
xã hội và tư duy, là thế giới quan và phương pháp luận khoa học, cách mạng của
giai cấp công nhân, nhân dân lao động và các lực lượng xã hội tiến bộ trong nhận
thức và cải tạo thế giới.
2.2. Đối tượng của triết học Mác – Lênin
Giải quyết mối quan hệ giữa vật chất và ý thức trên lập trường duy vật biện
chứng và nghiên cứu những quy luật vận động, phát triển chung nhất của tự nhiên,
xã hội và tư duy.
Với triết học Mác – Lênin thì đối tượng của triết học và đối tượng của các khoa
học cụ thể đã được phân biệt rõ ràng. Các khoa học cụ thể nghiên cứu những quy
luật trong các lĩnh vực riêng biệt về tự nhiên, xã hội hoặc tư duy. Triết học nghiên
cứu những quy luật chung nhất, tác động trong cả ba lĩnh vực này.
Triết học Mác – Lênin có mối quan hệ gắn bó chặt chẽ với các khoa học cụ thể.
Các khoa học cụ thể cung cấp những dữ liệu, đặt ra những vấn đề khoa học mới,
làm tiền đề, cơ sở cho sự phát triển triết học. Các khoa học cụ thể tuy có đối tượng
và chức năng riêng của mình nhưng đều phải dựa vào một thế giới quan và phương
pháp luận triết học nhất định. Quan hệ giữa quy luật của triết học và quy luật của
khoa học cụ thể là quan hệ giữa cái chung và cái riêng.
2.3. Chức năng của triết học Mác – Lênin
* Chức năng thế giới quan
Thế giới quan là toàn bộ những quan điểm về thế giới và về vị trí của con người
trong thế giới đó. Triết học là hạt nhân lý luận của thế giới quan. Triết học Mác –
Lênin đem lại thế giới quan duy vật biện chứng, là hạt nhân thế giới quan cộng
sản.
* Chức năng phương pháp luận
Phương pháp luận là hệ thống những quan điểm, những nguyên tắc xuất phát
có vai trò chỉ đạo việc sử dụng các phương pháp trong hoạt động nhận thức và
19
hoạt động thực tiễn nhằm đạt kết quả tối ưu. Phương pháp luận cũng có nghĩa là
lý luận về hệ thống phương pháp. Triết học Mác – Lênin thực hiện chức năng
phương pháp luận chung nhất, phổ biến nhất cho nhận thức và hoạt động thực
tiễn.
3. Vai trò của triết học Mác – Lênin trong đời sống xã hội và trong sự
nghiệp đổi mới ở Việt Nam hiện nay
3.1. Triết học Mác – Lênin là cơ sở thế giới quan và phương pháp luận khoa
học và cách mạng để phân tích xu hướng phát triển của xã hội trong điều kiện
cuộc cách mạng khoa học và công nghệ hiện đại phát triển mạnh mẽ
Trong điều kiện phát triển của cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ 4, đã và
đang đặt ra những vấn đề quan trọng, bức thiết đòi hỏi và thúc đẩy chủ nghĩa Mác
– Lênin phải vượt lên để giải đáp. Mặt khác, nó cũng tạo ra những điều kiện cần
thiết để chủ nghĩa Mác – Lênin có thể thực hiện được vai trò của mình. Vai trò
của chủ nghĩa Mác – Lênin được thể hiện tập trung ở những điểm chủ yếu sau:
Thứ nhất, nhận thức một cách toàn diện, sâu sắc cuộc khủng hoảng của chủ
nghĩa xã hội hiện thực về thành tựu và khuyết tật, nguyên nhân của khủng hoảng;
phân tích, đánh giá xu hướng vận động theo con đường xã hội chủ nghĩa của một
số nước trên thế giới. Trên cơ sở đó, tìm ra con đường, giải pháp thoát khỏi khủng
hoảng và đưa ra dự báo một cách khoa học, thực tế về tương lai của chủ nghĩa xã
hội.
Thứ hai, nhận thức một cách khách quan, toàn diện, sâu sắc chủ nghĩa tư bản
hiện đại, nhất là chủ nghĩa tư bản toàn cầu hóa, về bản chất, quy luật, khả năng
điều chỉnh và thích ứng của nó với hoàn cảnh mới; những mâu thuẫn, khuyết tật,
xu hướng vận động và quá trình phát triển
Thứ ba, nhận thức cuộc cách công nghiệp lần thứ 4 với nguyên nhân, bản chất,
quy luật, thành tựu hạn chế và dự báo xu hướng phát triển, cùng tác động, ảnh
hưởng của nó đến con người và xã hội. Đồng thời, nhận thức sâu sắc quá trình
toàn cầu hóa về bản chất, quy luật, mâu thuẫn, xung đột, mặt tích cực, mặt tiêu
cực và xu hướng tương lai của nó. Trên cơ sở đó, khái quát lý luận, bổ sung và
phát triển các phạm trù, nguyên lý, quy luật của chủ nghĩa Mác – Lênin.
Thứ tư, nghiên cứu các học thuyết xã hội hiện đại, những vấn đề lý luận và thực
tiễn mới của thời đại để tiếp thu tinh hoa văn hóa, trí tuệ của nhân loại, bổ sung
và làm giàu thêm hệ giá trị của chủ nghĩa Mác – Lênin; đồng thời, đấu tranh với
mọi quan điểm thù địch, bảo vệ bản chất khoa học, cách mạng và nhân văn của
chủ nghĩa Mác – Lênin, góp phần thúc đẩy khoa học và thực tiễn phát triển theo
hướng văn minh, tiến bộ.
20
Quá trình hình thành, phát triển chủ nghĩa Mác – Lênin đồng thời cũng là quá
trình đấu tranh chống chủ nghĩa duy tâm, tôn giáo, chủ nghĩa giáo điều, chủ nghĩa
bè phái, chủ nghĩa xét lại và chủ nghĩa cơ hội dưới nhiều màu sắc. Đó cũng là
động lực phát triển và bảo vệ chủ nghĩa Mác – Lênin.
3.2. Triết học Mác – Lênin là cơ sở lý luận khoa học của công cuộc xây dựng
chủ nghĩa xã hội trên thế giới và sự nghiệp đổi mới theo định hướng xã hội chủ
nghĩa ở Việt Nam
Hiện nay, chủ nghĩa Mác – Lênin đang đứng trước những cơ hội và thách thức
to lớn với nhu cầu cấp bách là phải đổi mới để phát triển. Vì vậy, việc tiếp tục
nghiên cứu, làm sáng tỏ bản chất khoa học, cách mạng và nhân văn của chủ nghĩa
Mác – Lênin có ý nghĩa sống còn đối với những người cộng sản, đối với tương lai
của chủ nghĩa xã hội và đối với sự nghiệp đổi mới theo định hướng xã hội chủ
nghĩa ở Việt Nam.
Việt Nam đã vượt qua được sự khủng hoảng của chủ nghĩa xã hội những năm
cuối thập niên 80 đầu thập niên 90 của thế kỷ XX, đạt được thành tựu to lớn suốt
hơn 30 năm tiến hành đổi mới. Vì sao chế độ xã hội chủ nghĩa ở Đông Âu và Liên
Xô lại sụp đổ, trong khi đó ở Việt Nam chế độ xã hội chủ nghĩa vẫn tồn tại, hơn
nữa Việt Nam lại thoát ra khỏi khủng hoảng và đạt được thành tựu to lớn? Điều
đó có nhiều nguyên nhân khách quan và chủ quan, trong đó có nguyên nhân Đảng
Cộng sản Việt Nam đã kiên định và vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác – Lênin.
Nếu không nhận thức đúng cũng như không vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác
– Lênin trong điều kiện lịch sử cụ thể, thì việc khủng hoảng và sụp đổ của chủ
nghĩa xã hội là một tất yếu. Nói cách khác, tình trạng khủng hoảng và sụp đổ chủ
nghĩa xã hội như đã diễn ra ở một số nước, có nguyên nhân ở sự không kiên định
và không vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác – Lênin. Sở dĩ sự nghiệp đổi mới ở
nước ta từ Đại hội VI đạt được thành quả to lớn trước hết là do Đảng Cộng sản
Việt Nam kiên định và vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác – Lênin.
Muốn xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội thì phải kiên định chủ nghĩa Mác
– Lênin, đồng thời phải vận dụng chủ nghĩa Mác – Lênin một cách sáng tạo trong
những hoàn cảnh thực tiễn cụ thể. Kiên định và vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác
– Lênin là nguyên nhân cơ bản dẫn đến thành công trong quá trình đổi mới ở Việt
Nam.
Hộp 1.6. Sức sống của chủ nghĩa Mác
Thực tiễn xã hội ngày nay cũng như sự phát triển mạnh mẽ của khoa học công nghệ
không đưa ra được bất cứ bằng chứng xác thực nào để bác bỏ các nguyên lý căn bản
của triết học Mác, vì vậy việc cho rằng thời đại thay đổi thì triết học Mác nói riêng và
chủ nghĩa Mác - Lênin nói chung đã lỗi thời là hoàn toàn sai lầm.
Có thể thấy rõ ràng là không phải học 21
thuyết càng mới thì càng có giá trị. Một học
thuyết trong lịch sử đối với đương thời có hay không có giá trị không phải chỗ học
thuyết đó ra đời ở thời đại nào mà căn bản nhất ở chỗ tự bản thân học thuyết đó có tính
VĂN BẢN VÀ CÂU HỎI KẾT CHƯƠNG
Văn bản 1: TRIẾT HỌC LÀ GÌ?
Thưa tiến sĩ Adler,
Tôi không hiểu thuật ngữ triết học bao hàm nghĩa gì. Hình như nó không có
một chủ đề xác định nào như trong các khoa học và các nghiên cứu kinh viện.
Phải chăng triết học bao hàm nhiều lĩnh vực tri thức? Hay nó chỉ đơn thuần là tư
tưởng, không có một đối tượng riêng biệt nào? Triết học có phải là một khoa học
mang đến cho ta tri thức chắc chắn và chính xác, hay chỉ là nghệ thuật suy nghĩ?
Tại sao chúng ta không thể đồng thuận với nhau về mục đích của một nỗ lực mà
nhân loại theo đuổi hàng ngàn năm nay? J.P
J.P thân mến,
Sở dĩ khó định nghĩa triết học là vì có quá nhiều cái nhìn khác nhau về nội dung
và sứ mệnh của triết học. Một mặt, nó được trình bày như tri thức nền tảng về tự
nhiên và xã hội; mặt khác như là sự hướng dẫn đến một đời sống tốt đẹp. Thời
Trung cổ triết học được xem như là con sen của thần học; thời nay, nhiều người
vẫn xem nó như một trợ thủ cho khoa học xã hội và khoa học tự nhiên.
Thuật ngữ triết học theo nghĩa đen là lòng yêu mến sự thông thái, theo đó triết
học là một tham vọng tìm kiếm hơn là một cái kho chứa đựng tri thức tìm được
và có thể truyền giao được. Xôcrát chỉ rõ rằng triết gia là người yêu mến sự thông
thái, chứ không sở hữu nó.
Xôcrát còn làm cho cung cách của triết gia thêm cụ thể khi nói rằng một đời
sống không được khảo chứng thì không đáng sống và chúng ta nên theo đuổi mọi
chứng lý đến cùng khi chưa ngã ngũ. Luôn luôn tìm kiếm, luôn luôn nghi vấn là
thái độ căn bản trong sinh hoạt triết học. Nó cũng cho thấy một ý hướng luân lý
của một đời sống tốt đẹp vốn là điều cần nhấn mạnh luôn mãi trong triết học.
Arixtốt trình bày nội dung của triết học bằng một khối lượng tác phẩm phong
phú, đồ sộ. Ông phân chia triết học thành những phân ngành khác nhau. Đứng
22
trên tất cả là “đệ nhất triết học”, hay Siêu hình học, vốn là tri thức về nguyên lý
và những nguyên nhân tối hậu. Sự nhấn mạnh Siêu hình học như vậy cũng đóng
vai trò chính yếu trong triết học.
Vào thời hiện đại, bản chất của tri thức và cơ cấu của tâm lý được coi là quan
trọng hàng đầu. I. Kant, người đi đầu trong đường hướng này, phân biệt một bên
là tri thức thuần lý chỉ có thể đạt được bằng triết học. Hiện nay người ta bàn cải
rất nhiều về vai trò tương đối của triết học và khoa học. Chính là với khoa học,
chứ không phải triết học, mà người ta đi tìm tri thức căn bản. Một trong những
trường phái triết học mạnh mẽ nhất, Chủ nghĩa thực chứng, cho rằng chỉ có khoa
học thực nghiệm mới là tri thức thực sự, và rằng triết học chỉ còn đóng vai trò giải
nghĩa và phê phán các khoa học này.
Quan điểm của tôi là, triết học là một loại tri thức đặc biệt có tính minh triết.
Nó đem đến cho ta minh triết về bản chất con người, về thế giới, về Thượng đế,
về đời sống tốt đẹp và xã hội tốt đẹp. Nó đem ra ánh sáng thắc mắc căn bản về
yếu tính của vạn vật và cứu cánh cuộc đời. Do đó, nó đứng trên khoa học, cả về
lý thuyết lẫn thực hành, vì khoa học chỉ đề cập đến những vấn đề bên ngoài và
kém quan trọng hơn.
Theo quan điểm này, triết học là mối bận tâm của tất cả mọi người. Nó không
phải là một ngành học đặc biệt, đòi hỏi phải tinh thông một phương pháp luận
phức tạp, toán học cao cấp, hoặc máy móc tinh vi. Triết gia đích thực là một con
chim lạ hiếm, đó là vì ông ta đã dâng hiến hết mình và suốt đời cho việc theo đuổi
minh triết giữa một thế giới đầy sự xao lãng. Tuy nhiên, mọi người có thể đáp lại
tiếng gọi này, thì chỉ có hai điều duy nhất mà một người cần có để trở thành triết
gia, đó là trí tuệ được Thượng Đế ban cho và một niềm khát khao muốn biết chân
lý tối hậu.
Những gì tôi vừa trình bày trên đây gợi lên những giải đáp cho tất cả câu hỏi
của bạn. Triết học không phải là một khoa học thực nghiệm theo nghĩa của Vật lý
học, Hóa học và Sinh học; mà nó là một khoa học thuần lý, và như Toán học, nó
phát triển bằng suy tư và phân tích có hệ thống. Nhà toán học lẫn nhà triết học
không viện dẫn bất kỳ một sự kiện nào đã được quan sát cả, ngoại trừ những sự
kiện đã được quan sát của mọi người. Cả hai đều tiến hành những khám phá của
mình ngay tại bàn giấy; cả hai đều là những nhà tư tưởng salon.

23
Triết học không phải là một nghệ thuật, nhưng nó sử dụng các môn học lý
thuyết, đặc biệt là nghệ thuật suy luận biện chứng. Nó không phải là thần học, vì
trong khi thần học lấy niềm tin tôn giáo làm khởi điểm của mình, thì triết học lại
bắt đầu bằng sự phán đoán thực tế, nó nỗ lực làm rõ và đào sâu sự hiểu biết về
một thế giới còn ẩn tàng trong phán đoán thực tế đó.
Hoàn toàn không đến trước khoa học, triết học đến sau khoa học. Mặc dù, như
lịch sử cho thấy, sự tra hỏi triết lý bắt đầu từ rất lâu trước thí nghiệm khoa học, nó
cũng sẽ tiếp tục lâu dài sau khi chúng ta đã đạt đến những giới hạn của tri thức
thực nghiệm. Các khoa học thực nghiệm đã hoàn thiện rồi, và có những biểu hiện
cho thấy ở những thời điểm nào đó chúng ta đã đi xa đến mức có thể. Nhưng triết
học vẫn còn ở tuổi ấu thơ của nó. Sự phát triển đầy đủ của nó nằm ở nhiều thiên
niên kỷ phía trước. 1
Câu hỏi
1. Anh /Chị cho biết văn bản đã trình bày những cách nhìn khác nhau nào về
nội dung và sứ mệnh của triết học?
2. Tri thức triết học có những đặc trưng gì?
3. So với các nhà khoa học khác, nhà triết học có sứ mệnh gì?

Văn bản 2: TRIẾT HỌC TRONG KỶ NGUYÊN KHOA HỌC


Thưa tiến sĩ Adler,
Khoa học đã cung cấp tri thức và công cụ để tạo ra một kỷ nguyên công nghiệp
hiện đại. Nhưng triết học có thể giúp gì chúng ta trong thời đại khủng hoảng ngày
nay không? Hay triết học đã lỗi thời trong kỷ nguyên khoa học này? W.L.
W.L. thân mến,
Trước hết chúng ta có thể xem xét những gì khoa học có thể làm và những gì
khoa học không thể làm – phạm vi và chức năng đích thực của nó.
Khoa học nghiên cứu những hiện tượng xã hội và vật lý nhằm mục đích đạt tới
một mô tả chính xác về chúng. Có thể đó là sự vận động của các thiên thể, những

1
J. Adler (2004), Những tư tưởng lớn từ những tác phẩm vĩ đại, Dịch giả: Phạm Viêm Phương, Mai Sơn, Nxb.
Văn hóa Thông tin, Hà Nội.

24
cấu trúc bên trong của nguyên tử, những tiến trình tâm lý, những trào lưu xã hội,
hoặc hành vi của con người.
Vậy lợi ích của tri thức khoa học là gì? Bacon trả lời câu hỏi đó bằng lời khẳng
định: khoa học mang lại cho chúng ta quyền lực. Nó cho phép chúng ta, ở một
mức độ nào đó, thực hiện việc kiểm soát và làm chủ những hiện tượng vật lý và
xã hội trong thế giới mà chúng ta đang sống. Một câu trả lời khác nói rằng khoa
học cho phép chúng ta tạo ra đủ thứ vật chất. Áp dụng khoa học, người kỹ sư xây
dựng những chiếc cầu, vị bác sĩ phục hồi sức khỏe cho người bệnh. Nhưng một
tri thức như thế, như mọi người đều biết, cũng đã được sử dụng để hủy diệt tất cả,
để làm tàn tật và giết hại con người.
Nói một cách khác, khoa học mang đến cho chúng ta thứ quyền lực vừa có tính
kiến tạo vừa có tính phá hủy. Nó cung cấp cho chúng ta những phương tiện theo
đuổi những mục đích xấu xa lẫn những cứu cánh tốt đẹp. Tự nó, khoa học không
thể trung tính về mặt đạo đức, nghĩa là nó không tốt không xấu đối với những giá
trị của những cứu cánh mà vì nó các phương tiện được đem ra sử dụng; nó còn
hoàn toàn không thể chỉ cho chúng ta một đường hướng đạo đức nào, vì nó chẳng
cung cấp cho chúng ta những tri thức cần thiết về hệ thống những điều kiện và hệ
thống những cứu cánh.
Do vậy, bạn rất có lý khi đề xuất ý tưởng rằng khoa học cần có triết học hỗ trợ
nếu mong muốn những phương tiện mà khoa học tạo ra được sử dụng cho những
mục đích xứng đáng.
Ngày nay nhiều người nghĩ rằng triết học là vô ích so sánh với khoa học, bởi
vì người ta không áp dụng nó để tạo ra mọi thứ hoặc để kiểm soát các phương
tiện. Tuy nhiên, tri thức triết học, theo tôi, lại hữu dụng một cách khác, cao quý
hơn. Sự hữu dụng và ứng dụng của nó có tính đạo đức và giáo dục, chứ không có
tính kỹ thuật và chế tác. Trong khi khoa học trang bị cho chúng ta phương tiện để
sử dụng, thì triết học hướng dẫn chúng ta đến những cứu cánh mà chúng ta mong
đạt tới.
Tôi xin nói rõ điểm cuối cùng này. Cách xử sự của con người và các thiết chế
xã hội tùy thuộc vào những giải đáp của chúng ta trước những câu hỏi như hạnh
phúc phụ thuộc vào cái gì, bổn phận của chúng ta là gì, tổ chức nhà nước nào là
công bằng nhất, điều gì làm cho cái thiện phổ quát trong xã hội, con người cần có
những tự do gì, và vân vân. Bây giờ và mãi mãi, khoa học không thể trả lời một

25
câu hỏi nào vừa kể, hoặc bất kỳ câu hỏi khác có liên quan đến cái đúng cái sai,
cái tốt và cái xấu, bây giờ và mãi mãi.
Không trả lời được những câu hỏi này, chúng ta như con thuyền không có la
bàn và bánh lái trôi dạt giữa biển sóng cuộc đời. Chừng nào chiếc thuyền cá nhân
hoặc con tàu nhà nước sử dụng công suất nhỏ, chúng ta có thể không gặp nguy
hiểm. Nhưng, bạn đã chỉ ra, trong kỷ nguyên hạt nhân này, khi chúng ta di chuyển
với tốc độ lớn và với công suất lớn, tai họa đe dọa chúng ta ở mọi khúc quanh nếu
chúng ta không biết định hướng đúng.
Chính là triết học, chứ không phải khoa học, sẽ dạy cho chúng ta thấy sự khác
biệt giữa cái đúng và cái sai, đồng thời hướng dẫn chúng ta đi tới những điều thiện
phù hợp với bản chất của chúng ta. Nếu như lợi ích chế tác của khoa học phát sinh
từ sự diễn tả chính xác của nó về cách thức mọi sự vận động, thì lợi ích đạo đức
của triết học lại có nguồn gốc từ những hiểu biết nền tảng về những thực tại tối
hậu đằng sau những hiện tượng mà khoa học nghiên cứu. Mỗi loại tri thức trả lời
những câu hỏi mà loại kia không thể, và vì thế, mỗi loại đều hữu ích theo cách
riêng của nó.
Theo tôi, chính là triết học, chứ không phải khoa học, là bậc cao nhất trong mọi
nền văn minh, đơn giản vì những câu hỏi mà nó có thể giải đáp lúc nào cũng khẩn
thiết cho nhân sinh. Một điều chắc chắn là, chúng ta càng chiếm lĩnh được khoa
học, chúng ta càng cần đến triết học, bởi vì càng có nhiều sức mạnh chúng ta càng
cần đến phương hướng2.
Câu hỏi
1. Một số sinh viên nghĩ rằng môn triết học chẳng ích lợi gì nếu so sánh nó với
các môn học thuộc chuyên ngành đào tạo (kế toán, tài chính, marketing, kinh
doanh quốc tế…) bởi vì không thể trực tiếp hành nghề đã chọn bằng kiến thức
triết học. Anh/Chị cho biết suy nghĩ của mình về ý kiến trên.
2. Xuất phát từ chuyên ngành mà Anh/ Chị đã chọn, hãy chứng minh nhận định:
Khoa học và triết học, mỗi loại tri thức trả lời những câu hỏi mà loại kia không
thể và vì thế đối với bạn mỗi loại đều hữu ích theo cách riêng của nó.
CÂU HỎI ÔN TẬP

2
J. Adler (2004), Những tư tưởng lớn từ những tác phẩm vĩ đại, Dịch giả: Phạm Viêm Phương, Mai Sơn, Nxb
Văn hóa Thông tin, Hà Nội.

26
1. Triết học là gì? Triết học xuất hiện trong những điều kiện nào? Sự biến đổi
đối tượng của triết học qua các giai đoạn lịch sử?
2. Chức năng thế giới quan của triết học là gì?
3. Vấn đề cơ bản của triết học. Cơ sở để phân biệt chủ nghĩa duy vật và chủ
nghĩa duy tâm trong triết học?
4. Trình bày sự ra đời và phát triển của Triết học Mác - Lênin.
5. Cho biết đối tượng và chức năng của Triết học Mác - Lênin.
CÂU HỎI THẢO LUẬN
(Các câu hỏi suy tư triết học có các đặc điểm: [i] Đề cập đến những vấn đề
khái quát, có thể áp dụng trong nhiều tình huống khác nhau. [ii] Hàm chứa ý
nghĩa sâu sắc trong đời sống. [iii] Không có phương pháp trả lời thống nhất; mỗi
người đều có thể tự đề xuất phương hướng trả lời cho riêng mình)
1. Anh/ Chị có chấp nhận rời xa tổ quốc và không bao giờ quay lại để có được
khoản tiền theo đúng mong muốn của mình không? Vì sao? Hãy rút ra ý nghĩa từ
nội dung câu hỏi.
2. Nếu sống ở năm 1900 và biết xe hơi sẽ cướp đi sinh mạng của 20 triệu người
trong thế kỉ XX, khi đó Anh/ Chị có muốn ngừng việc phát triển xe hơi không?
Vì sao? Theo Anh/ Chị, công nghệ nào trong hiện tại là quá nguy hiểm để được
phát triển, biết rằng hàng năm xe hơi cướp đi 500.000 mạng người và thuốc lá
cướp đi 5 triệu mạng người? Hãy rút ra ý nghĩa từ nội dung câu hỏi.
3. Anh/ Chị nghĩ phương án nào hiệu quả hơn trong 2 phương án sau. Tại sao?
Hãy rút ra ý nghĩa từ nội dung câu hỏi.
Để được đảm bảo về tài chính, Anh/ Chị hoặc sẽ chọn phương án tích cực lường
trước rủi ro để tránh xa hoặc lập phương án phòng bị để vượt qua những nguy cơ
bất ngờ?
4. Công nghệ đã trở thành một phần trong cuộc sống. Nếu buộc phải chọn hoặc
từ bỏ việc sử dụng các phương tiện, động cơ, các thiết bị viễn thông và máy vi
tính, hoặc từ bỏ đi một cánh tay của mình thì Anh/ Chị chọn bỏ cái nào? Vì sao?
Hãy rút ra ý nghĩa từ nội dung câu hỏi.
5. Anh/ Chị nghĩ khó khăn lớn nhất của việc sống hàng trăm năm nhưng vẫn
giữ trạng thái của tuổi thanh xuân là gì? Hãy rút ra ý nghĩa từ nội dung câu hỏi.
6. Cách Anh/ Chị sử dụng Internet và giao tiếp với người khác sẽ thay đổi thế
nào nếu phải dùng tên thật trong mọi tương tác trực tuyến và tra cứu thông tin,

27
đồng thời mọi hoạt động trực tuyến sẽ được lưu trữ? Hãy rút ra ý nghĩa từ nội
dung câu hỏi.
7. Giả sử có hai dạng mất trí nhớ: một dạng mất đi kí ức quá khứ, một dạng
ngăn lưu giữ thêm những kí ức mới. Nếu Anh/ Chị đột nhiên rơi vào tình trạng
mất trí nhớ, theo Anh/ Chị dạng mất trí nhớ nào đáng sợ hơn? Vì sao? Hãy rút ra
ý nghĩa từ nội dung câu hỏi.
8. Anh/ Chị sẽ cảm thấy thế nào nếu biết được rằng trong vòng một thế kỷ tới,
những cỗ máy thông minh sẽ có ý thức, thông minh và sáng tạo hơn con người?
Vì sao Anh/ Chị cảm nhận như vậy? Hãy rút ra ý nghĩa từ nội dung câu hỏi.

28
Chương 2
CHỦ NGHĨA DUY VẬT BIỆN CHỨNG

Mục tiêu
Về kiến thức
- Trình bày và phân tích được: vấn đề cơ bản của triết học, các phạm trù vật chất,
ý thức, vận động, không gian, thời gian.
- Diễn đạt chính xác, cho được các dẫn chứng, ví dụ để làm sáng tỏ nội dung cơ
bản của phép biện chứng duy vật gồm 2 nguyên lý, 6 cặp phạm trù, 3 quy luật cơ
bản.
- Xác định đúng các dạng hoạt động thực tiễn cơ bản và vai trò của mỗi dạng đối
với nhận thức.
- Phân biệt và kết nối được sự liên hệ trong các giai đoạn của quá trình nhận thức
bằng các ví dụ.
Về kỹ năng
- Biết đặt đối tượng nhận thức trong trạng thái vận động, trong các mối liên hệ
vốn có.
- Vận dụng các kiến thức đã học để phân tích, giải thích bản chất một số sự vật,
hiện tượng, quá trình cụ thể trong cuộc sống, trong đời sống kinh tế, chính trị và
xã hội.
- Thiết lập và xây dựng các mối quan hệ gia đình, xã hội, công việc một cách chủ
động, tích cực.
Về thái độ
- Nhìn nhận, đánh giá các sự vật, các vấn đề một cách khách quan trong sự vận
động, biến đổi; trong các mối liên hệ chung – riêng, nhân – quả, bản chất – hiện
tượng, khả năng – hiện thực… của sự vật, vấn đề đó, hạn chế sự suy luận phiến
diện, cảm tính.
- Tự tin vào năng lực nhận thức, năng lực hoạt động của bản thân.

Chủ nghĩa duy vật biện chứng là hạt nhân lý luận triết học của thế giới quan
khoa học Mác - Lênin; là hệ thống lý luận, phương pháp luận được xác lập trên
cơ sở giải quyết theo quan điểm duy vật biện chứng đối với vấn đề cơ bản của
triết học.
Trong chủ nghĩa duy vật biện chứng, các nguyên lý của chủ nghĩa duy vật đã
được giải thích một cách biện chứng. Theo các nguyên lý này, chỉ có một thế giới

29
vật chất không ngừng vận động. Ý thức con người chỉ là hình ảnh chủ quan về thế
giới vật chất, tác động trở lại thế giới đó thông qua hoạt động thực tiễn.
Các nguyên lý của phép biện chứng đã được giải thích trên lập trường duy vật.
Theo các nguyên lý đó, thế giới vật chất có vô số mối liên hệ, biến đổi, phát triển
không ngừng. Nội dung của nguyên lý về mối liên hệ phổ biến và nguyên lý về
sự phát triển thể hiện trong ba quy luật và sáu cặp phạm trù.
Phép biện chứng duy vật còn bao gồm lý luận nhận thức. Theo lý luận ấy, sự
phản ánh thế giới vật chất bởi con người với hai giai đoạn nhận thức là cảm tính
và lý tính. Cơ sở, động lực, mục đích của nhận thức là thực tiễn. Thực tiễn cũng
đồng thời là tiêu chuẩn của chân lý.
Nắm vững những nội dung cơ bản của chủ nghĩa duy vật biện chứng là điều
kiện tiên quyết để nghiên cứu toàn bộ hệ thống quan điểm khoa học của chủ nghĩa
Mác - Lênin.
I. VẬT CHẤT VÀ Ý THỨC
1. Vật chất và các hình thức tồn tại của vật chất
1.1. Quan niệm của chủ nghĩa duy tâm và chủ nghĩa duy vật trước Mác về phạm
trù vật chất
Theo quan điểm của chủ nghĩa duy tâm thì thực thể của thế giới, cơ sở của mọi
tồn tại là một bản nguyên tinh thần. Đó có thể là ý chí thượng đế, “ý niệm tuyệt
đối”, hoặc những quan niệm có tính chất siêu nhiên…
Quan niệm của chủ nghĩa duy vật thì thực thể của thế giới là vật chất. Trong
thời cổ đại đó là các quan niệm của Talét cho rằng bản nguyên thế giới là nước,
Heraclít cho rằng bản nguyên thế giới là lửa, Pitagor cho rằng bản nguyên thế giới
là con số, Empeđốclơ cho rằng bản nguyên thế giới là đất, nước, lửa, không khí.
Bước tiến trên con đường đi tìm một thực thể có khả năng đại diện một cách
phổ quát hơn cho sự tồn tại của thế giới được đánh dấu bởi Anaximander. Ông
cho rằng thực thể của thế giới là một bản nguyên không xác định về mặt chất và
mặt lượng. Bản nguyên này không thể quan sát được và ông gọi là apeirôn. Sự
tương tác các mặt vốn có trong apeirôn tạo nên toàn bộ thế giới.
Đỉnh cao của chủ nghĩa duy vật cổ đại trong quan niệm về vật chất thuộc về
các nhà nguyên tử luận là Lơxíp và Đêmôcrít. Theo hai ông thì thực thể của thế
giới là nguyên tử.
Từ cuối thế kỷ XVI, đặc biệt là trong thế kỷ XVII – XVIII, nền khoa học tự
nhiên – thực nghiệm châu Âu, nhờ ứng dụng được những thành tựu của cơ học và
toán học đã phát triển một cách mạnh mẽ. Tuy vậy, quan điểm siêu hình máy móc
vẫn chi phối những hiểu biết triết học về vật chất. Người ta giải thích mọi hiện
30
tượng của thế giới tự nhiên bằng sự tác động qua lại giữa lực hấp dẫn và lực đẩy
của các phần tử của vật thể. Theo đó, thì các phân tử của vật trong quá trình vận
động là cái bất biến. Cái thay đổi chỉ là trạng thái không gian và tập hợp của
chúng. Mọi phân biệt về chất giữa các vật thể đều bị quy giản về sự phân biệt về
lượng; mọi sự vận động đều bị quy về sự dịch chuyển vị trí không gian. Niềm tin
vào các chân lý cơ học của Niutơn, đã khiến các nhà khoa học lúc ấy đồng nhất
vật chất với khối lượng. Vận động của vật chất chỉ là biểu hiện của vận động cơ
học. Nguồn gốc của vận động nằm ở bên ngoài vật chất, từ đó dẫn đến thừa nhận
cái hích của thượng đế.
1.2. Cuộc cách mạng trong khoa học tự nhiên cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX
và sự phá sản của các quan điểm duy vật siêu hình về vật chất
Đến cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX, với những phát minh mới trong khoa học
tự nhiên, con người mới có được những hiểu biết căn bản và sâu sắc hơn về nguyên
tử. Năm 1895, Rơnghen phát hiện tia X, một loại sóng điện từ vô hình mà mắt
thường không thể nhìn thấy được. Năm 1896, Béccơren phát hiện ra hiện tượng
phóng xạ. Quá trình phóng xạ, nguyên tố phóng xạ biến thành nguyên tố khác.
Điều đó chứng tỏ các nguyên tố hóa học không phải là bất biến mà có thể chuyển
hóa lẫn nhau. Năm 1897, Tômxơn phát hiện ra điện tử và chứng minh điện tử là
một trong những thành phần cấu tạo nên nguyên tử, chứng tỏ nguyên tử không
phải là giới hạn cuối cùng. Nhờ phát minh này, lần đầu tiên trong khoa học, sự
tồn tại của nguyên tử được chứng minh bằng thực nghiệm. Năm 1901, Kaufman
đã chứng minh được khối lượng của điện tử không phải là khối lượng tĩnh mà
thay đổi theo tốc độ vận động của nó.
Những thành tựu trên của khoa học tự nhiên cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX
làm cho các hiểu biết về vật chất đến thời điềm đó không còn chính xác, đúng
đắn. Yêu cầu đặt ra là, các nhà triết học duy vật biện chứng phải phát triển học
thuyết về vật chất dựa trên những thành tựu mới nhất của khoa học tự nhiên.
1.3. Quan niệm của triết học Mác - Lênin về vật chất
Khắc phục những hạn chế của chủ nghĩa duy vật trước Mác khi quy vật chất về
một hay một vài dạng cụ thể của nó; chủ nghĩa duy vật biện chứng đã phân biệt
tính khái quát của phạm trù vật chất và sự tồn tại vật chất ở những dạng cụ thể;
chỉ ra sự tồn tại khách quan; chỉ ra tính vô tận, vô hạn, tính không thể sáng tạo ra
và không thể tiêu diệt được của vật chất; chỉ ra tính thống nhất của thế giới là ở
tính vật chất của nó; chỉ ra các hình thức tồn tại của vật chất, đó là không gian,
thời gian và phương thức tồn tại của vật chất là vận động.
Định nghĩa vật chất của V.I.Lênin
31
Vật chất là một phạm trù triết học dùng để chỉ thực tại khách quan được đem
lại cho con người trong cảm giác, được cảm giác của chúng ta chép lại, chụp lại,
phản ánh, và tồn tại không lệ thuộc vào cảm giác3.
Những nội dung rút ra từ định nghĩa vật chất của V.I.Lênin
Vật chất là một phạm trù triết học (khái niệm rộng nhất) để phân biệt nó với vật
chất trong các khoa học cụ thể, vật chất thông thường hàng ngày, với những biểu
hiện cụ thể của vật chất - có giới hạn, có sinh ra và có mất đi. Vật thể cụ thể là
những biểu hiện của vật chất. Vật chất là vô tận, vô hạn, không có giới hạn, không
được sinh ra và không bị mất đi.
Thuộc tính quan trọng nhất của vật chất là thực tại khách quan, tức tồn tại khách
quan, ở bên ngoài và độc lập với ý thức con người và loài người.
Vật chất – cái gây nên cảm giác ở con người khi bằng cách nào đó tác động lên
giác quan của con người. Thậm chí, có đối tượng bằng dụng cụ khoa học nhưng
cũng chưa biết; nhưng nếu nó tồn tại khách quan, ở bên ngoài, độc lập, không phụ
thuộc vào ý thức của con người thì nó vẫn là vật chất.
Ý thức của con người có thể phản ánh được vật chất.
*Ý nghĩa của định nghĩa vật chất của V.I.Lênin
Định nghĩa vật chất đã giải quyết được vấn đề cơ bản của triết học trên quan
điểm duy vật; khắc phục được những thiếu sót của chủ nghĩa duy vật trước Mác
về vật chất; xác nhận, chứng minh thêm cho tính triệt để của chủ nghĩa duy vật
Mácxít; có ý nghĩa định hướng đối với các khoa học cụ thể trong việc tìm kiếm
những dạng hoặc các hình thức mới của vật chất.
Hộp 2.1. Vũ trụ vô cùng vô tận
2000 tỉ là số thiên hà trong vũ trụ. Con số này vẫn còn quá nhỏ, bởi chúng ta sẽ còn phát
hiện thêm nhiều thiên hà nữa nếu công nghệ trong tương lai phát triển hơn. Ước tính có
khoảng 100 - 400 tỉ ngôi sao được chứa ở trong 1 thiên hà, cùng với hơn 100 tỉ hành
tinh. Thiên hà Milky Way có khoảng 100 tỷ ngôi sao. Nếu nhân với con số 2000 tỉ thì sẽ
có khoảng 200.000 tỷ tỷ ngôi sao trong toàn vũ trụ. Ngôi sao như Mặt trời có kích thước
không lớn, nhưng có thể chứa được khoảng 1 triệu Trái Đất bên trong.
Vũ trụ được cho là có đường kính ít nhất 10 tỷ năm ánh sáng. Mỗi giây ánh sáng có thể
đi được 30 vạn km và quãng đường của 1 năm ánh sáng khoảng 1 vạn tỉ km.
Nguồn: (Nhóm tác giả tổng hợp từ nhiều nguồn)

1.4. Các hình thức tồn tại của vật chất


Các phạm trù vận động, không gian, thời gian trả lời trực tiếp vấn đề vật chất
tồn tại bằng cánh nào.

3
Lênin (1980), Toàn tập, Tập 18, Nxb Tiến bộ, Mátxcơva, tr.151.

32
Trong sự phân biệt với các khoa học chuyên biệt, triết học không nghiên cứu
những biểu hiện cụ thể của các phương thức tồn tại của vật chất. Triết học chỉ tập
trung làm rõ những đặc trưng phổ quát nhất của vận động của vật chất trong không
gian và thời gian.
Theo quan điểm của chủ nghĩa duy vật biện chứng, vận động là mọi sự biến
đổi nói chung. Ăngghen định nghĩa vận động, hiểu theo nghĩa chung nhất, bao
gồm tất cả mọi sự thay đổi và mọi quá trình diễn ra trong vũ trụ, kể từ sự thay đổi
vị trí đơn giản cho đến tư duy.
Vận động là thuộc tính cố hữu của vật chất, là phương thức tồn tại của vật chất.
Điều này có nghĩa là vật chất tồn tại bằng cách vận động, và thông qua vận động
mà các dạng vật chất thể hiện đặc tính của mình. Với tư cách là thuộc tính bên
trong, vốn có của vật chất, nên vận động là sự tự vận động, được tạo nên do sự
tác động lẫn nhau của chính các thành tố nội tại trong cấu trúc vật chất. Vật chất
không do ai sáng tạo ra và không bị tiêu diệt, cho nên vận động với phương thức
tồn tại tất yếu của vật chất cũng không thể bị mất đi hoặc sáng tạo ra.
*Các hình thức cơ bản của vận động
Vận động cơ học: Là sự dịch chuyển của vật thể trong không gian.
Vận động vật lý: Là vận động của các phân tử, các hạt cơ bản, vận động điện
tử, các quá trình nhiệt điện…
Vận động hóa học: Là vận động của các nguyên tử, các quá trình hóa hợp và
phân giải các chất.
Vận động sinh học: Là sự trao đổi chất giữa cơ thể sống với môi trường.
Vận động xã hội: Sự thay đổi, thay thế của các quá trình xã hội, các hình thái
kinh tế xã hội.
Các hình thức vận động trên khác nhau về chất. Từ vận động cơ học đến vận
động xã hội là sự khác nhau về trình độ. Các hình thức vận động cao bao hàm các
hình thức vận động thấp nhưng không có trường hợp ngược lại. Mỗi sự vật có thể
gắn liền với nhiều hình thức vận động nhưng bao giờ cũng được đặc trưng bằng
một hình thức vận động cơ bản nhất.
Quá trình vận động không ngừng của thế giới vật chất, bao hàm trong nó hiện
tượng đứng im tương đối. Đứng im là sự vận động ở trạng thái cân bằng. Đó là
trạng thái mà sự vật hiện tượng vẫn còn là nó, chưa chuyển hóa thành cái khác.
Không có hiện tượng đứng im tương đối thì không có sự vật nào tồn tại được.
Ăngghen chỉ ra rằng vận động riêng biệt có xu hướng chuyển thành cân bằng, vận
động toàn bộ lại phá hoại sự cân bằng riêng biệt.

33
Hộp 2.2. Tự đứng lên
Khi sinh con, hươu cao cổ mẹ trong tư thế đứng. Hươu con chào đời bằng một cú rơi hơn
3m xuống đất và nằm ngay tại chỗ. Sau vài phút, hươu mẹ đá vào người con mình cho đến
khi nó chịu đứng dậy mới thôi. Mỏi chân, hươu con nằm, hươu mẹ lại thúc con đứng lên.
Cho đến khi thực sự đứng được, hươu mẹ lại đẩy cho con ngã để nó phải nỗ lực tự đứng
dậy trên đôi chân còn non nớt.
Nguồn: (Sưu tầm có biên tập lại)

* Không gian và thời gian


Ngay từ xa xưa người ta đã hiểu rằng, bất kỳ một khách thể vật chất nào cũng
đều chiếm một vị trí nhất định, ở vào một khung cảnh nhất định trong tương quan
về mặt kích thước so với các khách thể khác… các hình thức tồn tại như vậy của
vật thể được gọi là không gian.
Bên cạnh các quan hệ không gian, sự tồn tại của các khách thể vật chất còn
được biểu hiện ở mức độ tồn tại lâu dài hay mau chóng của các hiện tượng; ở sự
kế tiếp trước sau của các giai đoạn vận động… Những thuộc tính này của sự vật
được đặc trưng bằng phạm trù thời gian.
Không gian và thời gian gắn bó chặt chẽ với nhau, cả hai đều là thuộc tính cố
hữu của vật chất. Chúng đều là hình thức tồn tại của vật chất.
Không gian và thời gian có các tính chất: tính khách quan vì vật chất tồn tại
khách quan, tính vĩnh cữu và vô tận, tính ba chiều của không gian và tính một
chiều của thời gian.
1.5. Tính thống nhất vật chất của thế giới
Trong quan niệm về sự thống nhất của thế giới phải lấy việc thừa nhận sự tồn
tại của nó làm tiền đề.
Chủ nghĩa duy vật biện chứng chứng minh rằng, bản chất của thế giới là vật
chất, thế giới thống nhất ở tính vật chất. Điều đó thể hiện:
Thứ nhất, chỉ có một thế giới duy nhất và thống nhất là thế giới vật chất. Thế
giới vật chất tồn tại khách quan, có trước và độc lập với ý thức con người.
Thứ hai, mọi bộ phận của thế giới vật chất đều có mối liên hệ thống nhất với
nhau. Biểu hiện ở chỗ chúng đều là những dạng cụ thể của vật chất, là những kết
cấu vật chất, hoặc có nguồn gốc vật chất, do vật chất sinh ra và cùng chịu sự chi
phối của những quy luật khách quan, phổ biến của thế giới vật chất.
Thứ ba, thế giới vật chất tồn tại vĩnh viễn, vô hạn và vô tận, không bị sinh ra
và không bị mất đi. Trong thế giới không có gì khác ngoài những quá trình vật
chất đang biến đổi và chuyển hóa lẫn nhau, là nguồn gốc, nguyên nhân và kết quả
của nhau.

34
2. Nguồn gốc, bản chất và kết cấu của ý thức
2.1. Nguồn gốc của ý thức
Ý thức là một thuộc tính của vật chất sống đặc biệt có tổ chức cao, đó là bộ não
của con người. Ý thức có hai nguồn gốc: tự nhiên và xã hội.
*Nguồn gốc tự nhiên của ý thức gồm bộ óc của con người; sự tác động của thế
giới bên ngoài, của hoàn cảnh xung quanh lên bộ óc để bộ óc phản ánh. Ý thức là
chức năng của bộ óc. Hoạt động của ý thức diễn ra trên cơ sở hoạt động sinh lý
thần kinh của bộ óc.
Sự tác động của thế giới bên ngoài và bộ óc phản ánh lại sự tác động đó. Phản
ánh là sự lưu giữ và tái tạo những đặc điểm của một sự vật này ở một sự vật khác
trong quá trình tác động qua lại giữa chúng. Chỉ có vật chất phát triển cao là bộ
óc con người thì mới sinh ra ý thức, còn toàn bộ thế giới vật chất chỉ có năng lực
phản ánh.
Các hình thức phản ánh
Ở giới vô sinh có hình thức phản ánh vật lý, hóa học. Hai loại phản ánh này
mang tính chất thụ động, chưa có sự chọn lọc, định hướng.
Ở giới hữu sinh có hình thức phản ánh sinh học. Loại phản ánh này đã có sự
lựa chọn, định hướng để thích nghi với môi trường. Phản ánh sinh học thể hiện ở
tính kích thích trong cơ thể do tác động của môi trường ở thực vật, các phản xạ ở
động vật có hệ thần kinh. Những động vật cấp cao có bộ não thì thể hiện hình thức
phản ánh tâm lý động vật.
Con người thể hiện trình độ phản ánh ý thức (phản ánh sáng tạo). Hình thức
phản ánh này chỉ nảy sinh và xuất hiện cùng với sự xuất hiện của con người.
*Nguồn gốc xã hội
Nguồn gốc xã hội của ý thức gồm lao động, ngôn ngữ và những quan hệ xã hội.
Loài vật tồn tại nhờ vào những vật phẩm có sẵn trong tự nhiên dưới dạng trực
tiếp. Con người phải lao động để tạo ra những vật phẩm cho mình. Chính thông
qua hoạt động lao động con người mới có thể phản ánh được thế giới khách quan,
mới có ý thức được về thế giới đó. Con người có ý thức chính nhờ con người chủ
động tác động vào thế giới đó. Qua đó, con người khám phá ra những bí mật của
thế giới, ngày càng làm sâu sắc ý thức của mình về thế giới.
Trong quá trình lao động, con người xuất hiện nhu cầu trao đổi kinh nghiệm,
tư tưởng cho nhau. Chính nhu cầu đó đòi hỏi sự xuất hiện của ngôn ngữ. Ngôn
ngữ là hệ thống tín hiệu vật chất mang nội dung ý thức. Ngôn ngữ, nói như C.Mác,
là cái vỏ vật chất của tư duy, là hiện thực trực tiếp của tư tưởng. Không có ngôn
ngữ, con người không thể có ý thức.
35
Như vậy, nguồn gốc trực tiếp và quan trọng nhất quyết định sự ra đời và phát
triển của ý thức là lao động, là thực tiễn xã hội. Ý thức là sản phẩm xã hội, là một
hiện tượng xã hội.
2.2. Bản chất của ý thức
Ý thức là hình ảnh chủ quan của thế giới khách quan. Hình ảnh đó không còn
nguyên vẹn mà đã cải biến thông qua lăng kính chủ quan (tâm tư, tình cảm, nguyện
vọng, kinh nghiệm, nhu cầu…) của con người.
Ý thức là sự phản ánh hiện thực khách quan một cách năng động, sáng tạo.
Con người là một thực thể xã hội năng động và sáng tạo. Sáng tạo của ý thức là
sáng tạo của phản ánh, theo quy luật và trong khuôn khổ của sự phản ánh, mà kết
quả bao giờ cũng là những khách thể tinh thần. Sự sáng tạo của ý thức không đối
lập, loại trừ, tách rời sự phản ánh mà ngược lại thống nhất với phản ánh, trên cơ
sở phản ánh. Phản ánh và sáng tạo là hai mặt thuộc bản chất của ý thức
Quá trình ý thức là quá trình thống nhất của ba mặt sau: a) Sự trao đổi thông
tin giữa chủ thể và đối tượng mang tính hai chiều, có chọn lọc, định hướng; b) Mô
hình hóa đối tượng trong tư duy dưới dạng hình ảnh tinh thần, mã hóa các đối
tượng vật chất thành thành các ý tưởng tinh thần phi vật chất; c) Chuyển mô hình
(ý tưởng, quan niệm) trong đầu ra hiện thực khách quan - quá trình hiện thực hóa
(vật chất hóa) tư tưởng thông qua họat động thực tiễn.
2.3. Kết cấu của ý thức
Để nhận thức được sâu sắc về ý thức, cần xem xét nắm vững tổ chức kết cấu
của nó; tiếp cận từ các góc độ khác nhau sẽ đem lại những tri thức nhiều mặt về
cấu trúc, hoặc cấp độ của ý thức.
*Kết cấu theo chiều ngang. Bao gồm các yếu tố cấu thành như tri thức, tình
cảm, niềm tin, lý trí, ý chí… trong đó tri thức là nhân tố cơ bản, cốt lõi. Tri thức
là kết quả của quá trình con người nhận thức thế giới, là sự phản ánh thế giới
khách quan.
Để cải tạo tự nhiên và xã hội, con người phải có hiểu biết về thế giới, nghĩa là
phải có tri thức về sự vật. Do đó, mọi hiện tượng ý thức đều có nội dung tri thức
ở mức độ nhất định. Tuy nhiên, sự tác động của thế giới bên ngoài đến con người
không chỉ đem lại sự hiểu biết về thế giới, mà còn đem lại tình cảm của con người
đối với thế giới. Tình cảm tham gia vào mọi hoạt động của con người và trở thành
một trong những động lực quan trọng của hoạt động con người. Tri thức có biến
thành tình cảm mãnh liệt mới sâu sắc, và phải thông qua tình cảm thì tri thức mới
biến thành hành động thực tế, mới phát huy được sức mạnh của mình.

36
*Kết cấu theo chiều dọc. Đó là lát cắt theo chiều sâu của thế giới nội tâm con
người. Nó bao gồm các yếu tố như tự ý thức, tiềm thức và vô thức.
Trong quá trình nhận thức thế giới xung quanh, con người cũng đồng thời tự
nhận thức bản thân mình. Đó chính là tự ý thức. Tự ý thức là ý thức hướng về bản
thân mình thông qua quan hệ với thế giới bên ngoài. Nhờ có tự ý thức con người
tự điều chỉnh bản thân theo các quy tắc, chuẩn mực mà xã hội đề ra.
Tiềm thức là những hoạt động tâm lý tự động diễn ra bên ngoài sự kiểm soát
của chủ thể. Song, nó lại có liên quan trực tiếp đến các hoạt động tâm lý đang diễn
ra dưới sự kiểm soát của chủ thể ấy.
Vô thức là những hiện tượng tâm lý không phải do lý trí điều khiển. Lĩnh vực
vô thức là lĩnh vực của các hiện tượng tâm lý nằm ngoài phạm vi của lý trí mà ý
thức không kiểm soát được trong một lúc nào đó. Chúng liên quan đến những hoạt
động xảy ra bên ngoài phạm vi của lý trí hoặc chưa được con người ý thức đến.
* Vấn đề "trí tuệ nhân tạo"
Ý thức và máy tính điện tử là hai quá trình khác nhau về bản chất. "Người máy
thông minh" thực ra chỉ là một quá trình vật lý. Hệ thống thao tác của nó đã được
con người lập trình phỏng theo một số thao tác của tư duy con người. Máy móc
chỉ là những kết cấu kỹ thuật do con người sáng tạo ra. Còn con người là một thực
thể xã hội năng động, được hình thành trong tiến trình lịch sử tiến hoá lâu dài của
giới tự nhiên và thực tiễn xã hội. Máy móc không thể sáng tạo lại hiện thực dưới
dạng tinh thần trong bản thân nó. Năng lực đó chỉ có con người có ý thức mới
thực hiện được và qua đó lập trình cho máy móc thực hiện.

Hộp 2.3. Nghĩ về trí tuệ nhân tạo


Anh/ Chị cảm thấy như thế nào khi biết truyện ngắn vô cùng thi vị và đượm buồn, làm Anh/
Chị rất xúc động, lại được viết bởi trí tuệ nhân tạo?
Nguồn: Nhóm tác giả biên soạn, 2020

3. Mối quan hệ giữa vật chất và ý thức


3.1. Quan điểm của chủ nghĩa duy tâm và duy vật siêu hình
Chủ nghĩa duy tâm, coi ý thức là tồn tại duy nhất, tuyệt đối, là tính thứ nhất
từ đó sinh ra tất cả; còn thế giới vật chất chỉ là bản sao, biểu hiện khác của ý thức
tinh thần, là tính thứ hai, do ý thức tinh thần sinh ra.
Chủ nghĩa duy vật siêu hình, tuyệt đối hóa yếu tố vật chất, chỉ nhấn mạnh
một chiều vai trò của vật chất sinh ra ý thức, quyết định ý thức, phủ nhận tính độc
lập tương đối của ý thức, không thấy được tính năng động, sáng tạo, vai trò to lớn
của ý thức trong hoạt động thực tiễn cải tạo hiện thực khách quan.
37
3.2. Quan điểm của chủ nghĩa duy vật biện chứng
Theo quan điểm triết học Mác - Lênin, vật chất và ý thức có mối quan hệ
biện chứng, trong đó vật chất quyết định ý thức, còn ý thức tác động tích cực trở
lại vật chất.
*Vật chất quyết định ý thức thể hiện:
- Con người do giới tự nhiên, vật chất sinh ra, nên ý thức - một thuộc tính của
bộ phận con người - cũng do giới tự nhiên, vật chất sinh ra.
- Ý thức là cái phản ánh thế giới vật chất, là hình ảnh về thế giới vật chất nên
nội dung của nó do vật chất quyết định.
- Mọi sự tồn tại, phát triển của ý thức đều gắn liền với quá trình biến đổi của
vật chất; vật chất thay đổi thì sớm hay muộn, ý thức cũng phải thay đổi theo.
- Vai trò của vật chất đối với ý thức trong đời sống xã hội được biểu hiện ở vai
trò của kinh tế đối với chính trị, đời sống vật chất đối với đời sống tinh thần, tồn
tại xã hội đối với ý thức xã hội. Trong xã hội, sự phát triển của kinh tế xét đến
cùng quy định sự phát triển của văn hóa; đời sống vật chất thay đổi thì sớm muộn
đời sống tinh thần cũng thay đổi theo.
* Ý thức có tính độc lập tương đối và tác động trở lại vật chất
- Ý thức có thể thay đổi nhanh, chậm, đi song hành so với hiện thực, nhưng
nhìn chung nó thường thay đổi chậm so với sự biến đổi của thế giới vật chất.
- Thông qua hoạt động thực tiễn, ý thức có thể làm biến đổi những điều kiện,
hoàn cảnh vật chất, phục vụ cho cuộc sống của con người.
- Vai trò của ý thức thể hiện ở chỗ nó chỉ đạo hoạt động, hành động của con
người; nó có thể quyết định làm cho hoạt động của con người đúng hay sai vì
hành động do tư tưởng chỉ đạo.
- Xã hội càng phát triển thì vai trò của ý thức ngày càng to lớn, nhất là trong
thời đại kinh tế tri thức, khi mà tri thức khoa học đã trở thành lực lượng sản xuất
trực tiếp.
* Ý nghĩa phương pháp luận
Từ mối quan hệ giữa vật chất và ý thức trong triết học Mác - Lênin, rút ra
nguyên tắc phương pháp luận là tôn trọng tính khách quan kết hợp phát huy tính
năng động chủ quan.
- Trong nhận thức và hoạt động thực tiễn phải tôn trọng và hành động theo qui
luật khách quan. Mọi chủ trương, đường lối, kế hoạch, mục tiêu, phải xuất phát
từ thực tế khách quan, từ những điều kiện, tiền đề vật chất hiện có.
- Nhận thức sự vật hiện tượng phải chân thực, đúng đắn, không được gán cho
đối tượng cái mà nó không có.
38
- Nhận thức, cải tạo sự vật hiện tượng, nhìn chung, phải xuất từ chính bản thân
sự vật hiện tượng với những thuộc tính, mối liên hệ vốn có của nó, tránh chủ nghĩa
chủ quan, bệnh chủ quan duy ý chí; chủ nghĩa duy vật tầm thường, chủ nghĩa thực
dụng.
- Phải coi trọng vai trò của ý thức, phát huy tính năng động sáng tạo của ý thức,
phát huy vai trò nhân tố con người, chống tư tưởng, thái độ thụ động, ỷ lại, bảo
thủ, trì trệ, thiếu tính sáng tạo.

Hộp 2.4. Nhà vua với đôi chân đau


Ngày xưa, có vị vua nọ cai trị ở một vương quốc phồn vinh. Ngày kia, sau khi ngao du sơn thủy, lúc
trở lại hoàng cung, vị vua phàn nàn chân mình rất đau, bởi vì đây lần đầu tiên ông phải trải qua một
cuộc hành trình dài và chặng đường rất gồ ghề, lởm chởm đá. Sau đó, vị vua hạ lệnh:
- Cho bọc da tất cả con đường trong vương quốc của ta. Chúng ta cần hàng ngàn bộ da bò và nhiều
công sức để làm. Người nữ hầu nghe vậy, nói:
- Bệ hạ đâu cần tốn kém, vất vả nhiều thế. Chỉ cần dùng một miếng da nhỏ để bọc hai bàn chân của
ngài lại là được thôi mà.
Nhà vua ngạc nhiên, nhưng rồi ông cũng đồng ý làm một đôi giày.
Nguồn: (Sưu tầm có biên tập lại)

II. PHÉP BIỆN CHỨNG DUY VẬT


Triết học Mác - Lênin, định nghĩa phép biện chứng là học thuyết về các mối
liên hệ phổ biến và về sự phát triển; là khoa học về các quy luật vận động và phát
triển chung nhất của tự nhiên, xã hội và tư duy.
1. Hai loại hình phép biện chứng và phép biện chứng duy vật
1.1. Biện chứng khách quan và biện chứng chủ quan
Biện chứng là quan điểm, phương pháp xem xét sự vật trong mối quan hệ qua
lại, trong sự ràng buộc, vận động, phát sinh và tiêu vong của chúng. Phương pháp
tư duy này không chỉ nhìn thấy sự tồn tại mà còn nhìn thấy cả sự sinh thành và
tiêu vong; không chỉ thấy trạng thái tĩnh mà còn thấy trạng thái động, không chỉ
“thấy cây” mà còn “thấy rừng”.
Biện chứng được chia thành biện chứng khách quan và biện chứng chủ quan.
Biện chứng khách quan là khái niệm dùng để chỉ biện chứng của bản thân thế
giới vật chất. Trong lĩnh vực xã hội, biện chứng khách quan chính là tương quan
biện chứng giữa chủ thể và khách thể trong lịch sử, mối quan hệ qua lại giữa xã
hội và tự nhiên, sự tác động qua lại giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất.
Mỗi giai đoạn trong quá trình phát triển của xã hội đều mang tính kế thừa và là
một quá trình lịch sử - tự nhiên.
Biện chứng chủ quan là khái niệm dùng để tư duy biện chứng và biện chứng
của chính quá trình phản ánh hiện thực khách quan vào bộ óc con người. Biện

39
chứng chủ quan một mặt phản ánh thế giới khách quan, mặt khác phản ánh những
quy luật của tư duy biện chứng.
Giữa biện chứng khách quan và biện chứng chủ quan có mối quan hệ thống
nhất với nhau. Trong mối quan hệ này, biện chứng khách quan quy định biện
chứng chủ quan. Bản thân sự vật, hiện tượng trong thế giới tồn tại biện chứng như
thế nào thì tư duy, nhận thức của con người về chúng cũng phải phản ánh đúng
như thế ấy.
Tính độc lập tương đối của biện chứng chủ quan với biện chứng khách quan
được thể hiện ở chỗ quá trình tư duy, nhận thức còn phải tuân theo những quy luật
mang tính mục đích và sáng tạo của con người.
1.2. Khái niệm phép biện chứng duy vật
Một cách khái quát, phép biện chứng là học thuyết về các mối liên hệ phổ biến
và về sự phát triển; là khoa học về các quy luật vận động và phát triển chung nhất
của tự nhiên, xã hội và tư duy.
Phép biện chứng có sự khác nhau với phương pháp biện chứng. Phương pháp
biện chứng là hệ thống các nguyên tắc điều chỉnh hoạt động nhận thức và hoạt
động cải tạo thực tiễn xuất phất từ lý luận biện chứng. Điều đó có nghĩa là lý luận
biện chứng là hạt nhân, là lõi lý luận của phương pháp biện chứng.
Về đặc điểm, phép biện chứng duy vật hình thành từ sự thống nhất hữu cơ giữa
thế giới quan duy vật và phương pháp luận biện chứng; giữa lý luận nhận thức và
lôgíc biện chứng.
Về vai trò, phép biện chứng duy vật đã đưa phép biện chứng từ tự phát đến tự
giác, tạo ra chức năng phương pháp luận chung nhất, giúp định hướng việc đề ra
các nguyên tắc tương ứng trong hoạt động nhận thức và thực tiễn.
Đối tượng nghiên cứu của phép biện chứng duy vật là trạng thái tồn tại có tính
quy luật phổ biến nhất của sự vật, hiện tượng trong thế giới. Vấn đề này thể hiện
trong các câu hỏi: sự vật, hiện tượng quanh ta và cả bản thân ta tồn tại trong trạng
thái liên hệ qua lại, quy định, chuyển hoá lẫn nhau và luôn vận động, phát triển
hay trong trạng thái tách rời, cô lập nhau và đứng im, không vận động, phát
triển?...
Để trả lời các câu hỏi trên, phép biện chứng duy vật đã đưa ra nội dung gồm
hai nguyên lý, sáu cặp phạm trù và ba quy luật cơ bản. Hai nguyên lý khái quát
chung tính biện chứng của thế giới. Các cặp phạm trù phản ánh mối liên hệ, sự
tác động biện chứng phổ biến nhất giữa các mặt của sự vật, hiện tượng có tính
quy luật trong từng cặp. Các quy luật cơ bản nghiên cứu mối liên hệ và khuynh

40
hướng phát triển của thế giới các sự vật, hiện tượng để chỉ ra nguồn gốc, cách
thức và khuynh hướng của sự vận động, phát triển của thế giới ấy.
2. Nội dung của phép biện chứng duy vật
2.1. Hai nguyên lý của phép biện chứng duy vật
2.1.1. Nguyên lý về mối liên hệ phổ biến
Khái niệm về mối liên hệ
Thế giới vật chất được tạo thành từ những sự vật, hiện tượng, quá trình khác
nhau. Vậy giữa chúng có mối liên hệ, ảnh hưởng lẫn nhau hay chúng tồn tại biệt
lập, tách rời nhau. Nếu chúng tồn tại trong mối liên hệ qua lại thì nhân tố gì quy
định mối liên hệ ấy?
Trả lời câu hỏi thứ nhất, quan điểm siêu hình cho rằng các sự vật hiện tượng
trong thế giới tồn tại tách rời nhau. Giữa chúng không có sự ràng buộc, phụ thuộc
lẫn nhau. Có chăng chỉ là những liên hệ hời hợt, bên ngoài, ngẫu nhiên; phủ nhận
khả năng chuyển hóa lẫn nhau giữa các hình thức liên hệ khác nhau. Theo quan
điểm này thì xã hội chỉ là tập hợp đơn giản của những cá thể, giới tự nhiên vô sinh
độc lập với giới tự nhiên hữu sinh…
Chủ nghĩa duy vật biện chứng coi thế giới như là một chỉnh thể thống nhất. Các
sự vật hiện tượng và quá trình cấu thành thế giới đó, vừa tách biệt nhau, vừa có
sự liên hệ tác động qua lại, thâm nhập và chuyển hóa lẫn nhau. Chính vì có sự tác
động giữa cá nhân mới cần có hệ thống pháp luật điều chỉnh hành vi. Các nhân tố
sinh thái vô sinh ảnh hưởng tới trạng thái sinh lí của các cá thể như khi nhiệt độ
xuống quá thấp làm chết nhiều động vật biến nhiệt như ếch nhái, bò sát.
Trả lời câu hỏi thứ hai, quan điểm duy tâm cho rằng cơ sở của mối liên hệ, tác
động qua lại giữa các sự vật hiện tượng nằm ở các lực lượng siêu tự nhiên hay ở
ý thức, tư tưởng của con người. Quan điểm duy vật biện chứng khẳng định cơ sở
của mối liên hệ giữa các sự vật hiện tượng là tính thống nhất vật chất của thế giới.
Các sự vật, hiện tượng dù có khác nhau thì chúng đều là những dạng tồn tại của
thế giới vật chất. Ngay cả tư tưởng, ý thức thì nội dung của chúng cũng chỉ là kết
quả phản ánh của các quá trình vật chất khách quan.
Mối liên hệ là sự ràng buộc, tác động hỗ trợ, quy định lẫn nhau giữa các yếu tố
trong một sự vật hiện tượng, hoặc giữa các sự vật hiện tượng với nhau. Mối liên
hệ phổ biến là mối liên hệ có ở nhiều sự vật hiện tượng.
*Những tính chất của mối liên hệ phổ biến
Tính khách quan: sự tồn tại của mối liên hệ không phụ thuộc vào ý thức, tư duy
của con người. Con người chỉ có thể nhận thức và vận dụng mối liên hệ đó vào
thực tiễn, hoạt động của mình.
41
Tính phổ biến: bất kỳ sự vật hiện tượng nào cũng có mối liên hệ với sự vật hiện
tượng khác. Tùy theo điều kiện nhất định, mối liên hệ biểu hiện dưới những hình
thức riêng biệt, cụ thể.
Tính đa dạng: vì có các mối liên hệ bên trong- bên ngoài, có mối liên hệ chủ
yếu -thứ yếu, mối liên hệ chung bao quát toàn thế giới - có mối liên hệ bao quát
một số lĩnh vực hoặc một lĩnh vực riêng biệt của thế giới đó; có mối liên hệ trực
triếp - gián tiếp … Sự vật nào cũng vận động phát triển qua nhiều giai đoạn, giữa
các giai đoạn cũng có mối liên hệ với nhau.
*Ý nghĩa phương pháp luận
Nguyên lý về mối liên hệ là cơ sở lý luận của quan điểm toàn diện trong nhận
thức và hoạt động thực tiễn. Quan điểm toàn diện yêu cầu:
Khi nhận thức sự vật phải đặt đối tượng trong chỉnh thể mối liên hệ với các sự
vật, hiện tượng khác; trong mối liên hệ giữa các mặt, các yếu tố của bản thân sự
vật đó, tránh phiến diện.
Phải phân loại đúng các mối liên hệ, rút ra được các mặt, các mối liên hệ bản
chất, tất yếu của đối tượng, trên cơ sở đó tác động đến đối tượng một cách phù
hợp nhằm thúc đẩy sự vật tiến lên.
Để cải tạo sự vật phải sử dụng đồng bộ nhiều giải pháp vì các mối liên hệ khác
nhau thì yêu cầu về giải pháp khác nhau.
Vì các mối liên hệ tồn tại, thể hiện trong những điều kiện, hoàn cảnh cụ thể,
gắn với không gian, thời gian cụ thể nên trong hoạt động nhận thức và thực tiễn
phải đảm bảo nguyên tắc lịch sử - cụ thể. Khi vận dụng những nguyên lý, lý luận
chung vào thực tiễn phải xuất phát từ những điều kiện thực tiễn lịch sử - cụ thể.
Quan điểm lịch sử - cụ thể đối lập với quan điểm giáo điều, chung chung, phiến
diện, không có trọng tâm, trọng điểm.
Hộp 2.5. Vòng luẩn quẩn của các nước nghèo

Thu nhập thấp

Năng suất thấp Tiêu dùng thấp


Tích lũy thấp

Trình độ kỹ thuật
thấp

Nguồn: <https://chienluocsong.com/kinh-te-phat-trien-p2-vong-luan-quan/>
2.1.2. Nguyên lý về sự phát triển
*Khái niệm phát triển

42
Quan điểm biện chứng và quan điểm siêu hình nảy sinh khi trả lời câu hỏi: sự
phát triển diễn ra như thế nào, bằng cách nào. Quan điểm duy vật và quan điểm
duy tâm nảy sinh khi trả lời câu hỏi: cái gì là nguồn gốc của sự phát triển?
Quan điểm siêu hình cho rằng, phát triển của sự vật chỉ là sự tăng lên hay giảm
đi về lượng, không có sự thay đổi về mặt chất; nếu có sự thay đổi về mặt chất thì
sự thay đổi đó cũng chỉ diễn ra theo vòng tròn khép kín, không có sự ra đời cái
mới. Sự phát triển chỉ là một quá trình tiến lên liên tục, không có những bước
quanh co, phức tạp. Trong toàn bộ quá trình tồn tại, các sự vật nhất thành bất biến.
Khi đề cập tới nguồn gốc phát triển, quan điểm duy tâm thường tìm nguồn gốc
đó ở các lực lượng siêu tự nhiên, hoặc ý thức con người.
Chủ nghĩa duy vật biện chứng quan niệm: phát triển là một phạm trù triết học
dùng để khái quát những quá trình vận động tiến lên từ thấp đến cao, từ đơn giản
đến phức tạp, từ kém hoàn thiện đến hoàn thiện hơn.
Sự vận động, nếu xem xét từng trường hợp cá biệt thì có những vận động đi
lên, vận động tuần hoàn, thậm chí có vận động đi xuống. Song, nếu xét cả quá
trình với không gian rộng và thời gian dài, thì vận động đi lên là khuynh hướng
chung của mọi sự vật. Theo quan điểm duy vật biện chứng, thì phát triển là một
trường hợp đặc biệt của vận động. Trong quá trình phát triển sẽ nảy sinh những
tính quy định mới cao hơn về chất, nhờ vậy, làm tăng cường tính phức tạp của
mối liên hệ; làm cho cả cơ cấu tổ chức, phương thức tồn tại, vận động của sự vật,
cùng chức năng vốn có của nó ngày càng hoàn thiện hơn. Cũng chính vì vậy mà
sự phát triển không có tính trực tuyến, nó diễn ra bằng con đường quanh co, phức
tạp, trong đó có thể có bước thụt lùi tương đối.
Nguồn gốc của sự phát triển nằm trong bản thân sự vật, do mâu thuẫn của sự
vật quy định. Quá trình giải quyết liên tục những mâu thuẫn đó quy định sự vận
động, phát triển của sự vật.
*Tính chất của sự phát triển
Tính khách quan: phát triển là thuộc tính vốn có của sự vật, nguồn gốc của phát
triển nằm ngay trong sự vật, do vào mâu thuẫn bên trong sự vật quy định, không
phụ thuộc vào ý muốn chủ quan của con người.
Tính phổ biến: Khuynh hướng phát triển diễn ra ở mọi lúc, mọi nơi, cả trong tự
nhiên, xã hội và tư duy. Trong giới vô cơ, phát triển biểu hiện dưới hình thức biến
đổi các yếu tố làm xuất hiện các hợp chất. Trong sinh vật phát triển thể hiện ở khả
năng thích nghi trước sự biến đổi của môi trường. Trong xã hội phát triển thể hiện
ở sự thay thế các phương thức sản xuất, các nền văn minh. Trong tư duy, phát

43
triển thể hiện ở chỗ những giới hạn nhận thức của thế hệ trước được thế hệ sau
giải quyết.
Tính đa dạng, phong phú: phát triển là khuynh hướng chung của mọi sự vật,
hiện tượng, song từng sự vật lại có quá trình không giống nhau. Tồn tại ở không
gian, thời gian khác nhau, sự vật phát triển sẽ không như nhau. Trong quá trình
phát triển, sự vật còn chịu sự tác động của các sự vật, hiện tượng, của những yếu
tố, điều kiện khác. Sự tác động như thế, có thể thúc đẩy hoặc kìm hãm sự phát
triển của sự vật.
*Ý nghĩa phương pháp luận
Trong nhận thức và hành động, chủ thể phải tuân thủ nguyên tắc phát triển,
tránh tư tưởng bảo thủ, trì trệ, đặt sự vật ở trạng thái đứng im, không vận động,
không phát triển. Sở dĩ như vậy vì vận động là bản chất khách quan của các quá
trình tự nhiên, xã hội, tư duy.
Nhờ đặt đối tượng trong trạng thái vận động, ta có thể phát hiện ra các xu hướng
biến đổi, chuyển hoá của chúng; phán đoán, nhận định được khuynh hướng phát
triển trong tương lai của sự vật, cả những tính quanh co phức tạp như một hiện
tượng phổ biến của quá trình phát triển. Có như vậy con người mới chủ động trong
hoạt động, tránh được rủi ro, thất bại. Nghĩa là, con người tự giác trong hoạt động
nhận thức và thực tiễn của mình.
Quan điểm phát triển cũng đối lập với quan điểm bảo thủ, trì trệ, ngại khó, dễ
bằng lòng với thực tại, ngại đổi mới. Vì phát triển diễn ra trong tiến trình quanh
co, phức tạp nên trong nhận thức cũng như hoạt động thực tiễn khi gặp khó khăn,
thất bại cần sự kiên định, giữ vững lập trường, vượt qua trở ngại, tin tưởng vào
tương lai phía trước.

Hộp 2.6. Con đường phát triển bản thân

44
Gắn kết mục tiêu Áp dụng:
Hiểu rõ Đưa ra mục tiêu cá nhân với: Kiến thức
bản thân ngắn/ dài hạn - Mục tiêu tổ chức Kỹ năng và
- Hướng phát triển Rèn luyện

Làm việc nhóm, chia sẻ Chịu áp lực, chấp nhận


ý tưởng, có thêm kỷ thử thách. Tự đánh giá: Thử thách với
năng mới, kiến thức mới điểm mạnh, yếu các dự án mới

Được nhìn nhận Cơ hội Đánh giá Đặt các mục


khả năng bản thân thăng tiến thành quả tiêu mới

Nguồn: (Sưu tầm có hiệu chỉnh)

2.2. Các cặp phạm trù cơ bản của phép biện chứng duy vật
Phạm trù là những khái niệm rộng nhất phản ánh những mặt, những thuộc tính,
những mối liên hệ chung, cơ bản nhất của các sự vật và hiện tượng thuộc một lĩnh
vực nhất định.
Mỗi bộ môn khoa học đều có một hệ thống phạm trù riêng của mình phản ánh
những mặt, những thuộc tính, những mối liên hệ cơ bản và phổ biến thuộc phạm
vi khoa học đó nghiên cứu. Ví dụ, trong toán học có phạm trù số, hình, điểm, mặt
phẳng, v.v… Trong vật lý học có các phạm trù khối lượng, vận tốc, gia tốc, lực,
v.v… Trong kinh tế học có các phạm trù hàng hóa, giá trị, giá cả, tiền tệ, lợi nhuận,
v.v…
Các phạm trù của phép biện chứng duy vật như vật chất, ý thức, vận động, đứng
im, mâu thuẫn, số lượng, chất lượng, nguyên nhân, kết quả, v.v. là những khái
niệm chung nhất phản ánh những mặt, những thuộc tính, những mối liên hệ cơ
bản và phổ biến của toàn bộ thế giới hiện thực, bao gồm cả tự nhiên, xã hội và tư
duy.
Mọi sự vật, hiện tượng đều có nguyên nhân xuất hiện, đều có quá trình vận
động, biến đổi, đều có mâu thuẫn, có nội dung và hình thức.v.v.; tức là đều có
những mặt, những thuộc tính, những mối liên hệ được phản ánh trong các phạm
trù của phép biện chứng duy vật. Do vậy, giữa phạm trù của các khoa học cụ thể
và phạm trù của phép biện chứng có mối quan hệ biện chứng với nhau, đó là mối
quan hệ giữa cái riêng và cái chung.
Với tư cách là khoa học về mối liên hệ phổ biến và sự phát triển, phép biện
chứng khái quát những mối liên hệ phổ biến nhất, bao quát các lĩnh vực tự nhiên,

45
xã hội và tư duy vào các cặp phạm trù cơ bản như: cái riêng và cái chung, nguyên
nhân và kết quả, tất nhiên và ngẫu nhiên, nội dung và hình thức, bản chất và hiện
tượng, khả năng và hiện thực.
2.2.1. Cái riêng, cái chung
* Khái niệm
Cái riêng là phạm trù dùng để chỉ một sự vật, một hiện tượng, một quá trình
nhất định. Chẳng hạn, một hiện tượng kinh tế, một giai đoạn xã hội, một con
người…
Cái chung là phạm trù triết học dùng để chỉ những mặt, những thuộc tính có ở
nhiều sự vật, hiện tượng. Chẳng hạn, cạnh tranh là thuộc tính chung của các doanh
nghiệp trong nền kinh tế thị trường.
Cái đơn nhất là phạm trù dùng để chỉ các mặt, các đặc điểm chỉ vốn có ở một
sự vật, hiện tượng (một cái riêng) nào đó mà không lặp lại ở sự vật, hiện tượng
nào khác. Như vậy cái đơn nhất là dấu hiệu đặc trưng của cái riêng. Chẳng hạn,
nhãn hiệu của mỗi doanh nghiệp là cái đơn nhất của doanh nghiệp đó.
*Mối quan hệ giữa cái riêng và cái chung
Trong lịch sử triết học có hai trường phái trái ngược nhau khi nói về mối quan
hệ giữa cái cái riêng và cái chung. Các nhà duy danh khẳng định rằng chỉ có những
cái cá biệt hay những cái đặc thù mới hiện hữu, và phủ nhận sự thực tồn của những
cái phổ quát. Ngược lại, trường phái duy thực quả quyết những cái chung, phổ
quát mới thực sự tồn tại. Còn những cái riêng, đặc thù vốn là hiện thân của cái
chung.
Về mối quan hệ giữa cái riêng và cái chung, chủ nghĩa duy vật biện chứng cho
rằng:
Thứ nhất, cái chung chỉ tồn tại trong cái riêng, thông qua cái riêng. Nghĩa là cái
chung thực sự tồn tại nhưng chỉ tồn tại trong cái riêng, chứ không tồn tại biệt lập,
bên ngoài cái riêng. Chẳng hạn, trong sản xuất hàng hóa, quy luật cung – cầu chỉ
tồn tại thông qua tổng thể các hoạt động bán (cung) và mua (cầu) trên thị trường.
Thứ hai, cái riêng chỉ tồn tại trong mối liên hệ đưa tới cái chung. Nghĩa là cái
riêng tồn tại độc lập nhưng không biệt lập với cái khác. Nó luôn tồn tại trong một
môi trường, một hoàn cảnh nhất định, tương tác với môi trường, hoàn cảnh ấy.
Do vậy, nó đều tham gia vào các mối liên hệ qua lại hết sức đa dạng với các sự
vật, hiện tượng khác có liên quan. Chẳng hạn, hiện tượng khủng hoảng kinh tế tại
một quốc gia, người nghiên cứu có thể mô tả những biểu hiện riêng như tình trạng
cụ thể của nền kinh tế, các quan hệ xã hội - chính trị. Song, đằng sau những cái

46
riêng đó là những cái chung mang tính quy luật gắn với khủng hoảng kinh tế như
tính chu kỳ, hiện tượng thất nghiệp, sự phá sản…
Thứ ba, cái riêng phong phú hơn cái chung vì nó là cái chỉnh thể, toàn bộ; cái
chung thì sâu sắc hơn cái riêng vì nó thể hiện những thuộc tính, đặc điểm ổn định,
lặp lại mang tính bản chất của một tập hợp nhiều sự vật hiện tượng. Chẳng hạn,
trong cùng một lĩnh vực, mỗi doanh nghiệp là một cái riêng. Sự biểu hiện trong
hoạt động của chúng hết sức đa dạng, phong phú, nhưng tổng thể hoạt động của
các doanh nghiệp tạo ra những quy luật, đặc trưng của lĩnh vực đó.
Thứ tư, trong quá trình phát triển của sự vật, cái đơn nhất và cái chung có thể
chuyển hóa lẫn nhau. Sự chuyển hóa của cái đơn nhất thành cái chung là biểu hiện
của cái mới tích cực, đáp ứng yêu cầu vận động phát triển, thay thế cái cũ đang
lỗi thời, lạc hậu, kìm hãm sự phát triển. Chẳng hạn, các phát minh, sáng tạo lúc
mới xuất hiện luôn là cái đơn nhất. Ngược lại, sự chuyển hóa của chung thành cái
đơn nhất là biểu hiện của cái cái chung đã trở nên lỗi thời nên dần bị đào thải
thành cái đơn nhất. Chẳng hạn, các phong tục tập quán không còn phù hợp sẽ bị
đào thải và dần mất đi.
*Ý nghĩa phương pháp luận
Vì cái chung là cái bộ phận, chỉ tồn tại thông qua cái riêng nên khi áp dụng “cái
chung” nào vào từng trường hợp riêng cần phải cá biệt hóa nó cho phù hợp. Chẳng
hạn, lý thuyết về quản lý kinh tế, tùy theo trình độ, điều kiện và đặc thù của mỗi
quốc gia, mỗi lĩnh vực mà sẽ được vận dụng không giống nhau. Ngược lại, nếu
chỉ chú ý, đề cao đến “cái đơn nhất” thì sẽ rời vào cục bộ, bảo thủ.
Khi giải quyết những vấn đề riêng trong thực tiễn, cần phải đặt trên nền tảng
những nguyên tắc chung. Nghĩa là không được bỏ qua các vấn đề, nếu không sẽ
rơi vào tình trạng tuỳ tiện, kinh nghiệm chủ nghĩa. Chẳng hạn, Việt Nam có thể
tham khảo cũng như rút kinh nghiệm từ các mô hình quản lý và giám sát tài sản
nhà nước của một số nước có môi trường, thể chế kinh tế có nhiều điểm tương
đồng với Việt Nam.
Cần nắm vững tính quy luật của quá trình chuyển hóa giữa cái đơn nhất và cái
chung. Việc tạo điều kiện cần thiết để phổ biến những hiện tượng hợp quy luật
hoặc triệt tiêu những nhân tố trì trệ, không phù hợp sẽ có ý nghĩa thúc đẩy sự phát
triển. Chẳng hạn Ủy ban nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh yêu cầu các sở, ban,
ngành và Ủy ban nhân dân quận – huyện tham khảo các mô hình sáng kiến, cách
làm hay trong công tác cải cách hành chính tại một số cơ quan, đơn vị để áp dụng
nhân rộng cho phù hợp với tình hình thực tế tại cơ quan, địa bàn mình.

47
Hộp 2.7. Mô hình các yếu tố cấu thành sản phẩm trong marketing quốc tế

Bảo hành DỊCH VỤ HỖ TRỢ Hướng dẫn sử dụng


BAO BÌ SẢN PHẨM
Nhãn
Tên thương SẢN PHẨM CỐT LÕI
hiệu
Phụ tùng hiệu [1] Đặc điểm, [3] Phong cách thương
thay thế chức năng sản phẩm mại Thiết bị lắp đặt
[2] Thiết kế [4] Hình thức
Chất lượng sản phẩm trình bày Giá cả

Dịch vụ sau bán hàng

Nguồn: Nguyễn Thị Phương Dung (2020), Phân tích vai trò của chiến lược marketing sản
phẩm quốc tế trong thời kỳ hội nhập quốc tế tại Việt Nam
<http://tapchicongthuong.vn/bai-viet/phan-tich-vai-tro-cua-chien-luoc-marketing-san-pham-
quoc-te-trong-thoi-ky-hoi-nhap-quoc-te-tai-viet-nam-73243.htm>

2.2.2. Nguyên nhân và kết quả


*Khái niệm
Nguyên nhân là sự tương tác giữa các mặt trong một sự vật, hiện tượng hoặc
giữa các sự vật, hiện tượng với nhau gây nên những biến đổi nhất định. Kết quả
là những biến đổi xuất hiện do sự tương tác giữa các yếu tố mang tính nguyên
nhân gây nên.
Nguyên nhân khác với nguyên cớ và điều kiện. Nguyên cớ chỉ tồn tại trong xã
hội. Vì những lý do nhất định, để giải quyết hoặc thực hiện mục đích của mình,
chủ thể thực hiện đã che đậy nguyên nhân đích thực và sử dụng nguyên cớ làm
nguyên nhân. Do vậy, nguyên cớ không tạo ra kết quả. Điều kiện cũng không sinh
ra kết quả nhưng nếu thiếu nó thì không xảy ra quan hệ nhân quả. Chẳng hạn,
pháp luật quy định, ngành, nghề đầu tư kinh doanh có điều kiện là ngành, nghề
mà việc thực hiện hoạt động đầu tư kinh doanh trong ngành, nghề đó phải đáp
ứng điều kiện vì lý do quốc phòng, an ninh quốc gia, trật tự, an toàn xã hội, đạo
đức xã hội, sức khỏe của cộng đồng.
*Một số tính chất của mối liên hệ nguyên nhân – kết quả
Tính khách quan: những mối liên hệ nhân quả là những mối liên hệ vốn có của
thế giới, tồn tại trong quá trình vận động, phát triển của sự vật.
Tính phổ biến: mọi sự vật hiện tượng tồn tại đều có nguyên nhân, luôn gắn liền
với quá trình vận động. Song, có nhiều sự vật con người chưa tìm ra hoặc tìm
đúng nguyên nhân của chúng.
Tính tất yếu: mối liên hệ nhân quả bao giờ cũng mang tính quy luật. Tùy vào
tính chất của mối liên hệ mà tính quy luật đó thể hiện dưới nhiều mức độ khác
48
nhau. Một nguyên nhân nhất định trong những điều kiện hoàn cảnh nhất định chỉ
có thể gây ra kết quả nhất định. Nguyên nhân giống nhau trong những điều kiện
giống nhau thì kết quả về cơ bản giống nhau.
*Mối quan hệ biện chứng giữa nguyên nhân và kết quả
Nguyên nhân sản sinh ra kết quả
Nguyên nhân sinh ra kết quả nên luôn có trước kết quả. Tuy nhiên, không phải
bất cứ sự nối tiếp nào trong thời gian của các hiện tượng cũng đều biểu hiện mối
liên hệ nhân quả. Dấu hiệu phân biệt liên hệ nhân – quả với liên hệ nối tiếp nhau
theo thời gian là ở chỗ nguyên nhân sinh ra kết quả.
Một nguyên nhân có thể gây ra nhiều kết quả khác nhau tùy thuộc vào hoàn
cảnh cụ thể. Ngược lại, một kết quả có thể được tạo nên bởi các nguyên nhân khác
nhau.
Nếu các nguyên nhân khác nhau tác động lên sự vật theo cùng một hướng thì
chúng sẽ gây nên ảnh hưởng cùng chiều với sự hình thành kết quả. Ngược lại,
chúng sẽ làm suy yếu, thậm chí triệt tiêu hoàn toàn tác dụng của nhau.
Phân loại nguyên nhân: do tính chất và vai trò của nguyên nhân đối với sự hình
thành kết quả là không giống nhau nên cần phải phân loại nguyên nhân. Dựa trên
tính chất, vai trò các nguyên nhân được phân thành nguyên nhân chủ yếu và
nguyên nhân thứ yếu, nguyên nhân bên trong và nguyên nhân bên ngoài, nguyên
nhân khách quan và nguyên nhân chủ quan
Sự tác động trở lại của kết quả đối với nguyên nhân
Sau khi xuất hiện, kết quả ảnh hưởng ngược trở lại đối với nguyên nhân. Sự
tác động đó có thể diễn ra theo hướng tích cực hoặc tiêu cực.
Sự thay đổi vị trí giữa nguyên nhân và kết quả
Một hiện tượng nào đó, được coi là nguyên nhân hay kết quả bao giờ cũng ở
trong một quan hệ cụ thể, xác định. Vì, hiện tượng đó trong mối quan hệ này là
nguyên nhân, nhưng trong mối liên hệ khác là kết quả và ngược lại.
*Ý nghĩa phương pháp luận
Muốn hiểu đúng sự vật hoặc xóa bỏ sự vật thì phải tìm nguyên nhân của nó.
Một kết quả do nhiều nguyên nhân gây ra nên không vội vàng kết luận nguyên
nhân mà phải phải thực hiện việc phân loại nguyên nhân, đồng thời chú ý đến sự
tác động tổng hợp của các nguyên nhân.
Cần đặt đối tượng vào không gian, thời gian cụ thể để nghiên cứu vì nguyên
nhân và kết quả thường thay đổi vị trí cho nhau.

49
Hộp 2.8. Quan hệ nhân – quả giữa thuốc lá và đói nghèo
Bệnh tật, tử Giảm NSLĐ Giảm thu nhập
vong
THUỐC
Môi trường Tốn phí: y Tăng đói nghèo

Hỏa hoạn tế, xã hội

Giảm ngân Giảm chi tiêu


sách gia đình cho thực phẩm, Suy dinh dưỡng
GD
Nguồn: Ngô Đồng (2017), Những con số gây sốc về thuốc lá
<http://congan.com.vn/doi-song/suc-khoe/nhung-con-so-gay-soc-ve-thuoc-la_36434.html>, 30/3/2017.

2.2.3 Tất nhiên và ngẫu nhiên


*Khái niệm
Tất nhiên là phạm trù chỉ cái do những nguyên nhân cơ bản bên trong của kết
cấu vật chất quyết định và trong những điều kiện nhất định nó phải xảy ra như thế
chứ không thể khác được.
Ngẫu nhiên là phạm trù chỉ cái không do mối liên hệ bản chất, bên trong kết
cấu vật chất, bên trong sự vật quyết định mà do các nhân tố bên ngoài, do sự kết
hợp nhiều hoàn cảnh bên ngoài quyết định. Do đó, nó có thể xuất hiện, có thể
không xuất hiện, có thể xuất hiện như thế này, hoặc có thể xuất hiện khác đi.
*Mối quan hệ biện chứng giữa tất nhiên và ngẫu nhiên
Tất nhiên và ngẫu nhiên đều tồn tại khách quan, độc lập với ý thức của con
người và đều có vị trí nhất định đối với sự phát triển của sự vật và giữa chúng có
mối quan hệ biện chứng.
Tất nhiên và ngẫu nhiên đều tồn tại, nhưng chúng không tồn tại biệt lập dưới
dạng thuần túy cũng như không có cái ngẫu nhiên thuần túy.
Tất nhiên và ngẫu nhiên tồn tại trong sự thống nhất hữu cơ với nhau. Sự thống
nhất hữu cơ này thể hiện ở chỗ: cái tất nhiên bao giờ cũng thể hiện sự tồn tại của
mình thông qua vô số cái ngẫu nhiên.
Còn cái ngẫu nhiên là hình thức biểu hiện của cái tất nhiên, đồng thời là cái bổ
sung cho cái tất nhiên, cái tất yếu như là khuynh hướng chung của sự phát triển.
Khuynh hướng đó không tồn tại thuần túy, biệt lập, mà được thể hiện dưới hình
thức cái ngẫu nhiên. Cái ngẫu nhiên cũng không tồn tại thuần túy mà luôn là hình
thức thể hiện của cái tất nhiên. Trong cái ngẫu nhiên ẩn giấu cái tất nhiên.
Tất nhiên và ngẫu nhiên có thể chuyển hóa cho nhau. Thể hiện:
Tất nhiên và ngẫu nhiên không nằm yên ở trạng thái cũ mà thay đổi cùng với
sự thay đổi của sự vật và trong những điều kiện nhất định tất nhiên có thể chuyển
50
hóa thành ngẫu nhiên và ngược lại. Ví dụ: việc trao đổi vật này lấy vật khác trong
xã hội công xã nguyên thủy lúc đầu chỉ là việc ngẫu nhiên. Nhưng về sau, nhờ có
sự phân công lao động, kinh nghiệm sản xuất của con người cũng được tích lũy.
Con người đã sản xuất được nhiều sản phẩm hơn, dẫn đến có sản phẩm dư thừa.
Khi đó sự trao đổi sản phẩm trở nên thường xuyên hơn và biến thành một hiện
tượng tất nhiên của xã hội.
Sự chuyển hóa giữa tất nhiên và ngẫu nhiên còn thể hiện ở chỗ, khi xem xét
trong mối quan hệ này, thông qua mặt này thì sự vật, hiện tượng đó là cái ngẫu
nhiên, nhưng khi xem xét trong mối quan hệ khác, thông qua mặt khác thì sự vật,
hiện tượng đó lại là cái tất yếu. Như vậy ranh giới giữa tất nhiên và ngẫu nhiên
chỉ có ý nghĩa tương đối. Do vậy không nên cứng nhắc khi xem xét sự vật, hiện
tượng.
*Ý nghĩa phương pháp luận
Vì cái tất nhiên gắn với bản chất của sự vật, cái nhất định xảy ra theo quy luật
nội tại của sự vật, còn cái ngẫu nhiên là cái không gắn với bản chất nội tại của sự
vật, nó có thể xảy ra, có thể không. Do vậy trong hoạt động thực tiễn chúng ta
phải dựa vào cái tất nhiên, mà không thể dựa vào cái ngẫu nhiên. Nhưng cũng
không được bỏ qua hoàn toàn cái ngẫu nhiên. Vì cái ngẫu nhiên tuy không chi
phối sự phát triển của sự vật, nhưng nó có ảnh hưởng đến sự phát triển của sự vật,
đôi khi còn có thể ảnh hưởng rất sâu sắc. Do vậy, trong hoạt động thực tiễn, ngoài
phương án chính, người ta thấy có phương án hành động dự phòng để chủ động
đáp ứng những sự biến ngẫu nhiên có thể xảy ra.
Vì cái tất nhiên không tồn tại thuần túy mà bộc lộ qua vô vàn cái ngẫu nhiên.
Do vậy muốn nhận thức được cái tất nhiên phải thông qua việc nghiên cứu, phân
tích so sánh rất nhiều cái ngẫu nhiên. Vì không phải cái chung nào cũng là cái tất
yếu, nên khi nghiên cứu cái ngẫu nhiên không chỉ dừng lại ở việc tìm ra cái chung,
mà cần phải tiến sâu hơn nữa mới tìm ra cái chung tất yếu.
Cái ngẫu nhiên trong điều kiện nhất định có thể chuyển hóa thành cái tất nhiên.
Do vậy trong nhận thức cũng như trong hoạt động thực tiễn, chúng ta không được
xem nhẹ, bỏ qua cái ngẫu nhiên, mặc dù nó không quyết định xu hướng phát triển
của sự vật.

Hộp 2.9. Tuần trăng mật có một không hai


Stefan và Erika Svanstrom đã đưa cô con gái nhỏ cùng du ngoạn với bố mẹ trong kỳ
nghỉ trăng mật kéo dài 4 tháng đến nhiều nước. Trong chuyến đi tới Munich (Đức), gia
51
đình nhỏ ngay lập tức bị mắc kẹt trong một cơn bão tuyết khủng khiếp nhất. Để lánh nạn,
họ đã bay tới Cairns (Australia) nhưng lại phải đối mặt với một cơn lốc xoáy có sự tàn phá
2.2.4 Nội dung và hình thức
*Khái niệm
Nội dung là phạm trù chỉ tổng hợp tất cả những mặt, những yếu tố, những quá
trình tạo nên sự vật. Còn hình thức là phạm trù chỉ phương thức tồn tại và phát
triển của sự vật, là hệ thống các mối liên hệ tương đối bền vững giữa các yếu tố
của sự vật đó.
Ví dụ, nội dung của một cơ thể động vật là toàn bộ các yếu tố vật chất như tế
bào, các khí quan cảm giác, các hệ thống, các quá trình hoạt động của các hệ
thống... để tạo nên cơ thể đó. Hình thức của một cơ thể động vật là trình tự sắp
xếp, liên kết các tế bào, các hệ thống... tương đối bền vững của cơ thể.
Trong cặp phạm trù nội dung và hình thức, phép biện chứng duy vật chủ yếu
muốn nói đến hình thức bên trong gắn liền với nội dung, là cơ cấu của nội dung
chứ không muốn nói đến hình thức bề ngoài của sự vật.
*Mối quan hệ biện chứng giữa nội dung và hình thức
Sự thống nhất giữa nội dung và hình thức
Nội dung và hình thức luôn gắn bó chặt chẽ với nhau trong một thể thống nhất,
không có hình thức nào tồn tại thuần túy không chứa đựng nội dung, ngược lại
cũng không có nội dung nào lại không tồn tại trong một hình thức xác định. Nội
dung nào có hình thức đó.
Nội dung và hình thức không tồn tại tách rời nhau, nhưng không phải vì thế mà
lúc nào nội dung và hình thức cũng phù hợp với nhau. Một nội dung trong quá
trình phát triển có thể có nhiều hình thức thể hiện, ngược lại, một hình thức có thể
thể hiện nhiều nội dung khác nhau.
Ví dụ, quá trình sản xuất ra một sản phẩm có thể bao gồm những yếu tố nội
dung giống nhau như: con người, công cụ, vật liệu... nhưng cách tổ chức, phân
công trong quá trình sản xuất có thể khác nhau. Như vậy, nội dung quá trình sản
52
xuất được diễn ra dưới những hình thức khác nhau. Hoặc cùng một hình thức tổ
chức sản xuất như nhau nhưng được thực hiện trong những ngành, những khu
vực, với những yếu tố vật chất khác nhau, sản xuất ra những sản phẩm khác nhau.
Nội dung giữ vai trò quyết định đối với hình thức trong quá trình vận động,
phát triển của sự vật:
Dưới sự tác động lẫn nhau của những mặt trong sự vật, hoặc giữa các sự vật
với nhau trước hết làm cho các yếu tố của nội dung biến đổi trước; còn những mối
liên kết giữa các yếu tố của nội dung, tức hình thức thì chưa biến đổi ngay, vì vậy
hình thức sẽ trở nên lạc hậu hơn so với nội dung và sẽ trở thành nhân tố kìm hãm
nội dung phát triển.
Ví dụ, lực lượng sản xuất là nội dung của phương thức sản xuất còn quan hệ
sản xuất là hình thức của quá trình sản xuất. Quan hệ sản xuất biến đổi chậm hơn,
lúc đầu quan hệ sản xuất còn là hình thức thích hợp cho lực lượng sản xuất. Nhưng
do lực lượng sản xuất biến đổi nhanh hơn nên sẽ đến lúc quan hệ sản xuất lạc hậu
hơn so với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất và sẽ trở thành yếu tố kìm
hãm lực lượng sản xuất phát triển. Để mở đường cho lực lượng sản xuất phát triển,
con người phải thay đổi quan hệ sản xuất cũ bằng quan hệ sản xuất mới phù hợp
với lực lượng sản xuất. Như vậy sự biến đổi của nội dung quy định sự biến đổi
của hình thức.
Sự tác động trở lại của hình thức đối với nội dung
Hình thức do nội dung quyết định nhưng hình thức có tính độc lập tương đối
và tác động trở lại nội dung. Sự tác động của hình thức đến nội dung thể hiện ở
chỗ: Nếu phù hợp với nội dung thì hình thức sẽ tạo điều kiện thuận lợi thúc đẩy
nội dung phát triển; nếu không phù hợp với nội dung thì hình thức sẽ ngăn cản,
kìm hãm sự phát triển của nội dung.
Ví dụ: trong cơ chế bao cấp ở nước ta trước đây, do quan hệ sản xuất chưa phù
hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất nên không kích thích được tính
tích cực của người sản xuất, không phát huy được năng lực sẵn có của lực lượng
sản xuất của chúng ta. Nhưng từ sau đổi mới, khi chúng ta chuyển sang xây dựng
nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần, hoạt động theo cơ chế thị trường, định
hướng xã hội chủ nghĩa, quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ của lực lượng sản
xuất nước ta, do vậy tạo điều kiện thuận lợi thúc đẩy sản xuất phát triển. Như vậy
hình thức có tác động trở lại đối với nội dung.
*Ý nghĩa phương pháp luận

53
Vì nội dung và hình thức luôn gắn bó với nhau trong quá trình vận động, phát
triển của sự vật, do vậy trong nhận thức không được tách rời tuyệt đối hóa giữa
nội dung và hình thức.
Cùng một nội dung trong quá trình phát triển của sự vật có thể có nhiều hình
thức, ngược lại, một hình thức có thể chứa đựng nhiều nội dung. Vì vậy trong hoạt
động thực tiễn cải tạo xã hội, cần phải chủ động sử dụng nhiều hình thức khác
nhau, đáp ứng với yêu cầu thực tiễn của hoạt động cách mạng trong những giai
đoạn khác nhau.
Nội dung quyết định hình thức, do vậy để nhận thức và cải tạo được sự vật,
trước hết ta phải căn cứ vào nội dung, nhưng hình thức có tính độc lập tương đối
và tác động trở lại nội dung, do vậy trong hoạt động thực tiễn phải thường xuyên
đối chiếu giữa nội dung và hình thức và làm cho hình thức phù hợp với nội dung
để thúc đẩy nội dung phát triển.
Hộp 2.10. Trách nhiệm
Một ngày, cậu con trai 3 tuổi của tôi u đầu vì sơ ý đâm vào cái bàn. Nó khóc ầm ĩ một hồi
lâu. Tôi bước tới cạnh chiếc bàn, lớn tiếng hỏi: Này! Bàn, ai làm bạn bị thương và ai đang
khóc nhiều quá vậy?
Con trai ngừng khóc, nhìn tôi với những giọt nước mắt lăn dài. Tôi vuốt ve cái bàn và hỏi:
Ai làm bạn đau thế? Thằng bé bối rối nói:
Ôi, là con đó bố! Tôi nói: Con xin lỗi cái bàn chưa? Nó nói:
Mình xin lỗi! và cúi chào cái bàn.
Kể từ đó, nó đã học được cách chịu trách nhiệm.
Nguồn: <https://kienthuc.net.vn/khoe-dep/5-cau-chuyen-hay-day-con-thanh-nguoi-nhan-duc-tai-
gioi-1066957.html> (Nhóm tác giả có biên tập lại)

2.2.5 Bản chất và hiện tượng


*Khái niệm
Bản chất là phạm trù chỉ sự tổng hợp tất cả những mặt, những mối liên hệ tất
nhiên, tương đối ổn định bên trong sự vật, quy định sự vận động và phát triển của
sự vật, còn hiện tượng là phạm trù chỉ sự biểu hiện ra “bên ngoài” của bản chất.
Ví dụ: Trong xã hội có giai cấp, bản chất của nhà nước là công cụ thống trị giai
cấp, bảo vệ lợi ích của giai cấp thống trị. Nhưng tùy theo tương quan giai cấp và
địa vị của giai cấp trong lịch sử mà sự thống trị đó được thể hiện dưới hình thức
khác nhau.
Phạm trù bản chất gắn liền với phạm trù cái chung, nhưng không đồng nhất với
cái chung. Có cái chung là bản chất, nhưng có cái chung không phải là bản chất.
Ví dụ: Mọi người đều là sản phẩm tổng hợp của các quan hệ xã hội, đó là cái
chung, đồng thời đó là bản chất của con người. Còn những đặc điểm về cấu trúc

54
sinh học của con người như đều có đầu, mình, và các chi... đó là cái chung, nhưng
không phải bản chất của con người.
Phạm trù bản chất và phạm trù quy luật là cùng loại, hay cùng một bậc (xét về
mức độ nhận thức của con người). Tuy nhiên bản chất và quy luật không đồng
nhất với nhau. Mỗi quy luật thường chỉ biểu hiện một mặt, một khía cạnh nhất
định của bản chất. Bản chất là tổng hợp của nhiều quy luật. Vì vậy phạm trù bản
chất rộng hơn và phong phú hơn quy luật.
*Mối quan hệ biện chứng giữa bản chất và hiện tượng
Chủ nghĩa duy vật biện chứng không chỉ thừa nhận sự tồn tại khách quan của
bản chất và hiện tượng, mà còn cho rằng, giữa bản chất và hiện tượng có quan hệ
biện chứng vừa thống nhất gắn bó chặt chẽ với nhau, vừa mâu thuẫn đối lập nhau.
Sự thống nhất giữa bản chất và hiện tượng:
Sự thống nhất giữa bản chất và hiện tượng trước hết thể hiện ở chỗ bản chất
luôn luôn được bộc lộ ra qua hiện tượng; còn hiện tượng nào cũng là sự biểu hiện
của bản chất ở mức độ nhất định. Không có bản chất nào tồn tại thuần túy ngoài
hiện tượng; đồng thời cũng không có hiện tượng nào hoàn toàn không biểu hiện
bản chất.
Sự thống nhất giữa bản chất và hiện tượng còn thể hiện ở chỗ bản chất và hiện
tượng về căn bản là phù hợp với nhau. Bản chất được bộc lộ ra ở những hiện
tượng tương ứng. Bản chất nào thì có hiện tượng ấy, bản chất khác nhau sẽ bộc lộ
ở những hiện tượng khác nhau. Bản chất thay đổi thì hiện tượng biểu hiện nó cũng
thay đổi theo. Khi bản chất biến mất thì hiện tượng biểu hiện nó cũng mất theo.
Tóm lại, bản chất và hiện tượng thống nhất với nhau, chính nhờ sự thống nhất
này mà người ta có thể tìm ra cái bản chất, tìm ra quy luật trong vô vàn các hiện
tượng bên ngoài.
Tính mâu thuẫn của sự thống nhất giữa bản chất và hiện tượng
Bản chất và hiện tượng thống nhất với nhau, nhưng đây là sự thống nhất của
hai mặt đối lập. Do vậy không phải bản chất và hiện tượng phù hợp nhau hoàn
toàn mà luôn bao hàm cả sự mâu thuẫn nhau. Mâu thuẫn này thể hiện ở chỗ: bản
chất phản ánh cái chung, cái tất yếu, quyết định sự tồn tại và phát triển của sự vật,
còn hiện tượng phản ánh cái riêng, cái cá biệt. Cùng một bản chất có thể biểu hiện
ra ở nhiều hiện tượng khác nhau tùy theo sự thay đổi của điều kiện và hoàn cảnh.
Vì vậy hiện tượng phong phú hơn bản chất, còn bản chất sâu sắc hơn hiện tượng.
Bản chất là cái tương đối ổn định, ít biến đổi, còn hiện tượng là cái thường xuyên
biến đổi

55
Mâu thuẫn giữa bản chất và hiện tượng còn thể hiện ở chỗ, bản chất là mặt bên
trong ẩn giấu sâu xa của hiện thực khách quan; còn hiện tượng là mặt bên ngoài
của hiện thực khách quan đó. Bản chất không được biểu lộ hoàn toàn ở một hiện
tượng mà biểu hiện ở rất nhiều hiện tượng khác nhau. Hiện tượng không biểu hiện
hoàn toàn bản chất mà chỉ biểu hiện một khía cạnh của bản chất, biểu hiện bản
chất dưới hình thức đã biến đổi, nhiều khi xuyên tạc bản chất.
*Ý nghĩa phương pháp luận
Bản chất không tồn tại thuần túy mà tồn tại trong sự vật và biểu hiện qua hiện
tượng. Vì vậy, muốn nhận thức được bản chất của sự vật phải xuất phát từ những
sự vật, hiện tượng, quá trình thực tế. Hơn nữa bản chất của sự vật không được
biểu hiện đầy đủ trong một hiện tượng nhất định nào và cũng biến đổi trong quá
trình phát triển của sự vật. Do vậy phải phân tích, tổng hợp sự biến đổi của nhiều
hiện tượng, nhất là những hiện tượng điển hình mới hiểu rõ được bản chất của sự
vật. Nhận thức bản chất của sự vật là một quá trình phức tạp đi từ hiện tượng đến
bản chất, từ bản chất ít sâu sắc đến bản chất sâu sắc hơn.
Vì bản chất là cái tất nhiên, cái tương đối ổn định bên trong sự vật, quy định sự
vận động phát triển của sự vật, còn hiện tượng là cái không ổn định, không quyết
định sự vận động phát triển của sự vật. Do vậy nhận thức không chỉ dừng lại ở
hiện tượng mà phải tiến đến nhận thức được bản chất của sự vật. Còn trong hoạt
động thực tiễn, phải dựa vào bản chất của sự vật để xác định phương thức hoạt
động cải tạo sự vật, không được dựa vào hiện tượng.
Hộp 2.11. Chọn hoa khôi
Các sinh viên nữ bỏ phiếu bầu chọn hoa khôi của lớp. Tiểu Mai là người có dung mạo bình
thường nhưng cô đã đứng lên nói với các bạn rằng: Nếu như mình được chọn, mai sau, các
bạn ngồi ở đây có thể tự hào mà nói với chồng của mình rằng: “Hồi em học đại học, em
còn xinh đẹp hơn cả hoa khôi trong lớp cơ đấy!”
Kết quả, Tiểu Mai đã được bầu chọn với số phiếu gần như tuyệt đối.
Nguồn: (Sưu tầm có biên tập lại)

2.2.6 Khả năng và hiện thực


*Khái niệm
Hiện thực là phạm trù chỉ những cái đang tồn tại trên thực tế. Khả năng là phạm
trù chỉ cái chưa xuất hiện, chưa tồn tại trên thực tế, nhưng sẽ xuất hiện, sẽ tồn tại
thực sự khi có các điều kiện. Cả hiện thực và khả năng đều tồn tại khách quan.
Ví dụ: với các điều kiện hiện có (hiện thực) như: đã đậu đại học; đang theo học
tại trường Đại học Tài chính-Marketing chương trình chất lượng cao; đội ngũ
giảng viên được chọn lựa kỹ càng; chương trình đào tạo được thiết kế khoa học,
tiệm cận với các chương trình đào tạo các ngành tương ứng tại các nền giáo dục
56
tiên tiến trên thế giới; lòng mong mỏi và ý chí quyết tâm cao của bản thân sinh
viên và gia đình, thì khả năng trở thành một cử nhân có trình độ, kỹ năng cao
trong tương lai.
*Mối quan hệ biện chứng giữa khả năng và hiện thực
Khả năng và hiện thực tồn tại trong mối quan hệ chặt chẽ với nhau, không tách
rời nhau, thường xuyên chuyển hóa lẫn nhau trong quá trình phát triển của sự vật.
Điều đó có nghĩa là trong sự vật hiện đang tồn tại chứa đựng khả năng, sự vận
động phát triển của sự vật chính là quá trình biến khả năng thành hiện thực. Trong
hiện thực mới đó lại nảy sinh khả năng mới, khả năng mới này nếu có những điều
kiện lại biến thành hiện thực mới. Quá trình đó được tiếp tục, làm cho sự vật vận
động, phát triển một cách vô tận trong thế giới vật chất.
Ví dụ: khi đã trở thành một cử nhân chất lượng cao (hiện thực) sẽ mở ra một
khả năng mới là nhanh chóng khẳng định được vị trí trong công việc và phát triển
trên con đường học vấn.
Quan hệ giữa khả năng và hiện thực có tính phức tạp. Điều đó thể hiện ở chỗ
cùng trong những điều kiện nhất định, ở cùng một sự vật có thể tồn tại nhiều khả
năng chứ không phải chỉ một khả năng.
Ngoài những khả năng vốn sẵn có, trong những điều kiện mới thì sự vật sẽ xuất
hiện thêm những khả năng mới, đồng thời bản thân mỗi khả năng cũng thay đổi
theo sự thay đổi của điều kiện.
Ví dụ: Nước ta vốn là nước kinh tế kém phát triển, mức sống của nhân dân còn
thấp, nhưng lại phải trải qua cuộc cạnh tranh quốc tế ngày càng quyết liệt để hội
nhập. Nếu chúng ta không nhanh chóng vươn lên thì khả năng càng tụt hậu xa hơn
về kinh tế so với các nước trong khu vực và trên thế giới và sự bất lợi về mở rộng
sản xuất kinh doanh, trao đổi buôn bán càng lớn.
Để khả năng biến thành hiện thực, thường cần không phải chỉ một điều kiện mà
là một tập hợp nhiều điều kiện.
Ví dụ: để trở thành một cử nhân chất lượng cao như đã trình bày ở trên, bên
cạnh điều kiện do nhà trường đưa đến, sự quyết tâm của bản thân gia đình và sinh
viên thì cần có các điều kiện như: đất nước ổn định, hòa bình, môi trường thiên
nhiên an lành, môi trường xã hội an toàn…
*Ý nghĩa phương pháp luận
Vì hiện thực là cái tồn tại thực sự, còn khả năng là cái hiện chưa có, nên trong
hoạt động thực tiễn cần dựa vào hiện thực để định ra chủ trương, phương hướng
hành động của mình; nếu chỉ dựa vào cái còn ở dạng khả năng thì sẽ dễ rơi vào
ảo tưởng.
57
Khả năng là cái chưa tồn tại thật sự nhưng nó cũng biểu hiện khuynh hướng
phát triển của sự vật trong tương lai. Do đó, tuy không chủ yếu dựa vào khả năng
nhưng chúng ta cũng phải tính đến các khả năng để việc đề ra chủ trương, kế
hoạch hành động sát hợp hơn. Khi tính đến khả năng phải phân biệt được các loại
khả năng gần, khả năng xa, khả năng tất nhiên và ngẫu nhiên...
Việc chuyển khả năng thành hiện thực trong giới tự nhiên được thực hiện một
cách tự động, nhưng trong xã hội, điều đó phụ thuộc nhiều vào hoạt động của con
người. Vì vậy, trong xã hội, chúng ta phải chú ý đến việc phát huy nguồn lực con
người, tạo ra những điều kiện thuận lợi cho việc phát huy tính năng động sáng tạo
của mỗi con người để biến khả năng thành hiện thực thúc đẩy xã hội phát triển.
Tuy nhiên cũng cần tránh hai thái cực sai lầm, một là: tuyệt đối hóa vai trò nhân
tố chủ quan; hai là: hạ thấp vai trò nhân tố chủ quan trong việc biến khả năng
thành hiện thực.

Hộp 2.12. Khi mặt trời lên


Ở Phi châu, mỗi sáng thức dậy, con linh dương biết rằng: Nó sẽ bị giết nếu không
chạy nhanh hơn con sư tử nhanh nhất! Mỗi sáng thức dậy, con sư tử biết rằng: Nó sẽ chết
đói nếu không chạy nhanh hơn con linh dương chậm nhất! Dù bạn là sư tử hay linh
dương, bạn đều phải chạy khi mặt trời ló dạng. Đó chính là bản năng sinh tồn.
Nguồn: (Sưu tầm)

2.3. Các quy luật cơ bản của phép biện chứng duy vật
*Khái quát về quy luật
Với tư cách là phạm trù của lý luận nhận thức, khái niệm "quy luật" là sản phẩm
của tư duy khoa học phản ánh sự liên hệ của các sự vật và tính chỉnh thể của
chúng. Với tư cách là cái tồn tại ngay trong hiện thực, quy luật là mối liên hệ bản
chất, tất nhiên, phổ biến và lặp lại giữa các mặt, các yếu tố, các thuộc tính bên
trong mỗi một sự vật, hay giữa các sự vật, hiện tượng với nhau.
Căn cứ vào mức độ phổ biến, các quy luật được chia thành những quy luật
riêng, những quy luật chung và những quy luật phổ biến.
Những quy luật riêng là những quy luật chỉ tác động trong phạm vi nhất định
của các sự vật, hiện tượng cùng loại. Ví dụ: Những quy luật vận động cơ giới, vận
động hóa học, vận động sinh học, v.v..
Những quy luật chung là những quy luật tác động trong phạm vi rộng hơn quy
luật riêng, tác động trong nhiều loại sự vật, hiện tượng khác nhau. Chẳng hạn: quy
luật bảo toàn khối lượng, bảo toàn năng lượng, v.v..

58
Những quy luật phổ biến là những quy luật tác động trong tất cả các lĩnh vực:
từ tự nhiên, xã hội cho đến tư duy, đây chính là những quy luật phép biện chứng
duy vật nghiên cứu.
Căn cứ vào lĩnh vực tác động, các quy luật được chia thành ba nhóm lớn: quy
luật tự nhiên, quy luật xã hội và quy luật của tư duy.
Quy luật tự nhiên là những quy luật nảy sinh và tác động trong giới tự nhiên
mà con người nhận biết hay không nhận biết nó vẫn sảy ra.
Quy luật xã hội là những quy luật hoạt động của chính con người trong các
quan hệ xã hội, tuy nhiên quy luật xã hội vẫn mang tính khách quan.
Quy luật của tư duy là những quy luật hình thành và tác động trong quá trình
nhận thức của con người.
Với tư cách là một học thuyết khái quát sự biện chứng của thế giới trên lập
trường thế giới quan duy vật, phép biện chứng duy vật nghiên cứu những quy luật
phổ biến tác động trong tất cả các lĩnh vực tự nhiên, xã hội và tư duy của con
người.
Mọi quy luật đều thể hiện cái phổ biến vốn có ở các giai đoạn vận động, thể
hiện sự thống nhất các đối tượng đa dạng. Do vậy, những mối liên hệ được phản
ánh trong các quy luật cũng không mang tính chất đơn nhất. Mặt khác, điều đó
không có nghĩa là những mối liên hệ phổ biến được phản ánh trong quy luật đã
thâu tóm hết mọi đối tượng khách quan. Mức độ chung của các đối tượng là khác
nhau, do vậy các quy luật cũng có mức độ phổ biến khác nhau và một cách tương
đối có thể chia tất cả các quy luật thành ba nhóm: quy luật riêng, quy luật chung,
và quy luật phổ biến.
Việc nhận thức các quy luật khách quan, nhất là các quy luật phổ biến, có ý
nghĩa thực tiễn to lớn, tạo điều kiện cho con người làm chủ tốt hơn tự nhiên và xã
hội. Dưới đây sẽ là nội dung những quy luật phổ biến của phép biện chứng duy
vật. Chúng khái quát cách thức, nguyên nhân và khuynh hướng vận động, phát
triển của sự vật, hiện tượng, chúng phản ánh bản chất biện chứng của thế giới
khách quan vốn được con người rút ra từ trong lịch sử của giới tự nhiên và lịch sử
của xã hội loài người. Các quy luật này định hướng việc nghiên cứu các quy luật
đặc thù, mối liên hệ giữa chúng tạo ra cơ sở khách quan cho mối liên hệ giữa triết
học duy vật biện chứng với khoa học chuyên ngành.
2.3.1 Quy luật từ những thay đổi về lượng dẫn đến những thay đổi về chất và
ngược lại

59
*Vị trí, vai trò của quy luật: Quy luật từ những thay đổi về lượng dẫn đến những
thay đổi về chất và ngược lại là một trong ba quy luật cơ bản của phép biện chứng
duy vật. Quy luật này chỉ rõ cách thức của sự phát triển của sự vật, hiện tượng.
*Các khái niệm
Mọi sự vật, hiện tượng đều là một thể thống nhất của hai mặt chất và lượng. Để
hiểu được mối quan hệ biện chứng giữa hai mặt này, trước hết cần phải nắm vững
các khái niệm về chất và lượng.
Chất là phạm trù triết học dùng để chỉ tính quy định khách quan vốn có của sự
vật, là sự thống nhất hữu cơ của những thuộc tính làm cho sự vật là nó, phân biệt
nó với cái khác. Sự vật hiện tượng có nhiều chất khác nhau tùy theo mối quan hệ.
Chất của sự vật được biểu hiện qua những thuộc tính. Mỗi sự vật có rất nhiều
thuộc tính nhưng không phải bất kỳ thuộc tính nào cũng biểu hiện chất của sự vật.
Chỉ những thuộc tính cơ bản được tổng hợp lại tạo thành chất của sự vật. Chính
chúng quy định sự tồn tại, sự vận động và sự phát triển của sự vật, chỉ khi nào
chúng thay đổi hay mất đi thì sự vật mới thay đổi hay mất đi.
Nhưng thuộc tính của sự vật chỉ bộc lộ qua các mối liên hệ cụ thể với các sự
vật khác. Bởi vậy, sự phân chia thuộc tính thành thuộc tính cơ bản và thuộc tính
không cơ bản cũng chỉ mang tính tương đối. Trong mối liên hệ cụ thể này, thuộc
tính này là thuộc tính cơ bản thể hiện chất của sự vật, trong mối liên hệ cụ thể
khác sẽ có thêm thuộc tính khác hay thuộc tính khác là thuộc tính cơ bản. Chất
của sự vật không những được quy định bởi chất của những yếu tố tạo thành mà
còn bởi phương thức liên kết giữa các yếu tố tạo thành, nghĩa là bởi kết cấu của
sự vật.
Lượng là phạm trù triết học dùng để chỉ tính quy định vốn có của sự vật về mặt
số lượng, quy mô, trình độ, nhịp điệu của sự vận động và phát triển cũng như các
thuộc tính của sự vật.
Lượng của sự vật biểu thị kích thước dài hay ngắn, số lượng nhiều hay ít, quy
mô lớn hay nhỏ, trình độ cao hay thấp, nhịp điệu nhanh hay chậm,... Trong thực
tế lượng của sự vật có thể được xác định bởi những đơn vị đo lường cụ thể như
vận tốc của ánh sáng là 300.000 km trong một giây, một phân tử nước bao gồm
hai nguyên tử hyđrô liên kết với một nguyên tử ôxy,... bên cạnh đó có những
lượng chỉ có thể biểu thị dưới dạng trừu tượng và khái quát như trình độ tri thức
khoa học của một người, ý thức trách nhiệm cao hay thấp của một công dân...
Sự phân biệt chất và lượng của sự vật chỉ mang tính tương đối. Có những tính
quy định trong mối quan hệ này là chất của sự vật, song trong mối quan hệ khác
lại biểu thị lượng của sự vật và ngược lại. Chẳng hạn, số lượng sinh viên học giỏi
60
nhất định của một lớp sẽ nói lên chất của lớp đó. Điều này cũng có nghĩa là dù số
lượng cụ thể quy định thuần túy về lượng, song số lượng ấy cũng có tính quy định
về chất của sự vật.
*Mối quan hệ giữa sự thay đổi về lượng và sự thay đổi về chất
Bất kỳ sự vật hay hiện tượng nào cũng là sự biện chứng giữa mặt đối lập chất
và mặt lượng, chất ổn định tương đối còn lượng luôn luôn phát triển.
Những thay đổi về lượng dẫn đến những thay đổi về chất: bất kỳ sự phát triển
của sự vật, hiện tượng nào bao giờ cũng bắt đầu từ sự thay đổi dần về lượng, khi
lượng thay đổi vượt quá khoảng giới hạn (độ) và đạt đến một giới điểm giới hạn
nhất định (điểm nút) sẽ dẫn đến sự chuyển biến về chất một cách căn bản làm cho
chất cũ mất đi, chất mới ra đời (bước nhảy).
*Những thay đổi về chất dẫn đến những thay đổi về lượng
Khi chất mới ra đời, nó không tồn tại một cách thụ động mà sẽ tác động trở lại
đến sự phát triển của lượng của sự vật. Sự tác động ấy thể hiện: chất mới có thể
làm thay đổi kết cấu, quy mô, trình độ, nhịp điệu của sự vận động và phát triển
của sự vật. Chẳng hạn, khi nước từ trạng thái lỏng sang trạng thái hơi thì vận tốc
của các phân tử nước cao hơn, thể tích của nước ở trạng thái hơi sẽ lớn hơn thể
tích của nó ở trạng thái lỏng với cùng một khối lượng, tính chất hoà tan một số
chất tan của nó cũng sẽ khác đi, v.v..
*Các hình thức cơ bản của bước nhảy
Trình độ phát triển của lượng của các sự vật, hiện tượng hay của cùng một sự
vật hiện tượng trong những điều kiện khác nhau đã tạo ra các hình thức bước nhảy
khác nhau. Bước nhảy để chuyển hóa về chất của sự vật hết sức đa dạng và phong
phú với những hình thức rất khác nhau. Những hình thức bước nhảy được quyết
định bởi bản thân sự vật, bởi những điều kiện cụ thể trong đó sự vật thực hiện
bước nhảy.
Dựa trên nhịp điệu thực hiện bước nhảy của bản thân sự vật có thể phân chia
thành bước nhảy đột biến và bước nhảy dần dần.
Bước nhảy đột biến là bước nhảy được thực hiện trong một thời gian rất ngắn
làm thay đổi chất của toàn bộ kết cấu cơ bản của sự vật.
Chẳng hạn, khối lượng Uranium 235 (Ur 235) được tăng đến khối lượng tới
hạn thì sẽ xảy ra vụ nổ nguyên tử trong chốc lát.
Bước nhảy dần dần là bước nhảy được thực hiện từ từ, từng bước bằng cách
tích luỹ dần dần những nhân tố của chất mới và những nhân tố của chất cũ dần
dần mất đi. Chẳng hạn, quá trình chuyển hóa từ vượn thành người diễn ra rất lâu
dài, hàng vạn năm. Quá trình thực hiện bước nhảy dần dần của sự vật là một quá
61
trình phức tạp, trong đó có cả sự tuần tự lẫn những bước nhảy diễn ra ở từng bộ
phận của sự vật ấy.
Song cần lưu ý rằng, bước nhảy dần dần khác với sự thay đổi dần dần về lượng
của sự vật. Bước nhảy dần dần là sự chuyển hóa dần dần từ chất này sang chất
khác, còn sự thay đổi dần dần về lượng là sự tích luỹ liên tục về lượng để đến một
giới hạn nhất định sẽ chuyển hóa về chất.
Căn cứ vào quy mô thực hiện bước nhảy của sự vật có bước nhảy toàn bộ và
bước nhảy cục bộ. Bước nhảy toàn bộ là bước nhảy làm thay đổi chất của toàn bộ
các mặt, các yếu tố cấu thành sự vật. Bước nhảy cục bộ là bước nhảy làm thay đổi
chất của những mặt, những yếu tố riêng lẻ của sự vật.
Khi xem xét sự thay đổi về chất của xã hội người ta còn phân chia sự thay đổi
đó thành thay đổi có tính chất cách mạng và thay đổi có tính tiến hóa.
Cách mạng là sự thay đổi trong đó chất của sự vật biến đổi căn bản, không phụ
thuộc vào hình thức biến đổi của nó. Tiến hóa là sự thay đổi về lượng với những
biến đổi nhất định về chất không cơ bản của sự vật.
Song cần lưu ý rằng, chỉ có sự thay đổi căn bản về chất mang tính tiến bộ mới
là cách mạng. Nếu sự thay đổi cơ bản về chất làm cho xã hội thụt lùi thì lại là phản
cách mạng.
*Nội dung quy luật
Mọi sự vật đều là sự thống nhất giữa lượng và chất, sự thay đổi dần dần về
lượng tới điểm nút sẽ dẫn đến sự thay đổi về chất của sự vật thông qua bước nhảy;
chất mới ra đời tác động trở lại sự thay đổi của lượng mới lại có chất mới cao
hơn... Quá trình tác động đó diễn ra liên tục làm cho sự vật không ngừng biến đổi.
*Ý nghĩa phương pháp luận
Từ việc nghiên cứu quy luật chuyển hóa từ những thay đổi về lượng thành
những thay đổi về chất và ngược lại, ta có thể rút ra các ý nghĩa phương pháp luận
sau:
Sự vận động và phát triển của sự vật bao giờ cũng diễn ra bằng cách tích luỹ
dần dần về lượng đến một giới hạn nhất định, thực hiện bước nhảy để chuyển về
chất. Do đó, trong hoạt động nhận thức và hoạt động thực tiễn, con người phải
biết từng bước tích luỹ về lượng để làm biến đổi về chất theo quy luật. Phương
pháp này giúp cho chúng ta tránh được tư tưởng chủ quan, duy ý chí, nôn nóng,
"đốt cháy giai đoạn" muốn thực hiện những bước nhảy liên tục.
Quy luật của tự nhiên và quy luật của xã hội đều có tính khách quan. Song quy
luật của tự nhiên diễn ra một cách tự phát, còn quy luật của xã hội chỉ được thực
hiện thông qua hoạt động có ý thức của con người. Do đó, khi đã tích luỹ đủ về
62
số lượng phải có quyết tâm để tiến hành bước nhảy, phải kịp thời chuyển những
sự thay đổi về lượng thành những thay đổi về chất, từ những thay đổi mang tính
chất tiến hóa sang những thay đổi mang tính chất cách mạng. Chỉ có như vậy mới
khắc phục được tư tưởng bảo thủ, trì trệ, "hữu khuynh" thường được biểu hiện ở
chỗ coi sự phát triển chỉ là sự thay đổi đơn thuần về lượng.
Trong hoạt động con người còn phải biết vận dụng linh hoạt các hình thức của
bước nhảy. Sự vận dụng này tùy thuộc vào việc phân tích đúng đắn những điều
kiện khách quan và những nhân tố chủ quan, tùy theo từng trường hợp cụ thể,
từng điều kiện cụ thể hay quan hệ cụ thể.
Sự thay đổi về chất của sự vật còn phụ thuộc vào sự thay đổi phương thức liên
kết giữa các yếu tố tạo thành sự vật. Do đó, trong hoạt động phải biết cách tác
động vào phương thức liên kết giữa các yếu tố tạo thành sự vật trên cơ sở hiểu rõ
bản chất, kết cấu của sự vật đó. Chẳng hạn, trên cơ sở hiểu biết đúng đắn về gen,
con người có thể tác động vào phương thức liên kết giữa các nhân tố tạo thành
gen làm cho gen biến đổi.

Hộp 2.13. Thêm một


Thêm một chiếc lá rụng Thêm một người thứ ba
Thế là thành mùa thu Chuyện tình đâm dang dở
Thêm một tiếng chim gù Cứ thêm một lời hứa
Thành ban mai tinh khiết... Lại một lần khả nghi!
Dĩ nhiên là tôi biết Nhận thêm một thiếp cưới
Thêm một - phiền toái thay! Thấy mình lẻ loi hơn
Nhưng mà tôi cũng biết Thêm một đêm trăng tròn
Thêm một - lắm điều hay. Lại thấy mình đang khuyết...

63
Thêm một lời dại dột Dĩ nhiên là tôi biết
Tức thì em bỏ đi Thêm một - lắm điều hay...
Nhưng thêm chút lầm lì
Nguồn: thơ Trần Hòa Bình
Thế nào em cũng khóc!

2.3.2. Quy luật thống nhất và đấu tranh của các mặt đối lập
*Vị trí, vai trò của quy luật: Quy luật thống nhất và đấu tranh của các mặt đối
lập (quy luật mâu thuẫn) là hạt nhân của phép biện chứng. Quy luật này chỉ ra
nguồn gốc, động lực của mọi sự vận động và phát triển.
*Khái niệm: Mặt đối lập là những mặt có những đặc điểm, những thuộc tính,
những tính quy định có khuynh hướng biến đổi trái ngược nhau. Các mặt đối lập
nằm trong sự liên hệ, tác động qua lại lẫn nhau. Sự tương tác ấy nằm trong hai
khuynh hướng:
Thứ nhất, các mặt đối lập bài trừ, triệt tiêu nhau, đấu tranh phủ định lẫn nhau.
Thứ hai, các mặt đối lập nương tựa vào nhau, mặt này lấy mặt kia làm tiền đề
cho sự tồn tại của mình, thống nhất giữa các mặt đối lập. Sự thống nhất của các
mặt đối lập" còn bao hàm cả sự "đồng nhất" của các mặt đó. Do có sự "đồng nhất"
của các mặt đối lập mà trong sự triển khai của mâu thuẫn đến một lúc nào đó, các
mặt đối lập có thể chuyển hóa lẫn nhau.
Các mặt đối lập vừa thống nhất với nhau lại vừa đấu tranh với nhau tạo thành
mâu thuẫn. Mâu thuẫn biện chứng là mâu thuẫn trong đó bao hàm sự thống nhất
và đấu tranh của các mặt đối lập. Chúng liên hệ ràng buộc lẫn nhau, tác động qua
lại, thâm nhập và chuyển hóa lẫn nhau, làm tiền đề tồn tại cho nhau, nhưng lại bài
trừ phủ định lẫn nhau.
Tính chất của mâu thuẫn: mang tính khách quan và tính phổ biến. Khách quan
vì mâu thuẫn là cái vốn có trong các sự vật, hiện tượng và tồn tại trong tất cả các
lĩnh vực; mâu thuẫn có tính phổ biến vì thế giới sự vật hiện tượng rất đa dạng về nội
dung cũng như hình thức, do đó mâu thuẫn cũng rất đa dạng và phức tạp. Mỗi sự vật,
mỗi lĩnh vực khác nhau thì có những mâu thuẫn khác nhau và ngay bản thân mỗi sự
64
vật, hiện tượng cũng lại bao hàm nhiều mâu thuẫn. Căn cứ vào quan hệ đối với sự
vật được xem xét, người ta phân biệt các mâu thuẫn thành mâu thuẫn bên trong và
mâu thuẫn bên ngoài. Căn cứ vào ý nghĩa đối với sự tồn tại và phát triển của toàn bộ
sự vật, mâu thuẫn được chia thành mâu thuẫn cơ bản và mâu thuẫn không cơ bản.
Căn cứ vào tính chất của các quan hệ lợi ích, người ta chia mâu thuẫn trong xã hội
thành mâu thuẫn đối kháng và mâu thuẫn không đối kháng.
*Nội dung quy luật
Mọi sự vật hiện tượng đều chứa đựng những mặt, những khuynh hướng đối lập
tạo thành những mâu thuẫn trong bản thân mình. Sự thống nhất và đấu tranh giữa các
mặt đối lập tạo thành xung lực nội tại của sự vận động và phát triển, dẫn tới sự mất
đi của cái cũ và sự ra đời của cái mới.
*Ý nghĩa phương pháp luận
Vì mâu thuẫn có tính khách quan, tính phổ biến và là nguồn gốc, động lực của sự
vận động, phát triển, do vậy trong nhận thức và thực tiễn cần phải tôn trọng mâu
thuẫn, phát hiện mâu thuẫn, phân tích đầy đủ các mặt đối lập để nắm được bản chất,
nguồn gốc, khuynh hướng của sự vận động và phát triển.
Vì mâu thuẫn có tính đa dạng, phong phú, do vậy trong việc nhận thức và giải
quyết mâu thuẫn cần phải có quan điểm lịch sử cụ thể tức là biết phân tích cụ thể
từng loại mâu thuẫn và phương pháp giải quyết phù hợp. Trong quá trình hoạt động
nhận thức và thực tiễn, cần phân biệt đúng vai trò, vị trí của các loại mâu thuẫn trong
từng hoàn cảnh, điều kiện nhất định; những đặc điểm của mâu thuẫn đó để tìm ra
phương pháp giải quyết từng loại mâu thuẫn một cách đúng đắn nhất.

Hộp 2.14. Yêu – Ghét Yêu thì xấu cũng khen xinh
Yêu thì chín bỏ làm mười Ghét thì tỏ vẻ…ta khinh chả cần.
Ghét thì ghét cả nụ cười ghét đi. Yêu thì chẳng tính chẳng cân
Yêu thì cái gỉ gì gi Ghét thì chê cả ân cần…lôi thôi.
Cũng cho qua hết …cười khì là xong. Yêu từ dáng đứng kiểu ngồi
Yêu thì đêm nhớ ngày mong Ghét thì đối đãi thật tồi cho hay.
Ghét thì ghét cả tổ tông họ hàng. Yêu thì duyên nợ gặp may
Yêu thì son sắt đá vàng Ghét thì cảm thấy đắng cay cuộc đời.
Ghét thì quay mặt…ngày càng tránh xa. Yêu thì ngon ngọt bao lời
Yêu thì mọi lúc ngợi ca Ghét thì ghét cả bầu trời của nhau.
Ghét thì thấy mặt người ta bực mình. Ai ơi đừng biến nỗi đau
Thành ra ghét bỏ… nghĩa sâu tình nồng.
Nguồn: thơ Mạc Phương
2.3.3. Quy luật phủ định của phủ định
*Vị trí, vai trò của quy luật: Quy luật phủ định của phủ định là một trong ba
quy luật cơ bản của phép biện chứng duy vật, chỉ rõ khuynh hướng của sự vận
động, phát triển của sự vật và sự liên hệ giữa cái mới và cái cũ.
65
*Khái niệm phủ định và phủ định biện chứng
Bất cứ sự vật, hiện tượng nào trong thế giới đều trải qua quá trình phát sinh,
phát triển và diệt vong. Sự vật cũ mất đi được thay bằng sự vật mới. Sự thay thế
đó gọi là phủ định.
Phủ định là sự thay thế sự vật này bằng sự vật khác trong quá trình vận động
và phát triển.
Quan điểm siêu hình coi sự phủ định là sự diệt vong hoàn toàn của cái cũ, chấm
dứt hoàn toàn sự vận động và phát triển của sự vật. Chủ nghĩa duy vật biện chứng,
cho rằng sự chuyển hóa từ những thay đổi về lượng dẫn đến những thay đổi về
chất, sự đấu tranh thường xuyên của các mặt đối lập làm cho mâu thuẫn được giải
quyết, từ đó dẫn đến sự vật cũ mất đi, sự vật mới ra đời. Sự thay thế diễn ra liên
tục tạo nên sự vận động và phát triển không ngừng của sự vật. Sự vật mới ra đời
là kết quả của phủ định sự vật cũ. Điều đó cũng có nghĩa sự phủ định là tiền đề,
điều kiện cho sự phát triển liên tục, cho sự ra đời của cái mới thay thế cái cũ. Đó
là phủ định biện chứng.
Phủ định biện chứng là phạm trù triết học dùng để chỉ sự phủ định tự thân, là
mắt khâu trong quá trình dẫn tới sự ra đời sự vật mới, tiến bộ hơn.
*Đặc trưng cơ bản của phủ định biện chứng
Phủ định biện chứng mang tính khách quan: vì nguyên nhân của sự phủ định
nằm ngay trong bản thân sự vật. Đó chính là kết quả giải quyết những mâu thuẫn
bên trong sự vật. Nhờ việc giải quyết những mâu thuẫn mà sự vật luôn phát triển,
vì thế, phủ định biện chứng là một tất yếu khách quan trong quá trình vận động
và phát triển của sự vật. Đương nhiên, mỗi sự vật có phương thức phủ định riêng
tùy thuộc vào sự giải quyết mâu thuẫn của bản thân chúng. Điều đó cũng có nghĩa,
phủ định biện chứng không phụ thuộc vào ý muốn, ý chí của con người. Con
người chỉ có thể tác động làm cho quá trình phủ định ấy diễn ra nhanh hay chậm
trên cơ sở nắm vững quy luật phát triển của sự vật.
Phủ định biện chứng mang tính kế thừa vì phủ định biện chứng là kết quả của
sự phát triển tự thân của sự vật, nên nó không thể là sự thủ tiêu, sự phá huỷ hoàn
toàn cái cũ. Cái mới chỉ có thể ra đời trên nền tảng của cái cũ, là sự phát triển tiếp
tục của cái cũ trên cơ sở gạt bỏ những mặt tiêu cực, lỗi thời, lạc hậu của cái cũ và
chọn lọc, giữ lại, cải tạo những mặt còn thích hợp, những mặt tích cực, bổ sung
những mặt mới phù hợp với hiện thực. Sự phát triển chẳng qua chỉ là sự biến đổi
trong đó giai đoạn sau bảo tồn tất cả những mặt tích cực được tạo ra ở giai đoạn
trước và bổ sung thêm những mặt mới phù hợp với hiện thực.

66
Trong quá trình phủ định biện chứng, sự vật khẳng định lại những mặt tốt, mặt
tích cực và chỉ phủ định những cái lạc hậu, cái tiêu cực. Do đó, phủ định đồng
thời cũng là khẳng định.
*Nội dung của quy luật phủ định của phủ định
Quy luật phủ định của phủ dịnh nói lên mối liên hệ, sự kế thừa giữa cái bị phủ
định và cái phủ định. Do sự kế thừa đó, phủ định biện chứng không bác bỏ tất cả
sự phát triển trước đó, mà là điều kiện cho sự phát triển. Nó duy trì và giữ gìn nội
dung tích cực của các giai đoạn trước, lặp lại một số đặc điểm cơ bản của cái xuất
phát, nhưng trên cơ sở mới cao hơn. Do vậy sự phát triển có tính chất tiến lên,
không phải theo đường thẳng mà theo đường xoáy ốc.
*Ý nghĩa phương pháp luận
Quy luật phủ định của phủ định giúp chúng ta nhận thức đúng đắn về xu hướng
phát triển của sự vật. Quá trình phát triển của bất kỳ sự vật nào cũng không bao
giờ đi theo một đường thẳng, mà diễn ra quanh co, phức tạp, trong đó bao gồm
nhiều chu kỳ khác nhau. Chu kỳ sau bao giờ cũng tiến bộ hơn chu kỳ trước.
Ở mỗi chu kỳ phát triển sự vật có những đặc điểm riêng biệt. Do đó, chúng ta
phải hiểu những đặc điểm đó để có cách tác động phù hợp với yêu cầu phát triển.
Theo quy luật phủ định của phủ định, mọi sự vật luôn luôn xuất hiện cái mới
thay thế cái cũ, cái tiến bộ thay thế cái lạc hậu; cái mới ra đời từ cái cũ trên cơ sở
kế thừa tất cả những nhân tố tích cực của cái cũ, do đó, trong hoạt động của mình,
con người phải biết kế thừa tinh hoa của cái cũ, tránh thái độ phủ định sạch trơn.
Trong giới tự nhiên cái mới xuất hiện một cách tự phát, còn trong xã hội cái
mới ra đời gắn liền với hoạt động có ý thức của con người. Chính vì thế, trong
hoạt động của mình con người phải biết phát hiện cái mới và ủng hộ nó. Khi mới
ra đời cái mới luôn còn yếu ớt, ít ỏi, vì vậy, phải tạo điều kiện cho nó chiến thắng
cái cũ, phát huy ưu thế của nó.
Mỗi quy luật cơ bản của phép biện chứng duy vật đề cập đến những phương
diện khác nhau của quá trình vận động và phát triển của sự vật. Trong thực tế, sự
vận động và phát triển của bất cứ sự vật nào cũng là sự tác động tổng hợp của tất
cả những quy luật cơ bản do phép biện chứng duy vật trừu tượng hóa và khái quát
hóa. Do đó, trong hoạt động của mình, cả hoạt động nhận thức lẫn hoạt động thực
tiễn để đạt chất lượng và hiệu quả cao, con người phải vận dụng tổng hợp tất cả
những quy luật đó một cách đầy đủ, sâu sắc, năng động, sáng tạo phù hợp với điều
kiện cụ thể.
Hộp 2.15. Sự tái sinh của chim ưng
Chim ưng có đời sống dài nhất trong chủng loại của mình. Nó có thể sống tới 70 năm.
Nhưng để đạt tới tuổi ấy, chim ưng phải thực hiện một quyết định khó khăn.
67
Vào những năm của tuổi 40, các móng vuốt dài, dẻo của nó không còn có thể quắp lấy
con mồi được nữa. Chiếc mỏ dài, sắc đã bị cong lại. Đôi cánh già nua, nặng nề, do bộ lông
dày dính vào ngực, khiến nó bay vất vả. Chim ưng bị bỏ mặc với hai chọn lựa: chịu chết
III. LÝ LUẬN NHẬN THỨC CỦA CHỦ NGHĨA DUY VẬT BIỆN
CHỨNG
1. Các nguyên tắc của lý luận nhận thức duy vật biện chứng
Lý luận nhận thức của chủ nghĩa Mác dựa trên những nguyên tắc cơ bản sau:
Thứ nhất, thừa nhận thế giới vật chất tồn tại khách quan, ở bên ngoài con người,
độc lập với cảm giác, tư duy và ý thức của con người. Nguyên tắc này thừa nhận
điều kiện tiền đề của quá trình nhận thức và thế giới vật chất và con người.
Thứ hai, thừa nhận ý thức nói chung là hình ảnh chủ quan của thế giới khách
quan. Nguyên tắc này thừa nhận mối quan hệ giữa chủ thể nhận thức và đối tượng
nhận thức – giữa con người và hiện thực khách quan.
Thứ ba, thừa nhận thực tiễn là cơ sở chủ yếu và trực tiếp nhất của nhận thức, là
tiêu chuẩn để kiểm tra chân lý. Nguyên tắc này thừa nhận mục đích nhận thức của
con người phải quay về phục vụ thực tiễn. Kết quả nhận thức phải hướng dẫn chỉ
đạo thực tiễn. Lý luận, khoa học chỉ có ý nghĩa thực sự khi chúng được vận dụng
vào thực tiễn, cải tạo thực tiễn.

Hộp 2.16. Con đường hình thành các khái niệm

Sự hình thành khái niệm cụ thể Sự hình thành khái niệm trừu tượng
1. Xác định nhiệm vụ, đối tượng nhận thức

68
2a. Quan sát trực tiếp, sử dụng các 2b. Hình thành khái niệm mới từ các
phương tiện trực quan khái niệm đã biết
Phân tích dấu hiệu bản chất
Định nghĩa khái niệm

3a. Phân tích dấu hiệu bản chất


3b. Cụ thể hóa khái niệm
Định nghĩa khái niệm

4. Hệ thống hóa khái niệm

5. Vận dụng khái niệm


Nguồn: Phạm Thị Phương Anh
<https://ppdhsinhhoc12.weebly.com/ph432417ng-phaacutep-d7841y-h7885c-caacutec-lo7841i-
ki7871n-th7913c-sinh-h7885c.html>
2. Nguồn gốc, bản chất của nhận thức
*Chủ thể nhận thức và khách thể nhận thức
Vấn đề quan hệ giữa chủ thể và khách thể là hai mặt không thể tách rời trong
quá mọi hoạt động nhận thức và thực tiễn của con người, trong đó khách thể đóng
vai trò quyết định chủ thể. Chính sự tác động của khách thể lên chủ thể đã tạo nên
hình ảnh nhận thức về khách thể.
Chủ thể nhận thức là con người tiến hành quá trình nhận thức. Chủ thể đó có
thể là một cá nhân, một nhóm người, một giai cấp, một dân tộc… gắn với những
điều kiện xã hội cụ thể, với trình độ, kinh nghiệm cụ thể.
Khách thể nhận thức là những đối tượng mà con người tiến hành nhận thức. Đó
là một bộ phận, một lĩnh vực của hiện thực; đó có thể còn là tư duy, tâm lý, tư
tưởng, tình cảm... Khách thể nhận thức luôn thay đổi cùng với sự phát triển của
hoạt động thực tiễn cũng như sự mở rộng năng lực nhận thức của con người.
*Bản chất của nhận thức
Nhận thức là quá trình phản ánh hiện thực khách quan để tạo thành tri thức
trong bộ óc con người. Đó cũng là quá trình đi từ chưa biết đến biết, từ biết ít tới
biết nhiều hơn, từ biết chưa sâu sắc, chưa đầy đủ đến sâu sắc đầy đủ hơn.
Nhận thức là một quá trình quá trình biện chứng, tích cực sáng tạo. Quá trình
nhận thức diễn ra theo con đường từ trực quan sinh động đến tư duy trừu tượng
rồi từ tư duy trừu tượng đến thực tiễn.
*Các cấp độ của nhận thức
Nhận thức là một quá trình đi từ trình độ nhận thức kinh nghiệm đến trình độ
nhận thức lý luận, từ trình độ nhận thức thông thường đến trình độ nhận thức
khoa học

69
Nhận thức kinh nghiệm là trình độ nhận thức hình thành từ quan sát trực tiếp
các sự vật hiện tượng hoặc qua các thí nhiệm khoa học. Tri thức kinh nghiệm chỉ
đem lại sự hiểu biết về các mặt riêng lẽ, về các mối liên hệ bên ngoài của sự vật.
Nhận thức lý luận là trình độ nhận thức gián tiếp, trừu tượng, có tính hệ thống
trong việc khái quát bản chất, quy luật của các sự vật hiện tượng.
Nhận thức thông thường được hình thành một cách tự phát, trực tiếp từ hoạt
động hàng ngày. Nó mang tính phong phú, và gắn liền với quan niệm sống thực
tế thường nhật. Nhận thức khoa học được hình thành một cách tự giác và gián tiếp
từ sự phản ánh đặc điểm bản chất, những quan hệ tất yếu của đối tượng nghiên
cứu. Nhận thức khoa học vừa có tính trừu tượng, khái quát vừa có tính hệ thống.

Hộp 2.17. Quy trình phòng ngừa ứng phó thiên tai
Đánh giá rủi
Đánh giá thực
ro thiên tai
hiện kế hoạch
Lập kế hoạch

Khi thiên
tai xảy ra
Diễn tập
Hoàn thiện
Tập huấn kế hoạch
Nguồn: <http://ungphothientai.com/ecourse/quy-trinh-lap-ke-hoach-phong-ngua-ung-pho-thien-
tai/>
3. Thực tiễn và vai trò của thực tiễn đối với nhận thức
3.1. Phạm trù thực tiễn
Thực tiễn là một trong những phạm trù nền tảng, cơ bản không chỉ của lý luận
nhận thức macxít mà còn của toàn bộ triết học Mác - Lênin nói chung.
Các nhà duy vật trước C.Mác đã có công lớn trong việc phát triển thế giới quan
duy vật, đấu tranh chống chủ nghĩa duy tâm, tôn giáo và thuyết không thể biết.
Tuy nhiên, hạn chế lớn nhất trong lý luận của họ là không thấy được vai trò của
hoạt động thực tiễn đối với nhận thức. Một số nhà triết học duy tâm, tuy đã thấy
được mặt năng động, sáng tạo trong hoạt động của con người, nhưng cũng chỉ
hiểu thực tiễn như là hoạt động tính thần, chứ không hiểu nó như là hoạt động
hiện thực, hoạt động vật chất.
Kế thừa biện chứng trong quan điểm về thực tiễn của các nhà triết học đi trước,
Mác - Lênin đã đem lại một quan điểm đúng đắn, khoa học về thực tiễn.
Thực tiễn là toàn bộ những hoạt động vật chất - cảm tính, có tính lịch sử - xã
hội của con người nhằm cải tạo tự nhiên và xã hội phục vụ nhân loại tiến bộ.
Những đặc trưng cơ bản của thực tiễn:
70
Thứ nhất, thực tiễn là những hoạt động vật chất - cảm tính, là những hoạt động
mà con người phải sử dụng lực lượng vật chất, công cụ vật chất tác động vào các
đối tượng vật chất để làm biến đổi chúng phục vụ cho nhu cầu phát triển của mình.
Thứ hai, hoạt động thực tiễn là hoạt động chỉ diễn ra trong xã hội, luôn bị giới
hạn bởi những điều kiện lịch sử - xã hội cụ thể, đồng thời, trải qua các giai đoạn
lịch sử phát triển cụ thể.
Thứ ba, thực tiễn là hoạt động có tính mục đích của con người nhằm cải tạo tự
nhiên và xã hội để thỏa mãn nhu cầu của mình, thích nghi một cách chủ động, tích
cực với thế giới.
Thực tiễn luôn luôn là dạng hoạt động cơ bản và phổ biến của xã hội loài người.
Hoạt động đó chỉ được tiến hành trong các quan hệ xã hội. Thực tiễn cũng có trình
động vận động và phát triển của nó. Trình độ phát triển của thực tiễn nói lên trình
độ thích nghi của con người. Do đó về mặt nội dung, cũng như về phương thức
thực hiện, thực tiễn có tính lịch sử xã hội.
Các dạng cơ bản của thực tiễn
Hoạt động sản xuất vật chất: Đây là dạng thực tiễn nguyên thuỷ và cơ bản nhất
vì nó quyết định sự tồn tại và phát triển của xã hội, tạo thành cơ sở của tất cả các
hình thức khác của hoạt động sống của con người.
Hoạt động chính trị xã hội: hoạt động này nhằm biến đổi người nhằm biến đổi,
cải tạo các quan hệ xã hội, phát triển các thiết chế xã hội... tạo ra môi trường xã
hội thuận lợi cho con người phát triển.
Hoạt động thực nghiệm khoa học: là hoạt động được tiến hành trong đều kiện
do con người tạo ra gần giống, giống hoặc lặp lại những trạng thái của tự nhiên
và xã hội nhằm xác định các quy luật vận động của đối tượng nghiên cứu. Hình
thức này nó có vai trò ngày càng tăng trong sự phát triển của xã hội.
Ba dạng cơ bản của thực thực tiễn có quan hệ biện chứng, tác động, ảnh hưởng
qua lại lẫn nhau. Chính sự tác động lẫn nhau giữa các dạng hoạt động làm cho
thực tiễn vận động, phát triển không ngừng và ngày càng có vai trò quan trọng
đối với nhận thức.
3.2. Vai trò của thực tiễn đối với nhận thức
Thực tiễn là cơ sở, động lực, mục đích chủ yếu và trực tiếp của nhận thức.
Là cơ sở của nhận thức, vì hoạt động nhận thức của con người xuất phát từ thực
tiễn và được thực hiện từ chính trong hoạt động thực tiễn. Thực tiễn đề ra nhu cầu
nhiệm vụ và phương hướng phát triển của nhận thức
Là động lực của nhận thức vì yêu cầu của thực tiễn đặt ra những nhiệm vụ mà
nhận thức phải giải quyết. Nhu cầu thực tiễn đòi hỏi phải có tri thức mới, phải
71
tổng kết kinh nghiệm, khái quát lý luận, từ đó thúc đẩy sự ra đời và phát triển của
các ngành khoa học. Từ trong hoạt động thực tiễn làm cho tri thức con người về
sự vật càng phong phú và sâu sắc hơn.
Là mục đích của nhận thức vì mọi hoạt động của con người đều phục vụ cho
đời sống vật chất và tinh thần, làm cho quan hệ giữa người với người ngày càng
hoàn thiện hơn.
Thực tiễn là tiêu chuẩn của chân lý. Chỉ có thực tiễn mới vật chất hoá được tri
thức, qua đó phản ánh được mức độ đúng sai của tri thức. Hơn nữa, nhận thức
trước hết nhằm giải đáp các vấn đề thực tiễn đặt ra và để chỉ đạo, định hướng hoạt
động thực tiễn. Như vậy, để phát hiện mức độ chính xác, đầy đủ của kết quả nhận
thức phải dựa vào thực tiễn. Qua đó, bổ sung, điều chỉnh, sửa chữa, phát triển và
hoàn thiện kết quả nhận thức.
Thực tiễn quyết định bản chất của nhận thức. Vai trò đó đòi hỏi chúng ta phải
luôn luôn quán triệt quan điểm nhận thức phải xuất phát từ thực tiễn, dựa trên cơ
sở thực tiễn, đi sâu vào thực tiễn, phải coi trọng công tác tổng kết thực tiễn. Việc
nghiên cứu lý luận phải liên hệ với thực tiễn, học đi đôi với hành.
Hộp 2.18. Sơ đồ chu trình chính sách

Xác định vấn đề Hoạch định Thực thi


chính sách chính sách chính sách

Phát hiện mâu Phân tích Duy trì


thuẫn chính sách chính sách

Đánh giá
chính sách
Nguồn:(Sưu tầm)

4. Các giai đoạn cơ bản của quá trình nhận thức


Lenin đã khắc họa một cách cô đọng bản chất của nhận thức. Ông cho rằng,
con đường biện chứng của sự nhận thức chân lý, của sự nhận thức thực tại khách
quan đi “Từ trực quan sinh động đến tư duy trừu tượng, và từ tư duy trừu tượng
đến thực tiễn” nhận thức là một quá trình biện chứng, diễn ra qua hai giai đoạn:
nhận thức cảm tính (trực quan sinh động) và nhận thức lý tính (tư duy trừu tượng).
4.1 Nhận thức cảm tính
Nhận thức cảm tính có được nhờ sự hoạt động của các giác quan của con người.
Nó được tiến hành thông qua ba hình thức nhận biết quan trọng là cảm giác, tri
giác, biểu tượng.
72
Cảm giác là hình thức đầu tiên của sự phản ánh hiện thực khách quan và là
nguồn gốc của tri thức. Cảm giác là mối liên hệ trực tiếp của ý thức với thế giới
bên ngoài, là sự biến thể, chuyển hoá của năng lượng tác động bên ngoài thành
yếu tố của ý thức. Tri giác nảy sinh trên cơ sở phối hợp, bổ sung lẫn nhau của
nhiều cảm giác, đưa lại cho chủ thể nhận thức sự hiểu biết tương đối đầy đủ hơn
về đối tượng phản ánh. Biểu tượng là hình ảnh của đối tượng nhận thức với những
thuộc tính, mối liên hệ nổi bật của nó được lưu giữ và tái hiện lại trong đầu óc chủ
thể.
Nhận thức cảm tính cung cấp những hiểu biết ban đầu về đối tượng nhận thức,
nhưng chỉ dừng lại ở những nét bề ngoài của đối tượng.
Nhiệm vụ của nhận thức là phải nắm bắt bản chất của đối tượng trong tính tất
yếu và tính quy luật của nó. Để làm được như vậy, nhận thức phải chuyển lên một
giai đoạn, trình độ cao hơn - nhận thức lý tính.
4.2 Nhận thức lý tính
Nhận thức lý tính có được nhờ sự hoạt động của tư duy trừu tượng, nó được
tiến hành qua ba hình thức: khái niệm, phán đoán, suy luận.
Khái niệm phản ánh những mối liên hệ và thuộc tính bản chất, phổ biến của
một lớp các sự vật, hiện tượng nào đó. Phán đoán là sự liên kết các khái niệm tạo
thành một mệnh đề có cấu trúc ngôn ngữ chặt chẽ nhằm khẳng định hay phủ định
một thuộc tính, mối liên hệ nào đó của hiện thực khách quan. Suy luận phản ánh
quá trình vận động của tư duy đi từ những cái đã biết đến việc nhận thức những
cái chưa biết một cách gián tiếp, dựa trên cơ sở sử dụng những tri thức đã có.
Nhận thức lý tính mang lại cho chủ thể nhận thức những hình ảnh về bản chất
của đối tượng nhận thức, thể hiện qua các khái niệm, phạm trù, quy luật. Các khái
niệm, phạm trù chính là sản phẩm của bộ óc con người, chúng đồng thời là hình
thức phản ánh giới tự nhiên một cách khái quát, trừu tượng.
4.3 Sự thống nhất giữa trực quan sinh động, tư duy trừu tượng và thực tiễn
Từ trực quan sinh động đến tư duy trừu tượng, từ tư duy trừu tượng đến thực
tiễn là một vòng khâu của quá trình nhận thức. Nhận thức trở về với thực tiễn vì:
Thứ nhất, mục đích của nhận thức là phục vụ thực tiễn. Vì vậy, nó phải trở về
để chỉ đạo hoạt động thực tiễn.
Thứ hai, đến giai đoạn tư duy trừu tượng vẫn có khả năng phản ánh sai lạc hiện
thực. Vì vậy, nhận thức phải quay trở về thực tiễn để kiểm tra kết quả nhận thức,
phân biệt đâu là nhận thức đúng, đâu là nhận thức sai.
Thứ ba, thực tiễn luôn vận động, phát triển. vì vậy, nhận thức phải trở về thực
tiễn để trên cơ sở thực tiễn mới tiếp tục bổ sung, phát triển nhận thức.
73
Hộp 2.19. Các giai đoạn của một quá trình tư duy
giải quyết vấn đề
Xuất hiện các
Nhận thức
liên tưởng
vấn đề

Sàng lọc liên tưởng và hình thành các giả thuyết

Kiểm tra giả thuyết

Chính xác hóa Khẳng định Phủ định

Giải quyết vấn đề Hành động tư duy mới

Nguồn: <https://hoc247.net/tam-ly-hoc-dai-cuong/bai-2-nhan-thuc-li-tinh-l7846.html>

5. Tính chất của chân lý


5.1. Quan niệm về chân lý
Vấn đề chân lý là một trong những vấn đề cơ bản của lý luận nhận thức. Từ
thời cổ đại cho đến ngày nay, các nhà triết học đã đưa ra những quan niệm khác
nhau về chân lý, về con đường đạt đến chân lý và tiêu chuẩn của chân lý.
Trong phạm vi lý luận nhận thức của chủ nghĩa Mác - Lênin, khái niệm chân
lý được dùng để chỉ những tri thức phù hợp với hiện thực khách quan mà con
người phản ánh và đã được thực tiễn kiểm nghiệm.
Chân lý là sản phẩm của quá trình con người nhận thức thế giới. Vì vậy chân
lý cũng được hình thành và phát triển từng bước phụ thuộc vào sự phát triển của
sự vật khách quan, vào điều kiện lịch sử – cụ thể của nhận thức, vào hoạt động
thực tiễn và hoạt động nhận thức của con người.

5.2 Các tính chất của chân lý


Tính khách quan. Vì nội dung mà chân lý phản ánh là hiện thực khách quan mà
con người nhận thức. Nội dung của nó không phụ thuộc vào ý thức của con người.
Tính tuyệt đối và tính tương đối. Chân lý tuyệt đối là tri thức hoàn toàn đúng
và đầy đủ về đối tượng. Về nguyên tắc, con người có thể đạt tới chân lý tuyệt đối,
vì không tồn tại một sự vật hiện tượng nào mà con người hoàn toàn không nhận
thức được. Khả năng đó trong quá trình phát triển của loài người là vô hạn. Song
khả năng đó lại bị hạn chế bởi những điều kiện cụ thể của con người và đối tượng.
Do vậy chân lý có tính tương đối.
74
Quan hệ giữa chân lý tương đối và chân lý tuyệt đối là quan hệ biện chứng giữa
các trình độ nhận thức. Một mặt, tính tuyệt đối của chân lý là tổng số các tính
tương đối. Mặt khác, trong mỗi tính tương đối bao giờ cũng chứa đựng những yếu
tố của tính tuyệt đối.
Tính cụ thể. Chân lý là cụ thể bởi vì đối tượng mà chân lý phản ánh bao giờ
cũng tồn tại một cách cụ thể, trong những điều kiện, hoàn cảnh cụ thể với những
quan hệ cụ thể. Vì vậy, bất kỳ chân lý nào cũng phải gắn với điều kiện lịch sử –
cụ thể.
Hộp 2.20. Sáu bước xử lý một vấn đề của tỷ phú công nghệ Elon Musk
Theo tạp chí Entrepreuner của Mỹ, thì Elon Musk sẽ giải quyết một vấn đề như sau:
Bước 1: Đặt câu hỏi. Trước một vấn đề chưa rõ, Musk không vội đưa ra câu trả lời. Ông ta đặt
ra câu hỏi. Câu hỏi này sẽ nhắm vào việc làm sao để ông có thể làm được tốt nhất, chứ không
phải chỉ tốt hơn người khác.
Bước 2: Thu thập dữ kiện càng nhiều càng tốt. Bước này không phát triển các giả thuyết,
thay vào đó là thực hiện các nghiên cứu. Với nhà khoa học, là thực hiện các thí nghiệm. Với
doanh nhân, là phỏng vấn các chuyên gia am tường nhất về lĩnh vực mình đang quan tâm.
Bước 3: Xây dựng các giả thuyết dựa trên bằng chứng và tính toán xác suất chúng có thể xảy
ra.
Bước 4: Đưa ra các kết luận và gắn một mức độ khả tín cho mỗi kết luận đó.
Bước 5: Tự bác bỏ kết luận. Dù kết luận của bản thân có thể chắc chắn đến đâu, hãy tự phản
biện hay tìm kiếm sự phản biện từ những người xung quanh để có thể tìm ra vấn đề mình không
nhận biết được từ góc nhìn chủ quan.
Bước 6: Nếu không ai chứng minh mình sai, thì có lẽ kết luận tạm thời đúng trong thời
điểm đó. Bởi sự vật luôn vận động, nhận thức khoa học cũng phải luôn tiến lên.
Nguồn: < http://www.trithuctructuyen.vn/6-buoc-suy-luan-thanh-cong-cua-ty-phu-elon-musk-
post797253.html>

VĂN BẢN VÀ CÂU HỎI KẾT CHƯƠNG


BỨC THƯ CỦA THỦ LĨNH DA ĐỎ JEFE SEATTLE
Tổng thống Mỹ gửi lời: Ông ấy muốn mua đất của chúng tôi.
Nhưng sao ông ấy có thể mua bán được bầu trời xanh, rồi cả đất mẹ thiêng liêng
này? Điều này thật lạ lùng. Nếu chúng tôi chẳng sở hữu khí trời tươi mới và dòng
nước long lanh, làm sao các ông có thể mua được?
Mỗi tấc đất đều thiêng liêng với đồng bào tôi, từng lá thông óng ánh, từng bờ
cát vàng, mỗi hạt sương sớm trong những khu rừng rậm rạp, những đồng cỏ xanh
và tiếng ve kêu rào rạc. Tất thảy đều chảy trong huyết mạch, lưu truyền trong kí
ức của mỗi chúng tôi.
75
Chúng tôi biết từng dòng nhựa sống trong hàng cây ấy như biết rõ dòng máu
chảy trong huyết quản. Chúng tôi, là một phần của đất mẹ và đất mẹ cũng là một
phần của chúng tôi. Những bông hoa ngát hương là chị em của chúng tôi. Từng
con gấu, con hươu và đại bàng vĩ đại đều là anh em của chúng tôi. Từng mỏm đá,
từng giọt sương trên bãi cỏ, từng sinh linh nhỏ bé và cả con người, cùng thuộc
một gia đình.
Dòng nước êm ả chảy qua con suối bờ sông không chỉ là nước, nó là máu của
tổ tiên chúng tôi. Nếu chúng tôi phải bán đi đất đai của mình, các ông hãy nhớ
rằng nó là thiêng liêng. Từng tia sáng chói chang từ mặt hồ này vẫn đang kể những
câu chuyện về cuộc đời của đồng bào tôi. Dòng nước, vẫn đang róc rách tiếng thì
thầm của cha ông.
Những dòng sông là người anh em của chúng tôi, giúp chúng tôi nguôi đi cơn
khát. Những dòng sông đã đưa thuyền chúng tôi đi xa và nuôi lớn bao thế hệ. Các
ông phải nhớ đối xử tử tế với dòng sông như anh em của mình.
Nếu chúng tôi bán đất đi, hãy nhớ trân trọng bầu không khí quý báu ấy, thứ đã
thổi linh hồn cho những gì mà nó kề bên che chở. Cũng chính bầu không khí này,
cha ông tôi đã hít hơi thở đầu tiên và trút hơi thở cuối cùng. Chính ngọn gió này
đã cho lũ trẻ của chúng tôi sức sống mãnh liệt. Nên nếu chúng tôi bán đất, người
da trắng phải gìn giữ nó và biến đây thành nơi liêng thiêng, nơi mà ai – dù trắng
hay đen, cũng có thể đến để hít một hơi thở ngọt bùi, vị của hương hoa đồng cỏ.
Các ông sẽ dạy lũ trẻ điều mà chúng tôi dạy những đứa trẻ của mình chứ? Rằng
Trái Đất là mẹ thiêng liêng? Và điều gì xảy đến với Trái Đất, rồi sẽ xảy đến với
những người con này.
Chúng tôi biết rằng: Trái Đất không thuộc về con người, con người mới thuộc
về Trái Đất. Tất cả mọi thứ đều kết nối như dòng máu cùng chảy trong huyết quản
kết nối con người chúng ta với nhau. Con người không kiến tạo nên chiếc tổ sống
này, con người chỉ là sợi tơ trong đó mà thôi. Điều gì con người làm với chiếc tổ
này, cũng là đang ảnh hưởng tới chính bản thân.
Chúng tôi chắc chắn: Chúa của các ông cũng là Chúa của chúng tôi. Trái Đất
là điều quý giá với Chúa và làm tổn hại đến nó chính là sự khinh rẻ với bậc kiến
tạo này.
Dẫu định mệnh của các ông vẫn là một bí ẩn với chúng tôi. Nhưng điều gì sẽ
xảy ra khi những đàn trâu cứ thế bị tàn sát? Từng đàn ngựa hoang kiêu hãnh bị
thuần hóa? Điều gì sẽ xảy ra khi mà những góc rừng kín đáo nặng mùi con người
và những gò đồi chín vàng thơ mộng lại bị vấy bẩn bởi đường dây vô tuyến?
Những cánh rừng sẽ ở đâu? Biến mất! Cánh chim đại bàng sẽ ở đâu? Biến mất!
76
Và việc nói lời tạm biệt với những đàn, những đồng ấy bằng cách tận diệt như
một thú vui có nghĩa gì? Là sự kết thúc của việc “sống”, sự bắt đầu của những
ngày tháng “sinh tồn”.
Và rồi khi mà người da đỏ cuối cùng đã biến mất cùng với sự hoang dã này,
với những kí ức cuối cùng của anh ấy về bóng mây trôi qua đồng cỏ, liệu những
bờ cát và vạt rừng này có còn ở đây không? Liệu tinh thần ấy còn đọng lại chút
nào ở nơi này?
Chúng tôi yêu Trái Đất này như cách mà đứa bé sơ sinh yêu từng nhịp đập con
tim của người mẹ. Vậy nên, nếu chúng tôi bán đất, hãy yêu thương nó như cách
mà chúng tôi đang coi nó như mẹ của mình. Hãy quan tâm nó, như cách mà chúng
tôi vẫn đang quan tâm. Và hãy luôn ghi nhớ kí ức về mảnh đất này vẹn nguyên
như khi các ông nhận nó từ chúng tôi. Hãy gìn giữ mảnh đất này, cho con cháu
của tất cả chúng ta và yêu nó như cách mà Thượng Đế yêu thương ta.
Chúng tôi là một phần của đất mẹ và các ông cũng vậy. Trái Đất này rất quý
giá với chúng tôi và cũng quý giá với các ông.
Cuối cùng, chúng tôi biết rằng chỉ có một Thượng Đế. Không một ai, dù là da
đỏ hay da trắng bị tách rời. Chúng ta, vẫn luôn mãi là anh em.” 4
Câu hỏi
Văn bản cho thấy:
1. Tính thống nhất vật chất của thế giới thể hiện như thế nào?
2. Vật chất quyết định ý thức thể hiện như thế nào?
3. Nguyên lý nào của Triết học Mác – Lênin được thể hiện rõ nhất? Vì sao?
4. Phạm trù nào của Triết học Mác - Lênin được thể hiện rõ nhất? Vì sao?
5. Quy luật nào của Triết học Mác - Lênin được thể hiện rõ nhất? Vì sao?
6. Những nhận định nào mang tính chân lý?
7. Những vấn đề nào mang tính toàn cầu, tính nhân loại được đặt ra?
8. Rút ra ý nghĩa phương pháp luận từ nội dung văn bản.

CÂU HỎI ÔN TẬP


1. Vì sao nói mối quan hệ giữa vật chất và ý thức là vấn đề cơ bản của triết
học.
2. Trình bày phương thức và hình thức tồn tại của vật chất và tính thống nhất
vật chất của thế giới.

4
<https://sachgiai.com/Tho-van/buc-thu-cua-thu-linh-nguoi-da-do-chief-seattle-xi-at-ton-7698.html>,
02/5/2017.

77
3. Phân tích nguồn gốc bản chất và kết cấu của ý thức.
4. Mối quan hệ biện chứng giữa vật chất và ý thức được thể hiện như thế nào?
Cho biết ý nghĩa phương pháp luận của mối quan hệ này.
5. Phân tích nội dung hai nguyên lý cơ bản của phép biện chứng duy vật? Ý
nghĩa phương pháp luận?
6. Trình bày nội dung từng cặp phạm trù cơ bản của phép biện chứng duy vật
và rút ra các ý nghĩa phương pháp luận.
7. Chứng minh quy luật từ sự thay đổi về lượng dẫn đến sự thay đổi về chất và
ngược lại vạch ra cách thức của sự vận động, phát triển? Cho biết y nghĩa phương
pháp luận của quy luật này?
8. Chứng minh quy luật thống nhất và đấu tranh giữa các mặt đối lập cho biết
nguồn gốc của sự vận động, phát triển? Cho biết ý nghĩa phương pháp luận của
quy luật này?
9. Chứng minh quy luật phủ định của phủ định cho biết khuynh hướng của sự
vận động, phát triển? Cho biết ý nghĩa phương pháp luận của quy luật này?
10. Thực tiễn có vai trò như thế nào đối với nhận thức? Cho ví dụ để làm sáng
tỏ các vai trò đó.
11. Hãy làm sáng tỏ các giai đoạn của quá trình nhận thức.
CÂU HỎI THẢO LUẬN
1. Điểm giống và khác nhau giữa duy tâm chủ quan và duy tâm khách quan. Kể
những câu chuyện biểu hiện chủ nghĩa duy tâm trong đời sống.
2. Tìm những câu ca dao, tục ngữ phản ánh mối quan hệ giữa vật chất và ý thức.
3. Trí tuệ nhân tạo có thể thay thế được con người hay không? Tại sao? Phân
tích vai trò của trí tuệ nhân tạo đối với cuộc sống con người.
4. Phân biệt sự giống và khác nhau giữa quy luật và mối liên hệ.
5. Hiện tượng tham nhũng có phải là quy luật hay không? Vì sao?
6. Để có một bức ảnh đẹp, người nghệ sĩ đã sử dụng quan điểm toàn diện, phiến
diện hay cả hai? Vì sao?
7. Khi nào thì vấn đề dân số:
a. Trở thành nhân tố thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội?
b. Trở thành nhân tố kìm hãm sự phát triển kinh tế - xã hội?
8. Câu: Ta với mình tuy hai mà một/ Mình với ta tuy một mà hai phản ánh rõ
nhất phạm trù nào của phép biện chứng duy vật? Vì sao?
9. Câu ca dao sau phản ánh rõ nhất phạm trù nào của phép biện chứng duy vật?
Vì sao?
Mấy ai là kẻ không thầy/ Thế gian thường nói đố mầy làm nên
78
10. Thành ngữ Thấy vậy nhưng không phải vậy, phản ánh rõ nhất phạm trù nào
của phép biện chứng duy vật? Hãy chứng minh tính đúng đắn của thành ngữ này.

79
Chương 3
CHỦ NGHĨA DUY VẬT LỊCH SỬ

Mục tiêu
Về kiến thức
- Luận giải nhằm làm sáng tỏ câu hỏi xã hội vận động, phát triển bằng cách nào?
thông qua việc vận dụng các cặp phạm trù: lực lượng sản xuất – quan hệ sản
xuất, cơ sở hạ tầng – kiến trúc thượng tầng, tồn tại xã hội – ý thức xã hội...
- Trình bày được nguồn gốc, bản chất của giai cấp, nhà nước, cách mạng xã hội.
- Lĩnh hội được các tri thức của triết học Mác - Lênin về con người, bản chất con
người cũng như quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về phát triển con người
người trong tiến trình cách mạng ở Việt Nam.
Về kỹ năng
- Vận dụng các kiến thức đã học để có được những nhận xét, đánh giá, bình luận
đúng đắn về cơ sở lý luận các quan điểm của Đảng, chủ trương chính sách của
Nhà nước trong xây dựng, phát triển đất nước.
- Phân tích, nhận định, phán đoán được sự vận động của con người, xã hội, các
bước đi trong tiến trình phát triển của một quốc gia, một doanh nghiệp cụ thể
thông qua lăng kính một số phạm trù của chủ nghĩa duy vật lịch sử.
Về thái độ
- Tích cực, khách quan trong nhìn nhận, đánh giá các vấn đề về giai cấp, nhà
nước, cách mạng; về đường lối chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của
Nhà nước.
- Tin tưởng, lạc quan với sự nghiệp xây dựng và phát triển đất nước; với khả
năng, năng lực của bản thân trong việc nắm bắt, thực hiện các cơ hội có được
gắn với những điều kiện, hoàn cảnh cụ thể của bản thân và của xã hội.

Chủ nghĩa duy vật lịch sử là bộ phận hợp thành của triết học Mác - Lênin, là
khoa học triết học về xã hội. Đó là kết quả của việc vận dụng phương pháp luận
của chủ nghĩa duy vật biện chứng và phép biện chứng duy vật vào việc nghiên
cứu đời sống xã hội và lịch sử nhân loại. Chủ nghĩa duy vật lịch sử chứng minh
không phải ý thức con người quyết định sự tồn tại của họ mà ngược lại. Tồn tại
xã hội, trước hết là phương thức sản xuất là nhân tố, xét đến cùng quyết định toàn
bộ đời sống và sự phát triển của xã hội. Sự phát triển của xã hội tuân theo tiến
trình lịch sử - tự nhiên. Nguồn gốc, phương thức và khuynh hướng của tiến trình
đó chịu sự chi phối bởi các quy luật xã hội khách quan, trong đó, quy luật về sự
80
phù hợp của quan hệ sản xuất với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất là nền
tảng, quyết định sự vận động, phát triển của xã hội qua các giai đoạn lịch sử khác
nhau, xuyên suốt quá trình này là vai trò của quần chúng nhân dân và hoạt động
thực tiễn của họ - với tư cách là chủ thể làm nên lịch sử. Do đó, quan niệm về con
người, bản chất con người và vai trò sáng tạo lịch sử của quần chúng nhân dân
cũng là một nội dung cơ bản của chủ nghĩa duy vật lịch sử.
I. HỌC THUYẾT HÌNH THÁI KINH TẾ - XÃ HỘI
Học thuyết hình thái kinh tế - xã hội của chủ nghĩa Mác - Lênin bao gồm một
hệ thống các quan điểm cơ bản: sản xuất vật chất là cơ sở, nền tảng của sự vận
động, phát triển xã hội; biện chứng giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất;
biện chứng giữa cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng của xã hội; sự phát triển
các hình thái kinh tế - xã hội là một quá trình lịch sử - tự nhiên, triết học về con
người. Hệ thống quan điểm lý luận khoa học này đã phản ánh bản chất và quy
luật vận động, phát triển của lịch sử xã hội loài người.
1. Sản xuất vật chất là cơ sở của sự tồn tại và phát triển xã hội
Để tồn tại và phát triển, con người phải tiến hành sản xuất. Sản xuất là hoạt
động không ngừng sáng tạo ra giá trị vật chất và tinh thần nhằm mục đích thoả
mãn nhu cầu tồn tại và phát triển của con người. Quá trình sản xuất diễn ra trong
xã hội loài người chính là sự sản xuất xã hội - sản xuất và tái sản xuất ra đời sống
hiện thực.
Sự sản xuất xã hội bao gồm ba phương diện không tách rời nhau là sản xuất
vật chất, sản xuất tinh thần và sản xuất ra bản thân con người.
Sản xuất vật chất là cơ sở, nền tảng của sự tồn tại và phát triển xã hội. Đó là quá
trình con người sử dụng công cụ lao động tác động vào tự nhiên, cải biến các dạng
vật chất của giới tự nhiên để tạo ra của cải xã hội, nhằm thoả mãn nhu cầu của
mình.
Vai trò của sản xuất vật chất được thể hiện ở chỗ, đó là tiền đề trực tiếp tạo ra tư
liệu sinh hoạt của con người nhằm duy trì sự tồn tại và phát triển cá nhân và xã
hội.
Sản xuất vật chất là tiền đề của mọi hoạt động lịch sử của con người. Hoạt động
sản xuất vật chất là cơ sở hình thành nên quan hệ kinh tế - vật chất giữa người với
người, từ đó hình thành nên các quan hệ xã hội khác như quan hệ chính trị, pháp
luật, đạo đức, tôn giáo... Nhờ sự sản xuất ra của cải vật chất, con người đồng thời
sáng tạo ra toàn bộ đời sống vật chất và tinh thần với tất cả sự phong phú, phức
tạp của nó.
Sản xuất vật chất là điều kiện chủ yếu sáng tạo ra bản thân con người, quyết sự
81
hình thành, phát triển phẩm chất xã hội của con người. Nhờ hoạt động sản xuất
vật chất mà con người hình thành nên ngôn ngữ, nhận thức, tư duy, tình cảm, đạo
đức…
2. Biện chứng giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất
2.1. Phương thức sản xuất
Phương thức sản xuất là cách thức con người thực hiện quá trình sản xuất vật
chất ở những giai đoạn lịch sử nhất định. Đó cũng là cách thức con người thực
hiện đồng thời sự tác động giữa con người với tự nhiên (mặt lực lượng sản xuất)
và sự tác động giữa người với người (mặt quan hệ sản xuất) để tạo ra của cải vật
chất ở những giai đoạn lịch sử nhất định.
Lực lượng sản xuất là phương thức kết hợp giữa người lao động với tư liệu sản
xuất. Về cấu trúc, lực lượng sản xuất được xem xét trên hai mặt: kinh tế - kỹ
thuật (tư liệu sản xuất) và kinh tế - xã hội (người lao động). Như vậy, lực lượng
sản xuất là một hệ thống gồm các yếu tố người lao động và tư liệu sản xuất cùng
mối quan hệ của chúng, tạo ra thuộc tính đặc biệt là sức sản xuất. Đây là sự thể
hiện năng lực hoạt động sản xuất vật chất của con người.
Người lao động là con người có tri thức, kinh nghiệm, kỹ năng lao động và
năng lực sáng tạo nhất định trong quá trình sản xuất. Tư liệu sản xuất bao gồm tư
liệu lao động và đối tượng lao động. Đối tượng lao động là những yếu tố vật chất
của sản xuất mà lao động con người dùng tư liệu lao động tác động lên. Tư liệu
lao động là vật hay hệ thống những vật mà con người tạo ra để tác động lên đối
tượng lao động. Tư liệu lao động gồm công cụ lao động và phương tiện lao động.
Công cụ lao động là những phương tiện vật chất mà con người trực tiếp sử dụng
để tác động vào đối tượng lao động. Ngày nay, công cụ lao động được tin học
hoá, tự động hoá và trí tuệ hoá càng có vai trò đặc biệt quan trọng. Công cụ lao
động là yếu tố động nhất, cách mạng nhất trong lực lượng sản xuất, là nguyên
nhân sâu xa của mọi biến đổi kinh tế - xã hội trong lịch sử; là tiêu chuẩn để phân
biệt các thời đại kinh tế khác nhau. Phương tiện lao động là những yếu tố vật
chất của sản xuất thuộc hệ thống kết cấu hạ tầng: giao thông vận tải, thông tin liên
lạc, bến cảng, kho bãi…
Sự phát triển của lực lượng sản xuất thể hiện ở cả tính chất và trình độ. Tính
chất của lực lượng sản xuất nói lên tính chất cá nhân hoặc tính chất xã hội hoá
trong việc sử dụng tư liệu sản xuất. Trình độ của lực lượng sản xuất thể hiện ở
trình độ người lao động và công cụ lao động; trình độ tổ chức lao động xã hội;
trình độ ứng dụng khoa học vào sản xuất; trình độ phân công lao động xã hội.

82
Trong thực tế, tính chất và trình độ phát triển của lực lượng sản xuất không tách
rời nhau.
Ngày nay, khoa học đã trở thành lực lượng sản xuất trực tiếp. Khoa học sản
xuất ra của cải đặc biệt, hàng hoá đặc biệt. Đó là những phát minh sáng chế, những
bí mật công nghệ. Khoảng cách từ phát minh, sáng chế đến ứng dụng vào sản xuất
đã được rút ngắn làm cho năng suất lao động, của cải xã hội tăng nhanh. Khoa
học có khả năng thâm nhập vào tất cả các yếu tố của sản xuất, làm cho nền kinh
tế của nhiều quốc gia phát triển đang trở thành nền kinh tế tri thức.
Quan hệ sản xuất là tổng hợp các quan hệ kinh tế - vật chất giữa người với
người trong quá trình sản xuất vật chất, bao gồm quan hệ về sở hữu đối với tư liệu
sản xuất, quan hệ trong tổ chức quản lý và trao đổi hoạt động với nhau, quan hệ về
phân phối sản phẩm lao động.
Quan hệ sở hữu về tư liệu sản xuất là quan hệ giữa các tập đoàn người trong
việc chiếm hữu, sử dụng các tư liệu sản xuất. Đây là quan hệ quy định địa vị kinh
tế - xã hội của các tập đoàn người trong sản xuất, từ đó quy định quan hệ quản lý
và phân phối. Quan hệ về tổ chức quản lý sản xuất là quan hệ giữa các tập đoàn
người trong việc tổ chức sản xuất và phân công lao động. Quan hệ này có vai trò
quyết định trực tiếp đến quy mô, tốc độ, hiệu quả của nền sản xuất; có khả năng
đẩy nhanh hoặc kìm hãm sự phát triển của nền sản xuất xã hội. Quan hệ về phân
phối sản phẩm lao động là quan hệ giữa các tập đoàn người trong việc phân phối
sản phẩm lao động xã hội, nói lên cách thức và quy mô của cải vật chất mà các
tập đoàn người được hưởng.
2.2. Quy luật quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng
sản xuất
Lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất là hai mặt đối lập nằm trong chỉnh thể
là phương thức sản xuất. Trong mối quan hệ đó thì lực lượng sản xuất quyết định
quan hệ sản xuất, quan hệ sản xuất tác động trở lại đối với lực lượng sản xuất tạo
thành quy luật quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản
xuất. Đây là quy luật cơ bản nhất của sự vận động và phát triển xã hội.
Sự quyết định của lực lượng sản xuất đối với quan hệ sản xuất
Sự vận động và phát triển của phương thức sản xuất bắt đầu từ sự biến đổi của
lực lượng sản xuất. Lực lượng sản xuất là mặt vật chất, mặt nội dung của quá trình
sản xuất; quan hệ sản xuất là mặt tinh thần, hình thức xã hội của quá trình sản
xuất. Trong mối quan hệ này thì nội dung quyết định hình thức.
Lực lượng sản xuất vận động, phát triển không ngừng đòi hỏi phải kịp thời thiết
lập quan hệ sản xuất mới, phù hợp với trình độ của lực lượng sản xuất. Marx đã
83
nêu tư tưởng về vai trò của sự phát triển lực lượng sản xuất đối với việc thay đổi
các quan hệ xã hội: “Những quan hệ xã hội đều gắn liền mật thiết với những lực
lượng sản xuất. Do có những lực lượng sản xuất mới, loài người thay đổi phương
thức sản xuất của mình, và do thay đổi phương thức sản xuất, cách kiếm sống của
mình, loài người thay đổi tất cả những quan hệ xã hội của mình. Cái cối xay quay
bằng tay đưa lại xã hội có lãnh chúa, các cối xay chạy bằng hơi nước đưa lại xã hội
có nhà tư bản công nghiệp.”5
Như vậy, lực lượng sản xuất quyết định quan hệ sản xuất trên các mặt hình
thức của quan hệ sản xuất và sự biến đổi của quan hệ sản xuất.
Sự tác động trở lại của quan hệ sản xuất đối với lực lượng sản xuất
Vai trò của quan hệ sản xuất đối với lực lượng sản xuất được thực hiện thông
qua ảnh hưởng của quan hệ sản xuất đối với trình độ phát triển của lực lượng sản
xuất.
Sự phù hợp của quan hệ sản xuất với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất
là một trạng thái mà các yếu tố cấu thành của quan hệ sản xuất tạo ra sự thuận lợi
cho lực lượng sản xuất phát triển. Dấu hiệu nhận biết thể hiện ở năng suất lao
động tăng lên.
Trạng thái mâu thuẫn xuất hiện khi lực lượng sản xuất chuyển sang một trình
độ mới với tính chất xã hội hoá ngày càng cao trong khi quan hệ sản xuất vẫn duy
trì hình thức biểu hiện cũ. Điều đó đòi hỏi phải xoá bỏ quan hệ sản xuất cũ, thiết
lập quan hệ sản xuất mới phù hợp.
Trạng thái vận động của mâu thuẫn biện chứng giữa lực lượng sản xuất và quan
hệ sản xuất diễn ra là từ phù hợp đến không phù hợp, rồi đến sự phù hợp mới ở
trình độ cao hơn. Sự tác động biện chứng giữa lực lượng sản xuất với quan hệ sản
xuất làm cho lịch sử xã hội loài người là lịch sử kế tiếp nhau của các phương thức
sản xuất.
Trong xã hội có đối kháng giai cấp, mâu thuẫn giữa lực lượng sản xuất và quan
hệ sản xuất được biểu hiện về mặt xã hội là mâu thuẫn giai cấp; được giải quyết
thông qua đấu tranh giai cấp mà đỉnh cao là cách mạng xã hội.
Trong thực tiễn, muốn phát triển kinh tế phải bắt đầu từ phát triển lực lượng
sản xuất, trước hết là phát triển lực lượng lao động và công cụ lao động. Muốn
xoá bỏ một quan hệ sản xuất cũ, thiết lập một quan hệ sản xuất mới phải căn cứ
từ trình độ phát triển của lực lượng sản xuất. Nhận thức đúng đắn quy luật này có

5
C. Mác và Ph. Ăngghen (1995), Toàn tập, tập 4, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, tr.187.

84
ý nghĩa rất quan trọng trong quán triệt, vận dụng quan điểm, đường lối, chính
sách, là cơ sở khoa học để nhận thức sâu sắc sự đổi mới tư duy kinh tế của Đảng
Cộng sản Việt Nam.

Hộp 3.1. Lực lượng sản xuất quyết định quan hệ sản xuất
Lực lượng sản xuất quyết định quan hệ sản xuất, thể hiện:
- Công cụ lao động thay đổi làm cho quan hệ sản xuất thay đổi.
- Trí tuệ con người phát triển làm cho quan hệ sản xuất thay đổi. Cụ thể:
- Xã hội công xã nguyên thủy: Công cụ thô sơ, năng suất lao động thấp nên con người
phải liên kết lại.
- Xã hội chiếm hữu nô lệ: công cụ bằng đồng, sắt phổ biến thì chế độ tư hữu, quan hệ bóc
lột trở nên phổ biến.
- Xã hội phong kiến: Lực lượng sản xuất tiếp tục phát triển làm cho quan hệ bóc lột thay
đổi thành địa chủ bóc lột nông dân.
- Xã hội tư bản chủ nghĩa: Lực lượng sản xuất mang tính xã hội hóa thì hình thức sở hữu
trí tuệ ngày càng giữ vai trò quan trọng.
Như vậy, lực lượng sản xuất phát triển là nguồn gốc sâu xa làm biến đổi xã hội.
Nguồn: Nhóm tác giả biên soạn, 2020

3. Biện chứng giữa cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng của xã hội
Sự liên hệ và tác động lẫn nhau giữa những quan hệ kinh tế và các quan hệ
chính trị tinh thần, hình thành trên những quan hệ kinh tế đó được phản ánh trong
quy luật về mối quan hệ biện chứng giữa cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng.
3.1. Khái niệm cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng của xã hội
Cơ sở hạ tầng là toàn bộ những quan hệ sản xuất của một xã hội trong sự vận
động hiện thực của chúng hợp thành cơ cấu kinh tế của xã hội đó.
Cấu trúc của cơ sở hạ tầng bao gồm: quan hệ sản xuất thống trị, quan hệ sản
xuất tàn dư, quan hệ sản xuất mầm mống. Mỗi quan hệ sản xuất có một vị trí, vai
trò khác nhau. Trong đó quan hệ sản xuất thống trị đặc trưng cho cơ sở hạ tầng của
xã hội đó.
Kiến trúc thượng tầng là toàn bộ những quan điểm, tư tưởng xã hội với những
thiết chế xã hội tương ứng cùng những quan hệ nội tại của thượng tầng hình thành
trên một cơ sở hạ tầng nhất định.
Cấu trúc của kiến trúc thượng tầng bao gồm toàn bộ những quan điểm tư tưởng
về chính trị, pháp quyền, đạo đức, tôn giáo, nghệ thuật, triết học...cùng những
thiết chế xã hội tương ứng như nhà nước, đảng phái, giáo hội, các đoàn thể và tổ
chức xã hội khác. Một số bộ phận như kiến trúc thượng tầng chính trị và pháp lý
có mối liên hệ trực tiếp với cơ sở hạ tầng, còn các yếu tố khác như triết học, nghệ
thuật, tôn giáo, đạo đức...có liên hệ gián tiếp.
Đặc trưng của kiến trúc thượng tầng là sự thống trị về chính trị và tư tưởng của
85
giai cấp thống trị. Do vậy, bộ phận có quyền lực mạnh nhất trong kiến trúc thượng
tầng của xã hội có đối kháng giai cấp là nhà nước.
3.2. Quy luật về mối quan hệ biện chứng giữa cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng
tầng của xã hội
Vai trò quyết định của cơ sở hạ tầng đối với kiến trúc thượng tầng
Chủ nghĩa duy vật lịch sử khẳng định cơ sở hạ tầng quyết định kiến trúc thượng
tầng. Bởi vì, quan hệ vật chất quyết định quan hệ tinh thần; tính tất yếu kinh tế,
xét đến cùng, quyết định tính tất yếu chính trị - xã hội.
Vai trò quyết định của cơ sở hạ tầng đối với kiến trúc thượng tầng thể hiện
trước hết ở chỗ, cơ sở hạ tầng với tính cách là cơ cấu kinh tế hiện thực của xã hội
sẽ quyết định kiểu kiến trúc thượng tầng của xã hội ấy. Cơ sở hạ tầng không chỉ
sản sinh ra một kiểu kiến trúc thượng tầng tương ứng - tức là quyết định nguồn
gốc, mà còn quyết định đến cơ cấu, tính chất và sự vận động, phát triển của kiến
trúc thượng tầng.
Những biến đổi căn bản của cơ sở hạ tầng sớm hay muộn sẽ dẫn đến sự biến
đổi căn bản trong kiến trúc thượng tầng. Sự biến đổi đó diễn ra trong từng hình
thái kinh tế - xã hội, cũng như khi chuyển từ hình thái kinh tế - xã hội này sang
hình thái kinh tế - xã hội khác. Nguyên nhân của những biến đổi đó xét cho cùng
là do sự phát triển của lực lượng sản xuất. Trong xã hội có đối kháng giai cấp, sự
biến đổi đó tất yếu phải thông qua đấu tranh giai cấp và cách mạng xã hội.
Sự tác động trở lại của kiến trúc thượng tầng đối với cơ sở hạ tầng
Kiến trúc thượng tầng củng cố, hoàn thiện và bảo vệ cơ sở hạ tầng sinh ra nó; ngăn
chặn cơ sở hạ tầng mới, đấu tranh xoá bỏ tàn dư cơ sở hạ tầng cũ; định hướng, tổ
chức, xây dựng chế độ kinh tế của kiến trúc thượng tầng. Tác động của kiến trúc
thượng tầng đối với cơ sở hạ tầng diễn ra theo hai chiều hướng. Khi kiến trúc
thượng tầng phản ánh đúng tính tất yếu kinh tế, các quy luật kinh tế khách quan sẽ thúc
đẩy kinh tế - xã hội phát triển. Và ngược lại, kiến trúc thượng tầng sẽ kìm hãm sự phát
triển của kinh tế và đời sống xã hội.
Trong các bộ phận của kiến trúc thượng tầng thì kiến trúc thượng tầng về chính trị
có vai trò quan trọng nhất, trong đó nhà nước có sự tác động to lớn đối với cơ sở hạ
tầng. Các bộ phận khác của kiến trúc thượng tầng như triết học, đạo đức, tôn giáo, nghệ
thuật… cũng đều có ảnh hưởng mạnh mẽ đến cơ sở hạ tầng bằng những hình thức khác
nhau, với các cơ chế khác nhau.
Sự vận động của quy luật này dưới chủ nghĩa xã hội có những đặc điểm riêng. Sự
thiết lập kiến trúc thượng tầng chính trị xã hội chủ nghĩa là tiền đề cho sự hình thành,
phát triển của cơ sở hạ tầng xã hội chủ nghĩa. Trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã

86
hội, cơ sở hạ tầng còn mang tính chất quá độ với một kết cấu kinh tế nhiều thành phần
đan xen nhau của nhiều loại hình kinh tế - xã hội. Do vậy, phải phát huy cao độ vai trò
của kiến trúc thượng tầng trong phát triển kinh tế và xây dựng chủ nghĩa xã hội.
Ý nghĩa của quy luật trong đời sống xã hội
Quy luật về mối quan hệ biện chứng giữa cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng là
cơ sở khoa học cho việc nhận thức một cách đúng đắn mối quan hệ giữa kinh tế và chính
trị. Trong mối quan hệ này thì kinh tế quyết định chính trị, chính trị tác động trở lại kinh
tế. Chính vì vậy, trong nhận thức và thực tiễn, không tách tách rời hay tuyệt đối hoá
kinh tế hoặc chính trị.
Trong quá trình lãnh đạo cách mạng, Đảng Cộng sản Việt Nam rất quan tâm đến
nhận thức và vận dụng quy luật này. Trong thời kỳ đổi mới đất nước, Đảng chủ trương
đổi mới toàn diện cả kinh tế và chính trị. Đảng lấy đổi mới kinh tế là trung tâm, đồng
thời từng bước đổi mới chính trị một cách thận trọng, vững chắc bằng những hình thức,
bước đi thích hợp; giải quyết tốt mối quan hệ giữa đổi mới - ổn định - phát triển, giữ
vững định hướng xã hội chủ nghĩa.
Hộp 3.2. Quan hệ biện chứng giữa cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng
Những quan điểm, tư tưởng xã với
KIẾN TRÚC những thiết chế tương ứng: Hệ thống
THƯỢNG TẤNG
nhà nước.
Toàn bộ những quan hệ sản xuất hợp
Quyết CƠ SỞ HẠ TẦNG thành cơ cấu kinh tế của xã hội
Tác
định động
Toàn bộ năng lực sản xuất của một
LỰC LƯỢNG
SẢN XUẤT xã hội nhất định ở vào từng thời kỳ
nhất định.
Nguồn: Nhóm tác giả biên soạn, 2020
4. Sự phát triển các hình thái kinh tế - xã hội là một quá trình lịch sử - tự
nhiên
4.1. Phạm trù hình thái kinh tế - xã hội
Hình thái kinh tế - xã hội là một phạm trù cơ bản của chủ nghĩa duy vật lịch sử
dùng để chỉ xã hội ở từng nấc thang lịch sử nhất định với một kiểu quan hệ sản
xuất đặc trưng cho xã hội đó, phù hợp với một trình độ nhất định của lực lượng
sản xuất và một kiến trúc thượng tầng tương ứng được xây dựng trên những quan
hệ sản xuất ấy.
Phạm trù hình thái kinh tế - xã hội chỉ ra kết cấu xã hội trong mỗi giai đoạn
lịch sử nhất định bao gồm ba yếu tố cơ bản, phổ biến: lực lượng sản xuất: quan
hệ sản xuất (cơ sở hạ tầng); kiến trúc thượng tầng. Lực lượng sản xuất là nền tảng
vật chất của xã hội, tiêu chuẩn khách quan để phân biệt các thời đại kinh tế khác
nhau, yếu tố xét đến cùng quyết định sự vận động, phát triển của hình thái kinh tế
87
- xã hội. Quan hệ sản xuất là quan hệ khách quan, cơ bản, chi phối và quyết định
mọi quan hệ xã hội, đồng thời là tiêu chuẩn quan trọng nhất để phân biệt bản chất
các chế độ xã hội khác nhau. Kiến trúc thượng tầng là sự thể hiện các mối quan hệ
giữa người với người trong lĩnh vực tinh thần, tiêu biểu cho bộ mặt tinh thần của xã
hội.
4.2. Tiến trình lịch sử - tự nhiên của xã hội loài người
Ba yếu tố của hình thái kinh tế - xã hội tác động biện chứng, tạo nên sự vận
động, phát triển của lịch sử xã hội, thông qua sự tác động tổng hợp của hai quy
luật cơ bản là quy luật quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ của lực lượng sản
xuất và quy luật về mối quan hệ biện chứng giữa cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng
tầng của xã hội.
Sự vận động phát triển của xã hội bắt đầu từ sự phát triển của lực lượng sản
xuất mà trước hết là sự biến đổi, phát triển của công cụ sản xuất và sự phát triển
về tri thức, kinh nghiệm, kỹ năng của người lao động. Khi lực lượng sản xuất phát
triển đến một mức độ nhất định thì quan hệ sản xuất phải thay đổi, tức là cơ sở hạ
tầng thay đổi. Khi cơ sở hạ tầng thay đổi, sẽ dẫn đến sự thay đổi của kiến trúc
thượng tầng. Đến đây, tất cả các yếu tố cấu thành một hình thái kinh tế - xã hội
đã thay đổi. Hình thái kinh tế - xã hội này chuyển sang hình thái kinh tế - xã hội
khác cao hơn (xã hội này chuyển sang một xã hội khác cao hơn).
Trong tiến trình lịch sử - tự nhiên của xã hội loài người, bao hàm cả sự phát
triển tuần tự đối với lịch sử phát triển toàn thế giới và sự phát triển “bỏ qua” một
hay vài hình thái kinh tế - xã hội đối với một số quốc gia, dân tộc cụ thể. Do đặc
điểm về lịch sử, về không gian, thời gian, về sự tác động của nhân tố khách quan
và chủ quan, có những quốc gia phát triển tuần tự, nhưng có những quốc gia phát
triển bỏ qua một hay vài hình thái kinh tế - xã hội nào đó. Bản chất của việc "bỏ
qua" một hay vài hình thái kinh tế - xã hội sự phát triển rút ngắn các giai đoạn,
bước đi của nền văn minh loài người, cốt lõi là sự tăng trưởng nhảy vọt của lực
lượng sản xuất.
Hình thái kinh tế - xã hội cộng sản chủ nghĩa ra đời là tất yếu khách quan của
lịch sử xã hội. Chính sự phát triển của lực lượng sản xuất hiện đại với tính chất
xã hội hóa cao và giai cấp vô sản tiên tiến, cách mạng đã mâu thuẫn với chế độ
sở hữu tư nhân tư liệu sản xuất giữa đã phát triển cả về số lượng và chất lượng.
Mâu thuẫn này không thể được giải quyết trong khuôn khổ phương thức sản xuất
tư bản chủ nghĩa. Với tư cách là hình thức của lực lượng sản xuất, sự vận động
nội tại của nền sản xuất, đòi hỏi phải hình thành quan hệ sản xuất dựa trên chế độ
công hữu về tư liệu sản xuất. Khi các hình thức công hữu về tư liệu sản xuất ngày
88
càng trở nên phổ biến, cũng là lúc hình thái kinh tế xã hội cộng sản chủ nghĩa
từng bước hình thành và phát triển.
4.3. Giá trị khoa học, ý nghĩa cách mạng của lý luận hình thái kinh tế - xã hội
Lý luận hình thái kinh tế - xã hội đã giải quyết một cách khoa học về vấn đề
phân loại các chế độ xã hội và phân kỳ lịch sử, thay thế các quan niệm duy tâm,
siêu hình trước đó đã thống trị trong khoa học xã hội. Lý luận này chỉ ra động lực
phát triển của lịch sử xã hội không phải do một lực lượng tinh thần hoặc lực lượng
siêu nhiên thần bí, mà do hoạt động thực tiễn của con người, trước hết là thực tiễn sản
xuất vật chất dưới sự tác động của các quy luật khách quan.
Học thuyết hình thái kinh tế - xã hội là cơ sở khoa học cho việc xác định con
đường phát triển của Việt Nam, đó là quá độ lên chủ nghĩa xã hội, bỏ qua chế độ
tư bản chủ nghĩa. Bản chất của sự phát triển rút ngắn xã hội là rút ngắn các giai
đoạn, bước đi của nền văn minh, cốt lõi là sự tăng trưởng nhảy vọt của lực lượng
sản xuất.
Học thuyết hình thái kinh tế - xã hội là cơ sở lí luận, phương pháp luận khoa
học và cách mạng trong đấu tranh bác bỏ những quan điểm thù địch, sai trái.
Ngày nay thực tiễn xã hội và sự phát triển của nhận thức khoa học đã bổ sung,
phát triển mới các quan niệm lịch sử xã hội, song lí luận hình thái kinh tế - xã hội
vẫn giữ nguyên giá trị, là quan niệm duy nhất khoa học và cách mạng để phân
tích lịch sử và nhận thức các vấn đề xã hội, là cơ sở nền tảng lí luận cho chủ nghĩa
xã hội khoa học.
Nghiên cứu lý luận hình thái kinh tế - xã hội có ý nghĩa rất quan trọng đối với
nâng cao nhận thức về bản chất khoa học và cách mạng của chủ nghĩa Mác -
Lênin, quán triệt sâu sắc đường lối của Đảng Cộng sản Việt Nam về xây dựng
chủ nghĩa xã hội, củng cố niềm tin, lý tưởng cách mạng, kiên định con đường chủ
nghĩa xã hội. Đây cũng là cơ sở khoa học và cách mạng trong cuộc đấu tranh tư
tưởng chống lại các quan điểm sai lầm, phản động hòng phủ nhận mục tiêu, lý tưởng,
phủ nhận con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam.

Hộp 3.3. CCLĐ phát triển làm cho xã hội phát triển

89
Trong xã hội CXNT: CCLĐ bằng đá, QHSX dựa trên chế độ công hữu; hoạt
động kinh tế: hái lượm, săn bắt
CCLĐ PHÁT TRIỂN

CCLĐ bằng đồng, sắt ra đời, hoạt động kinh tế: trồng trọt, chăn nuôi

Tư hữu TLSX, giai cấp xuất hiện: Nhà nước CHNL (hoặc PK) ra đời

Hệ tư tưởng và thiết chế của chủ nô (hoặc địa chủ) thay thế hình thức tổ chức của
xã hội CXNT

Xã hội CXNT được thay thế = Xã hội CHNL (hoặc PK)


Nguồn: nhóm tác giả biên soạn, 2020

Hộp 3.4. LLSX phát triển là nguồn gốc sâu xa của các
HTKT-XH
Để tồn tại, phát triển con người cần:

Thỏa mãn nhu cầu vật chất

Quan hệ với tự nhiên Quan hệ với nhau


PTSX

LLSX >< QHSX

Giải quyết >< bằng cách phủ định quan hệ sản xuất thống trị

HTKT-XH mới xuất hiện

Nguồn: Nhóm tác giả biên soạn, 2020

II. GIAI CẤP VÀ DÂN TỘC


1. Vấn đề giai cấp và đấu tranh giai cấp
1.1. Giai cấp
C.Mác chứng minh rằng: 1) sự tồn tại của các giai cấp chỉ gắn với những giai
đoạn phát triển lịch sử nhất định của sản xuất, 2) đấu tranh giai cấp tất yếu dẫn
đến chuyên chính vô sản, 3) bản thân nền chuyên chính vô sản chỉ là bước quá
độ tiến tới thủ tiêu mọi giai cấp và tiến tới xã hội không có giai cấp.
Trong mỗi hình thái kinh tế - xã hội, dựa trên chế độ sở hữu tư nhân về tư liệu
sản xuất, bao giờ cũng có hai giai cấp cơ bản đối lập nhau. Đó là giai cấp nắm
những tư liệu sản xuất cơ bản và giai cấp không có tư liệu sản xuất hoặc có rất ít

90
tư liệu sản xuất. Hai lực lượng xã hội cơ bản này giữ vai trò chủ yếu trong việc
duy trì và phát triển của một hình thái kinh tế - xã hội.
C.Mác đã đi tìm cái gốc của cơ cấu xã hội, cơ cấu giai cấp đó là kinh tế. Theo
C.Mác, chỉ có thể hiểu đúng vấn đề giai cấp khi gắn nó với đời sống kinh tế, với
nền sản xuất vật chất xã hội.
V.I.Lênin đã hệ thống hóa các quan điểm, tư tưởng của Mác - Lênin về giai
cấp thành định nghĩa sau: “Người ta gọi là giai cấp những tập đoàn to lớn gồm
những người khác nhau về địa vị của họ trong một hệ thống sản xuất xã hội nhất
định trong lịch sử, khác nhau về quan hệ của họ (thường thì những quan hệ này
được pháp luật quy định và thừa nhận) đối với những tư liệu sản xuất, về vai trò
của họ trong tổ chức lao động xã hội, và như vậy là khác nhau về cách thức
hưởng thụ và về phần của cải ít hoặc nhiều mà họ được hưởng. Giai cấp là những
tập đoàn người, mà tập đoàn này thì có thể chiếm đoạt lao động của tập đoàn
khác, do chỗ các tập đoàn có địa vị khác nhau trong một chế độ kinh tế - xã hội
nhất định”6.
Theo định nghĩa này thì giai cấp là những tập đoàn người rộng lớn khác nhau
về:
Một là, địa vị của họ trong hệ thống sản xuất xã hội.
Hai là, quan hệ của họ đối với tư liệu sản xuất.
Ba là, vai trò của họ trong những tổ chức lao động xã hôi.
Bốn là, cách thức, quy mô thu nhập của cải được hưởng.
Mặc dù phân hóa giai cấp dẫn đến phân hóa giàu nghèo nhưng chủ nghĩa
C.Mác không đồng nhất quan hệ giai cấp với quan hệ giàu nghèo. Chủ nghĩa
C.Mác cũng không lên án việc làm giàu chính đáng. C.Mác khẳng định, trong
điều kiện của chủ nghĩa xã hội, vẫn phải chấp nhận pháp quyền tư sản, nghĩa là
chấp nhận sự phân phối không đều giữa các thành viên do họ có những điều kiện
cụ thể khác nhau.
*Nguồn gốc giai cấp
Cuối xã hội nguyên thuỷ, việc sử dụng phổ biến công cụ lao động bằng kim
loại, làm cho năng suất lao động tăng lên, lượng sản phẩm làm ra vượt hơn nhu
cầu tối thiểu để tồn tại, tạo khả năng cho những người này chiếm đoạt lao động
của những người khác. Các gia đình có tài sản riêng ngày một nhiều và trong
công xã xuất hiện sự chênh lệch về tài sản. Chế độ tư hữu dần dần thay thế chế

6
Hội đồng Trung ương chỉ đạo biên soạn giáo trình quốc gia các bộ môn khoa học Mác - Lênin, Tư tưởng Hồ Chí
Minh (1999), Giáo trình Triết học Mác-Lênin, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, tr.483.

91
độ công hữu về tư liệu sản xuất, tạo khả năng và tiền đề phân hoá xã hội thành
giai cấp. Xã hội nô lệ là xã hội có giai cấp đầu tiên trong lịch sử.
Như vậy, nguyên nhân sâu xa của sự xuất hiện giai cấp là sự phát triển của
lực lượng sản xuất làm cho năng suất lao động tăng lên, xuất hiện "của dư", tạo
khả năng khách quan, tiền đề cho tập đoàn người này chiếm đoạt lao động của
người khác. Nguyên nhân trực tiếp đưa tới sự ra đời của giai cấp là xã hội xuất
hiện chế độ tư hữu về tư liệu sản xuất.
1.2. Đấu tranh giai cấp
Tính tất yếu của đấu tranh giai cấp
Đấu tranh giai cấp là một hiện tượng tất yếu không thể tránh được trong xã
hội có áp bức giai cấp. Lênin chỉ rõ, đấu tranh giai cấp là đấu tranh của bộ phận
nhân dân này chống một bộ phận khác, đấu tranh của quần chúng bị tước hết
quyền, bị áp bức và lao động, chống bọn có đặc quyền, đặc lợi, bọn áp bức và
ăn bám, cuộc đấu tranh của những người công nhân làm thuê hay những người
vô sản chống những người hữu sản hay giai cấp tư sản.
Thực chất của đấu tranh giai cấp là nhằm giải quyết vấn đề mâu thuẫn lợi ích
kinh tế và chính trị xã hội giữa giai cấp thống trị và bị thống trị ở những phạm vi
và mức độ khác nhau.
Nội dung và hình thức của cuộc đấu tranh giai cấp
Nội dung của những cuộc đấu tranh giai cấp nói chung đều liên quan đến các
lĩnh vực chủ yếu của đời sống xã hội là kinh tế, chính trị và văn hóa, tư tưởng.
Đấu tranh trên lĩnh vực kinh tế là nhằm giành, giữ những lợi ích kinh tế cho
giai cấp cũng như cho mỗi thành viên trong một giai cấp. Đấu tranh trên lĩnh
vực chính trị là cuộc đấu tranh trong việc giành, giữ và sử dụng quyền lực, đặc
biệt là quyền lực nhà nước. Đấu tranh trên lĩnh vực tư tưởng là cuộc đấu tranh
về những quan điểm, những quan niệm về những vấn đề chính trị, xã hội, về
quyền con người, …
Các hình thức chủ yếu của các cuộc đấu tranh giai cấp thường là phản ứng tập
thể, lãn công, đình công, tổng đình công, khởi nghĩa, tổng khởi nghĩa, … Các
hình thức này có thể chia thành hai loại là bạo lực và phi bạo lực.
Hình thức bạo lực là hình thức quyết liệt nhất của cuộc đấu tranh. Hình thức
này được sử dụng nhiều nhất khi đấu tranh giai cấp chuyển thành đấu tranh
giành chính quyền, thành cách mạng xã hội.
1.3. Đấu tranh giai cấp của giai cấp vô sản
V.I.Lênin đã nêu ra năm hình thức mới của cuộc đấu tranh giai cấp sau khi
giành chính quyền. Thứ nhất, trấn áp các thế lực thù địch chống phá cách mạng,
92
chống phá chính quyền mới. Thứ hai, nội chiến tức là tiến hành chiến tranh
chống các thế lực phản động khi chúng phát động cuộc đấu tranh trên quy mô
lớn. Thứ ba, trung lập hóa các giai cấp tiểu tư sản, đặc biệt là nông dân, do họ
chưa ý thức được sự cần thiết của cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa. Thứ tư, sử
dụng các chuyên gia tư sản. Thứ năm, giáo dục ý thức tổ chức kỷ luật cho giai
cấp công nhân.
Mục tiêu của đấu tranh giai cấp không nhằm tiêu diệt giai cấp áp bức, bóc lột
mà là nhằm xóa bỏ quan hệ sản xuất đã lỗi thời, không còn phù hợp với trình độ
phát triển lực lượng sản xuất, tạo những điều kiện cho sự phát triển của lực
lượng sản xuất và thúc đẩy sự phát triển của toàn thể xã hội. Vì vậy, mọi cuộc
đấu tranh giai cấp đều dẫn đến sự phát triển của xã hội, của con người. Từ thực
tế đó, chủ nghĩa Mác khẳng định đấu tranh giai cấp là một động lực phát triển
của xã hội có giai cấp.
Liên minh giai cấp
Liên minh giữa giai cấp công nhân và các giai cấp khác là một tất yếu khách
quan. Chính nó sẽ là yếu tố quyết định sự thành bại của phong trào cách mạng.
Đối với cuộc đấu tranh của giai cấp công nhân Pháp thời kỳ giữa thế kỷ XIX,
C.Mác cho rằng, nếu giai cấp công nhân không hát được “bài đồng ca” với giai
cấp nông dân thì “bài đơn ca” của họ trở thành "một bài ai điếu”.
V.I.Lênin cho rằng việc duy trì khối liên minh giữa giai cấp vô sản và nông
dân là nguyên tắc cao nhất của chuyên chính vô sản. Ông khẳng định, nếu không
có sự liên minh chặt chẽ của giai cấp vô sản với giai cấp nông dân và các tầng
lớp lao động khác, thì giai cấp công nhân không thể giữ vững được chính quyền
nhà nước.
Có thể nói, từ khi xã hội xuất hiện những giai cấp và các tầng lớp lao động
khác nhau thì đấu tranh giai cấp không thể không có liên minh giai cấp. Vì vậy,
đấu tranh giai cấp và liên minh giai cấp là hai mặt của một quá trình để tạo nên
những sự biến đổi quan trọng của xã hội.
Đặc thù của vấn đề giai cấp và đấu tranh giai cấp ở Việt Nam
Tính đặc thù của sự phân hóa xã hội ở Việt Nam
Trong thời kỳ phong kiến, Nhà nước phong kiến Việt Nam chỉ có một số quy
định về những người không được tham gia các kỳ thi để chọn lựa nhân tài nhưng
không có những quy định ngặt nghèo về các giai tầng trong xã hội.
Đến khi chủ nghĩa tư bản có những mầm mống đầu tiên ở Việt Nam thì sự
hình thành các giai cấp mới cũng diễn ra không bình thường. Giai cấp công nhân
Việt Nam hình thành trước giai cấp tư sản Việt Nam. Giai cấp tư sản Việt Nam
93
ngay từ đầu đã bị tư sản Pháp chèn ép và phân hóa thành hai bộ phận rõ rệt là tư
sản dân tộc, có ý thức độc lập tự cường và tư sản mại bản có lợi ích gắn bó với
đế quốc. Vì vậy, chỉ có sự mâu thuẫn đối kháng giữa giai cấp công nhân Việt
Nam với giai cấp tư sản mại bản chứ gần như không có mâu thuẫn đối kháng
giữa giai cấp công nhân Việt Nam với cấp tư sản dân tộc Việt Nam.
Tính đặc thù của đấu tranh giai cấp ở Việt Nam
Thứ nhất, về nguyên nhân đấu tranh giai cấp. Do đặc điểm của sự phân hóa xã
hội, nên mâu thuẫn giai cấp thường không phải là nguyên nhân chủ yếu của các
cuộc đấu tranh giai cấp trong xã hội phong kiến. Thực chất của đấu tranh giai
cấp là mâu thuẫn giữa giai cấp cầm quyền và những người dân lao động nghèo
khó với các thế lực cầm quyền.
Thứ hai, về mục tiêu của đấu tranh giai cấp. Từ Cách mạng Tháng Tám năm
1945 trở về trước, đấu tranh giai cấp ở Việt Nam đều chống phong kiến, địa chủ
và chính quyền của kẻ thù xâm lược. Trong đó, đấu tranh chống chính quyền
phong kiến thối nát và chính quyền của bọn xâm lược trở thành mục tiêu hàng
đầu của cuộc đấu tranh này.
Sau Cách mạng Tháng Tám, cuộc đấu tranh để bảo vệ và củng cố chính quyền
mới đã diễn ra quyết liệt gắn liền với cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp.
Tiếp theo đó là công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc và cuộc đấu
tranh thống nhất đất nước.
Bước vào thời kỳ đổi mới, đấu tranh giai cấp của Đảng và nhân dân ta là nhằm
giữ vững định hướng xã hội chủ nghĩa, thực hiện mục tiêu Dân giàu, nước mạnh,
dân chủ, công bằng, văn minh.
Hộp 3.5. Tóm tắt đặc trưng của giai cấp
Quan hệ sản xuất Đặc trưng của giai cấp Ví dụ: có 2 tập đoàn người
Những tập đoàn người A (thống trị), B (bị trị)
khác nhau về: A B
Địa vị trong hệ thống SX Làm chủ Làm thuê
Sở hữu Quan hệ đối với TLSX Sở hữu Không có
Tổ chức Vai trò trong tổ chức LĐ Quyết định Thực hiện
Phân phối Cách thức, quy mô thu nhập Lớn Nhỏ
A BÓC LỘT B
Những giai cấp giống A: Chủ nô, Địa chủ, Tư sản
Những giai cấp giống B: Nô lệ, Nông dân, Công nhân
Nguồn: Nhóm tác giả biên soạn, 2020

94
2. Dân tộc
1.1. Các hình thức cộng đồng người trước khi hình thành dân tộc
Theo quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin, dân tộc là quá trình phát triển lâu
dài của xã hội loài người, trải qua các hình thức cộng đồng từ thấp đến cao, bao
gồm: thị tộc, bộ lạc, bộ tộc, dân tộc. Sự biến đổi của phương thức sản xuất chính
là nguyên nhân quyết định sự biến đổi của cộng đồng dân tộc.
Ở phương Tây, dân tộc xuất hiện khi phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa
được xác lập thay thế phương thức sản xuất phong kiến. Ở phương Đông, dân tộc
được hình thành trên cơ sở một nền văn hoá, một tâm lý dân tộc đã phát triển
tương đối chín muồi và một cộng đồng kinh tế tuy đã đạt tới một mức độ nhất
định song nhìn chung còn kém phát triển và ở trạng thái phân tán.
1.2. Dân tộc – hình thức cộng đồng người phổ biến hiện nay
Dân tộc là một hình thức tổ chức cộng đồng người có tính chất ổn định được
hình thành trong lịch sử; là sản phẩm của quá trình phát triển lâu dài của lịch sử
xã hội.
Khái niệm dân tộc thường được dùng với hai nghĩa:
Thứ nhất, khái niệm dân tộc dùng để chỉ cộng đồng người cụ thể có những mối
liên hệ chặt chẽ, bền vững, có sinh hoạt kinh tế chung, có ngôn ngữ chung và
trong sinh hoạt văn hóa có những nét đặc thù so với những cộng đồng khác. Cộng
đồng dân tộc xuất hiện sau cộng đồng bộ tộc; có sự kế thừa và phát triển hơn
những nhân tố tộc người ở cộng đồng bộ lạc, bộ tộc và thể hiện thành ý thức tự
giác của các thành viên trong cộng đồng đó. Theo nghĩa này, dân tộc được hiểu là
bộ phận của quốc gia, là cộng đồng xã hội theo nghĩa là các tộc người. Ví dụ: dân
tộc Kinh, Tày, Mường...
Thứ hai, khái niệm dân tộc dùng để chỉ một cộng đồng người ổn định, bền vững
hợp thành nhân dân của một quốc gia, có lãnh thổ chung, nền kinh tế thống nhất,
quốc ngữ chung, có truyền thống văn hóa, truyền thống đấu tranh chung trong
quá trình dựng nước và giữ nước. Theo nghĩa này, dân tộc được hiểu toàn bộ nhân
dân một nước, là quốc gia - dân tộc. Ví dụ: Dân tộc Việt Nam...
Như vậy, dân tộc là một cộng đồng xã hội - tộc người bền vững, được hình
thành trên cơ sở một lãnh thổ thống nhất, một ngôn ngữ thống nhất, một nền
kinh tế thống nhất, một nền văn hóa và tâm lý thống nhất với một nhà nước và
pháp luật thống nhất.
Đặc trưng cơ bản của dân tộc:
Thứ nhất là yếu tố tộc người. Dân tộc trước hết là một cộng đồng xã hội - tộc
người. Yếu tố tộc người chính là cơ sở, là nền tảng để tập hợp các thành viên của
95
cộng đồng và tạo nên mối quan hệ gắn bó hữu cơ giữa các thành viên trong cộng
đồng.
Thứ hai, là yếu tố lãnh thổ. Lãnh thổ của một dân tộc, ngày nay được hiểu
không phải chỉ là đất liền mà còn bao hàm cả vùng biển, vùng trời, hải đảo và
thềm lục địa
Thứ ba là yếu tố ngôn ngữ. Ngôn ngữ được xem là một đặc trưng cơ bản của
dân tộc. Lúc mới hình thành, ngôn ngữ vừa là công cụ giao tiếp riêng vừa là một
phương tiện giao lưu văn hóa của mỗi tộc người. Khi dân tộc quốc gia hình
thành, mỗi dân tộc đều có một hoặc một số ngôn ngữ chung để giao lưu, kết nối
các thành viên của cộng đồng trong các hoạt động của họ. Khi giao lưu quốc tế
được mở rộng, ngôn ngữ của một quốc gia có thể được nhiều nước sử dụng
nhưng những ngôn ngữ đó vẫn được xác định là ngôn ngữ chính của dân tộc đã
sản sinh ra nó.
Thứ tư là yếu tố kinh tế. Khi dân tộc quốc gia hình thành thì kinh tế được hiểu
là một nền kinh tế thống nhất của một quốc gia có tính độc lập, tự chủ.
Thứ năm là cộng đồng về văn hóa, về tâm lý. Đây là một đặc trưng quan trọng
của mỗi dân tộc. Yếu tố này được tạo nên bởi những nét đặc thù của một cộng
đồng. Nó là sự hội tụ của gần như tất cả các yếu tố tộc người. Nó hằn sâu trong
trí não của mỗi người trong cộng đồng dân tộc đến mức dù phải rời xa lãnh thổ
của dân tộc để sống trong một cộng đồng hoàn toàn khác nhưng đặc trưng văn
hóa vẫn được lưu giữ lâu dài.
Thứ sáu, có một nhà nước và pháp luật thống nhất. Đây là đặc trưng của dân
tộc, quốc gia để phân biệt với dân tộc theo nghĩa là các dân tộc đa số hay thiểu
số.
Tính đặc thù của sự hình thành dân tộc Việt Nam
Ở châu Âu, do điều kiện địa lý và dân số có nhiều nét đặc thù nên dân tộc nhìn
chung, ra đời trong điều kiện của chủ nghĩa tư bản. Ngược lại, ở châu Á, do đặc
điểm của do điều kiện địa lý, khí hậu, các dân tộc ra đời sớm hơn nhiều so với
các nước phương Tây.
Quá trình hình thành dân tộc Việt Nam cũng như việc hình thành nhà nước,
đều bắt nguồn từ nhu cầu chống thiên tai và chống giặc ngoại xâm. Chính đặc
trưng này đã tạo nên những nét độc đáo trong sự cố kết cộng đồng của dân tộc
Việt Nam.

3. Mối quan hệ giai cấp - dân tộc – nhân loại


96
3.1. Quan hệ giai cấp – dân tộc
Thứ nhất, giai cấp bao giờ cũng ra đời trước dân tộc. Một trong những đặc
trưng cơ bản của dân tộc quốc gia là có nhà nước thống nhất. Nhưng nhà nước dù
ở đâu, đều ra đời khi đã có giai cấp. Nhà nước nào cũng thuộc một giai cấp.
Thứ hai, nhà nước bao gồm nhiều giai cấp khác nhau và các giai cấp, là thành
phần cơ bản nhất của dân tộc. Trong mỗi dân tộc quốc gia, không chỉ có các giai
cấp mà còn có nhiều tầng lớp xã hội khác nhau. Tuy nhiên, giai cấp bao giờ cũng
là lực lượng nòng cốt của dân tộc. Các giai cấp là lực lượng chủ yếu sản xuất ra
mọi của cải vật chất. Các giai cấp cơ bản của một xã hội bao giờ cũng giữ vai trò
quyết định đối với sự phát triển kinh tế - xã hội.
Thứ ba, dân tộc là cơ sở tồn tại của các giai cấp. Một giai cấp chỉ có thể tồn
tại trên phạm vi lãnh thổ của dân tộc. Mọi giai cấp, kể cả giai cấp thống trị chỉ
có sức mạnh khi biết khai thác và phát huy các nguồn lực của dân tộc.
3.2. Quan hệ giai cấp, dân tộc, nhân loại
Mối quan hệ giai cấp và dân tộc là mối quan hệ đặc biệt trong mọi cuộc đấu
tranh giai cấp trong lịch sử nhân loại. Sự thành bại của các cuộc đấu tranh này
phụ thuộc vào việc giải quyết mối quan hệ này.
Đối với Việt Nam, mối quan hệ giữa giai cấp, dân tộc và nhân loại mang tính
đặc thù: Độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội đã trở thành mục tiêu xuyên suốt
của cách mạng nước ta. Độc lập dân tộc là mục tiêu hàng đầu của mọi tầng lớp
nhân dân trong cả nước. Chủ nghĩa xã hội là mục tiêu của giai cấp công nhân
toàn thế giới và cũng là mục tiêu của giai cấp công nhân và nhân dân Việt Nam
nói chung. Cả hai mục tiêu này cho đến nay vẫn là mục tiêu của cuộc đấu tranh
giai cấp ở nước ta và cũng là mục tiêu của cả dân tộc ta.
Trong bối cảnh hiện nay, chỉ có xây dựng được một quốc gia hùng cường, có
sự phát triển bền vững chúng ta mới có thể giữ vững được độc lập và đi lên chủ
nghĩa xã hội. Điều đó đòi hỏi phải phát huy sức mạnh đại đoàn kết của cả dân
tộc, khai thác nguồn lực của dân tộc về vật chất cũng như về tinh thần nhằm phục
vụ cho mục tiêu chung của dân tộc.

97
Hộp 3.6. Mục tiêu của phát triển cộng đồng ở Việt Nam
1. Phát triển sản xuất, nâng cao thu nhập, xóa đói, giảm nghèo cải thiện đời sống kinh tế của
người dân.
2. Nâng cao năng lực của người dân trong tổ chức phát triển kinh tế - xã hội ở cộng đồng.
3. Xây dựng kết cấu hạ tầng, cải thiện điều kiện sống của người dân về ăn ở, sinh hoạt đi lại
và các dịch vụ ở cộng đồng.
4. Nâng cao trình độ dân trí.
5. Bảo vệ sức khỏe.
6. Bảo vệ tài nguyên và môi trường, hạn chế ảnh hưởng của thiên tai.
Nguồn: Lê Văn An, Ngô Tùng Đức (CB) (2016), Sổ tay hướng dẫn phát triển cộng đồng, Nxb
Thanh niên, Hà Nội.

III. NHÀ NƯỚC VÀ CÁCH MẠNG XÃ HỘI


1. Nhà nước
1.1. Nguồn gốc của nhà nước
Theo quan niệm của chủ nghĩa Mác - Lênin, nguyên nhân sâu xa của sự xuất
hiện nhà nước là do sự phát triển của lực lượng sản xuất dẫn đến sự dư thừa
tương đối của cải, xuất hiện chế độ tư hữu. Nguyên nhân trực tiếp dẫn tới sự xuất
hiện nhà nước là do mâu thuẫn giai cấp trong xã hội gay gắt không thể điều hòa
được. Nhà nước ra đời là một tất yếu khách quan để “làm dịu” sự xung đột giai
cấp, để duy trì xã hội trong vòng “trật tự” mà ở đó, lợi ích và địa vị của giai cấp
thống trị được đảm bảo.
1.2. Bản chất của nhà nước
Nhà nước, về bản chất, là tổ chức chính trị của giai cấp thống trị về mặt kinh
tế nhằm bảo vệ trật tự hiện hành và đàn áp sự phản kháng của các giai cấp khác.
Nhà nước chỉ là công cụ chuyên chính của một giai cấp, không có nhà nước
đứng trên hoặc đứng ngoài giai cấp. Tuy nhiên, cũng có trường hợp nhà nước có
thể là sản phẩm của sự thỏa hiệp về quyền lợi tạm thời giữa một số giai cấp để
chống lại một giai cấp khác. Hoặc cũng có khi nhà nước giữ một mức độ độc lập
đối với hai giai cấp đối địch, khi cuộc đấu tranh giữa chúng đạt tới mức cân bằng
nhất định.
Nhà nước dù có tồn tại dưới hình thức nào thì cũng phản ánh và mang bản chất
giai cấp. Để phân biệt nhà nước với các tổ chức xã hội khác cần phải nhận biết
các đặc trưng của nhà nước.
1.3. Đặc trưng cơ bản của nhà nước
Ph.Ăngghen cho rằng, nhà nước thường có ba đặc trưng cơ bản:
Một là, nhà nước quản lý cư dân trên một vùng lãnh thổ nhất định.

98
Hai là, nhà nước có hệ thống các cơ quan quyền lực chuyên nghiệp mang tính
cưỡng chế đối với mọi thành viên.
Ba là, nhà nước có hệ thống thuế khóa để nuôi bộ máy của mình.
1.4.Chức năng cơ bản của nhà nước
Chức năng thống trị chính trị của giai cấp: Là công cụ thống trị giai cấp, nhà
nước thường xuyên sử dụng bộ máy quyền lực để duy trì sự thống trị đó thông
qua hệ thống chính sách và pháp luật.
Chức năng xã hội của nhà nước được biểu hiện ở chỗ, nhà nước nhân danh xã
hội làm nhiệm vụ quản lý nhà nước về xã hội, điều hành các công việc chung của
xã hội như: thủy lợi, giao thông, y tế, giáo dục, môi trường…
Mối quan hệ giữa chức năng thống trị chính trị của giai cấp và chức năng xã
hội
Do bản chất giai cấp của nhà nước quy định, nhà nước bao giờ cũng đặt chức
năng thống trị chính trị của giai cấp lên hàng đầu. Chức năng thống trị chính trị
của giai cấp thống trị vì thế, giữ địa vị quyết định, nó chi phối và định hướng chức
năng xã hội của nhà nước. Ngược lại, nếu chính quyền nhà nước nào không chú
ý tới chức năng xã hội thì sẽ nhanh chóng sụp đổ. Một nhà nước tồn tại lâu dài
khi giai cấp thống trị biết giải quyết ổn thỏa lợi ích giai cấp và lợi ích của toàn xã
hội trong những hoàn cảnh và điều kiện cụ thể.
Chức năng đối nội và chức năng đối ngoại
Chức năng đối nội của nhà nước là sự thực hiện đường lối đối nội nhằm duy
trì trật tự xã hội thông qua các công cụ như: chính sách xã hội, luật pháp, cơ quan
truyền thông, văn hóa, giáo dục… Chức năng đối nội được nhà nước thực hiện
một cách thường xuyên, liên tục thông qua lăng kính giai cấp của giai cấp thống
trị.
Chức năng đối ngoại của nhà nước là sự triển khai thực hiện chính sách đối
ngoại của giai cấp thống trị, nhằm giải quyết mối quan hệ với các thể chế nhà
nước khác dưới danh nghĩa là quốc gia dân tộc, nhằm bảo vệ lãnh thổ quốc gia,
đáp ứng nhu cầu trao đổi kinh tế, văn hóa, khoa học kỹ thuật, ý tế, giáo dục… của
mình. Trong xã hội hiện đại, chính sách đối ngoại rất được các quốc gia coi trọng,
xem đó như là điều kiện cho sự phát triển của mình.
1.5. Các kiểu và hình thức nhà nước
Kiểu nhà nước là khái niệm dùng để chỉ bộ máy thống trị thuộc về giai cấp
thống trị nào, tồn tại trên cơ sở kinh tế nào, tương ứng với hình thái kinh tế – xã
hội nào. Lịch sử loài người đã xuất hiện 4 kiểu nhà nước, gồm: nhà nước chủ nô
quý tộc, nhà nước phong kiến, nhà nước tư sản, nhà nước vô sản.
99
Trong các kiểu nhà nước trên thì nhà nước vô sản có sự khác biệt về chất ở
chỗ: nó là nhà nước đặc biệt, nhà nước của số đông thống trị số ít. Giai cấp vô sản
liên minh với giai cấp nông dân, tầng lớp trí thức tiến bộ và các tầng lớp nhân dân
lao động khác duy trì sự thống trị của mình đối với toàn xã hội.
Hình thức nhà nước là khái niệm dùng để chỉ cách thức tổ chức, phương thức
thức hiện quyền lực nhà nước của giai cấp thống trị, thực chất là hình thức cầm
quyền của giai cấp thống trị. Hình thức nhà nước chịu sự quy định của bản chất
giai cấp của nhà nước.
Trong kiểu nhà nước chủ nô quý tộc thời chiếm hữu nô lệ từng tồn tại nhiều
hình thức nhà nước khác nhau như: nhà nước quân chủ chủ nô, nhà nước cộng
hòa dân chủ chủ nô.
Thời trung cổ, giai cấp địa chủ phong kiến nắm trong tay quyền thống trị xã
hội. Nhà nước tồn tại dưới hình thức nhà nước phong kiến phân quyền và nhà
nước phong kiến tập quyền.
Trong xã hội tư bản tồn tại nhiều hình thức nhà nước như: chế độ cộng hòa,
chế độ cộng hòa đại nghị, chế độ cộng hòa tổng thống, chế độ cộng hòa thủ tướng,
chế độ quân chủ lập hiến, nhà nước liên bang, nhà nước phúc lợi chung.
Hiện nay, Đảng Cộng sản Việt Nam chủ trương xây dựng hình thức Nhà nước
pháp quyền xã hội chủ nghĩa. Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam
hoạt động trên tinh thần kết hợp giữa thực hiện dân chủ, tuân thủ các nguyên tắc
pháp quyền, đồng thời coi trọng nền tảng đạo đức xã hội.
2. Cách mạng xã hội
2.1. Nguồn gốc của cách mạng xã hội
Theo nghĩa hẹp, cách mạng xã hội là việc lật đổ một chế độ chính trị đã lỗi
thời, thiết lập một chế độ chính trị tiến bộ hơn. Theo nghĩa rộng, cách mạng xã
hội là sự biến đổi có tính bước ngoặt và căn bản về chất trong toàn bộ các lĩnh
vực của đời sống xã hội, là phương thức chuyển từ hình thái kinh tế – xã hội đã
lỗi thời lên hình thái kinh tế – xã hội cao hơn.
Nguyên nhân sâu xa của cách mạng xã hội là mâu thuẫn giữa lực lượng sản
xuất và quan hệ sản xuất. Biểu hiện về mặt xã hội là mâu thuẫn giữa giai cấp
thống trị đã trở nên lỗi thời, phản động với các tầng lớp nhân dân lao động. Để
thay thế cho quan hệ sản xuất cũ, bằng quan hệ sản xuất mới phù hợp, và làm cho
nó trở thành quan hệ sản xuất thống trị, giai cấp cách mạng phải dành lấy chính
quyền nhà nước. Do vậy, cách mạng xã hội trở thành đỉnh cao của đấu tranh giai
cấp; vấn đề chính quyền nhà nước trở thành vấn đề cơ bản của mọi cuộc cách
mạng xã hội.
100
2.2. Bản chất của cách mạng xã hội
Xét về bản chất, cách mạng xã hội là sự thay đổi căn bản về chất toàn bộ các
lĩnh vực của đời sống xã hội, là phương thức thay đổi từ một hình thái kinh tế-xã
hội cũ lên một hình thái kinh tế - xã hội mới, tiến bộ hơn.
Cách mạng xã hội khác với tiến hóa xã hội, cải cách xã hội, đảo chính.
Tiến hoá xã hội là quá trình diễn ra một cách tuần tự, dần dần, với những biến
đổi cục bộ của một hình thái kinh tế xã hội nhất định. Không có tiến hoá xã hội
không thể có cách mạng xã hội. Cải cách xã hội chỉ tạo nên những biến đổi riêng
lẽ, trong khuôn khổ chế độ xã hội đang tồn tại. Những cải cách xã hội thúc đẩy
quá trình tiến hoá tạo nên tiền đề dẫn tới cách mạng xã hội. Đảo chính là phương
thức tiến hành của một nhóm người với mục đích giành chính quyền song không
làm thay căn bản chế độ xã hội. Đảo chính chỉ có ý nghĩa cách mạng khi nó thực
sự là một bộ phận của phong trào cách mạng.
Tính chất của cách mạng xã hội
Tính chất của mỗi cuộc cách mạng xã hội chịu sự quy định bởi mâu thuẫn cơ
bản mà nó giải quyết. Từ mâu thuẫn cơ bản đó, nhiệm vụ chính trị mà cuộc cách
mạng phải giải quyết là: lật đổ chế độ xã hội nào, xóa bỏ quan hệ sản xuất nào,
thiết lập chính quyền thống trị cho giai cấp nào, thiết lập trật tự xã hội theo nguyên
tắc nào.
Lực lượng cách mạng xã hội là những giai cấp có lợi ích gắn bó chặt chẽ và lâu
dài đối với cách mạng, có tính tự giác, tích cực, chủ động, kiên quyết, triệt để
cách mạng, có khả năng lôi cuốn, tập hợp các giai cấp, tầng lớp khác tham gia
phong trào cách mạng.
Đối tượng của cách mạng xã hội là những giai cấp và những lực lượng cần
phải đánh đổ của cách mạng.
Giai cấp lãnh đạo cách mạng xã hội là giai cấp có hệ tư tưởng tiến bộ, đại diện
cho xu hướng phát triển của xã hội, cho phương thức sản xuất tiến bộ.
Cách mạng xã hội diễn ra rất phong phú, đa dạng. Điều đó phụ thuộc vào điều
kiện khách quan và nhân tố chủ quan của cuộc cách mạng.
Điều kiện khách quan của cách mạng xã hội là điều kiện, hoàn cảnh kinh tế -
xã hội, chính trị bên ngoài tác động đến, là tiền đề diễn ra các cuộc cách mạng xã
hội.
Tình thế cách mạng là sự chín muồi của mâu thuẫn giữa lực lượng sản xuất và
quan hệ sản xuất, sự phát triển đến đỉnh cao của cuộc đấu tranh giai cấp dẫn tới
những đảo lộn sâu sắc trong nền tảng kinh tế - xã hội của nhà nước đương thời,

101
khiến cho việc thay thế thể chế chính trị đó bằng một thể chế chính trị khác, tiến
bộ hơn như là một thực tế không thể đảo ngược.
Khi trong xã hội, kinh tế khủng hoảng, mâu thuẫn xã hội biểu hiện tập trung ở
mâu thuẫn giai cấp dẫn đến khủng hoảng chính trị. Lúc đó tình thế cách mạng
xuất hiện.
Những nhân tố chủ quan trong cách mạng xã hội bao gồm ý chí, niềm tin, trình
độ giác ngộ và nhận thức của lực lượng cách mạng vào mục tiêu và nhiệm vụ
cách mạng, là năng lực tổ chức thực hiện nhiệm vụ cách mạng, khả năng tập hợp
lực lượng cách mạng của giai cấp lãnh đạo cách mạng. Khi có điều kiện khách
quan chín muồi, thì nhân tố chủ quan có vai trò quyết định thành bại của cách
mạng.
Thời cơ cách mạng là thời điểm đặc biệt khi điều kiện khách quan và nhân tố
chủ quan đã chín muồi, đó là lúc thuận lợi nhất có thể bùng nổ cách mạng, có ý
nghĩa quyết định đối với thành công của cách mạng. Vấn đề chọn đúng thời cơ
cách mạng là vấn đề liên quan đến sự thành bại của cách mạng. Nếu bỏ lỡ thời cơ
thì cách mạng có thể không nổ ra, hoặc sẽ bị thất bại.
2.3. Phương pháp cách mạng
Để thực hiện được mục tiêu cách mạng cần có các hình thức và phương pháp
cách mạng phù hợp.
Phương pháp cách mạng bạo lực là hình thức cách mạng khá phổ biến. Phương
pháp hòa bình cũng là một phương pháp cách mạng để giành chính quyền . Phương
pháp hòa bình là phương pháp đấu tranh nghị trường, thông qua chế độ dân chủ,
bằng bầu cử để giành đa số ghế trong nghị viện và trong chính phủ. Phương pháp
hòa bình chỉ có thể xảy ra khi có đủ các điều kiện: thứ nhất, giai cấp thống trị
không còn bộ máy bạo lực đáng kể hoặc còn bộ máy bạo lực, nhưng chúng đã
mất hết ý chí chống lại lực lượng cách mạng; thứ hai, lực lượng cách mạng phát
triển mạnh, áp đảo kẻ thù.
Hiện nay ở Việt Nam, các thế lực phản động ở trong và ngoài nước chủ trương
âm mưu “diễn biến hòa bình”. Trong xã hội, biểu hiện “tự diễn biến, tự chuyển
hóa” có ở ngay trong một bộ phận đội ngũ cán bộ, đảng viên.
2.4.Vấn đề cách mạng xã hội trên thế giới hiện nay
Xu hướng đối thoại, hòa giải đang là xu hướng chủ đạo. Vì lợi ích chung của
toàn thế giới, các nước có chế độ xã hội và chính trị khác nhau vẫn có thể thông
qua các tổ chức quốc tế, đối thoại, hòa giải những tranh chấp về kinh tế, lãnh thổ,
lãnh hải, tài nguyên thiên nhiên...và những bất đồng khác. Các cuộc chiến tranh
dưới màu sắc dân tộc, tôn giáo, nhân quyền; dưới chiêu bài “nhân đạo”, chống vũ
102
khí hóa học, vũ khí sinh học đang bị các lực lượng tiến bộ lên án.
Xu hướng giữ vững độc lập tự chủ của quốc gia dân tộc, không phụ thuộc và
không can thiệp vào công việc nội bộ của nhau, đấu tranh cho dân chủ, hòa bình
và tiến bộ xã hội đang diễn ra mạnh mẽ, ngày càng tỏ ra chiếm ưu thế.
Các quốc gia, dân tộc sẽ đi tới một xã hội dân chủ, tự do, công bằng, văn minh
theo cách đi của mình thông qua các chính sách phát triển kinh tế - xã hội, văn
hóa, giáo dục, y tế và khoa học công nghệ. Do đó, dù không có các cuộc cách
mạng xã hội tiêu biểu, thì các quốc gia dân tộc sẽ phát triển dần dần theo hướng
thay đổi từng bộ phận, từng yếu tố, lĩnh vực trong đời sống xã hội. Cách mạng xã
hội sẽ diễn ra dưới hình thức chuyển hóa dần dần từ hình thái kinh tế - xã hội này
sang hình thái kinh tế - xã hội khác tiến bộ hơn.

Hộp 3.7. Tóm tắt nguồn gốc và bản chất của cách mạng xã hội
LLSX G/C thống trị
Nguồn gốc >< >< Đấu tranh GC Cách mạng XH
QHSX G/C bị trị
Cách mạng XH XH mới ra đời

Bản chất Sự thay đổi căn bản về chất toàn


bộ các lĩnh vực của đời sống
Nguồn: Nhóm tác giả biên soạn, 2020

IV. Ý THỨC XÃ HỘI


Đời sống xã hội có hai lĩnh vực quan trọng là lĩnh vực vật chất và lĩnh vực
tinh thần. Hai lĩnh vực này được triết học Mác - Lênin, phản ánh trong hai phạm
trù tồn tại xã hội và ý thức xã hội.
1. Khái niệm tồn tại xã hội và các yếu tố cơ bản của tồn tại xã hội
1.1. Khái niệm tồn tại xã hội
Tồn tại xã hội là toàn bộ sinh hoạt vật chất và những điều kiện sinh hoạt vật
chất của xã hội. Tồn tại xã hội là một kiểu vật chất xã hội, là các quan hệ xã hội
vật chất được ý thức xã hội phản ánh.
1.2. Các yếu tố cơ bản của tồn tại xã hội
Tồn tại xã hội bao gồm các yếu tố cơ bản là phương thức sản xuất vật chất,
điều kiện tự nhiên - hoàn cảnh địa lý, dân số và mật độ dân số...trong đó phương
thức sản xuất vật chất là yếu tố cơ bản nhất. Sự phát triển xã hội, kể cả ý thức,
đều nằm trong và bị quy định bởi sự phát triển của các điều kiện kinh tế - xã hội.
Do đó, ngay từ đầu, ý thức đã là một sản phẩm xã hội. Đây chính là điểm cốt lõi
103
của nguyên lý tồn tại xã hội quyết định ý thức xã hội.
2. Ý thức xã hội và kết cấu của ý thức xã hội
2.1. Khái niệm ý thức xã hội
Ý thức xã hội là mặt tinh thần của đời sống xã hội, là bộ phận hợp thành của
văn hóa tinh thần của xã hội. Văn hóa tinh thần của xã hội mang nặng dấu ấn
đặc trưng của hình thái kinh tế - xã hội, của các giai cấp đã tạo ra nó.
Giữa ý thức xã hội và ý thức cá nhân có sự khác nhau tương đối vì chúng ở
hai trình độ khác nhau. Ý thức cá nhân chính là thế giới tinh thần của các cá
nhân. Dù phản ánh tồn tại xã hội ở các mức độ khác nhau, song không phải bao
giờ ý thức của các cá nhân khác nhau đều đại diện cho quan điểm chung, phổ
biến của một cộng đồng người, của một tập đoàn xã hội hay của một thời đại xã
hội nhất định.
2.2. Kết cấu của ý thức xã hội
Ý thức xã hội bao gồm các quan điểm, các tư tưởng và hệ tư tưởng cùng
những tình cảm, tâm trạng, truyền thống, v.v. nảy sinh từ tồn tại xã hội và phản
ánh tồn tại xã hội ở những giai đoạn phát triển nhất định.
Tùy thuộc vào góc độ xem xét, người ta thường chia ý thức xã hội thành ý
thức xã hội thông thường và ý thức lý luận, tâm lý xã hội và hệ tư tưởng xã hội
Ý thức xã hội thông thường hay ý thức thường ngày là những tri thức, quan
niệm hình thành một cách trực tiếp trong hoạt động thực tiễn hàng ngày nhưng
chưa được hệ thống hóa, chưa được tổng hợp và khái quát hóa.
Ý thức lý luận hay ý thức khoa học là những tư tưởng, những quan điểm được
tổng hợp, hệ thống hóa và khái quát hóa thành các học thuyết xã hội dưới dạng
các khái niệm, các phạm trù, các quy luật.
Tâm lý xã hội bao gồm toàn bộ tư tưởng, tình cảm, tâm trạng, thói quen, nếp
sống, nếp nghĩ, phong tục, tập quán, ước muốn... hình thành dưới ảnh hưởng
trực tiếp của cuộc sống hằng ngày của họ và phản ánh cuộc sống đó.
Hệ tư tưởng là nhận thức lý luận về tồn tại xã hội. Đó là hệ thống quan điểm,
tư tưởng về chính trị, pháp luật, triết học, đạo đức, nghệ thuật, tôn giáo
2.3. Tính giai cấp của ý thức xã hội
Trong những xã hội có giai cấp thì các giai cấp khác nhau có điều kiện vật chất
khác nhau, có lợi ích và địa vị xã hội khác nhau thì ý thức xã hội của các giai cấp
đó cũng khác nhau.
Tính giai cấp của ý thức xã hội biểu hiện cả ở tâm lý xã hội lẫn ở hệ tư tưởng.
Ở trình độ tâm lý xã hội mỗi giai cấp xã hội đều có tình cảm, tâm trạng, thói quen,
thiện cảm hay ác cảm riêng. Ở trình độ hệ tư tưởng, tính giai cấp thể hiện sự đối
104
lập, không dung hòa giữa các hệ tư tưởng của những giai cấp khác nhau. Khi đó,
hệ tư tưởng thống trị trong xã hội là hệ tư tưởng của giai cấp thống trị. Hệ tư tưởng
của giai cấp thống trị bao giờ cũng bảo vệ địa vị và lợi ích của mình. Trái lại, hệ
tư tưởng của giai cấp bị trị bảo vệ quyền lợi của những người bị bóc lột, của đông
đảo quần chúng nhân dân bị áp bức.
2.4. Các hình thái ý thức xã hội
Những hình thái chủ yếu của ý thức xã hội bao gồm: ý thức chính trị, ý thức
triết học, ý thức pháp quyền, ý thức đạo đức, ý thức lý luận (hay ý thức khoa học),
ý thức thẩm mỹ (ý thức nghệ thuật), ý thức tôn giáo.
* Ý thức chính trị
Hình thái ý thức chính trị phản ánh mối quan hệ giữa các giai cấp, các dân tộc,
các quốc gia và thái độ của các giai cấp đối với quyền lực nhà nước. Hình thái ý
thức chính trị xuất hiện trong những xã hội có giai cấp và có nhà nước, vì vậy nó
thể hiện trực tiếp và rõ nhất lợi ích giai cấp.
Ý thức chính trị, nhất là hệ tư tưởng chính trị, có vai trò rất quan trọng đối với
sự phát triển của xã hội. Bởi vì, hệ tư tưởng chính trị thể hiện trong cương lĩnh
chính trị, trong đường lối và các chính sách của đảng chính trị, pháp luật của nhà
nước, đồng thời cũng là công cụ thống trị xã hội của giai cấp thống trị.
Hệ tư tưởng chính trị giữ vai trò chủ đạo trong đời sống tinh thần của xã hội và
xâm nhập vào tất cả các hình thái ý thức xã hội khác.
* Ý thức pháp quyền
Ý thức pháp quyền phản ánh các mối quan hệ kinh tế của xã hội dưới góc độ
pháp luật. Ý thức pháp quyền gần gũi với cơ sở kinh tế của xã hội hơn các hình
thái ý thức xã hội khác. Ý thức pháp quyền ra đời trong xã hội có giai cấp và có
nhà nước, vì vậy nó cũng mang tính giai cấp.
Trong xã hội có giai cấp, ý thức pháp quyền là toàn bộ những tư tưởng, quan
điểm của một giai cấp về bản chất và vai trò của pháp luật, về quyền, trách nhiệm
và nghĩa vụ của nhà nước, của các tổ chức xã hội và của công dân, về tính hợp
pháp và không hợp pháp của hành vi con người trong xã hội.
* Ý thức đạo đức
Ý thức đạo đức là toàn bộ các quan niệm về thiện, ác, tốt, xấu, lương tâm trách
nhiệm, hạnh phúc công bằng...và về những quy tắc, chuẩn mực đánh giá, điều
chỉnh hành vi ứng xử giữa cá nhân với xã hội, cá nhân với cá nhân trong xã hội.
Sự ý thức về lương tâm, danh dự và lòng tự trọng..., phản ánh khả năng tự chủ
của con người, là sức mạnh đặt biệt của đạo đức, là nét cơ bản quy định gương
mặt đạo đức, cũng như biểu hiện bản chất xã hội của con người.
Ý thức đạo đức bao gồm hệ thống những tri thức về giá trị và định hướng giá
105
trị đạo đức; những tình cảm và lý tưởng đạo đức, trong đó tình cảm đạo đức là
yếu tố quan trọng nhất. Bởi vì, nếu không có tình cảm đạo đức thì tất cả những
khái niệm, những phạm trù và tri thức đạo đức thu nhận được bằng con đường lý
tính không thể chuyển hóa thành hành vi đạo đức.
* Ý thức thẩm mỹ (ý thức nghệ thuật)
Ý thức nghệ thuật, hay ý thức thẩm mỹ, hình thành rất sớm từ trước khi xã hội
có sự phân chia giai cấp. Ý thức thẩm mỹ phản ánh thế giới bằng hình tượng nghệ
thuật. Hình tượng nghệ thuật là sự nhận thức, sự lĩnh hội cái chung trong cái riêng;
là sự nhận thức cái bản chất trong các hiện tượng, cái phổ biến trong cái cá biệt
nhưng mang tính điển hình.
Sự phát triển của nghệ thuật cả nội dung và hình thức, không thể tách khỏi sự
phát triển của tồn tại xã hội. Nhưng trong sự phát triển của mình, nghệ thuật có
tính độc lập tương đối khá rõ nét. Không phải bao giờ nó cũng phản ánh tồn tại
xã hội một cách tực tiếp, dễ thấy. Nghệ thuật chân chính gắn bó với đời sống hiện
thực của nhân dân, là nhân tố thúc đẩy mạnh mẽ tiến bộ xã hội thông qua việc đáp
ứng những nhu cầu thẩm mỹ của con người.
* Ý thức tôn giáo
Tôn giáo là sự phản ánh hư ảo sức mạnh của giới tự nhiên bên ngoài lẫn các
quan hệ xã hội vào đầu óc con người. Theo Mác - Lênin, cần phải tìm nguồn gốc
của tôn giáo cả trong quan hệ của con người với tự nhiên lẫn trong các quan hệ xã
hội của con người.
Tôn giáo với tính cách là một hình thái ý thức xã hội gồm có tâm lý tôn giáo và
hệ tư tưởng tôn giáo. Tâm lý tôn giáo là toàn bộ những biểu tượng, tình cảm, tâm
trạng của quần chúng về tín ngưỡng tôn giáo. Hệ tư tưởng tôn giáo là hệ thống
giáo lý của tôn giáo đó. Tâm lý tôn giáo và hệ tư tưởng tôn giáo quan hệ chặt chẽ
với nhau. Tâm lý tôn giáo tạo cơ sở cho hệ tư tưởng tôn giáo dễ dàng xâm nhập
vào quần chúng.
Chức năng chủ yếu của ý thức tôn giáo là chức năng đền bù - hư ảo. Chức năng
này làm cho tôn giáo có sức sống lâu dài trong xã hội.
* Ý thức khoa học
Khoa học là sự khái quát cao nhất của thực tiễn, là phương thức nắm bắt tất cả
các hiện tượng của hiện thực, cung cấp những tri thức chân thực về bản chất các
hiện tượng, các quá trình, các quy luật của tự nhiên xã hội và tư duy.
Ý thức khoa học phản ánh sự vận động và sự phát triển của đối tượng bằng tư
duy logic, thông qua hệ thống các khái niệm, phạm trù, quy luật và lý thuyết. Khoa
học phản ánh hiện thực một cách chân thực, chính xác dựa vào sự thật và lý trí. Ý
thức khoa học có nhiệm vụ hướng con người vào việc biến đổi hiện thực, cải tạo
106
thế giới nhằm phục vụ cho nhu cầu cuộc sống của con người.
* Ý thức triết học
Đây là hình thức đặc biệt và cao nhất của tri thức cũng như của ý thức xã hội.
Triết học, cung cấp cho con người tri thức về thế giới như một chỉnh thể thông
qua việc tổng kết toàn bộ lịch sử phát triển của khoa học và của chính bản thân
triết học.
Với tư cách là một hình thái ý thức xã hội, triết học nói chung và triết học duy
vật biện chứng nói riêng, có sứ mệnh trở thành thế giới quan giúp con người trả
lời cho các câu hỏi được nhân loại thường xuyên đặt ra. Triết học duy vật biện
chứng có vai trò to lớn để nhận thức ý nghĩa các hình thái ý thức xã hội khác; để
xác định đúng đắn vị trí của những hình thái ấy trong cuộc sống của xã hội.

Hộp 3.8 Tác động của văn hóa thông qua sản phẩm tiêu dùng
Đối với sản phẩm tiêu dùng, là những thứ vô cùng gần gũi trong cuộc sống mỗi người,
như: cái ăn, cái mặc, cái làm đẹp, sự tác động về văn hóa diễn ra âm thầm nhưng không
kém phần mạnh mẽ. Bởi lẽ, bất cứ lĩnh vực nào, sản phẩm gì trong xã hội đều ẩn chứa
yếu tố văn hóa. Một chiếc quần Jean gắn với hình ảnh chàng Cowboy miền Tây nước
Mỹ. Một chiếc ô tô Mercedez gắn với văn hóa Đức. Một sản phẩm tiêu dùng tốt, bền, giá
cả phải chăng thường gắn với hình ảnh đất nước Mặt trời mọc… Khi quen thuộc với
những sản phẩm tiêu dùng ấy, đồng nghĩa với việc người sử dụng trở nên “thân thiết” với
nền văn hóa làm ra chúng.
Nguồn: <https://www.qdnd.vn/chong-dien-bien-hoa-binh/giu-gin-ban-sac-van-hoa-bao-ve-nen-
tang-tinh-than-xa-hoi-616936>, 04/5/2020

3. Quan hệ biện chứng giữa tồn tại xã hội và ý thức xã hội


3.1. Tồn tại xã hội quyết định ý thức xã hội
Tồn tại xã hội quyết định nội dung ý thức xã hội, ý thức xã hội phản ánh tồn tại
xã hội. Sự khác nhau của ý thức xã hội trong những thời kỳ lịch sử nhất định là
do những điều kiện khác nhau của đời sống vật chất quyết định. Khi tồn tại xã hội
biến đổi, nhất là phương thức sản xuất biến đổi thì những tư tưởng và lý luận xã
hội, những quan điểm chính trị, pháp quyền, triết học, đạo đức... sớm muộn sẽ
biến đổi theo.
3.2. Tính độc lập tương đối của ý thức xã hội
Các hình thái ý thức xã hội có đặc điểm chung là mặc dù bị tồn tại xã hội quy
định, song chúng đều có tính độc lập tương đối. Tính độc lập tương đối của ý thức
xã hội thể hiện ở những điểm sau đây:
* Ý thức xã hội thường lạc hâu hơn tồn tại xã hội. Nguyên nhân:
Sự biến đổi của tồn tại xã hội thường diễn ra với tốc độ nhanh, làm cho ý thức
xã hội không thể phản ánh kịp nên trở thành lạc hậu. Hơn nữa, ý thức xã hội là cái
phản ánh tồn tại xã hội nên nhìn chung chỉ biến đổi khi tồn tại xã hội biến đổi.
Do sức mạnh của thói quen, truyền thống, tập quán, tính lạc hậu bảo thủ của
một số hình thái ý thức xã hội.
107
Ý thức xã hội gắn với lợi ích của những nhóm, tập đoàn, giai cấp nhất định.
Các tập đoàn, giai cấp lạc hậu thường bám chặt vào hệ tư tưởng của mình để bảo
vệ và duy trì quyền lợi ích kỷ của họ, chống lại tư tưởng các lực lượng tiến bộ.
* Ý thức xã hội có thể vượt trước tồn tại xã hội
Những tư tưởng khoa học tiên tiến có thể vượt trước sự phát triển của tồn tại
xã hội. Các nhận định, dự báo khoa học về tương lai có tác dụng tổ chức, chỉ đạo
hoạt động thực tiễn của con người, hướng dẫn hoạt động đó vào việc giải quyết
những nhiệm vụ mới do sự phát triển chín muồi của đời sống vật chất đặt ra.
* Ý thức xã hội có tính kế thừa
Tiến trình phát triển của đời sống tinh thần của xã hội loài người cho thấy rằng,
các quan điểm lý luận, các tư tưởng lớn của thời đại sau bao giờ cũng dựa vào
những tiền đề đã có từ các giai đoạn lịch sử trước đó. Những giai cấp khác nhau
kế thừa những di sản của các thời đại trước. Các giai cấp tiên tiến tiếp nhận những
tư tưởng tiến bộ của xã hội cũ để lại.
* Sự tác động qua lại giữa các hình thái ý thức xã hội
Các hình thái ý thức xã hội phản ánh tồn tại xã hội theo những cách khác nhau,
có vai trò khác nhau trong xã hội và trong đời sống của con người. Tuy nhiên, ở
các thời đại lịch sử khác nhau, trong những hoàn cảnh khác nhau dù vai trò của
các hình thái ý thức xã hội không giống nhau nhưng chúng vẫn có sự tác động qua
lại với nhau.
* Ý thức xã hội tác động trở lại tồn tại xã hội
Tồn tại xã hội chịu sự tác động trở lại của ý thức xã hội là một biểu hiện rõ nét
nhất của tính độc lập tương đối của ý thức xã hội. Tư tưởng tiến bộ cách mạng có
ý nghĩa thúc đẩy sự phát triển của xã hội. Ngược lại, những tư tưởng lạc hậu, phản
động làm kìm hãm sự phát triển của xã hội.
Hộp 3.9. Những con số biết nói
Theo một thống kê:
- Hơn một nửa số người dùng (54%) cho biết họ coi điện thoại như một chiếc đồng hồ báo
thức hàng ngày.
- Gần 1/2 người dùng điện thoại (46%) cho hay chiếc smartphone của họ đã thế chỗ cho
những chiếc đồng hồ đeo tay truyền thống.
- 3/5 số người dùng (39%) lựa chọn smartphone thay vì chiếc máy ảnh số.
- Hơn 1/4 người dùng cho biết họ dùng smartphone thay cho laptop (28%).
- 1/10 số người dùng smartphone cho mục đích chơi game thay vì phải cần tới những chiếc
máy chơi game cầm tay.
- Cứ 20 người (6%) sở hữu smartphone thì có 1 trong số họ dùng chúng cho mục đích xem
tivi hay đọc sách.
Nguồn: <https://genk.vn/dien-thoai/smartphone-da-thay-doi-cuoc-song-cua-chung-ta-nhu-the-
nao-20140505234921753.chn>

V. TRIẾT HỌC VỀ CON NGƯỜI


1. Khái niệm con người và bản chất con người
108
Tiền đề của lý luận của triết học Mác - Lênin, để nghiên cứu con người những
con người hiện thực đang hoạt động, lao động sản xuất và làm ra lịch sử của chính
mình, không phải là những con người trừu tượng, không ở trong các mối quan hệ
xã hội.
1.1. Con người là thực thể sinh học - xã hội
Con người là một sinh vật có tính xã hội ở trình độ phát triển cao nhất của giới
tự nhiên và của lịch sử xã hội, là chủ thể của lịch sử, sáng tạo nên tất cả các thành
tựu của văn minh và văn hóa.
Là thực thể sinh học vì con người là một cơ thể sống, là một động vật. Với tư
cách một thực thể sinh học, con người bị những quy luật sinh học chi phối và con
người có bản chất tự nhiên của mình. Bản chất tự nhiên này thể hiện qua những
nhu cầu có tính bản năng, động vật.
Là thực thể xã hội vì con người trở thành con người trước hết là do hoạt động
xã hội và các mối quan hệ người – người. Cuộc sống của con người không tách
khỏi cuộc sống xã hội. Với tư cách là thực thể xã hội, con người bị những quy luật
xã hội chi phối, bản chất của con người mang đậm dấu ấn của xã hội. Dấu ấn này
thể hiện, con người chịu sự chi phối của những chuẩn mực, giá trị, các quy định,
những yêu cầu về nghĩa vụ, trách nhiệm bản thân trong quan hệ giữa con người
với tự nhiên, con người với xã hội và với chính mình. Hơn nữa, trong khi thực
hiện những nhu cầu có tính bản năng, con người luôn chú ý đến những đòi hỏi
của nhu cầu của cộng đồng, xã hội.
Là thực thể sinh học – xã hội nhưng thực thể sinh học chỉ có tính chất tiền đề,
trên tiền đề ấy, thực thể xã hội biểu hiện tính người của con người.
1.2. Con người vừa là chủ thể vừa là sản phẩm của lịch sử và của chính mình
Là chủ thể của lịch sử vì với tư cách là thực thể xã hội, con người hoạt động
thực tiễn, sáng tạo ra giá trị vật chất tinh thần cho xã hội. Lịch sử phát triển của
xã hội là lịch sử của con người hoạt động theo mục đích của mình. Nhu cầu về
một cuộc sống tốt đẹp, công bằng, hạnh phúc hơn là động lực thúc đẩy con người
không ngừng cải biến tự nhiên, đấu tranh để cải tạo xã hội. Các cuộc đấu tranh
giai cấp mà đỉnh cao là cách mạng xã hội làm xuất hiện phương thức sản xuất
mới, thúc đẩy sự biến đổi về mọi mặt của đời sống xã hội.
Là sản phẩm của lịch sử vì đời sống con người gắn liền với những điều kiện,
hoàn cảnh cụ thể, không gian, thời gian cụ thể. Con người chịu sự chi phối của
điều kiện, hoàn cảnh sống của gia đình và của xã hội. Các yếu tố về trình độ phát
triển của xã hội, văn hóa, truyền thống, tập quán, chuẩn mực đạo đức, pháp luật;

109
những biến động, vận động của đời sống kinh tế, chính trị, văn hóa… trực tiếp tác
động đến nhận thức, thái độ, suy nghĩ, hành động của con người.
Là sản phẩm của chính mình, vì đứng trên điều kiện và hoàn cảnh sống đó,
càng trưởng thành, con người càng tự do theo đuổi ước mơ, lý tưởng, thể hiện giá
trị sống của mình. Số phận mỗi người phần nhiều do họ quyết định. Điều đó tùy
thuộc vào nhận thức, thái độ, hành động của họ đối với cuộc đời mình. Gieo hành
vi gặt thói quen, gieo thói quen gặt tính cách, gieo tính cách gặt số phận.
1.3. Bản chất con người là tổng hòa các quan hệ xã hội.
Con người mang bản chất xã hội vì bản chất con người bị các điều kiện xã hội đương
thời quy định như kinh tế, chính trị, văn hoá, giáo dục... Khi những điều kiện này thay
đổi, bản chất con người cũng sẽ thay đổi.
Trong tính hiện thực của nó, bản chất con người là tổng hoà các quan hệ xã hội. Theo
tư tưởng này, con người là con “người hiện thực”. Trong bối cảnh hiện thực ấy tất cả
các quan hệ xã hội đều tham gia làm hình thành nên bản chất con người. Quan hệ giữ
vai trò quyết định là quan hệ vật chất - kinh tế.
Hộp 3.10. Bản chất tự nhiên và xã hội của con người
Là thực thể sinh học Nhu cầu tự nhiên: ăn, mặc, ở... (1)
Là thực thể xã hội Nhu cầu xã hội: quan hệ, giao tiếp… (2)
Là thực thể có đời sống tinh thần Nhu cầu phát triển tinh thần (3)
Nhu cầu (1): Thiết yếu nhất, thể hiện bản chất tự nhiên. Nhu cầu (2) bổ sung cho (1).
Nhu cầu (2) và (3) thể hiện bản chất xã hội của con người.
Nguồn: Nhóm tác giả biên soạn, 2020

Hộp 3.11. Con người tự quyết định bản chất của mình
Con người có thể tự do lựa chọn đi xuống tới những thang bậc thấp kém nhất của thế giới thú
vật, nhưng cũng có thể nâng cao bản thân mình lên tới phạm vi cao cả nhất của thần thánh.
Là nhân vị tự do nên con người phải chịu trách nhiệm với lựa chọn của mình. Khi một người
chối bỏ tự do (để đổi lấy miếng ăn hay sự an toàn chẳng hạn), thì anh ta cũng mất đi phẩm
giá làm người để rơi xuống hàng "sự vật". Nhưng việc chối bỏ tự do suy đến cùng thì cũng
vẫn là một lựa chọn, và anh ta phải chịu trách nhiệm với lựa chọn ấy của mình. Nói theo ngôn
ngữ Phật giáo thì con người tự tạo nghiệp cho mình bằng những lựa chọn mà anh ta thực hiện
trong cuộc đời; mọi sinh linh tự quyết định bản chất và hiện hữu cho chính nó bằng các hành
động của nó. Hệ quả là: sự đa dạng là bản chất của con người chứ không phải là điều kiện
nhất thời.
Nguồn: Nguyễn Văn Trọng (2018), Khoa học tự nhiên và con người trong đời sống tinh thần, Nxb
Tri thức, Hà Nội (Trích bìa 4)

2. Hiện tượng tha hoá con người và vấn đề giải phóng con người
2.1. Thực chất của hiện tượng tha hoá con người là lao động của con người bị

110
tha hoá
Lao động là hoạt động cơ bản nhất của con người thể hiện niềm vui, sự sáng
tạo, nhu cầu nội tại rất tích cực. Tuy nhiên, ở lao động bị tha hóa, hoạt động lao
động của con người không còn để thỏa mãn nhu cầu lao động nữa, nó trở thành
hoạt động nhằm duy trì sự sinh tồn của thể xác. Đó là lao động bị cưỡng bức.
Trong lao động bị cưỡng bức, người lao động thấy mình như là con vật; họ không
xem lao động là quá trình bản thân đang thực hiện chức năng cao quý. Họ không
tìm thấy niềm vui, sự sáng tạo, không sản sinh ra nguồn năng lượng tích cực.
Người lao động chỉ hành động với tính cách con người khi thực hiện các chức
năng sinh học như ăn, ngủ, sinh lý. Thực chất của lao động bị tha hoá là quá trình
lao động và sản phẩm của lao động từ chỗ để phục vụ, để phát triển con người đã
bị biến thành lực lượng đối lập, nô dịch và thống trị con người.
Nguyên nhân gây nên hiện tượng tha hóa con người là chế độ tư hữu về tư liệu
sản xuất. Nhưng tha hoá con người được đẩy lên cao nhất trong xã hội tư bản chủ
nghĩa. Chế độ đó đã tạo ra sự phân hóa xã hội về việc chiếm hữu tư nhân tư liệu
sản xuất khiến đại đa số người lao động trở thành vô sản, một số ít trở thành tư
sản, chiếm hữu toàn bộ các tư liệu sản xuất của xã hội. Vì vậy những người vô
sản buộc phải làm thuê cho các nhà tư sản, phải để các nhà tư sản bóc lột mình.
Sự tha hóa lao động bắt đầu từ đó. Lao động bị tha hóa là nội dung chính yếu, là
nguyên nhân, là thực chất của sự tha hóa của con người.
Sự tha hóa tất yếu làm cho con người không thể phát triển toàn diện, không thể
phát huy được sức mạnh bản chất người. Người lao động ngày càng bị bần cùng
hóa, sự phân cực xã hội ngày càng lớn. Sản xuất, công nghiệp, khoa học và công
nghệ càng phát triển, lợi nhuận của các chủ sở hữu tư liệu sản xuất càng lớn, người
lao động ngày càng bị máy móc thay thế. Người lao động càng bị đẩy ra khỏi quá
trình sản xuất trực tiếp thì lao động càng bị tha hóa.
Việc khắc phục sự tha hóa không chỉ gắn liền với việc xóa bỏ chế độ tư hữu tư
bản chủ nghĩa, mà còn gắn liền với việc khắc phục sự tha hóa trên các phương
diện khác của đời sống xã hội.
2.2. Giải phóng con người khỏi ách áp bức, bóc lột
Đây là một trong những tư tưởng căn bản, cốt lõi của chủ nghĩa Mác - Lênin
về con người. Đấu tranh giai cấp để thay thế chế độ sở hữu tư nhân tư bản chủ
nghĩa về tư liệu sản xuất và phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa, để giải phóng
con người về phương diện chính trị là nội dung quan trọng hàng đầu. Khắc phục
sự tha hóa của con người và của lao động, biến lao động sáng tạo trở thành chức

111
năng thực sự của con người.
“Bất kỳ sự giải phóng nào cũng bao hàm ở chỗ là nó trả thế giới con người,
những quan hệ của con người về với bản thân con người”, là “giải phóng người
lao động thoát khỏi lao động bị tha hóa”7. Tư tưởng đó thể hiện chính xác thực
chất của sự giải phóng con người.
2.3. Sự phát triển tự do của mỗi người là điều kiện cho sự phát triển tự do của
mọi người
Con người là sự thống nhất giữa cá nhân và xã hội, cá nhân với giai cấp, dân
tộc và nhân loại, bản chất của con người là tổng hòa các quan hệ xã hội. Do vậy,
sự phát triển tự do của mỗi người tất yếu là điều kiện cho sự phát triển tự do của
mọi người. Điều đó chỉ có thể đạt được khi con người thoát khỏi sự tha hóa, sự
nô dịch.
Những tư tưởng về con người trong triết học của chủ nghĩa Mác là những tư
tưởng cơ bản, đóng vai trò là kim chỉ nam, là cơ sở lý luận khoa học, định hướng
cho các hoạt động chính trị, xã hội văn hóa và tư tưởng của những lực lượng tiến
bộ. Những tư tưởng đó, còn là tiền đề lý luận và phương pháp luận đúng đắn cho
sự phát triển của khoa học xã hội. Các quan điểm, lý luận của khoa học hiện đại
về con người không thể không tham chiếu những tư tưởng của triết học Mác –
Lênin về con người.

Hộp 3.12. Chính phủ để phê chuẩn Công ước 98 của ILO
Ngày 14/6/2019, tất cả 452 đại biểu Quốc hội Việt Nam có mặt tại phiên họp đã bỏ phiếu
đồng ý với hồ sơ của Chính phủ để phê chuẩn Công ước 98 của Tổ chức Lao động Quốc tế
(ILO) về Quyền tổ chức và thương lượng tập thể.
Công ước 98 là một trong 8 công ước cốt lõi của ILO bao gồm: quyền tự do lập hội và công
nhận quyền thương lượng tập thể; loại bỏ tất cả các hình thức lao động cưỡng bức hoặc bắt
buộc; xóa bỏ lao động trẻ em; và loại bỏ sự phân biệt đối xử về việc làm và nghề nghiệp.
Công ước 98 bảo vệ công nhân và cán bộ công đoàn chống lại hành vi phân biệt đối xử của
người sử dụng lao động, bảo đảm cho các tổ chức của người lao động và người sử dụng lao
động không bị can thiệp hoặc chi phối lẫn nhau, và yêu cầu các biện pháp thể chế và pháp
lý do Nhà nước cung cấp để thúc đẩy thương lượng tập thể.
Việc phê chuẩn Công ước 98 sẽ thúc đẩy sự lan truyền của thương lượng tập thể đích thực
cho các giải pháp cùng có lợi tại nơi làm việc của Việt Nam, có khả năng dẫn đến điều kiện
làm việc tốt hơn, năng suất cao hơn và thịnh vượng chung, góp phần phát triển bền vững.
Nguồn:
<https://www.ilo.org/hanoi/Informationresources/Publicinformation/newsitems/WCMS_710543/l
ang--vi/index.htm>, 14/6/2019.

3. Quan điểm của triết học Mác – Lênin về quan hệ cá nhân và xã hội, vai
trò của quần chúng nhân dân và lãnh tụ trong lịch sử

7
C. Mác và Ph. Ăngghen (1995), Toàn tập, Tập1, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, tr. 557.

112
3.1. Quan hệ giữa cá nhân và xã hội
Cá nhân là khái niệm chỉ con người cụ thể, sống trong một xã hội nhất định và
được phân biệt với các cá thể khác thông qua tính đơn nhất và tính phổ biến của
nó. Trong quan hệ xã hội, cá nhân được phân biệt với các đặc trưng: Thứ nhất, cá
nhân là phương thức tồn tại của loài người. Không có con người nói chung, trừu
tượng. Chỉ có con người cụ thể trong quan hệ xã hội. Thứ hai, cá nhân là cá thể
người riêng lẻ, là phần tử đơn nhất tạo thành cộng đồng xã hội. Cá nhân là một
chỉnh thể toàn vẹn có nhân cách.
Cá nhân và xã hội tồn tại trong mối quan hệ không tách rời nhau. Xã hội do các
cá nhân hợp thành, mỗi cá nhân là một phần tử, sống và hoạt động trong xã hội
đó. Quan hệ ấy phụ thuộc vào điều kiện lịch sử cụ thể, vào trình độ phát triển xã
hội và của từng cá nhân, đặc biệt là phụ thuộc vào bản chất của xã hội.
Sự thống nhất cá nhân - xã hội còn thể hiện ở một góc độ khác trong quan hệ
con người giai cấp và con người nhân loại. Mỗi con người cá nhân trong xã hội
có giai cấp đều mang tính giai cấp, do nó luôn là thành viên của một giai cấp, tầng
lớp xã hội xác định. Mặt khác, mỗi cá nhân, dù thuộc về giai cấp nào cũng đều
mang tính nhân loại. Tính nhân loại được thể hiện trong các giá trị chung toàn
nhân loại, trong những quy tắc, chuẩn mực chung xuất hiện trên nền tảng lợi ích
chung, từ bản chất người của các cá nhân tạo nên cộng đồng nhân loại.
Trong mỗi con người cá nhân luôn luôn mang trong nó cả những cái riêng biệt
với tính cách là cá nhân, vừa mang cả những cái đặc thù của quốc gia dân tộc, vừa
mang cả tính giai cấp lẫn tính nhân loại.
3.2. Vai trò của quần chúng nhân dân và cá nhân trong lịch sử
Quần chúng nhân dân là bộ phận có cùng chung lợi ích căn bản, bao gồm những
thành phần, những tầng lớp và những giai cấp liên kết lại tạo thành tập thể dưới
sự lãnh đạo của một cá nhân, tổ chức hay đảng phái nhằm giải quyết những vấn
đề kinh tế, chính trị, xã hội của một thời đại nhất định.
Khái niệm quần chúng nhân dân được xác định bởi các: những người lao động
sản xuất ra của cải vật chất và tinh thần cho xã hội; những bộ phận dân cư có
khuynh hướng chống lại giai cấp thống trị áp bức, bóc lột mà lợi ích căn bản của
họ, đối kháng với lợi ích của đông đảo nhân dân lao động; những giai cấp và tầng
lớp thúc đẩy sự tiến bộ của xã hội.
Vai trò của quần chúng nhân dân thể hiện: thứ nhất, họ là người sáng tạo ra lịch
sử; sản xuất ra của cải vật chất, là yếu tố quyết định sự tồn tại và phát triển của xã
hội. Thứ hai, trong các yếu tố của quá trình sản xuất vật chất, thì con người, ở đây
là quần chúng nhân dân lao động, mang tính quyết định. Thứ ba, lợi ích của họ
vừa là điểm khởi đầu, vừa là điểm kết thúc của các hành động cách mạng. Thứ tư,
113
các giá trị văn hóa, tinh thần và đời sống tinh thần nói chung đều do quần chúng
nhân dân sáng tạo ra.
Mối quan hệ giữa vai trò quần chúng nhân dân với cá nhân chính là quan hệ
giữa vai trò của nhân dân lao động với cá nhân là lãnh tụ/vĩ nhân. Một mặt, quan
hệ này thể hiện một phần nội dung quan hệ giữa cá nhân và xã hội. Mặt khác, nó
lại chứa đụng những nội dung mới, khác biệt.
Vĩ nhân là những cá nhân kiệt xuất nắm bắt được những vấn đề căn bản nhất
trong một lĩnh vực nhất định của hoạt động khoa học và thực tiễn. Họ có thể là
những anh hùng, những nhà khoa học, hay những nhà hoạt động chính trị lỗi lạc.
Lãnh tụ là những người có tri thức khoa học uyên bác; nhận thức được xu hướng
vận động của dân tộc và thời đại; có khả năng tập hợp quần chúng nhân dân;
nguyện hiến mình cho lợi ích của dân tộc, quốc tế và thời đại. Lãnh tụ có vai trò:
thứ nhất thúc đẩy hoặc kìm hãm sự tiến bộ xã hội; thứ hai, sáng lập ra các tổ chức
chính trị xã hội và là linh hồn của các tổ chức đó; thứ ba, lãnh tụ của mỗi thời đại
chỉ có thể hoàn thành những nhiệm vụ đặt ra của thời đại đó.
Quan hệ giữa lãnh tụ với quần chúng nhân dân là quan hệ thống nhất, biện
chứng. Điều đó thể hiện: mục đích và lợi ích của quần chúng và lãnh tụ là thống
nhất; quần chúng và phong trào của họ tạo nên các lãnh tụ và những điều kiện,
tiền đề khách quan để các lãnh tụ xuất hiện và hoàn thành các nhiệm vụ mà lịch
sử đặt ra cho họ; lãnh tụ là người dẫn dắt, định hướng cho phong trào, thúc đẩy
phong trào phát triển, qua đó đó thúc đẩy sự phát triển của lịch sử xã hội.
Ý nghĩa phương pháp luận
Lãnh tụ có vai trò quan trọng, nhưng nếu tuyệt đối hóa vai trò của họ dẫn đến
tệ sùng bái cá nhân, thần thánh hóa lãnh tụ, coi nhẹ quần chúng nhân dân, hạn chế
việc phát huy tính năng động, sáng tạo của quần chúng nhân dân. Ngược lại, việc
tuyệt đối hóa vai trò của quần chúng nhân dân, xem nhẹ vai trò của các cá nhân
và lãnh tụ sẽ dẫn đến hạn chế, xem thường các sáng kiến cá nhân, không phát huy
được sức mạnh sáng tạo của họ.
Kết hợp hài hoà, hợp lý, khoa học vai trò quần chúng nhân dân và cá nhân lãnh
tụ trong từng điều kiện cụ thể xác định sẽ tạo sức mạnh tổng hợp thúc đẩy phong
trào và sự vận động, phát triển của cộng đồng, xã hội nói chung.

Hộp 3.13. Danh ngôn về người lãnh đạo


Nếu những hành động của bạn truyền cảm hứng cho những người khác ước mơ nhiều hơn, học
hỏi nhiều hơn, làm nhiều việc hơn và trở nên 114
tốt đẹp hơn, bạn là một người lãnh đạo (John
Quincy Adams).
Thách thức của tài lãnh đạo là mạnh mẽ nhưng không thô lỗ; tử tế nhưng không yếu đuối; bạo
4. Vấn đề con người trong sự nghiệp cách mạng ở Việt Nam
Lý luận về con người của các nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác – Lênin là nền
tảng lý luận cho việc phát huy vai trò của con người trong cách mạng và trong sự
nghiệp đổi mới ở Việt Nam hiện nay.
Chủ tịch Hồ Chí Minh đã vận dụng sáng tạo và phát triển lý luận về con người
của chủ nghĩa Mác – Lênin phù hợp với điều kiện lịch sử xã hội Việt Nam hiện
đại.
Tư tưởng Hồ Chí Minh về con người bao hàm nhiều nội dung khác nhau, trong
đó có các nội dung cơ bản là: tư tưởng về giải phóng nhân dân lao động, giải
phóng giai cấp, giải phóng dân tộc, tư tưởng về con người vừa là mục tiêu, vừa là
động lực của cách mạng, tư tưởng về phát triển con người toàn diện.
Giải phóng nhân dân lao động gắn liền với giải phóng giai cấp, giải phóng dân
tộc, bởi ở Việt Nam quyền lợi của nhân dân lao động thống nhất với quyền lợi
của giai cấp và dân tộc. Đấu tranh giải phóng nhân dân lao động, giải phóng giai
cấp vô sản, giai cấp nông dân và toàn thể dân tộc khỏi ách áp bức, bóc lột dưới sự
lãnh đạo của giai cấp vô sản. Chỉ bằng cách đó, thì việc giải phóng giai cấp vô sản
mới có thể thực hiện được triệt để và đảm bảo thắng lợi hoàn toàn.
Do bối cảnh lịch sử của quốc gia dân tộc, Hồ Chí Minh luôn nhấn mạnh tư
tưởng giành độc lập, tự do cho quốc gia dân tộc, tư tưởng giải phóng dân tộc phải
được thực hiện do chính các dân tộc bị áp bức, bóc lột. Hồ Chí Minh còn nhấn
mạnh rằng sự nghiệp cách mạng, thành quả cách mạng đều là của dân, do dân và
vì dân. Con người, nhân dân lao động không chỉ là mục tiêu của sự nghiệp cách
mạng mà còn là động lực của cách mạng.
Việc phát huy vai trò con người ở Việt Nam đã được Đảng Cộng sản Việt Nam

115
chú trọng nhấn mạnh trong các kỳ đại hội Đảng, trong các văn kiện của Ban Chấp
hành Trung ương, trong các chủ trương, chính sách, quản lý và điều hành sự phát
triển kinh tế, xã hội nói chung. Một mặt, Đảng ta nhấn mạnh việc đấu tranh không
khoan nhượng chống thoái hóa, biến chất, suy thoái về chính trị, tư tưởng đạo đức,
chống lại những thói hư tật xấu, những đặc tính tiêu cực của con người Việt Nam
đang cản trở sự phát triển của chính con người và xã hội. Mặt khác, nhấn mạnh
đến việc xây dựng con người Việt Nam đáp ứng yêu cầu phát triển đất nước hiện
nay với những đức tính về tinh thần yêu nước, tự cường dân tộc, phấn đấu vì độc
lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, có ý chí vươn lên đưa đất nước thoát khỏi nghèo
nàn, lạc hậu, đoàn kết với nhân dân thế giới trong sự nghiệp đấu tranh vì hòa bình,
độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội; Có ý thức tập thể, đoàn kết, phấn đấu
vì lợi ích chung; Có lối sống lành mạnh, nếp sống văn minh, cần kiệm, trung thực,
nhân nghĩa, tôn trọng kỷ cương phép nước, quy ước của cộng đồng; có ý thức bảo
vệ và cải thiện môi trường sinh thái; Lao động chăm chỉ với lương tâm nghề
nghiệp, có kĩ thuật, sáng tạo, năng suất cao vì lợi ích của bản thân, gia đình, tập
thể và xã hội...
Sự thành công của công cuộc đổi mới nói riêng và sự phát triển đất nước nói
chung phụ thuộc rất lớn vào việc phát huy vai trò của nhân tố con người.

Hộp 3.14. Một số mục tiêu phát triển bền vững Việt Nam đến năm 2030
- Giảm ít nhất một nửa tỷ lệ nghèo theo tiêu chí nghèo đa chiều của quốc gia.
- Triển khai trên toàn quốc các hệ thống và các biện pháp an sinh xã hội thích hợp
cho mọi người, bao gồm cả các chính sách sàn an sinh xã hội và đến năm 2030 đạt được
diện bao phủ đáng kể cho người nghèo và những người dễ bị tổn thương.
- Chấm dứt tình trạng thiếu đói và đảm bảo tất cả mọi người, đặc biệt những người
nghèo và những người dễ bị tổn thương, bao gồm cả người cao tuổi và trẻ sơ sinh, được
tiếp cận với thực phẩm an toàn, đủ dinh dưỡng và đầy đủ quanh năm
- Giảm tất cả các hình thức suy dinh dưỡng, đáp ứng nhu cầu dinh dưỡng cho các đối
tượng là trẻ em, trẻ em gái vị thành niên, phụ nữ mang thai và đang cho con bú, người
cao tuổi.
Nguồn: Thủ tướng chính phủ, Quyết định 681/QĐ-TTg về việc ban hành Lộ trình thực hiện
các mục tiêu phát triển bền vững Việt Nam đến năm 2030 (Trích)

VĂN BẢN VÀ CÂU HỎI KẾT CHƯƠNG


HẬU QUẢ KINH TẾ CỦA TỰ ĐỘNG HÓA

116
(Robert Skidelsky. Biên dịch: Phan Nguyên)
Trong khi Brexit chiếm tiêu đề của báo chí ở Vương quốc Anh và các nơi khác,
cuộc diễu hành trong im lặng của quá trình tự động hóa vẫn tiếp tục. Hầu hết các
nhà kinh tế xem xu hướng này là có ích: công nghệ, theo họ, có thể phá hủy việc
làm trong ngắn hạn, nhưng sẽ tạo ra những việc làm mới và tốt hơn trong dài hạn.
Sự phá hủy việc làm là rất rõ ràng và trực tiếp: một công ty tự động hóa băng
chuyền, hệ thống thanh toán tại siêu thị hoặc hệ thống giao hàng, sẽ chỉ giữ lại
một phần mười lực lượng lao động làm giám sát viên, và sa thải phần còn lại.
Nhưng những gì xảy ra sau đó lại ít rõ ràng hơn.
Lập luận kinh tế tiêu chuẩn là người lao động bị ảnh hưởng bởi tự động hóa
ban đầu sẽ mất việc, nhưng toàn bộ dân số sau đó sẽ được bồi thường. Ví dụ, các
nhà kinh tế học đoạt giải Nobel Christopher Pissarides và Jacques Bughin của
Viện Toàn cầu McKinsey cho rằng năng suất cao hơn từ tự động hóa “sẽ dẫn tới
tăng trưởng kinh tế nhanh hơn, chi tiêu tiêu dùng nhiều hơn, tăng nhu cầu lao động
và tạo ra lượng việc làm lớn hơn”.
Nhưng lý thuyết về bồi thường này là quá trừu tượng. Trước tiên, chúng ta cần
phân biệt đổi mới giúp “tiết kiệm lao động” và đổi mới giúp “tăng cường lao
động”. Đổi mới sản phẩm, chẳng hạn như sự ra đời của ô tô hoặc điện thoại di
động, là giúp tăng cường lao động. Ngược lại, đổi mới quy trình, tức giới thiệu
một phương pháp sản xuất cải tiến, là tiết kiệm lao động, bởi vì nó cho phép các
công ty sản xuất cùng một lượng hàng hóa hoặc dịch vụ hiện hữu với ít công nhân
hơn.
Đúng là các công việc mới được tạo ra bởi sự đổi mới sản phẩm có thể bị bù
trừ bởi “hiệu ứng thay thế”, vì thành công của một sản phẩm mới khiến cho lao
động làm việc sản xuất sản phẩm cũ trở nên dư thừa. Nhưng thách thức lớn nhất
lại đến từ đổi mới quy trình, bởi đổi mới quy trình chỉ làm mất công việc cũ mà
không tạo ra công việc mới. Khi đổi mới quy trình chiếm ưu thế, chỉ có các cơ
chế bồi thường mới có thể giúp ngăn chặn tình trạng thất nghiệp gia tăng, hay tình
trạng mà nhà kinh tế học người Anh David Ricardo gọi là sự dư thừa của dân số.
Có một số cơ chế để làm điều này. Đầu tiên, lợi nhuận gia tăng sẽ dẫn đến đầu
tư hơn nữa vào công nghệ mới, và do đó là sản phẩm mới. Ngoài ra, cạnh tranh
giữa các công ty sẽ dẫn đến việc giảm giá chung, làm tăng nhu cầu về sản phẩm
và kéo theo đó là nhu cầu lao động. Cuối cùng, việc giảm tiền lương gây ra bởi
thất nghiệp công nghệ ban đầu sẽ làm tăng nhu cầu lao động và khuyến khích
quay lại các phương pháp sản xuất thâm dụng lao động hơn, thu hút những người
lao động dư thừa.
117
Các cơ chế bồi thường này hoạt động nhanh như thế nào sẽ phụ thuộc vào mức
độ dễ dàng của việc lưu chuyển vốn và lao động giữa các ngành nghề và khu vực
địa lý khác nhau. Sự ra đời của công nghệ tiết kiệm lao động sẽ dẫn đến giá thấp
hơn, nhưng nó cũng sẽ làm giảm mức tiêu thụ của những người lao động bị dư
thừa. Vì vậy, một câu hỏi là hiệu ứng nào sẽ có tác động nhanh hơn. Các nhà kinh
tế theo trường phái Keynes cho rằng sự sụt giảm nhu cầu đối với hàng hóa do thất
nghiệp sẽ diễn ra trước, và do đó có tác dụng chi phối so với việc giảm giá nhờ tự
động hóa. Điều này sẽ dẫn đến tình trạng thất nghiệp gia tăng hơn nữa, ít nhất là
trong ngắn hạn.
Hơn nữa, ngay cả khi tình trạng mất việc như vậy chỉ là một hiện tượng ngắn
hạn, hiệu ứng tích tụ của một loạt các đổi mới tiết kiệm lao động theo thời gian
có thể tạo ra thất nghiệp dài hạn. Ngoài ra, việc điều chỉnh giảm giá hiệu quả phải
diễn ra khi có sự cạnh tranh. Còn trong một thị trường độc quyền, một công ty có
thể sử dụng chi phí tiết kiệm được để tăng lợi nhuận thay vì giảm giá.
Những lý do như vậy đã củng cố quan điểm đương đại cho rằng lợi ích của tự
động hóa là về lâu dài, và dư thừa lao động sẽ tăng lên trong “thời kỳ chuyển
tiếp”. Nhưng thời kỳ chuyển tiếp có thể kéo dài nhiều thập niên như một báo cáo
gần đây của Viện Toàn cầu McKinsey cho hay. Vì vậy không có gì đáng ngạc
nhiên khi các công nhân đang hoài nghi các lập luận về bồi thường này.
Marx lập luận rằng không có quá trình bồi thường nào như vậy tồn tại, cả trong
ngắn hạn lẫn dài hạn. Câu chuyện ông kể vì thế không có kết thúc có hậu cho
người lao động – ít nhất là dưới chế độ tư bản chủ nghĩa.
Marx nói rằng cạnh tranh buộc các công ty riêng lẻ phải đầu tư càng nhiều lợi
nhuận càng tốt vào mục đích tiết kiệm lao động – nghĩa là cắt giảm chi phí thông
qua máy móc. Nhưng cơ giới hóa gia tăng không có lợi cho các nhà tư bản nói
chung. Thật vậy, công ty nào đi tiên phong sẽ tận hưởng lợi thế tạm thời bằng
cách “hưởng lợi từ đường cong chi phí trung bình giảm dần”, như Joseph
Schumpeter lập luận trong cuốn History of Economic Analysis (Lịch sử Phân tích
Kinh tế), qua đó tiêu diệt các công ty yếu hơn trong quá trình này. Nhưng cạnh
tranh sau đó giúp khuếch tán công nghệ mới và nhanh chóng làm khoản siêu lợi
nhuận tạm thời kia biến mất.
Marx lập luận rằng muốn khôi phục tỷ lệ lợi nhuận đòi hỏi “một đội quân dự
bị ngày càng lớn của người thất nghiệp”. Vì vậy, ông viết, cơ giới hóa “ném người
lao động ra vỉa hè”. Đối với Marx, thất nghiệp về bản chất là do công nghệ. Và
mặc dù đội quân dự bị tạm thời được hấp thụ vào lực lượng lao động trong thời
kỳ thịnh vượng cao, nhưng sự tồn tại liên tục của đội quan này dẫn đến tình trạng
118
bần cùng hóa ngày càng tăng về dài hạn.
Do đó, đối với Marx, thứ tự các sự kiện về dài hạn hoàn toàn ngược lại với quan
điểm chính thống: cơ giới hóa tạo ra sự thịnh vượng trong ngắn hạn, nhưng phải
trả giá bằng sự xuống cấp (bần cùng hóa người lao động) về dài hạn.
Các tác động về tái phân phối thu nhập của thay đổi công nghệ từ lâu đã chiếm
vị trí nổi bật trong các cuộc thảo luận của các nhà kinh tế. Trong cuốn sách The
Theory of Wages (Lý thuyết tiền lương) năm 1932, John Hicks đã phát triển ý
tưởng về “đổi mới do bị thúc đẩy”. Ông lập luận rằng tiền lương cao hơn đe dọa
tỷ lệ lợi nhuận, khiến doanh nghiệp phải tiết kiệm sử dụng lao động bởi vì yếu tố
sản xuất này ngày càng tương đối đắt đỏ hơn. Do đó, tự động hóa nền kinh tế
không chỉ đơn giản là do sức mạnh của máy tính ngày càng tăng, theo Định luật
Moore, mà còn phụ thuộc vào những thay đổi trong chi phí lao động và vốn.
Đây là những lập luận phức tạp về mặt kỹ thuật. Nhưng lý thuyết kinh tế rõ
ràng không mang lại một câu trả lời rõ ràng về ảnh hưởng lâu dài của tiến bộ công
nghệ đối với việc làm. Kết luận tốt nhất chúng ta có thể rút ra là tác động sẽ phụ
thuộc vào sự cân bằng giữa đổi mới sản phẩm và đổi mới quy trình, và vào các
yếu tố như tình trạng nhu cầu, mức độ cạnh tranh trên thị trường và sự cân bằng
quyền lực giữa vốn và lao động.
Đây là các lĩnh vực rất quan trọng mà chính phủ có thể can thiệp. Ngay cả khi
tự động hóa nhìn chung có lợi về lâu dài, thì các nhà hoạch định chính sách không
nên bỏ qua các hiệu ứng ngắn hạn mang tính xáo trộn của quá trình này. Rốt cuộc,
những gì xảy ra trong ngắn hạn chính là những khoảnh khắc lịch sử kinh hoàng
mà chúng ta từng chứng kiến8.
Câu hỏi
1. Anh/ Chị cho biết hậu quả kinh tế của tự động hóa (nêu trong văn bản) cụ
thể là gì?
2. Cho biết ý kiến của Anh/ Chị về nhận định sau: Công nghệ có thể phá hủy
việc làm trong ngắn hạn, nhưng sẽ tạo ra những việc làm mới và tốt hơn trong
dài hạn.
3. Theo Anh/ Chị thì vai trò ngày càng lớn của khoa học công nghệ đối với sự
phát triển kinh tế có làm tình trạng bần cùng hóa ngày càng tăng về dài hạn đối
với người lao động bị thất nghiệp hay không? Vì sao?
4. Theo Anh/ Chị, nhận định sau đúng hay sai? Vì sao? Đổi mới sản phẩm sẽ

8
Robert Skidelski (2020), Hậu quả kinh tế của tự động hóa (Biên dịch: Phan Nguyên),
https://nghiencuuquocte.org/2019/09/25/hau-qua-kinh-te-cua-tu-dong-hoa/, 3/2/2020.

119
tạo ra việc làm nhưng đổi mới quy trình sẽ khiến cho việc làm mất đi. (Sự ra đời
của ô tô hoặc điện thoại di động, là giúp tăng cường lao động. Ngược lại, một
phương pháp sản xuất cải tiến, là tiết kiệm lao động, bởi vì nó cho phép các công
ty sản xuất cùng một lượng hàng hóa hoặc dịch vụ hiện hữu với ít công nhân hơn).

CÂU HỎI ÔN TẬP


1. Phân tích vai trò của nền sản xuất vật chất đối với sự vận động và phát triển của
xã hội.
2. Trình bày mối quan hệ biện chứng giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất.
3. Làm sáng tỏ mối quan hệ biện chứng giữa cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng
tầng?
4. Phân tích tính lịch sử - tự nhiên trong sự phát triển các hình thái khinh tế - xã
hội.
5. Trình bày quan niệm của chủ nghĩa Mác - Lênin về giai cấp và đấu tranh giai
cấp.
6. Cho biết mối quan hệ biện chứng giữa giai cấp với dân tộc được thể hiện như
thế nào?
7. Làm rõ nguồn gốc, bản chất, chức năng và đặc trưng của nhà nước.
8. Phân tích nguồn gốc, bản chất và vai trò của cách mạng xã hội.
9. Triết học duy vật lịch sử quan niệm như thế nào về tồn tại xã hội và ý thức xã
hội? Phân tích mối quan hệ biện chứng giữa chúng. Nêu ý nghĩa phương pháp
luận.
10. Cho biết quan niệm của Triết học Mác - Lênin về con người và bản chất con
người.
11. Bản chất của tha hóa con người là gì? Trình bày nội dung cốt lõi của triết học
Mác - Lênin về giải phóng con người.
12. Trình bày vai trò quần chúng nhân dân như là chủ thể sáng tạo và động lực
phát triển của lịch sử. Liên hệ với quan điểm “lấy dân làm gốc” của Chủ tịch Hồ
Chí Minh.

CÂU HỎI THẢO LUẬN


1. Từ nội dung quy luật quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ phát triển của lực
lượng sản xuất, anh Anh/Chị làm rõ tính tất yếu của nền kinh tế nhiều thành phần
ở nước ta hiện nay.
2. Quan hệ sản xuất sẽ tác động trực tiếp đến yếu tố nào đầu tiên trong lực lượng
sản xuất? Vì sao?
120
3. Trong vai trò là chủ doanh nghiệp, Anh/Chị cần có những biện pháp như thế
nào về mặt quan hệ sản xuất để thúc đẩy lực lượng sản xuất của doanh nghiệp
phát triển?
4. Vì sao nói, Việt Nam tiến lên xây dựng chủ nghĩa xã hội, bỏ qua giai đoạn tư
bản chủ nghĩa nhưng vẫn mang tính khách quan, phù hợp với tính lịch sử - tự
nhiên của các hình thái kinh tế - xã hội?
5. Từ mối quan hệ giữa giai cấp và dân tộc, Anh/Chị hãy phân tích để chứng minh
nhận định: Độc lập dân tộc phải gắn liền với chủ nghĩa xã hội?
6. Trong bối cảnh hiện nay, cách mạng xã hội biểu hiện ra như thế nào? Vì sao?
7. Dựa trên lý luận về xã hội và con người của chủ nghĩa Mác - Lênin, Anh/Chị
hãy bình luận về hiện tượng sau.
Có một thống kê đáng buồn rằng nước ta hơn 90 triệu dân nhưng tổng sản
phẩm quốc nội chỉ khoảng 200 tỷ USD, trong khi đó với 5 triệu dân nhưng
Singgapore đã tạo thu nhập bình quân đầu người gấp 17 lần Việt Nam! …Sự lười
biếng lao động ở trong nước đã khiến chúng ta trở thành quốc gia đi làm thuê
khắp toàn cầu, từ Châu Á sang tận Châu Phi không nơi nào thiếu vắng lao động
Việt Nam, sở dĩ phải dùng từ “làm thuê” bởi phần lớn lao động Việt Nam sang
nước ngoài chỉ để làm những công việc phổ thông…
Lười lao động nhưng thích giàu nhanh đó là cơ sở thực tiễn đầu tiên của mọi rối
ren trong xã hội, giới trẻ với tư cách là những chủ nhân tương lai của đất nước
sẽ ủ dột, mất phương hướng nếu không coi lao động là cánh cửa để bước vào hội
nhập9.
8. Anh/Chị chọn một hiện tượng được xem là biểu hiện của sự lạc hậu của ý thức
xã hội, giải thích nguyên nhân sự tồn tại của nó và hướng khắc phục .

TÀI LIỆU THAM KHẢO


1. J. Adler (2004), Những tư tưởng lớn từ những tác phẩm vĩ đại, Dịch giả:
Phạm Viêm Phương, Mai Sơn, Nxb Văn hóa Thông tin, Hà Nội.
2. Lê Văn An, Ngô Tùng Đức (CB) (2016), Sổ tay hướng dẫn phát triển cộng
đồng, Nxb Thanh niên, Hà Nội.

9
https://dantri.com.vn/viec-lam/luoi-lao-dong-can-benh-cua-gioi-tre-thoi-nay-20170622080547859.htm

121
3. Bộ Giáo dục và Đào tạo (2019), Giáo trình Triết học Mác - Lênin (Dành cho
bậc Đại học không chuyên Lý luận chính trị, Cung cấp cho lớp tập huấn 2019)
4. Bộ Giáo dục và Đào tạo (2019), Giáo trình Triết học Mác - Lênin (Dành cho
bật Đại học chuyên Lý luận chính trị, Cung cấp cho lớp tập huấn 2019).
5. Bộ Giáo dục và Đào tạo (2006), Giáo trình Triết học Mác - Lênin, Nxb Chính
trị - Quốc Gia, Hà Nội.
6. Bộ Giáo dục và Đào tạo (2018), Giáo trình Những Nguyên lý của Chủ nghĩa
Mác – Lênin, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
7. Đảng Cộng sản Việt Nam (1987), Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần
thứ VI, Nxb Sự thật, Hà Nội.
8. Đảng Cộng sản Việt Nam (2016), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần
thứ XII, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
9. Đảng Cộng sản Việt Nam (2016), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần
thứ XI, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
10. Hội đồng Lý luận Trung ương (2017), Phê phán các quan điểm sai trái,
bảo vệ nền tảng tư tưởng, cương lĩnh, đường lối của Đảng Cộng sản Việt Nam,
Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
11. Hội đồng Trung ương chỉ đạo biên soạn giáo trình quốc gia các bộ môn
khoa học Mác - Lênin, Tư tưởng Hồ Chí Minh (1999), Giáo trình Triết học Mác-
Lênin, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
12. Hội đồng Trung ương chỉ đạo biên soạn giáo trình quốc gia các bộ môn
khoa học Mác - Lênin, Tư tưởng Hồ Chí Minh (2002), Giáo trình Chủ nghĩa xã
hội khoa học, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
13. Hội đồng Trung ương chỉ đạo biên soạn giáo trình quốc gia các bộ môn
khoa học Mác – Lênin, Tư tưởng Hồ Chí Minh (2003), Giáo trình tư tưởng Hồ
Chí Minh, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
14. Nguyễn Chí Hiếu (2013), Quan niệm về cá nhân và xã hội trong lịch sử tư
tưởng trước Mác và hiện đại ngoài Mác, Tạp chí Khoa học Xã hội Việt Nam, số
7 (68): 24 – 33.
15. Ngô Thị Huyền, Chung Thị Vân Anh (2016), Vấn đề tha hóa và giải phóng
lao động khỏi sự tha hóa trong triết học, Tạp chí Khoa học – Đại học Đồng Nai,
số 02: 80 – 88.
16. C. Mác và Ph. Ăngghen (1995), Toàn tập, tập: 1, 2, 3, 4, 5, 10, 19, 20, 21,
23, 42, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
17. Hữu Ngọc (CB) (1987), Từ điển Triết học giản yếu, Nxb Đại học và Trung
học chuyên nghiệp, Hà Nội.
122
18. Hà Trọng Thà (2009), “Quan niệm của chủ nghĩa Mác - Lênin về vai trò
của quần chúng nhân dân trong lịch sử”, Tạp chí Triết học, số 9 (220): 77 – 83.
19. Lê Văn Thiện (2005), Nhập môn triết học Tây phương (Theo quan điểm
Thiên chúa giáo), Nxb. Tôn giáo, Hà Nội.
20. Lênin (1980), Toàn tập, Tập 18, Nxb Tiến bộ, Mátxcơva.
21. Thủ tướng chính phủ, Quyết định 681/QĐ-TTg về việc ban hành Lộ trình
thực hiện các mục tiêu phát triển bền vững Việt Nam đến năm 2030.
22. Nguyễn Văn Trọng (2018), Khoa học tự nhiên và con người trong đời sống
tinh thần, Nxb Tri thức, Hà Nội.

123

You might also like