You are on page 1of 136

MỤC LỤC

Lời nói đầu ...........................................................................................................................2


Bài mở đầu: ĐỐI TƢỢNG, CHỨC NĂNG, NHIỆM VỤ MÔN HỌC CHÍNH TRỊ ..........3
Bài 1: KHÁI QUÁT VỀ SỰ HÌNH THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN CỦA CHỦ NGHĨA
MÁC- LÊNIN ......................................................................................................................5
Bài 2: NHỮNG NGUYÊN LÝ, QUY LUẬT CƠ BẢN....................................................10
CỦA CHỦ NGHĨA DUY VẬT BIỆN CHỨNG ...............................................................10
Bài 3: NHỮNG QUY LUẬT CƠ BẢN VỀ SỰ PHÁT TRIỂN XÃ HỘI .........................23
Bài 4: BẢN CHẤT VÀ CÁC GIAI ĐOẠN PHÁT TRIỂN ..............................................35
CỦA CHỦ NGHĨA TƢ BẢN ............................................................................................35
Bài 5: ĐẶC TRƢNG VÀ PHƢƠNG HƢỚNG XÂY DỰNG..........................................44
CHỦ NGHĨA XÃ HỘI Ở VIỆT NAM ..............................................................................44
BÀI 6: TRUYỀN THỐNG YÊU NƢỚC CỦA DÂN TỘC VIỆT NAM ..........................68
BÀI 7: TƢ TƢỞNG VÀ TẤM GƢƠNG ĐẠO ĐỨC HỒ CHÍ MINH............................75
Bài 8: ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM............................................................................89
VÀ ĐƢỜNG LỐI CÁCH MẠNG CỦA ĐẢNG ...............................................................89
Bài 9: XÂY DỰNG NHÀ NƢỚC PHÁP QUYỀN .........................................................133
XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM ................................................................................133

Trang 1/136
Lời nói đầu
Môn chính trị dáp dụng cho đào tạo trình độ cao đẳng các ngành và cao đẳng các
nghề tại trƣờng Cao đẳng Kỹ thuật Cao Thắng từ năm 2017, theo chƣơng trình môn học
giáo dục chính trị của Tổng Cục Dạy nghề - Bộ Lao động Thƣơng binh và Xã hội. Tại
trƣờng Cao đẳng Kỹ thuật Cao Thắng môn học chính trị đƣợc chia thành chính trị 1 và
chính trị 2, học trong 2 học kỳ. Giáo trình chính thức của môn học là Giáo trình Giáo dục
chính trị của Tổng Cục Dạy nghề, ban hành năm 2012. Đến năm 2018, chƣơng trình môn
học chính trị có sự điều chỉnh và Tổng Cục Dạy nghề ban hành dự thảo Giáo trình môn
Giáo dục chính trị dự thảo ngày 25/2/2019. Dựa trên cơ sở chƣơng trình đào tạo môn giáo
dục chính trị, Giáo trình môn giáo dục chính trị của Tổng Cục Dạy nghề và đáp ứng theo
yêu cầu giảng dạy theo chuẩn đầu ra tại trƣờng Cao đẳng Kỹ thuật Cao Thắng, đặc biệt là
vận dụng các chủ đề của môn Giáo dục đạo đức và phát triển nghề nghiệp vào thảo luận.
Vì vậy, Bộ môn Lý luận Chính trị - Thể dục – Quân sự biên soạn Giáo trình Chính trị -
Lƣu hành nội bộ năm 2019, giáo trình này có những điểm mới sau đây: mỗi bài học đều
có chuẩn đầu ra của bài; cập nhật sửa những lỗi văn bản mà tài liệu phiên bản 2017 đã
ban hành; mỗi bài học có các chủ đề thảo luận và chủ đề này có liên quan đến môn Giáo
dục đạo đức và phát triển nghề nghiệp. Trong quá trình biên soạn không tránh khỏi những
thiếu sót, rất mong nhận đƣợc góp ý của đồng nghiệp, các bạn học sinh, sinh viên và bạn
đọc. Mọi ý kiến xin gửi về: Phạm Đình Huấn, Email: huancaothang@yahoo.com. Xin
cảm ơn.
Tập thể giảng viên tham gia biên soạn:
1/Th.s Phạm Đình Huấn, bài 5 và bài 9
2/Th.s Cao Văn Dƣơng, bài 7
3/Th.s Nguyễn Văn Cƣơng, bài mở đầu, bài 1, 2,3,4,6
4/Th.s Đặng Đôn Lai, bài 8.

Trang 2/136
Bài mở đầu: ĐỐI TƢỢNG, CHỨC NĂNG, NHIỆM VỤ MÔN HỌC CHÍNH TRỊ
Bài học cho ngƣời học biết và hiểu đƣợc đối tƣợng, chức năng, nhiệm vụ, phƣơng
pháp học tâp và nghiên cứu môn học, cũng nhƣ hiểu đƣợc ý nghĩa của môn chính trị trong
thực tiễn học tập và lao động sau này của ngƣời học.
1. Đối tƣợng nghiên cứu, học tập
Chính trị là bộ phận quan trọng cấu thành kiến trúc thƣợng tầng xã hội, là toàn bộ
hoạt động của con ngƣời liên quan đến các giai cấp, tổ chức, đảng phái, dân tộc, các tầng
lớp xã hội, cốt lõi là vấn đề giành chính quyền, lãnh đạo tổ chức và xác định nội dung
hoạt động của nhà nƣớc. Mục đích của môn Chính trị là trang bị cho ngƣời học những
kiến thức cơ bản về chủ nghĩa Mác- Lênin, tƣ tƣởng Hồ Chí Minh, đƣờng lối lãnh đạo
của Đảng Cộng sản Việt Nam; làm rõ những vấn đề có tính quy luật của cách mạng, của
giai cấp công nhân Việt Nam, góp phần giáo dục và định hƣớng niềm tin cho ngƣời học
trong quá trình học tập, rèn luyện và các hoạt động xã hội.
2. Chức năng, nhiệm vụ của môn học
- Chức năng
Chức năng nhận thức khoa học: giúp ngƣời học hiểu biết hệ thống tri thức về nền
tảng tƣ tƣởng, hoạt động lãnh đạo, quản lý, xây dựng; đƣờng lối, chủ trƣơng chính sách
của Đảng và Nhà nƣớc ta.
Chức năng giáo dục tƣ tƣởng: góp phần giáo dục xây dựng thế giới quan, phƣơng
pháp luận khoa học và niềm tin vào sự thắng lợi của sự nghiệp đổi mới, thành công của con
đƣờng xây dựng xã hội chủ nghĩa dƣới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam.
- Nhiệm vụ
Nghiên cứu hoạt động của hệ thống chính trị ở nƣớc ta; nghiên cứu nền tảng tƣ
tƣởng của Đảng, của cách mạng nƣớc ta; cung cấp những hiểu biết cơ bản về chủ nghĩa
Mác- Lênin, tƣ tƣởng Hồ Chí Minh, đƣờng lối lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam,
truyền thống của dân tộc, của giai cấp công nhân Việt Nam. Để ngƣời học có kỹ năng vận
dụng kiến thức, rèn luyện trở thành ngƣời lao động có phẩm chất chính trị vững vàng, có
đạo đức và năng lực công tác tốt, góp phần thực hiện thắng lợi sự nghiệp công nghiệp
hoá, hiện đại hoá đất nƣớc.
Để thực hiện nhiệm vụ đó, yêu cầu giáo viên và sinh viên, khi nghiên cứu môn
Chính trị phải sử dụng kiến thức cơ bản của các môn học khác và gắn với hoạt động thực
tiễn của đất nƣớc, địa phƣơng, trƣờng đào tạo, ngành nghề tƣơng lai và doanh nghiệp

Trang 3/136
mình sẽ làm việc để liên hệ, vận dụng và giải quyết hiệu quả công việc trong quá trình
học tập và công tác.
3. Phƣơng pháp và ý nghĩa học tập
- Phương pháp giảng dạy và học tập môn Chính trị
Phát huy tính chủ động, tích cực của giảng viên và sinh viên trong đổi mới và áp
dụng phƣơng pháp giảng dạy, học tập tích cực để môn học thiết thực, hiệu quả. Giáo viên
cần cập nhật đƣờng lối, chủ trƣơng của Đảng Cộng sản Việt Nam, pháp luật của Nhà
nƣớc, phong trào thi đua của Đoàn thanh niên cộng sản Hồ Chí Minh, địa phƣơng và các
hoạt động của ngành chủ quản, gắn lý luận với thực tiễn để định hƣớng nhận thức và rèn
luyện phẩm chất chính trị, đạo đức, lối sống cho sinh viên. Trong quá trình học tập có thể
tổ chức cho sinh viên thảo luận, xem băng hình, tác phẩm tƣ liệu lịch sử, chuyên đề thời
sự hoặc tổ chức đi tham quan, nghiên cứu các điển hình sản xuất công nghiệp, các di tích
văn hóa ở địa phƣơng.
- Ý nghĩa môn học
Môn Chính trị là nội dung quan trọng của đào tạo nghề nhằm thực hiện mục tiêu
nâng cao trình độ nhận thức và giáo dục toàn diện cho ngƣời lao động. Vì vậy, nó là môn
học bắt buộc trong tất cả các chƣơng trình dạy nghề trình độ trung cấp, trình độ cao đẳng.
Nghiên cứu, học tập, nắm vững tri thức chính trị có ý nghĩa rất to lớn trong việc giáo dục
phẩm chất chính trị, lòng trung thành với lợi ích của giai cấp công nhân, nhân dân lao
động và dân tộc Việt Nam, tính kiên định cách mạng trƣớc tình hình chính trị phức tạp ở
trong nƣớc và quốc tế, giáo dục đạo đức cách mạng. Việc học tập chính trị có ý nghĩa to
lớn trong việc giáo dục về truyền thống cách mạng, về chủ nghĩa yêu nƣớc và lòng tự hào
đối với Đảng và đôi với dân tộc Việt Nam bồi dƣỡng ý chí chiến đấu cách mạng, có ý chí,
học tập và lao động sáng tạo, phát triển những thành quả cách mạng Đảng của và nhân
dân ta, xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội và bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã
hội chủ nghĩa.
Vận dụng chủ đề 12: Đạo đức nghề nghiệp trong môn học giáo dục đạo đức nghề
nghiệp. Môn học góp phần đinh hƣớng giúp ngƣời học nhận thức đúng để hình thành ý
thức, trách nhiệm công dân, có thái độ đúng đắn, tinh thần kỷ luật cao, tự giác, sáng tạo
và đam mê nghề nghiệp. Sau khi ra trƣờng đi làm, sinh viên luôn tự giác chấp hành đúng
những quy định của pháp luật, tuân thủ nghiên quy tắc, qui định nơi làm việc…

Trang 4/136
Bài 1: KHÁI QUÁT VỀ SỰ HÌNH THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN CỦA CHỦ NGHĨA
MÁC- LÊNIN
Bài học cho ngƣời học biết đƣợc những điều kiện, tiền đề dẫn đến hình thành chủ
nghĩa Mác – Lênin; hiểu đƣợc tiến trình phát triển, hoàn thiện của học thuyết qua những
giai đoạn lịch sử cụ thể và vai trò của nó trong tiến trình cách mạng thế giới.
I. C. MÁC, PH.ĂNGGHEN SÁNG LẬP HỌC THUYẾT
1. Điều kiện, tiền đề hình thành
- Điều kiện kinh tế - xã hội
Từ cuối thế kỷ XVIII đến giữa thế kỷ XIX, nền đại công nghiệp tƣ bản chủ nghĩa
phát triển mạnh ở nhiều nƣớc châu Âu, dẫn tới sự ra đời của giai cấp công nhân hiện đại.
Bị giai cấp tƣ sản áp bức, bóc lột nặng nề những ngƣời vô sản phải đứng lên đấu tranh để
giải phóng cho mình. Tiêu biểu là các cuộc khởi nghĩa của công nhân dệt thành phố
Lyông nƣớc Pháp (1831-1834), phong trào Hiến chƣơng của công nhân nƣớc Anh (1838-
1848), cuộc khởi nghĩa của công nhân dệt ở thành phố Xilêdi nƣớc Đức (1844). Tuy
nhiên, do tính chất tự phát, các cuộc khởi nghĩa của những ngƣời vô sản đã bộc lộ nhiều
hạn chế và thất bại. Hiện thực đó là điều kiện khách quan, là đòi hỏi bức thiết cần có một
lý luận khoa học, cách mạng dẫn đƣờng cho phong trào vô sản đi tới thắng lợi. Và đây
chính là “mảnh đất hiện thực”, là điều kiện vật chất trực tiếp cho sự ra đời của chủ nghĩa
Mác - Lênin.
- Tiền đề lý luận
Cuối thế kỷ XVIII đầu thế kỷ XIX ở châu Âu đã xuất hiện nhiều trào lƣu tƣ tƣởng
lý luận có ảnh hƣởng sâu sắc tới đời sống tinh thần toàn xã hội. Tiêu biểu là trào lƣu triết
học cổ điển Đức (Hêghen, Phơbách); các học thuyết kinh tế chính trị Cổ điển ở Anh
(Ađam Xmít, Đavít Ricácđô); chủ nghĩa xã hội không tƣởng phê phán ở Pháp (H.
Xanhximông, C. Phurie, R. Ôoen). Kế thừa có phê phán các trào lƣu tƣ tƣởng này, Mác
và Ăngghen đã xây dựng, phát triển học thuyết lý luận khoa học và cách mạng của mình.
- Tiền đề khoa học
Thế kỷ XIX, các phát minh khoa học mang tính vạch thời đại ở nhiều lĩnh vực ra
đời nhƣ: là học thuyết về sự tiến hóa các loài của Đácuyn; Định luật bảo toàn và chuyển
hóa năng lƣợng của Lômôlôxốp; Học thuyết về sự phát tiển của tế bào cùa Svác và
Slayđen và các thành tựu khoa học khác về hóa học, cơ học... Sự phát minh và ứng dụng

Trang 5/136
rộng rãi các thành tựu khoa học góp phần củng cố tính khoa học trong lý luận của Mác –
Ăngghen.
- Vai trò nhân tố chủ quan của C.Mác, Ph.Ăngghen
Các Mác (1818 - 1883), Phiđrich Ăngghen (1820 -1895) là những ngƣời có kiến
thức bách khoa ở nhiều lĩnh vực: triết học, kinh tế chính trị học, toán học, quân sự... Hai
ông dành trọn đời mình cho cuộc đấu tranh của giai cấp công nhân và nhân dân lao động
chống lại áp bức, bất công. Họ đã gặp nhau và tìm thấy sức mạnh vật chất to lớn và sứ
mệnh lịch sử thế giới từ giai cấp công nhân hiện đại.
Tháng 8 năm 1844 Mác và Ăngghen bắt đầu cộng tác với nhau và tích cực hoạt
động trong phong trào công nhân. Cũng từ thời điểm này, lập trƣờng của hai ông bắt đầu
chuyển biến từ lập trƣờng duy tâm sang lập trƣờng duy vật. Qua nghiên cứu, kế thừa và
phát triển thành tựu lý luận, khoa học và thực tiễn của phong trào công nhân quốc tế, hai
ông đã đƣa chủ nghĩa xã hội không tƣởng trở thành học thuyết khoa học. Ba bộ phận triết
học, kinh tế chính trị học và chủ nghĩa xã hội khoa học chính là ba bộ phận cấu thành của
chủ nghĩa Mác.
2. Sự ra đời và phát triển học thuyết Mác (1848 - 1895)
Sự ra đời và phát triển của học thuyết gắn liền với tên tuổi của Mác, Ănghen. Tại
đại hội II của Đồng minh những ngƣời cộng sản (12/1847) đã ra quyết định và yêu cầu
Mác – Ăngghen dự thảo một văn kiện dƣới hình thức một bản tuyên ngôn ra đời của
Đồng minh, vừa có tính chất lý luận và là Cƣơng lĩnh hoạt động của tổ chức này. Cuối
tháng 2/1848, tác phẩm Tuyên ngôn của Đảng cộng sản đƣợc thông qua và công bố ở
Luân Đôn, đặt dấu mốc ra đời của chủ nghĩa Mác. Kế thừa, phát triển những tinh hoa trí
tuệ nhân loại kết hợp với thực tiễn của phong trào công nhân ở châu Âu và sự thất bại của
công xã Pari (1871), Mác – Ănghen đã viết nhiều tác phẩm nhƣ “Đấu tranh giai cấp ở
Pháp”, “Nội chiến ở Pháp”, bộ “Tƣ bản”... đề cập đến những vấn đề cơ bản của triết học,
kinh tế chính trị học và chủ nghĩa xã hội khoa học. Tổng kết phong trào công nhân, Mác
– Ănghen nêu ra những vấn đề cơ bản về cách mạng vô sản và sứ mệnh lịch sử của giai
cấp công nhân.
Chủ nghĩa duy vật biện chứng của chủ nghĩa Mác là hạt nhân thế giới quan,
phƣơng pháp luận khoa học và cách mạng để xem xét, cải tạo thế giới. Còn chủ nghĩa
duy vật lịch sử là sự vận dụng sáng tạo chủ nghĩa duy vật biện chứng vào xem xét đời
sống xã hội. Việc luận giải tính quy luật trong sự vận động phát triển của các hình thái

Trang 6/136
kinh tế - xã hội và lý luận về đấu tranh giai cấp và cách mạng xã hội... của chủ nghĩa Mác
đã đem lại cơ sở khoa học cho việc nhận thức quy luật của xã hội.
II. SỰ PHÁT TRIỂN HỌC THUYẾT MÁC
1. Sự phát triển của V.I.Lênin về lý luận cách mạng (1895 -1924)
Cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX, chủ nghĩa tƣ bản chuyển sang giai đoạn chủ
nghĩa đế quốc, hầu hết các nƣớc châu Á, châu Phi trở thành thuộc địa của tƣ bản phƣơng
Tây. Chủ nghĩa tƣ bản và phong trào công nhân ở Nga phát triển. Nƣớc Nga trở thành nơi
tập trung các mâu thuẫn cơ bản của thời đại và trở thành trung tâm cách mạng thế giới.
Kế thừa lý luận từ Mác, Ăng-ghen và thực tiễn hoạt động cách mạng ở Nga,
V.I.Lênin (1870 - 1924) đã phát triển lý luận mới trên nhiều lĩnh vực. Khi phân tích đặc
điểm và địa vị kinh tế - xã hội của giai cấp vô sản, Ngƣời chỉ rõ cách mạng vô sản có thể
nổ ra và thắng lợi ở một số nƣớc, thậm chí một nƣớc, nơi yếu nhất trong hệ thống đế quốc
chủ nghĩa. Theo Lênin, bản thân phong trào công nhân phát triển tự phát thì chỉ đến công
đoàn chủ nghĩa, nhƣng nếu lý luận cách mạng của chủ nghĩa Mác mà thâm nhập vào
phong trào công nhân sẽ trở thành sức mạnh vật chất, làm cho phong trào công nhân trở
thành tự giác. Đồng thời, Lênin đƣa ra lý luận mới về quy luật hình thành Đảng của giai
cấp công nhân, về chiến tranh và hoà bình, nhà nƣớc và cách mạng. Vì vậy. cùng với
V.I.Lênin, Đảng cộng sản Nga đã lãnh đạo giai công nhân Nga tiến hành cách mạng
tháng Mƣời vĩ đại năm 1917 thành công.
Cách mạng tháng Mƣời Nga thành công mở ra một kỷ nguyên mới của lịch sử
nhân loại, thời kỳ quá độ từ chủ nghĩa tƣ bản lên chủ nghĩa xã hội trên toàn phạm vi thế
giới, hiện thực hóa lý luận về chủ nghĩa xã hội. Tháng 3/1919, Quốc tế Cộng sản ra đời,
tác động mạnh mẽ làm cách mạng thế giới phát triển thành cao trào lớn mạnh.
Từ thực tiễn xây dựng chủ nghĩa xã hội, Lênin tiếp tục phát triển lý luận về chủ
nghĩa xã hội thêm những vấn đề mới nhƣ: vấn đề dân chủ và chuyên chính vô sản; thực
hành chính sách kinh tế mới; tố chức thi đua xã hội chủ nghĩa, nhiệm vụ kinh tế chính trị
trong thời đại chuyên chính vô sản; tiến hành công nghiệp hoá, tập thể hoá, thực hành
cách mạng tƣ tƣởng văn hoá; phát triển các đoàn thể dƣới chủ nghĩa xã hội; chống quan
liêu trong bộ máy nhà nƣớc…Ngƣời còn nêu rõ các nguyên tắc về xây dựng Đảng vô sản
kiểu mới và xây dựng Quốc tế cộng sản. Từ đây, chủ nghĩa Mác-Lênin đã trở thành học
thuyết soi đƣờng cho phong trào công nhân, phong trào đấu tranh giải phóng dân tộc trên
thế giới.

Trang 7/136
2. Vận dụng và phát triển lý luận xây dựng chủ nghĩa xã hội (l924 - nay)
Từ 1917 chủ nghĩa Mác-Lênin là học thuyết lý luận với vai trò là nền tảng tƣ
tƣởng và kim chỉ nam hành động của các Đảng cộng sản và nhân dân lao động toàn thế
giới trong đấu tranh cách mạng và xây dựng chủ nghĩa xã hội. Trên cơ sở những nguyên
lý của chủ nghĩa Mác-Lênin, các Đảng cộng sản và giai cấp công nhân ở từng nƣớc đã
vận dụng sáng tạo, cụ thể hoá thành những nhiệm vụ phục vụ cho cách mạng nƣớc mình.
Đó chính là sự sáng tạo, bổ sung đã làm phong phú, phát triển và sức sống thực tiễn của
chủ nghĩa Mác-Lênin.
Qua 20 năm vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác – Lênin trong xây dựng chủ nghĩa
xã hội (1921 - 1941), Liên Xô đã đạt đƣợc những thành tựu hết sức to lớn và khẳng định
thực sự là thành trì của phong trào cách mạng thế giới. Nền kinh tế Liên Xô vững mạnh,
trở thành một cƣờng quốc, đời sống của nhân dân đƣợc cải thiện, niềm tin vào chủ nghĩa
xã hội đƣợc củng cố, quốc phòng vững mạnh, uy tín quốc tế tăng lên, quan hệ ngoại giao
mở rộng. Đặc biệt, trong chiến tranh thế giới thứ hai (1939 - 1945), Liên Xô giữ vai trò
quyết định trong chiến thắng chủ nghĩa phát xít.
Sau chiến tranh thế giới thứ hai, hệ thống xã hội chủ nghĩa trên thế giới phát triển
lớn mạnh. Phong trào giải phóng dân tộc, phong trào công nhân và xây dựng xã hội chủ
nghĩa trở thành ba dòng thác cách mạng của thời đại, tác động mạnh mẽ góp phần vào
thắng lợi của phong trào giải phóng dân tộc ở Châu Á, châu Phi và Mỹ La tinh những
năm 60 thế kỷ XX. Đặc biệt, cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nƣớc ở Việt Nam 1954 –
1975 thắng lợi, là bằng chứng hùng hồn về sự ảnh hƣởng và tác động chủ nghĩa Mác-
Lênin trong đời sống thực tiễn.
Từ cuối thập kỷ 70, đầu thập kỷ 80 của thế kỷ XX, chủ nghĩa xã hội hiện thực trên
thế giới lâm vào tình trạng trì trệ và khủng hoảng. Tháng 12/1991, Liên Xô và các nƣớc
xã hội chủ nghĩa ở Đông Âu sụp đổ hoàn toàn, do mắc sai lầm chủ quan, quan liêu, mất
dân chủ, xa rời quần chúng và duy trì quản lý kinh tế tập trung quan liêu, kế hoạch hoá
cao độ kéo dài... Điều cơ bản là những sai lầm đó chậm đƣợc phát hiện, chậm đƣợc sửa
chữa và khắc phục, sửa chữa không đúng nguyên tắc dẫn đến khủng hoảng kinh tế - xã
hội kéo dài và sụp đổ.
Sự sụp đổ chủ nghĩa xã hội ở Liên Xô và Đông Âu là một tổn thất không gì bù đắp
nổi cho phong trào cách mạng thế giới. Sự đổ vỡ đó tác động to lớn làm thay đổi trật tự
thế giới. Chủ nghĩa xã hội lâm vào thoái trào, chủ nghĩa đế quốc lợi dụng cơ hội chống

Trang 8/136
phá quyết liệt. Nhìn toàn diện sự sụp đổ của Liên Xô và các nƣớc xã hội chủ nghĩa Đông
Âu, từ thành tựu của công cuộc cải cách ở Trung Quốc, Việt Nam, lý luận chủ nghĩa
Mác-Lênin về xây dựng chủ nghĩa xã hội cần phải bổ sung thêm những nhân tố mới để
phù hợp với thực tiễn cách mạng.

CÂU HỎI ÔN TẬP


1. Phân tích những điều kiện, tiền đề hình thành, phát triển chủ nghĩa Mác- Lênin?
2. Làm rõ quá trình ra đời, phát triển của chủ nghĩa Mác-Lênin?
3. Sự phát triển chủ nghĩa Mác trong thực tiễn cách mạng của giai cấp vô sản?

Trang 9/136
Bài 2: NHỮNG NGUYÊN LÝ, QUY LUẬT CƠ BẢN
CỦA CHỦ NGHĨA DUY VẬT BIỆN CHỨNG
Bài học trang bị cho ngƣời học biết, hiểu đƣợc nội dung những nguyên lý, quy luật
cơ bản và bản chất, con đƣờng của quá trình nhận thức theo quan điểm của chủ nghĩa
Mác – Lênin. Qua đó góp phần hình thành thế giới quan, phƣơng pháp luận khoa học để
ngƣời học liên hệ và giải quyết đƣợc những vấn đề thực tiễn cuộc sống học tập và lao
động đặt ra.
I. CHỦ NGHĨA DUY VẬT KHOA HỌC
1. Phƣơng thức tồn tại của vật chất
a. Bản chất của thế giới
Chủ nghĩa duy vật biện chứng khẳng định: bản chất thế giới là vật chất, thế giới
mà con ngƣời đang tồn tại là thế giới vật chất. Vật chất là cái có trƣớc, ý thức có sau, vật
chất quyết định ý thức, ý thức là sự phản ánh thế giới vật chất vào bộ não con ngƣời.
V.I.Lênin định nghĩa vật chất là một phạm trù triết học, dùng để chỉ thực tại
khách quan, được đem lại cho con người trong cảm giác, được cảm giác ta chép lại,
chụp lại, phản ánh và tồn tại không lệ thuộc vào cảm giác.
Là một phạm trù của triết học, vật chất không tồn tại cảm tính và đồng nhất với
các dạng tồn tại vật thể cụ thể. VD: cái bàn, cái ghế, cái cây…không phải là vật chất mà
là biểu hiện cụ thể của vật chất với tƣ cách là phạm trù triết học. Nếu vật thể là những cái
có hạn chuyển hóa từ dạng này sang dạng khác, thì vật chất là vô cùng, vô tận. Thuộc tính
chung nhất của vật chất là tồn tại khách quan, ở bên ngoài, không lệ thuộc vào ý thức,
cảm giác của con ngƣời. VD: sự tồn tại của nắng, mƣa, sấm, chớp, lũ lụt, động đất…
không phụ thuộc vào ý muốn con ngƣời. Vật chất không tồn tại trừu tượng mà tồn tại
biểu hiện qua các sự vật cụ thể, cảm giác con ngƣời có thể nhận thức đƣợc bằng cách ghi
lại, sao chụp lại.
Định nghĩa vật chất của Lênin đã giải quyết đƣợc hai mặt của vấn đề cơ bản của
triết học theo lập trƣờng duy vật biện chứng, mở đƣờng cho các ngành khoa học cụ thể đi
sâu nghiên cứu thế giới, đem lại niềm tin cho con ngƣời trong việc nhận thức và cải tạo
thế giới.
b. Phương thức tồn tại của vật chất
Chủ nghĩa duy vật biện chứng khẳng định: vận động là phƣơng thức tồn tại của vật
chất; không gian, thời gian là hình thức tồn tại của vật chất.

Trang 10/136
- Vận động là tất cả mọi sự thay đổi và mọi quá trình diễn ra trong vũ trụ kể từ
vật thể sự thay đổi vị trí đơn giản cho đến tư duy. Vận động là thuộc tính vốn có, cố hữu,
vĩnh viễn của vật chất. Nguồn gốc vận động là do mâu thuẫn, tác động qua lại giữa các
yếu tố trong một sự vật hay giữa các sự vật với nhau.
Ăngghen chia vận động thành 5 hình thức cơ bản: vận động cơ học, lý học, hoá
học, sinh học và vận động xã hội. Các hình thức vận động đó khác nhau về chất nhƣng có
mối liên hệ với nhau, hình thức vận động cao ra đời từ hình thức vận động thấp. Vận
động xã hội là hình thức vận động cao nhất, bao hàm mọi hình thức vận động khác. Vận
động bao hàm cả sự đứng im là hình thức vận động đặc biệt, là tƣơng đối. Vì nó chỉ xảy
ra với một hình thức vận động, một quan hệ nhất định. VD: Cây bên đƣờng so với ôtô
đang chạy là đứng im, so với mặt trời là vận động. Nhƣ vậy, vận động là tuyệt đối, đứng
im là tƣơng đối, tạm thời.
- Không gian: là khái niệm chỉ vị trí, quy mô, kết cấu, quảng tính của sự vật. Thời
gian: là độ dài diễn biến của các quá trình, sự kế tiếp nhau trong vận động phát triển.
Không gian, thời gian là hình thức tồn tại của vật chất, là thuộc tính cố hữu của vật
chất. Vật chất vận động trong không gian và thời gian. Ph.Ăngghen nói: “Các hình thức
tồn tại cơ bản vật chất là không gian và thời gian. Và vật chất tồn tại ngoài thời gian
cũng hoàn toàn vô lý như tồn tại ngoài không gian”
c. Tính thống nhất của thế giới
Thế giới thống nhất ở tính vật chất của nó. Biểu hiện sự thống nhất là chỉ có một
thế giới duy nhất là thế giới vật chất tồn tại khách quan, độc lập với ý thức. Trong thế
giới không có gì khác ngoài quá trình vật chất vận động, chuyển hóa lẫn nhau. Sự phát
triển mạnh mẽ của khoa học và những thành tựu khoa học ngày nay là cơ sở vững chắc
minh chứng cho tính đúng đắn trong quan điểm của chủ nghĩa duy vật biện chứng về tính
thống nhất vật chất của thế giới.
2. Nguồn gốc và bản chất của ý thức
a. Nguồn gốc của ý thức
Ý thức là hình ảnh chủ quan của thế giới khách quan. Nói cách khác là hình ảnh
của thế giới khách quan phản ánh vào đầu óc con ngƣời và cải biến đi.
- Nguồn gốc tự nhiên của ý thức: Bộ óc con ngƣời và Thế giới khách quan
Ý thức là thuộc tính của vật chất, nhƣng không phải là thuộc tính của mọi dạng vật
chất, mà chỉ là thuộc tính của một dạng vật chất có tổ chức cao là bộ óc con ngƣời. Mặt

Trang 11/136
khác, phải có thế giới khách quan (tự nhiên, xã hội) tồn tại bên ngoài con ngƣời, là đối
tƣợng cho bộ óc con ngƣời phản ánh để hình thành ý thức. Vì vậy, nguồn gốc tự nhiên
của ý thức là sự tƣơng tác giữa thế giới khách quan và bộ óc ngƣời.
- Nguồn gốc xã hội của ý thức: Lao động và Ngôn ngữ
Do lao động vƣợn ngƣời đứng thẳng, đi bằng hai chân, giải phóng đôi bàn tay đạt
tới trình độ khéo léo. Lao động giúp con ngƣời hiểu biết đƣợc những đặc trƣng bản chất
của tự nhiên là cơ sở hình thành ý thức. Qua đó, con ngƣời biết chế tạo ra công cụ sản
xuất và tác động vào tự nhiên để tạo ra sản phẩm thỏa mãn nhu cầu của mình. Do yêu cầu
của lao động mà con ngƣời có quan hệ, liên hệ với nhau. Ngôn ngữ ra đời không chỉ trao
đổi thông tin, tình cảm mà còn là công cụ của tƣ duy, diễn đạt hiểu biết, khái quát hiện
thực của con ngƣời. Nguồn gốc xã hội có ý nghĩa quyết định sự ra đời của ý thức. Nhƣng
nếu thiếu một trong hai nguồn gốc tự nhiên hoặc xã hội thì không có ý thức
b. Bản chất của ý thức
Bản chất của ý thức là sự phản ánh thế giới khách quan vào bộ óc ngƣời một cách
tích cực, chủ động, sáng tạo. Điều đó xuất phát từ lý luận phản ánh và đặc trƣng các dạng
phản ánh.
Phản ánh là khả năng lƣu giữ lại dấu vết sau sự tác động lẫn nhau của các sự vật,
hiện tƣợng. Mỗi hình thức phản ánh có đặc trƣng khác nhau: Phản ánh dạng vô cơ có tính
chất cơ, lý, hóa là thụ động, giản đơn, không có sự lựa chọn. Vd: vết chân in trên cát,
phản xạ ánh sáng của mặt nƣớc…. Phản ánh dạng động vật có hệ thần kinh thông qua hệ
thống phản xạ, phản xạ không điều kiện là phản xạ bản năng với môi trƣờng, tự phát,
không thông qua rèn luyện. Vd: di trú tránh rét của động vật khi mùa đông tới…Phản ánh
của bộ óc ngƣời với hiện thực khách quan là sự phản ánh đặc biệt của ý thức. Một là,
phản ánh có quy trình theo trình tự trao đổi thông tin giữa chủ thể và đối tƣợng, có chọn
lọc và định hƣớng; mô hình hóa đối tƣợng trong tƣ duy; hiện thực hóa đối tƣợng qua hoạt
động thực tiễn. Hai là, phản ánh mang tính chủ động, tích cực, sáng tạo: không phản ánh
y nguyên nhƣ chép, chụp, mà có chọn lọc theo mục đích, yêu cầu của con ngƣời, có dự
báo những khía cạnh mới, thuộc tính mới. Phản ánh này có sự kết hợp cả cảm giác lẫn tƣ
duy, cả trực tiếp lẫn gián tiếp, cả hiện tại lẫn quá khứ và tƣơng lai; phản ánh vừa có tính
cụ thể hóa, vừa có tính khái quát hóa. Với những đặc trƣng trên về sự phản ánh, ý thức
không những có khả năng phản ánh đúng hiện thực, đúng bản chất sự vật, mà còn có khả

Trang 12/136
năng vạch ra những quy luật vận động phát triển và có thể dự báo đƣợc tƣơng lai của hiện
thực.
c. Mối quan hệ giữa vật chất và ý thức
Vật chất quyết định ý thức và ý thức có tác động trở lại vật chất thông qua hoạt
động thực tiễn của con ngƣời.
- Vật chất quyết định ý thức: Vật chất là tiền đề, là cơ sở và nguồn gốc cho sự đời,
tồn tại và phát triển của ý thức. Điều kiện vật chất nhƣ thế nào thì ý thức nhƣ thế đó. Khi
cơ sở vật chất, điều kiện vật chất thay đổi thì ý thức cũng thay đổi theo. Vì vậy, vật chất
quyết định ý thức là quyết định cả nội dung, tính chất, khuynh hƣớng vận động, phát triển
của ý thức.
- Ý thức tác động trở lại vật chất: Ý thức phản ánh hiện thực khách quan vào óc
con ngƣời, giúp con ngƣời hiểu đƣợc bản chất, quy luật vận động phát triển của sự vật
hiện tƣợng để hình thành phƣơng hƣớng, mục tiêu và những phƣơng pháp, cách thức thực
hiện phƣơng hƣớng, mục tiêu đó. Ý thức chỉ có tác dụng đối với hiện thực thông qua hoạt
động thực tiễn. Nếu ý thức phản ánh đúng bản chất, quy luật của hiện thực khách quan và
có phƣơng án hoạt động phù hợp sẽ thúc đẩy sự vật phát triển còn ngƣợc lại thì kìm hãm.
Vì vậy, nhận thức của con ngƣời phải luôn luôn xuất phát thực tiễn, tôn trọng quy
luật khách quan. Mọi sự chủ quan, nôn nóng của con ngƣời sẽ dẫn đến sai lầm và thất bại
trong thực tiễn. Vì vậy, Đảng ta nêu ra bài học là mọi đƣờng lối, chủ trƣơng của Đảng
phải xuất phát từ thực tế, tôn trọng quy luật khách quan.
II. NHỮNG NGUYÊN LÝ, QUY LUẬT CƠ BẢN CỦA PHÉP BIỆN CHỨNG
DUY VẬT
1. Những nguyên lý cơ bản
a. Nguyên lý về mối liên hệ phổ biến
Mối liên hệ là khái niệm dùng để chỉ sự quy định, tác động qua lại, chuyển hoá lẫn
nhau giữa các mặt, bộ phận cấu thành sự vật hoặc giữa các sự vật, hiện tƣợng trong thế
giới.
Mối liên hệ mang tính phổ biến, diễn ra trong tự nhiên, xã hội và tƣ duy con ngƣời.
Mối liên hệ là khách quan vì không phụ thuộc vào ý muốn chủ quan của con ngƣời. Mối
liện hệ là đa dạng, phong phú vì mỗi sự vật khác nhau có mối liện hệ khác nhau, một sự
vật có nhiều mối liên hệ… Có mối liên hệ chung tác động lên mọi lĩnh vực của thế giới,
mối liên hệ riêng chỉ tác động trong từng lĩnh vực, từng sự vật và hiện tƣợng cụ thể. Còn

Trang 13/136
mối liên hệ trực tiếp giữa nhiều sự vật, hiện tƣợng, nhƣng cũng có những mối liên hệ gián
tiếp. Có mối liên hệ tất nhiên, cũng có mối liên hệ ngẫu nhiên. v.v chúng giữ những vai
trò khác nhau quy định sự vận động, phát triển của sự vật, hiện tƣợng.
Từ nguyên lý về mối liên hệ phổ biến của phép biện chứng duy vật, rút ra nguyên tắc
toàn diện, lịch sử-cụ thể trong hoạt động nhận thức và hoạt động thực tiễn. Nguyên tắc
này yêu cầu xem xét sự vật, hiện tƣợng trong những mối liên hệ cụ thể, có tính đến lịch
sử hình thành, tồn tại của sự vật, hiện tƣợng cụ thể. Đồng thời đòi hỏi phải chống lại tƣ
tƣởng chung chung, đại khái, xem xét sự vật hiện tƣợng một cách hời hợt, thoáng qua,
không sâu sắc cụ thể và chống lại tƣ tƣởng phiến diện, chỉ xem xét một mặt, một mối liên
hệ làm kết luận chung.
b. Nguyên lý về sự phát triển
Phát triển là quá trình vận động đi lên từ thấp đến cao, từ đơn giản đến phức tạp,
từ chƣa hoàn thiện đến hoàn thiện hơn... Quá trình đó vừa diễn ra dần dần, vừa nhảy vọt
làm cho sự vật, hiện tƣợng cũ mất đi, sự vật, hiện tƣợng mới về chất ra đời.
Sự phát triển mang tính khách quan, phổ biến, kế thừa và đa dạng, phong phú.
Nguyên nhân của sự phát triển là do thống nhất và đấu tranh của các mặt đối lập, do sự
liên hệ và tác động qua lại giữa các mặt, các yếu tố bên trong của sự vật, hiện tƣợng,
không phải do bên ngoài, càng không phải do ý muốn chủ quan của con ngƣời quy định.
Con ngƣời chỉ có thể nhận thức và thúc đẩy nó phát triển nhanh hơn hoặc chậm lại. Con
đƣờng của sự phát triển là quanh co, phức tạp nhƣng khuynh hƣớng chung là đi lên bao
gồm cả những bƣớc thụt lùi tạm thời.
Nguyên lý về sự phát triển đòi hỏi con ngƣời xem xét sự vật, hiện tƣợng theo
hƣớng vận động đi lên. Trong hoạt động nhận thức của con ngƣời không đƣợc định kiến,
bảo thủ; không nên chỉ nhìn phiến diện một mặt, một việc, một thời điểm khi xem xét con
ngƣời, sự kiện.
Vận dụng chủ đề 5 - Kỹ năng làm việc nhóm (Môn giáo dục đạo đức nghề
nghiệp). Nội dung này trang bị cho ngƣời học phƣơng pháp luận khách quan, toàn diện và
lịch sử - cụ thể, phát triển trong nhìn nhận đánh giá và xử lý tốt mọi vấn đề đặt ra trong
quá trình làm việc nhóm. Mỗi cá nhân đều tồn tại trong một nhóm, một tập thể nên trong
học tập và công việc phải thiết lập và xử lý các mối liên hệ, quan hệ để giải quyết những
vấn đề nảy sinh. Có cái nhìn khách quan, toàn diện để đánh giá tổng thể đúng đắn bản
chất vấn đề và đặt nó trong những điều kiện hoàn cảnh, điều kiện cụ thể để lên kế hoạch

Trang 14/136
và đƣa ra nhƣng phƣơng án giải quyết những mâu thuẫn, khác biệt một cách phù hợp,
chính xác.
Nội dung kiến thức và ý nghĩa phƣơng pháp luận của phần trên không chỉ góp
phần giúp sinh viên lựa chọn nhóm, tham gia tích cực trong nhóm, ổn định và làm việc
nhóm ở quá trình học tập, ôn luyện, thảo luận trên lớp mà còn trong lao động, làm việc và
cuộc sống thực tế sau này. Tuy vậy, hiệu quả, ý nghĩa của phần kiến thức này có giá trị
đến đâu với thực tế học tập, làm việc của sinh viên không chỉ phụ thuộc vào trách nhiệm,
kiến thức và cách thức truyền thụ của giáo viên mà còn phụ thuộc nhiều vào ý thức học
tập, thái độ tích cực và tự giác ở sinh viên khi tham gia hoạt động trong các nhóm.
2. Những quy luật cơ bản của phép biện chứng duy vật
Quy luật là những mối liên hệ bản chất, tất nhiên, bên trong, phổ biến và đƣợc lặp
đi lặp lại giữa các mặt, các yếu tố trong cùng một sự vật, hiện tƣợng, hay giữa các sự vật
hiện tƣợng.
a. Quy luật mâu thuẫn (quy luật thống nhất và đấu tranh của các mặt đối lập)
Đây là một trong ba quy luật cơ bản của phép biện chứng duy vật, vạch ra nguồn
gốc, động lực của sự vận động, phát triển ở các sự vật, hiện tƣợng trong thế giới.
Mặt đối lập là yếu tố, bộ phận cấu thành sự vật nhƣng có khuynh hƣớng vận động
ngƣợc chiều nhau. Vd: đồng hóa – dị hóa, biến dị - di truyền trong cơ thể sinh vật.
Sự vật, hiện tƣợng nào cũng là một thể thống nhất của các mặt đối lập, hai mặt đối
lập sẽ hình thành mâu thuẫn. Mâu thuẫn là sự thống nhất và đấu tranh của các mặt đối
lập. Các mặt đối lập liên hệ với nhau, thâm nhập vào nhau, tác động qua lại lẫn nhau, làm
tiền đề tồn tại cho nhau, nhƣng bài trừ phủ định lẫn nhau.
Nội dung quy luật mâu thuẫn: Sự vật, hiện tƣợng nào cũng là thể thống nhất của
các mặt đối lập. Sự thống nhất của các mặt đối lập là tƣơng đối, là sự cùng tồn tại của các
mặt đối lập. Thống nhất là tạm thời, thoáng qua, là trạng thái cân bằng giữa các mặt đối
lập, tƣơng ứng với trạng thái với đứng im tƣơng đối của sự vật. Đấu tranh của các mặt
đối lập trong sự vật là sự bài trừ, phủ định, tiêu diệt lần nhau. Đấu tranh là tuyệt đối. Nó
diễn ra từ thấp đến cao, từ đơn giản đến phức tạp, diễn ra liên tục trong suốt quá trình tồn
tại các mặt đối lập. Vd: đấu tranh giữa cái tốt và cái xấu trong con ngƣời, hấp thụ và bài
tiết trong cơ thể sinh vật....Sự đấu tranh đó đƣa đến sự chuyển hóa làm thay đổi mỗi mặt
đối lập hoặc cả hai mặt đối lập, chuyển lên một trình độ cao hơn hoặc cả hai mặt đối lập
cũ mất đi, hình thành hai mặt đối lập mới. Thống nhất là nền tảng, điều kiện cho đấu

Trang 15/136
tranh của các mặt đối lập diễn ra, còn đấu tranh mục đích để xóa bỏ sự thống nhất cũ, xác
lập sự thống nhất mới tạo điều kiện, động lực cho sự vật vận động, phát triển
Bản thân sự vật, hiện tƣợng có nhiều mâu thuẫn. Mâu thuẫn bên trong là mâu
thuẫn giữa những mặt, phận bộ trong sự vật, mâu thuẫn tự thân, có vai trò quyết định với
sự vận động và phát triển. Mâu thuẫn bên ngoài là mâu thuẫn giữa sự vật này với sự kia,
có ảnh hƣởng đến sự phát triển của sự vật nhƣng phải thông qua mâu thuẫn bên trong.
Mâu thuẫn cơ bản là mâu thuẫn tồn tại trong suốt quá trình sự vật tồn tại, quyết định bản
chất và quá trình phát triển của sự vật. Mâu thuẫn không cơ bản là mâu thuẫn không giữ
vị trí vai trò quyết định bản chất sự vật và nó phụ thuộc vào mâu thuẫn cơ bản. Bản chất
của sự vật chỉ thay đổi khi mâu thuẫn cơ bản đƣợc giải quyết. Mâu thuẫn chủ yếu là mâu
thuẫn nổi lên hàng đầu trong một thời kỳ, giai đoạn phát triển, có ảnh hƣởng quyết định
đối với các mâu thuẫn khác trong thời điểm đó. Việc giải quyết mâu thuẫn chủ yếu là
theo từng bƣớc đi đến giải quyết mâu thuẫn cơ bản của sự vật. Mâu thuẫn thứ yếu là mâu
thuẫn không giữ vai trò quyết định tính chất, đặc điểm của sự vật trong thời kỳ, giai đoạn
nhất định. Mâu thuẫn đối kháng là mâu thuẫn giữa những lực lƣợng xã hội có lợi ích căn
bản đối lập nhau, không thể điều hòa. Mâu thuẫn không đối kháng là mâu thuẫn giữa
những lực lƣợng xã hội có lợi ích căn bản không đối lập nhau. Mâu thuẫn đối kháng và
không đối kháng là mâu thuẫn đặc thù của xã hội có giai cấp. Phân biệt và xác định mâu
thuẫn đối kháng và mâu thuẫn không đối kháng là việc làm quan trọng, là cơ sở để xác
định đúng đắn bạn và thù, đối tƣợng liên minh và đối tƣợng đấu tranh, để sử dụng; để có
biện pháp giải quyết cho phù hợp bằng bạo lực cách mạng hay bằng con đƣờng hòa bình,
bằng tổ chức, giáo dục, thuyết phục.
b. Quy luật chuyển hoá từ những sự thay đổi về Lượng thành những sự thay
đổi về Chất và ngược lại (quy luật Lượng - Chất)
Quy luật Lƣợng - Chất chỉ ra trạng thái, cách thức trong sự vận động, phát triển
của mọi sự vật, hiện tƣợng trong thế giới.
Chất là sự thống nhất hữu cơ những thuộc tính vốn có của sự vật, nói lên nó là cái
gì, để phân biệt nó với cái khác. Lượng chỉ những đại lƣợng, thuộc tính cấu thành sự vật,
biểu hiện về quy mô, số lƣợng, trình độ, nhịp điệu trong sự phát triển...
Nội dung quy luật: Sự vật, hiện tƣợng bao giờ cũng là thể thống nhất của hai mặt
đối lập Lƣợng và Chất. Chất là mặt tƣơng đổi ổn định, Lƣợng là mặt thƣờng xuyên biến
đổi. Sự thống nhất đó diễn ra trong khoảng giới hạn nhất định gọi là Độ. Độ là giới hạn

Trang 16/136
trong đó sự biến đổi Lƣợng nhƣng chƣa làm thay đổi về Chất của sự vật; sự vật còn là nó,
chƣa là cái khác.
Mọi sự vận động, biến đổi của sự vật bắt đầu từ những thay đổi về Lƣợng, đến
một thời điểm nhất định gọi là điểm Nút diễn ra sự thay đổi về Chất. Chất biến đổi thì sự
vật biến đổi. Trạng thái chất biến đổi, chất mới ra đời, chất cũ mất đi gọi là Bƣớc nhảy.ꜗ
VD: Sinh viên CĐKT Cao Thắng khóa (2013 - 2016) là Chất của sự vật. Các đặc điểm
chiều cao, cân nặng, độ tuổi, trình độ học vấn, nhận thức... là thông số về Lƣợng của sự
vật. Độ là khoảng thời gian của khóa học 2013 – 2016. Điểm Nút là thời điểm năm 2013,
2016. Bƣớc nhảy là trạng thái chuyển đổi từ học sinh thành sinh viên, từ sinh viên thành
công chức, viên chức, công nhân...
Chất mới ra đời với những thông số mới về Lƣợng, tạo điều kiện cho những thông
số về Lƣợng tiếp tục biến đổi. Quá trình đó tiếp diễn liên tục, lặp đi lặp lại tạo ra quy luật
chi phối sự vận động, phát triển của mọi sự vật, hiện tƣợng trong thế giới.
Nắm vững những quy luật Lƣợng – Chất giúp con ngƣời khắc phục đƣợc biểu hiện
không chú ý tích luỹ về lƣợng, chủ quan, nôn nóng, duy ý chí chỉ muốn các bƣớc nhảy
liên tục sẽ dẫn tới thất bại. Mặt khác, cần khắc phục tƣ tƣởng bảo thủ, lo sợ không dám
thực hiện những bƣớc nhảy vọt khi có đủ điều kiện, lƣợng đã tích lũy đủ. Phải tích cực
chuẩn bị kỹ mọi điều kiện khách quan và chủ quan. Mỗi khi có tình thế, thời cơ thì kiên
quyết tổ chức thực hiện bƣớc nhảy để giành thắng lợi quyết định.
c. Quy luật phủ định của phủ định
Quy luật phủ định của phủ định vạch ra khuynh hƣớng, con đƣờng của sự vận
động, phát triển trong thế giới.
Phủ định là thay thế bằng sự vật, hiện tƣợng này bằng sự vật, hiện tƣợng khác. Phủ
định siêu hình là phủ định làm cho sự vật mất đi hoàn toàn. Phủ định biện chứng là tự
phủ định do mâu thuẫn bên trong, vốn có của sự vật. Phủ định biện chứng có đặc trƣng
cơ bản là khách quan và có sự kế thừa yếu tố tích cực của sự vật cũ và đƣợc cải biến đi
cho phù hợp với cái mới.
Phủ định biện chứng mang tính chu kỳ. Sự vật khác nhau thì chu kỳ vận động phát
triển dài, ngắn khác nhau. Mỗi chu kỳ của từng sự vật cụ thể, có thể khác nhau nhƣng cơ
bản có hai lần phủ định cơ bản và những lần phủ định không cơ bản. Phủ định lần thứ
nhất làm cho sự vật trở thành mặt đối lập với chính nó. Phủ định lần thứ hai sự vật mới ra
đời, giống sự vật ban đầu nhƣng trên cơ sở cao hơn.

Trang 17/136
Phép biện chứng duy vật khẳng định vận động phát triển đi lên là khuynh hƣớng
chung của thế giới, nhƣng không diễn ra theo đƣờng thẳng, mà theo đƣờng xoáy ốc
quanh co phức tạp. Trong điều kiện nhất định, cái cũ đang suy yếu, nhƣng cái mới còn
non nớt chƣa có khả năng thắng ngay cái cũ. Nhƣng cái mới là cái tất thắng vì nó là cái
hợp với quy luật của sự phát triển. Cho nên, khi xem xét sự vận động và phát triển của sự
vật, phải xem xét nó trong quan hệ cái mới ra đời từ cái cũ, cái tiến bộ ra đời từ cái lạc
hậu. Do đó, trên thực tế chúng ta cần phải ủng hộ cái mới, tin tƣởng cái mới nhất định
chiến thắng. Khi có những bƣớc thụt lùi hoặc thoái trào cần xem xét kỹ lƣỡng, phân tích
nguyên nhân, tìm ra cách khắc phục để có giải pháp thích hợp cho cái mới ra đời ổn định
bền vững.
Vận dụng chủ đề 7 – Kỹ năng giải quyết vấn đề (Môn giáo dục đạo đức nghề
nghiệp). Những quy luật cơ bản của phép biện chứng duy vật là cơ sở phƣơng pháp luận
góp phần phát hiện, tìm ra những mâu thuẫn, để phân loại mâu thuẫn, phân tich làm rõ
những nguyên nhân dẫn tới những mâu thuẫn, lựa chọn những phƣơng án, cách thức, lên
kế hoạch giải quyết phù hợp. Giải quyết vấn đề là một quá trình liên tục giải quyết những
yêu cầu đặt ra để dần tới hoàn thành, thực chất giải quyết vấn đề là quá trình giải quyết
những mâu thuẫn, quá trình tích dần về lƣợng để thay đổi về chất của sự vật, đó là quá
trình phức tạp thông qua nhiều giai đoạn, nhiều khâu thậm chí phủ định lẫn nhau nhƣ: qúa
trình xác định vấn đế, tìm những nguyên nhân của vấn đề, quá trình đƣa ra các giải pháp,
lựa chọn giải pháp tối ƣu, phù hợp, lập kế hoạch thực hiện, đánh giá hiệu quả, vai trò của
các giải pháp, tiến hành thực hiện và kiểm tra kết quả thực hiện.
III. NHẬN THỨC VÀ HOẠT ĐỘNG THỰC TIỄN
1. Lý luận nhận thức
a. Bản chất của nhận thức
Chủ nghĩa Mác - Lênin khẳng định: bản chất của nhận thức là quá trình phản ánh
thế giới khách quan vào trong đầu óc con ngƣời. Đó là quá trình phản ánh chủ động, tích
cực, sáng tạo của chủ thể trƣớc khách thể.
Chủ thể nhận thức là con ngƣời, con ngƣời ở đây có thể là cá nhân, tổ chức, dân
tộc, xã hội, quốc gia, nhân loại, bị chi phối bởi điều kiện lịch sử, về kinh tế, chính trị - xã
hội, truyền thống văn hóa, đặc điểm tâm sinh lý, năng lực nhận thức của chủ thể. Khách
thể nhận thức là hiện thực khách quan trong phạm vi hoạt động của con ngƣời, là cái mà
chủ thể nhận thức hƣớng đến. Nhận thức là quá trình phản ánh của chủ thể đổi với khách

Trang 18/136
thể. Không có sự vật, hiện tƣợng nào trong thế giới khách quan mà con ngƣời không thể
biết đƣợc, chỉ có cái mà con ngƣời chƣa biết mà thôi.
Nhận thức là quá trình phản ánh hiện thực khách quan, nhƣng đó không phải là
quá trình phản ánh thụ động mà là sự phản ánh chủ động, tích cực, có sáng tạo; từ chƣa
biết đến biết, từ biết ít đến biết nhiều, từ kém sâu sắc đến sâu sắc hơn, từ hiện tƣợng đến
bản chất. Nhận thức không chỉ phản ánh những cái đã và đang tồn tại mà còn phản ánh
những cái sẽ tồn tại. Với nghĩa đó, nhận thức có thể dự báo tƣơng lai. Nhận thức không
chỉ giải thích thế giới mà còn cải tạo thế giới.
b. Các giai đoạn của quá trình nhận thức
Quá trình nhận thức của con ngƣời diễn ra từ trực quan sinh động đến tƣ duy trừu
tƣợng, từ tƣ duy trừu tƣợng đến thực tiễn.
- Từ trực quan sinh động đến tư duy trừu tượng:
Trực quan sinh động (nhận thức cảm tính): Là giai đoạn đầu của quá trình nhận
thức, phản ánh trực tiếp hiện thực khách quan bằng các giác quan qua các hình thức cơ
bản, kế tiếp nhau là cảm giác, tri giác, biểu tƣợng.
Cảm giác là hình thức chỉ phản ánh đƣợc những mặt, những thuộc tính riêng lẻ
bên ngoài của sự vật nhƣ: nóng, lạnh, màu sắc, mùi vị…
Tri giác là sự phản ánh đối tƣợng trong tính toàn vẹn, trực tiếp tổng hợp nhiều
thuộc tính khác nhau bên ngoài của sự vật do cảm giác đem lại.
Biểu tượng là hình ảnh về sự vật đƣợc tái hiện lại một cách khái quát, khi không
còn tri giác trực tiếp sự vật.
Đặc điểm chung của giai đoạn nhận thức cảm tính là phản ánh có tính chất hiện
thực, trực tiếp, không thông qua khâu trung gian. Sự phản ánh đó tuy phong phú sinh
động, nhƣng chỉ là phản ánh bề ngoài, hiện tƣợng của sự vật.
Tư duy trừu tượng (nhận thức lý tính): là giai đoạn cao của quá trình nhận thức,
dựa trên những cơ sở tài liệu do trực quan sinh động đƣa lại. Chỉ qua giai đoạn này, nhận
thức mới nắm đƣợc bản chất, quy luật của hiện thực. Tƣ duy trừu tƣợng đƣợc biểu hiện
dƣới các hình thức cơ bản: khái niệm, phán đoán, suy luận.
Khái niệm là hình thức cơ bản của tƣ duy trừu tƣợng, phản ánh cái chung, bản
chất, tất yếu để đặt tên cho sự vật. Khái niệm đƣợc diễn đạt bằng ngôn ngữ, là vật liệu
đầu tiên để xây dựng nên những tri thức khoa học.

Trang 19/136
Phán đoán là một hình thức cơ bản của tƣ duy trừu tƣợng, dựa trên sự liên kết,
những khái niệm đã có, nhằm khẳng định hay phủ định, một hay nhiều thuộc tính ở sự
vật. Mỗi phán đoán đƣợc biểu đạt bằng một mệnh đề nhất định.
Suy luận là hình thức cơ bản của tƣ duy trừu tƣợng, dựa trên sự liên kết các phán
đoán đã đƣợc xác lập và mối liên hệ có tính quy luật của những phán đoán đó, để đi đến
tìm ra phán đoán mới.
Giai đoạn nhận thức lý tính tuy không phản ánh trực tiếp hiện thực khách quan,
nhƣng phản ánh trừu tƣợng, khái quát, vạch ra bản chất, quy luật của sự vật, hiện tƣợng.
Nhận thức cảm tính và nhận thức lý tính là hai giai đoạn của quá trình nhận thức.
Tuy chúng có sự khác nhau về vị trí, mức độ là phạm vi phản ánh, nhƣng có liên hệ mật
thiết, tác động qua lại lẫn nhau. Giai đoạn nhận thức cảm tính, là tiền đề, điều kiện của
nhận thức lý tính. Nhận thức lý tính không thể thực hiện gì hết nếu thiếu tài liệu của nhận
thức cảm tính đƣa lại. Ngƣợc lại, nhận thức lý tính sau khi đã hình thành thì tác động trở
lại nhận thức cảm tính làm cho nó nhận thức nhạy bén hơn, chính xác hơn trong quá trình
phản ánh hiện thực.
- Từ tư duy trừu tượng đến thực tiễn:
Đây là giai đoạn để đƣa những tri thức con ngƣời đã nhận thức đƣợc về thực tiễn
để kiểm nghiệm, kiểm tra để phân biệt giữa nhận thức đúng với nhận thức sai.
Nhƣ vậy từ trực quan sinh động đến tƣ duy trừu tƣợng, từ tƣ duy trừu tƣợng trở về
thực tiễn, là con đƣờng biện chứng của sự nhận thức chân lý khách quan. Trong đó, thực
tiễn vừa là tiền đề xuất phát, vừa là điểm kết thúc của một vòng khâu của quá trình nhận
thức. Kết thúc vòng khâu này lại là điểm khởi đầu của vòng khâu khác cao hơn. Đó là
quá trình vô tận, liên tục của sự nhận thức chân lý.
2. Thực tiễn và vai trò của nó đối với nhận thức
a. Vai trò của thực tiễn
Thực tiễn là toàn bộ hoạt động vật chất có mục đích mang tính lịch sử-xã hội của
con ngƣời nhằm cải tạo thế giới khách quan, biến đổi nó theo nhu cầu của con ngƣời.
Hoạt động thực tiễn có ba hình thức cơ bản: hoạt động sản xuất vật chất; hoạt
động chính trị-xã hội và hoạt động thực nghiệm khoa học. Trong đó, hoạt động sản xuất
của cải vật chất là hoạt động cơ bản nhất vì nó quyết định sự tồn tại, phát triển xã hội.
- Thực tiễn là cơ sở, nguồn gốc của nhận thức. Mọi nhận thức của con ngƣời, xét
đến cùng đều có nguồn gốc từ thực tiễn. Thực tiễn cung cấp những tài liệu hiện thực

Trang 20/136
khách quan, làm cơ sở để con ngƣời nhận thức; trực tiếp tác động vào thế giới khách
quan, bắt đối tƣợng bộc lộ ra những đặc trƣng, thuộc tính, quy luật vận động để con
ngƣời nhận thức ngày càng cao hơn.
- Thực tiễn là động lực và mục đích của nhận thức. Thực tiễn thƣờng xuyên vận
động, phát triển nó luôn đặt ra những nhiệm vụ mới cho nhận thức. Hoạt động của con
ngƣời, bao giờ cũng có mục đích, yêu cầu và tổ chức thực hiện mà không phải lúc nào
cũng có sẵn trong đầu óc. Nếu mục đích, yêu cầu cách thức thực hiện đúng thì hoạt động
thực tiễn thành công. Mục đích nhận thức của con ngƣời không chỉ để giải thích thế giới
mà là để cải tạo thế giới theo nhu cầu, lợi ích của mình.
- Thực tiễn là tiêu chuẩn của chân lý. Ngƣời ta không thể lấy nhận thức để kiểm
tra nhận thức đƣợc, không thể lấy nhận thức này làm chuẩn để kiểm tra nhận thức kia
đƣợc vì chính bản thân nhận thức đƣợc dùng làm tiêu chuẩn để kiểm tra nhận thức khác
chƣa chắc đã là nhận thức đúng. Chỉ có thực tiễn mới là tiêu chuẩn thật sự, duy nhất của
chân lý.
b. Chân lý
Chân lý là những tri thức của con ngƣời phù hợp với hiện thực khách quan, đã
đƣợc thực tiễn kiểm nghiệm. VD: định luật bảo toàn, thuyết tiến hóa....
Chân lý có tính khách quan: chân lý là nhận thức của con ngƣời nhƣng nội dung
của nó chính là khách quan, không lệ thuộc vào con ngƣời. Vd: Nội dung thuyết tiến hóa
là khái quát từ lịch sử tự nhiên, không do mong muốn con ngƣời sáng tạo ra.
Chân lý có tính cụ thể: Không có chân lý chung chung trừu tƣợng đúng cho mọi
điều kiện hoàn cảnh, mà chỉ có chân lý cụ thể, xác định, gắn với điều kiện, hoàn cảnh,
gắn với không gian, thời gian cụ thể. Trong một giới hạn nhất định nếu thoát ly không
gian, thời gian thì chân lý có thể biến thành sai lầm và ngƣợc lại. Vd: quan điểm thuyết
địa tâm chỉ đúng đến khi Copecnic công bố thuyết nhật tâm.
Chân lý có tính tương đối và tính tuyệt đối. Chân lý tuyệt đối là tri thức của con
ngƣời về thế giới khách quan nhƣng đạt đƣợc sự hoàn toàn đúng đắn, đầy đủ và chính xác
về mọi phƣơng diện. Tri thức đó phải là tri thức của cả loài ngƣời, bao gồm nhiều thế hệ
kế tiếp nhau, diễn ra trong thời gian vô tận. Nhận thức muốn đi đến chân lý tuyệt đối phải
thông qua vô hạn chân lý tƣơng đối. Còn chân lý tƣơng đối chỉ là những nấc thang trên
con đƣờng đi đến chân lý tuyệt đối. Ranh giới giữa chân lý tuyệt đối và chân lý tƣơng đối
là tƣơng đối.

Trang 21/136
CÂU HỎI ÔN TẬP VÀ THẢO LUẬN

1. Phân tích định nghĩa vật chất của V.I.Lênin. Làm rõ các phƣơng thức tồn tại và tính
thống nhất của vật chất?
2. Trình bày nguồn gốc và bản chất của ý thức. Phân tích mối quan hệ biện chứng giữa
vật chất, ý thức và ý nghĩa thực tiễn của mối quan hệ đó?
3. Phân tích những nguyên lý của phép biện chứng duy vật và liên hệ ý nghĩa thực tiễn
của vấn đề đó?
4. Phân tích những quy luật cơ bản của phép biện chứng duy vật và liên hệ ý nghĩa
thực tiễn của quy luật đó?
5. Phân tích bản chất của nhận thức và các giai đoạn của quá trình nhận thức?
6. Phân tích vai trò của thực tiễn đối với hoạt động nhận thức của con ngƣời?
7. Chân lý là gì? Phân tích các tính chất của chân lý?
Chủ đề thảo luận số 1: Chủ đề thảo luận: Quan điểm “Khách quan, toàn diện, lịch sử
- cụ thể và phát triển” với kỹ năng làm việc nhóm và giải quyết vấn đề cho sinh viên?

Trang 22/136
Bài 3: NHỮNG QUY LUẬT CƠ BẢN VỀ SỰ PHÁT TRIỂN XÃ HỘI
Bài học trang bị cho ngƣời học biết, hiểu đƣợc những vấn đề về sản xuất, quy luật
cơ bản đặc thù của đời sống xã hội, về giai cấp, dân tộc, nhà nƣớc, cách mạng xã hội, ý
thức xã hội và vấn đề con ngƣời theo quan điểm của chủ nghĩa Mác – Lênin. Qua đó, bài
học giúp ngƣời học nhìn nhận, đánh giá và giải quyết hiệu quả, tích cực những vấn đề,
đòi hỏi từ thực tiễn cuộc sống.
I. SẢN XUẤT VÀ PHƢƠNG THỨC SẢN XUẤT
1. Vai trò của sản xuất và phƣơng thức sản xuất
a. Vai trò của sản xuất
Sản xuất vật chất là hoạt động sử dụng công cụ lao động tác động vào đối tƣợng
lao động nhằm tạo ra của cải cần thiết để thoả mãn nhu cầu tồn tại, phát triển của con
ngƣời và xã hội.
- Sản xuất vật chất luôn giữ vai trò quyết định sự tồn tại, phát triển của con người
và xã hội loài người. VD: sản xuất tạo ra đồ ăn, uống, ở, mặc, đi lại... v.v cho con ngƣời
và xã hội. Những thứ có sẵn trong tự nhiên không thể thoả mãn mọi nhu cầu của con
ngƣời, nên nó phải sản xuất ra của cải vật chất. Sản xuất vật chất là yêu cầu khách quan
cơ bản; là một hành động lịch sử mà hiện nay cũng nhƣ hàng ngàn năm trƣớc đây con
ngƣời vẫn phải tiến hành. Xã hội loài ngƣời tồn tại và phát triển đƣợc trƣớc hết là nhờ sản
xuất vật chất. Lịch sử xã hội loài ngƣời, do vậy và trƣớc hết là lịch sử phát triển của sản
xuất vật chất.
- Sản xuất vật chất là hoạt động nền tảng phát sinh, phát triển những mối quan hệ
xã hội. Xã hội loài ngƣời là một tổ chức vật chất và giữa các yếu tố cấu thành nó cũng có
những kiểu quan hệ nhất định. VD: quan hệ của các cá nhân với nhau, quan hệ giữa các
tổ chức chính trị - xã hội, quan hệ về nhà nƣớc, chính trị, pháp quyền, đạo đức, nghệ
thuật, khoa học...đều đƣợc hình thành và phát triển trên cơ sở sản xuất vật chất nhất định.
Trong quá trình đó, con ngƣời đồng thời cũng sản xuất ra và tái sản xuất ra những quan
hệ xã hội của mình
- Sản xuất vật chất là cơ sở của sự xuất hiện, phát triển, hoàn thiện con người và
tiến bộ xã hội. VD: quá trình tiến hóa của con ngƣời một phần nhờ lao động....Sản xuất vật
chất không ngừng đƣợc các thế hệ ngƣời phát triển từ thấp đến cao. Mỗi khi phƣơng thức
sản xuất thay đổi, quan hệ giữa ngƣời với ngƣời trong sản xuất cũng thay đổi; và do vậy,
mọi mặt của đời sống xã hội đều có sự thay đổi theo sự tiến bộ của phƣơng thức sản xuất.

Trang 23/136
b. Vai trò của phương thức sản xuất
Phương thức sản xuất là cách thức tiến hành sản xuất vật chất trong một giai đoạn
nhất định của lịch sử. Mỗi phƣơng thức sản xuất gồm hai mặt cấu thành là lực lƣợng sản
xuất và quan hệ sản xuất.
- Phương thức sản xuất quyết định tính chất của xã hội. Xã hội là do những con
ngƣời với các hoạt động của mình tạo ra. Nhƣng con ngƣời không thể tùy ý lựa chọn chế
độ xã hội cho mình. Sự ra đời một chế độ xã hội trong lịch sử do yếu tố hoàn toàn khách
quan là phƣơng thức sản xuất quyết định. VD: phƣơng thức sản xuất Chiếm hữu nô lệ,
Phong kiến, Tƣ bản chủ nghĩa tạo ra áp bức, bóc lột, bất công trong xã hội. Phƣơng thức
sản xuất (PTSX) Cộng sản nguyên thủy thì bình đẳng, công bằng…
- Phương thức sản xuất quyết định tổ chức kết cấu của xã hội. Tổ chức kết cấu của
xã hội bao gồm các tổ chức kinh tế, quan điểm tƣ tƣởng, giai cấp, đảng phái, nhà nƣớc,
thiết chế xã hội và các tổ chức chính trị-xã hội khác. Tổ chức kết cấu ấy không phụ thuộc
vào ý muốn chủ quan của con ngƣời mà do phƣơng thức sản xuất quyết định. Mỗi
phƣơng thức sản xuất khác nhau sinh ra một kiểu tổ chức kết cấu xã hội khác nhau. Vd:
PTSX tƣ bản tạo ra nhà nƣớc tƣ bản, các tổ chức chính trị - xã hội tƣ bản, hệ tƣ tƣởng tƣ
sản….tƣơng tự với PTSX phong kiến, Chiếm hữu nô lệ…
- Phương thức sản xuất quyết định sự chuyển hóa của xã hội loài người qua các
giai đoạn lịch sử khác nhau. Lịch sử xã hội loài ngƣời là lịch sử phát triển của sản xuất,
thực chất là sự phát triển của các phƣơng thức sản xuất. Khi phƣơng thức sản xuất cũ mất
đi, phƣơng thức sản xuất mới ra đời thì chế độ xã hội cũ mất theo và chế độ xã hội mới sẽ
ra đời. VD: PTSX Phong kiến mất đi PTSX từ bản ra đời làm xã hội chuyển từ xã hội
phong kiến lên xã hội TBCN.
Lý luận trên cho ta ý nghĩa khi nghiên cứu mọi hiện tƣợng xã hội phải đi tìm
nguồn gốc phát sinh từ phƣơng thức sản xuất, từ tất yếu kinh tế. Nhận thức đúng vai trò
của phƣơng thức sản xuất, trong thời kỳ đổi mới, Đảng ta đã chủ trƣơng phát triển kinh tế
là nhiệm vụ trọng tâm, đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nƣớc gắn với phát
triển kinh tế tri thức.
2. Những quy luật cơ bản của sự vận động và phát triển xã hội
a. Quy luật về sự phù hợp của quan hệ sản xuất với trình độ phát triển của lực
lượng sản xuất
- Khái niệm

Trang 24/136
Lực lượng sản xuất: là mối quan hệ giữa con ngƣời với giới tự nhiên trong quá
trình sản xuất của cải vật chất, là trình độ chinh phục tự nhiên của con ngƣời, là mặt tự
nhiên của phƣơng thức sản xuất. Lực lƣợng sản xuất bao gồm con ngƣời – ngƣời lao
động và tƣ liệu sản xuất. Tƣ liệu sản xuất bao gồm đối tƣợng lao động và tƣ liệu lao
động. Tƣ liệu lao động bao gồm công cụ lao động và phƣơng tiện lao động, trong đó công
cụ lao động là yếu tố động nhất, luôn đổi mới theo tiến trình phát triển khách quan của
sản xuất vật chất. Trong lực lƣợng sản xuất, con ngƣời – ngƣời lao động giữ vai trò quyết
định.
Quan hệ sản xuất là mối quan hệ giữa ngƣời với ngƣời trong quá trình sản xuất
của cải vật chất, là mặt xã hội của phƣơng thức sản xuất. Quan hệ sản xuất bao gồm:
quan hệ sở hữu đối với tƣ liệu sản xuất; quan hệ quản lý, phân công lao động; và quan hệ
trong phân phối sản phẩm lao động. Ba mặt đó có quan hệ hữu cơ với nhau, trong đó
quan hệ sở hữu đối với tƣ liệu sản xuất giữ vai trò quyết định. Trong lịch sử có các hình
thức sở hữu nhƣ: tƣ hữu về tƣ liệu sản xuất, công hữu về tƣ liệu sản xuất.
- Lực lượng sản xuất quyết định quan hệ sản xuất:
Lực lƣợng sản xuất quyết định nội dung, tính chất, sự vận động của quan hệ sản
xuất. Lực lƣợng sản xuất nhƣ thế nào về tính chất và trình độ thì quan hệ sản xuất phải
phù hợp nhƣ thế ấy. Trình độ của lực lƣợng sản xuất thủ công, với công cụ thô sơ có tính
chất cá nhân thì hình thành một quan hệ sản xuất phù hợp với nó là quan hệ sản xuất cá
thể. Khi trình độ lực lƣợng sản xuất thay đổi thì quan hệ sản xuất cũng thay đổi theo. Do
con ngƣời luôn tích lũy sáng kiến và kinh nghiệm, luôn cải tiến công cụ và phƣơng thức
sản xuất nên lực lƣợng sản xuất luôn phát triển. Ngày nay, khoa học và công nghệ phát
triển đã trở thành lực lƣợng sản xuất trực tiếp. Lực lƣợng sản xuất phát triển đến mức độ
nào đó mà quan hệ sản xuất cũ không còn phù hợp nữa nó sẽ cản trở lực lƣợng sản xuất.
- Quan hệ sản xuất tác động trở lại lực lượng sản xuất:
Nếu quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ của lực lƣợng sản xuất thì nó thúc đẩy
lực lƣợng sản xuất phát triển. Quan hệ sản xuất không phù hợp thì nó kìm hãm, thậm chí
phá vỡ lực lƣợng sản xuất. Quan hệ sản xuất là phù hợp với tính chất và trình độ của lực
lƣợng sản xuất khi nó tạo ra những tiền đề, những điều kiện cho các yếu tố của lực lƣợng
sản xuất (ngƣời lao động, công cụ, phƣơng tiện lao động, đối tƣợng lao động) kết hợp với
nhau một cách hài hòa để sản xuất phát triển và đƣa lại năng suất lao động cao. Sự phù
hợp giữa quan hệ sản xuất với lực lƣợng sản xuất không phải chỉ thực hiện một lần là

Trang 25/136
xong mà phải là quá trình. Mỗi khi sự phù hợp quan hệ sản xuất và lực lƣợng sản xuất bị
phá vỡ là mỗi lần điều chỉnh, thay bằng sự phù hợp khác cao hơn.
Vận dụng quy luật này trong quá trình đổi mới và hội nhập quốc tế ở Việt Nam
hiện nay, Đảng và nhà nƣớc ta chủ trƣơng:
Về lực lượng sản xuất, trong lực lƣợng sản xuất, con ngƣời giữ vai trò quyết định,
vì vậy, đầu tƣ cho con ngƣời là đầu tƣ cho giáo dục, “giáo dục là quốc sách hàng đầu”.
Thực hiện quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nƣớc và hội nhập quốc tế.
Về quan hệ sản xuất, phát triển kinh tế thị trƣờng định hƣớng xã hội chủ nghĩa với
nhiều hình thức sở hữu nhƣ: Công hữu về tƣ liệu sản xuất, tƣ hữu về tƣ liệu sản xuất và
hình thức sở hữu hỗn hợp, trong đó sở hữu công hữu về tƣ liệu sản xuất giữ vai trò là nền
tảng. Thực hiện nhiều hình thức phân phối nhƣ: phân phối theo lao động, theo kết quả sản
xuất kinh doanh và phúc lợi xã hội, trong đó phân phối theo lao động là chủ yếu.
b. Quy luật về quan hệ biện chứng giữa cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng
- Khái niệm:
Cơ sở hạ tầng: là toàn bộ những quan hệ sản xuất hợp thành cơ cấu kinh tế của
một hình thái kinh tế-xã hội nhất định, bao gồm quan hệ sản xuất thống trị, quan hệ sản
xuất tàn dƣ của hình thái kinh tế-xã hội trƣớc và quan hệ sản xuất mầm mống của hình
thái kinh tế-xã hội tƣơng lai.
Kiến trúc thượng tầng: là toàn bộ những quan điểm tƣ tƣởng chính trị pháp quyền,
đạo đức, nghệ thuật, tôn giáo, triết học...và những thiết chế xã hội tƣơng ứng nhƣ nhà
nƣớc, đảng phái, giáo hội, các tổ chức.., đƣợc hình thành trên cơ sở hạ tầng nhất định.
- Cơ sở hạ tầng quyết định kiến trúc thượng tầng
Cơ sở hạ tầng quyết định sự ra đời, nội dung, sự vận động của kiến trúc thƣợng
tầng. Quan hệ sản xuất nào thống trị thì tạo ra một kiến trúc thƣợng tầng chính trị tƣơng
ứng; giai cấp nào thống trị về kinh tế thì thống trị về tƣ tƣởng; mâu thuẫn kinh tế quyết
định mâu thuẫn tƣ tƣởng. Khi cơ sở hạ tầng biến đổi đòi hỏi kiến trúc thƣợng tầng cũng
phải biến đổi theo. Những biến đổi của cơ sở hạ tầng sớm muộn cũng dẫn tới sự biến đối
kiến trúc thƣợng tầng.
- Kiến trúc thượng tầng tác động trở lại cơ sở hạ tầng:
Kiến trúc thƣợng tầng bảo vệ cơ sở hạ tầng đã sinh ra nó. Kiến trúc thƣợng tầng
tiên tiến, tác động phù hợp sẽ thúc đẩy cơ sở hạ tầng phát triển. Ngƣợc lại, nếu kiến trúc
thƣợng tầng bảo thủ, lạc hậu, tác động không phù hợp sẽ kìm hãm sự phát triển cơ sở hạ

Trang 26/136
tầng. Nhƣng sự kìm hãm đó chỉ là nhất thời, sớm muộn cũng tất yếu thay thế bằng kiến
trúc thƣợng tầng mới.
Vận dụng sáng tạo quy luật này trong quá trình đổi mới và hội nhập quốc tế ở Việt
Nam hiện nay, Đảng và Nhà nƣớc ta chủ trƣơng
Về cơ sở hạ tầng, tƣơng ứng với những hình thức sở hữu và xây dựng nền kinh tế
hàng hóa nhiều thành phần: thành phần kinh tế nhà nƣớc, thành phần kinh tế tập thể,
thành phần kinh tế tƣ nhân, thành phần kinh tế có vốn đầu tƣ nƣớc ngoài, trong đó thành
phần kinh tế nhà nƣớc và thành phần kinh tế tập thể giữ vai trò là nền tảng.
Về kiến trúc thượng tầng, chủ nghĩa Mác – Lênin và tƣ tƣởng Hồ Chí Minh giữ vai
trò nền tảng tƣ tƣởng. Đảng Cộng sản Việt Nam giữ vai trò là lãnh đạo cả hệ thống chính
trị Việt Nam. Xây dựng nhà nƣớc pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam của nhân dân,
do nhân dân, vì nhân dân. Xây dựng các tổ chức đoàn thể nhân dân – đại diện là mặt trận
Tổ quốc Việt Nam đoàn kết, phát huy sức mạnh đoàn kết toàn dân tộc trong công cuộc
xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.
II. ĐẤU TRANH GIAI CẤP, NHÀ NƢỚC VÀ DÂN TỘC, GIA ĐÌNH VÀ XÃ
HỘI
1. Giai cấp và đấu tranh giai cấp
a. Khái niệm giai cấp
V.I.Lênin định nghĩa: “Người ta gọi là giai cấp, những tập đoàn người to lớn gồm
những người khác nhau về địa vị của họ trong một hệ thống sản xuất xã hội nhất định
trong lịch sử, khác nhau về quan hệ của họ (thường thường thì những quan hệ này được
pháp luật quy định và thừa nhận) đối với những tư liệu sản xuất, về vai trò của họ trong
tổ chức lao động xã hội và như vậy là khác nhau về cách thức hưởng thụ phần của cải
vật chất ít hay nhiều mà họ được hưởng. Giai cấp là những tập đoàn người mà tập đoàn
này thì có thể chiếm đoạt lao động của tập đoàn khác do chỗ các tập đoàn có địa vị khác
nhau trong một chế độ kinh tế - xã hội nhất định”
Định nghĩa nêu ra bốn đặc trƣng của giai cấp: Giai cấp là những tập đoàn ngƣời có
địa vị khác nhau trong hệ thống sản xuất; họ có mối quan hệ khác nhau đối với tƣ liệu sản
xuất; có vai trò khác nhau trong tổ chức lao động xã hội; có sự khác nhau về phƣơng thức
và quy mô thu nhập của cải xã hội. Bốn đặc trƣng có quan hệ mật thiết với nhau, trong đó
đặc trƣng về sở hữu tƣ liệu sản xuất là quyết định nhất. Định nghĩa giai cấp của Lênin có

Trang 27/136
giá trị có về lý luận và thực tiễn. vì nó không chỉ nói rõ nguồn phát sinh giai cấp mà còn
là cơ sở để xác định kết cấu giai cấp trong một hình thái kinh tế- xã hội nhất định.
Mỗi hình thái kinh tế-xã hội có một kết cấu giai cấp khác nhau. Giai cấp cơ bản là
những giai cấp gắn với phƣơng thức sản xuất thống trị. Giai cấp không cơ bản là những
giai cấp gắn với phƣơng thức sản xuất không phải là thống trị còn tàn dƣ từ xã hội cũ
hoặc mới là phƣơng thức sản xuất mầm mống của xã hội tƣơng lai. VD ở nƣớc ta hiện
nay có giai cấp nông dân, công nhân, đội ngũ trí thức…..
b. Đấu tranh giai cấp
V.I.Lênin định nghĩa: “Đấu tranh giai cấp là đấu tranh của một bộ phận nhân
dân này chống một bộ phận khác, cuộc đấu tranh của quần chúng bị tước hết quyền, bị
áp bức và lao động chống bọn có đặc quyền, đặc lợi, bọn áp bức và ăn bám, cuộc đấu
tranh của những người công nhân làm thuê hay những người vô sản chống những người
công nhân hay làm thuê hay những người vô sản, chống những người hữu sản hay giai
cấp tư sản”
Đấu tranh giai cấp thực chất là đấu tranh giữa những tập đoàn ngƣời có lợi ích căn
bản đối lập nhau không thể điều hoà đƣợc. VD: Đấu tranh giữa Nông dân và Địa chủ
phong kiến trong xã hội phong kiến; giữa Vô sản và Tƣ sản trong xã hội tƣ bản… Những
đấu tranh về lợi ích không cơ bản giữa các bộ phận trong một giai cấp, giữa cá nhân này
với cá nhân khác trong xã hội không phải là đấu tranh giai cấp.
Đấu tranh giai cấp là động lực phát triển của xã hội có giai cấp đối kháng vì nó
giải quyết mâu thuẫn giai cấp trong xã hội, là biểu hiện về mặt xã hội của mâu thuẫn giữa
lực lƣợng sản xuất và quan hệ sản xuất. Cách mạng xã hội là tất yếu để giải quyết mâu
thuẫn cơ bản giữa các giai cấp có lợi ích cơ bản đối lập nhau. Trong xã hội tƣ bản, đấu
tranh giai cấp của giai cấp vô sản chống lại giai cấp tƣ sản diễn ra ngay từ khi nó mới ra
đời và phát triển từ thấp đến cao, từ tự phát đến tự giác, đến mục tiêu giành chính quyền.
Để thực hiện đƣợc mục tiêu này, giai cấp công nhân cần có đảng lãnh đạo và có khối
đoàn kết liên minh công nông vững chắc.
Khi giai cấp vô sản đã giành chính quyền, lãnh đạo quá độ lên chủ nghĩ xã hội,
đấu tranh giai cấp vẫn còn tiếp tục trong điều kiện mới, với những hình thức mới. Chính
vì, giai cấp thống trị tuy bị đánh đổ nhƣng chúng còn cơ sở trong nƣớc và có mối quan hệ
quốc tế, luôn tìm mọi cách chống đối, hòng lấy lại địa vị đã mất. Mặt khác, trong xã hội
mới vẫn tồn tại những cơ sở cũ nảy sinh đối kháng giai cấp là những tâm lý, tập quán bảo

Trang 28/136
thủ, lạc hậu của xã hội cũ; bọn đế quốc và các thế lực thù địch bên ngoài vần luôn tìm
mọi cách can thiệp với bọn phản động trong nƣớc. Đấu tranh giai cấp trong điều kiện mới
là giai cấp công nhân đã là giai cấp giữ chính quyền và dùng chính quyền làm công cụ tổ
chức, xây dựng chủ nghĩa xã hội. Hình thức đấu tranh là bạo lực và hòa bình, bằng quân
sự và kinh tế, bằng giáo dục và hành chính diễn ra trên tất cả các lĩnh vực của đời sống
xã hội.
Trong thời kỳ quá độ ở nƣớc ta hiện nay cơ cấu, vị trí của các giai cấp trong xã hội
ta đã thay đổi với nhiều hình thức sở hữu về tƣ liệu sản xuất, nhiều thành phần giai cấp,
tầng lớp xã hội khác nhau. Mối quan hệ giữa các giai cấp, các tầng lớp xã hội là quan hệ
hợp tác và đấu tranh trong nội bộ nhân dân, đoàn kết và hợp tác lâu dài trong sự nghiệp
xây dựng và bảo vệ tổ quốc dƣới sự lãnh đạo của Đảng. Lợi ích giai cấp công nhân thống
nhất với lợi ích của toàn dân tộc với mục tiêu chung là độc lập dân tộc gắn liền với chủ
nghĩa xã hội, dân giàu, nƣớc mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh.
Nội dung chủ yếu của đấu tranh giai cấp hiện nay là thực hiện thắng lợi sự nghiệp
công nghiệp hóa, hiện đại hóa theo định hƣớng xã hội chủ nghĩa, khắc phục tình trạng
nƣớc nghèo, kém phát triển; thực hiện công bằng xã hội, chống áp bức, bất công; đấu
tranh ngăn chặn và khắc phục những tƣ tƣởng và hành động tiêu cực, sai trái; đấu tranh
làm thất bại mọi âm mƣu và hành động của thế lực thù địch; thực hiện thắng lợi sự
nghiệp xây dựng tổ quốc.
2. Nhà nƣớc và dân tộc
a. Nhà nước
Nhà nước là bộ phận cơ bản nhất của kiến trúc thƣợng tầng, của hệ thống chính trị
bao gồm bộ máy hành chính, quân đội, nhà tù, cảnh sát… do giai cấp thống trị tổ chức ra
để thực hiện quyền lực chính trị và lợi ích kinh tế của giai cấp mình.
Nhà nƣớc có các đặc trƣng cơ bản: phân chia dân cƣ theo lãnh thổ cƣ trú; thiết lập
quyền lực công cộng nhƣ quân đội, cảnh sát, toà án...để buộc toàn xã hội phải phục tùng;
đặt ra chế độ thuế bắt buộc để trả lƣơng cho bộ máy của mình; ban hành pháp luật; có
chủ quyền quốc gia.
Nhà nƣớc có hai chức năng chính là đối nội và đối ngọai. Chức năng đối nội là sử
dụng bộ máy nhà nƣớc để duy trì trật tự xã hội trên mọi lĩnh vực và trấn áp các lực lƣợng
phản kháng, bảo vệ lợi ích của mình. Chức năng đối ngoại chủ yếu giải quyết các mối
quan hệ với các quốc gia khác nhằm phục vụ chức năng đối nội.

Trang 29/136
Nhà nƣớc xã hội chủ nghĩa là nhà nƣớc kiểu mới, là nhà nƣớc của đa số nhân dân,
mang bản chất của giai cấp công nhân, đại diện cho lợi ích của nhân lao động. Nhà nƣớc
do đảng cộng sản tổ chức và lãnh đạo dựa trên khối liên minh công nông, thực hiện chức
năng vừa tổ chức xây dựng xã hội mới, vừa tiến hành trấn áp bằng bạo lực đối với các lực
lƣợng chống đối. Vận dụng sáng tạo nguyên lý, Đảng ta xác định nhà nƣớc Cộng hòa xã
hội chủ nghĩa Việt Nam là công cụ chủ yếu để thực hiện quyền làm chủ của nhân dân, là
Nhà nƣớc pháp quyền của dân, do dân, vì dân. Quyền lực nhà nƣớc là thống nhất có sự
phân công và phối hợp giữa các cơ quan nhà nƣớc trong việc thực hiện các quyền lập
pháp, hành pháp, tƣ pháp. Nhà nƣớc quản lý xã hội bằng pháp luật. Mọi cơ quan tổ chức,
cán bộ, công chức, mọi công đều có nghĩa vụ chấp hành pháp luật.
b. Dân tộc, tính giai cấp của vấn đề dân tộc và dân tộc Việt Nam
Dân tộc là cộng đồng ngƣời hình thành trong quá trình lịch sử với những đặc trƣng
cơ bản là cùng chung sống trên một lãnh thổ, có chung cơ sở kinh tế, chung ngôn ngữ và
nền văn hóa, tâm lý, tính cách. Các đặc trƣng đó có quan hệ chặt chẽ, trong đó đặc trƣng
chung cơ sở kinh tế là quan trọng nhất. Đặc trƣng chung nền văn hóa tạo nên bản sắc dân
tộc rõ rệt nhất.
Xã hội loài ngƣời khi mới ra đời sống trong những cộng đồng thị tộc, bộ lạc, bộ
tộc... Đến một giai đoạn nhất định thì dân tộc mới ra đời. Các dân tộc ra đời ở các thời
điểm khác nhau trên thế giới. Vấn đề dân tộc và giai cấp luôn có mối quan hệ hữu cơ với
nhau. Trong thời kỳ chủ nghĩa đế quốc, giai cấp từ sản tổ chức xâm lƣợc đàn áp các dân
tộc thuộc địa nên đã trở nên phản động. Trong điều kiện đó, giai cấp vô sản nắm ngọn cờ
dân tộc đấu tranh chống xâm lƣợc; các phong trào dân tộc lúc này mang tính chất giai cấp
vô sản. Giai cấp vô sản tự xây dựng thành dân tộc. Do vấn đề dân tộc luôn luôn có tính
giai cấp, nên các vấn đề chính trị trong một dân tộc nhƣ nhà nƣớc, pháp luật, đảng phái...
đều phục vụ giai cấp cầm quyền.
Dân tộc Việt Nam là một cộng đồng gồm 54 thành phần dân tộc anh em. Trong
lịch sử dựng nƣớc và giữ nƣớc, dân tộc ta đã xây dựng nên nhiều truyền thống tốt đẹp.
Cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX, phong trào yêu nƣớc Việt Nam dƣới ngọn cờ tƣ tƣởng
phong kiến và tƣ sản đều thất bại. Để giải phóng dân tộc, chỉ có thể theo con đƣờng cách
mạng vô sản. Từ khi có Đảng, truyền thống quý báu của dân tộc đƣợc nâng lên một tầm
cao mới. Phát huy sức mạnh đoàn kết toàn dân tộc, Đảng ta khẳng định: “Đại đoàn kết
dân tộc trên nền tảng liên minh giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và đội ngũ trí

Trang 30/136
thức dưới sự lãnh đạo của Đảng là đường lối chiến lược của cách mạng Việt Nam, là
nguồn sức mạnh, động lực chủ yếu và là nhân tố có ý nghĩa quyết định bảo đảm thắng lợi
bền vững của sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc”
c. Gia đình và xã hội
Gia đình là một cộng đồng xã hội đặc biệt gắn bó những con ngƣời với nhau bằng
quan hệ hôn nhân, nuôi dƣỡng và quan hệ huyết thống. Gia đình là tế bào của xã hội, là
nơi sản xuất ra của cải vật chất và sản sinh ra con ngƣời. Gia đình là tổ ấm đem lại hạnh
phúc cho mỗi con ngƣời. Trong giai đình, mọi thành viên đƣợc chăm lo chu đáo với trách
nhiệm và tình yêu thƣơng, đƣợc an toàn, nghỉ ngơi, cân bằng tâm lý, sinh lý; là nơi sinh
đẻ và nuôi dạy con cái làm cho xã hội tồn tại và phát triển lâu dài. Có con ngƣời thì có
gia đình, còn tồn tại con ngƣời thì còn gia đình, xã hội càng phát triển thì gia đình càng
hoàn thiện.
Dƣới chủ nghĩa xã hội, nhà nƣớc xã hội chủ nghĩa do đảng Cộng sản lãnh đạo đã
đề ra những chính sách nhằm thủ tiêu những quan niệm và hủ tục lạc hậu về gia đình.
Đặc điểm của gia đình xã hội chủ nghĩa là gia đình một vợ một chồng đƣợc xây dựng trên
cơ sở tình yêu chân chính. Ngoài hai chức năng của gia đình nói chung, gia đình mới xã
hội chủ nghĩa có nhiệm vụ làm cho gia đình trở thành môi trƣờng tốt để nuôi, dạy thế hệ
trẻ thành ngƣời lao động có đức, trí, thể, mỹ phát triển cao; tổ chức tốt đời sống vật chất
và văn hóa tinh thần cho mọi thành viên có đời sống vật chất ngày càng đầy đủ, đời sống
văn hóa tinh thần phong phú.
Nhận thức rõ vấn đề gia đình Đảng ta chủ trƣơng thực hiện chiến lược phát triển
gia đình Việt Nam, xây dựng gia đình thực sự là nơi hình thành, nuôi dưỡng nhân cách
văn hóa và giáo dục nếp sống cho con người. Phát huy giá trị truyền thống tốt đẹp, xây
dựng gia đình no ấm, tiến bộ, hạnh phúc, văn minh.
III. Ý THỨC XÃ HỘI
1. Tính chất của ý thức xã hội
Tồn tại xã hội: là toàn bộ điều kiện sinh hoạt vật chất nhƣ điều kiện địa lý tự
nhiên, dân số, phƣơng thức sản xuất, trong đó phƣơng thức sản xuất có vai trò quyết định.
Ý thức xã hội: là mặt tinh thần của đời sống xã hội, bao gồm những tƣ tƣởng, quan
điểm, lý luận, tình cảm, tâm trạng, tập quán, truyền thống nảy sinh từ tồn tại xã hội và
phản ánh tồn tại xã hội trong những giai đoạn phát triển nhất định.

Trang 31/136
Ý thức xã hội gồm tâm lý xã hội và hệ tƣ tƣởng: Tâm lý xã hội là các hiện tƣợng ý
thức nhƣ: tình cảm, tâm trạng, thói quen, ƣớc muốn, động cơ, thái độ và những xu hƣớng
tâm lý của các nhóm ngƣời đƣợc hình thành một cách tự phát trên cơ sở những điều kiện
sinh sống hàng ngày. Hệ tư tưởng là những học thuyết lý luận phản ánh và bảo vệ lợi ích
của một giai cấp nhất định trong xã hội. Hệ tƣ tƣởng không hình thành tự phát mà đƣợc
tạo ra một cách tự giác thông qua những trí thức có trình độ cao, có khả năng tổng kết
thực tiễn và kinh nghiệm để khái quát thành lý luận, thành các học thuyết.
Mỗi dân tộc có đặc trƣng ý thức riêng do khác nhau về điều kiện kinh tế, địa lý,
ngôn ngữ, văn hóa và truyền thống dân tộc đƣợc kết tinh lầu dài trong lịch sử. Ý thức xã
hội là sự phản ánh tồn tại xã hội nhƣng không phản ánh giản đơn, thụ động mà có tính
độc lập tƣơng đối. Ý thức xã hội thƣờng lạc hậu, bảo thủ. Vd: tƣ tƣởng gia trƣởng, trọng
nam khinh nữ ... ra đời từ xã hội phong kiến vẫn tồn tại trong xã hội Việt Nam hiện nay.
Ý thức xã hội lại có khả năng vƣợt trƣớc tồn tại xã hội, dự báo trƣớc tƣơng lai so với tồn
tại xã hội. Vd: dự báo sự ra đời xã hội mới cộng sản chủ nghĩa của chủ nghĩa Mác –
Lênin. Ý thức xã hội có tính kế thừa những giá trị quý báu của truyền thống dân tộc và
nhân loại nên nó phản ánh tồn tại xã hội chủ động sáng tạo, tự giác và tác động trở lại tồn
tại theo khuynh hƣớng cản trở hoặc thúc đẩy xã hội phát triển. VD: truyền thống yêu
nƣớc, nhân nghĩa…hàng đời nay của ngƣời Việt ngày nay vẫn đƣợc phát huy.
2. Một số hình thái ý thức xã hội
- Ý thức chính trị là sự phản ánh đời sống chính trị của đất nƣớc nhƣ quan hệ giai
cấp, đảng phái, dân tộc, quốc tế, trong đó nòng cốt là quan hệ giai cấp. Ý thức chính trị
thể hiện ở tâm lý chính trị và hệ tƣ tƣởng chính trị. Tâm lý chính trị là động cơ, thái độ,
xu hƣớng chính trị của các tầng lớp và giai cấp trong xã hội. Hệ tƣ tƣởng chính trị là hệ
thống những quan điểm tƣ tƣởng chính trị phản ánh tập trung lợi ích và địa vị giai cấp
của một giai cấp, tồn tại dƣới dạng các học thuyết lý luận. Hệ tƣ tƣởng chính trị thƣờng
đƣợc dùng làm cơ sở lý luận để giai cấp thống trị định ra cƣơng lĩnh, đƣờng lối, chính
sách, thống trị xã hội.
- Ý thức pháp quyền là sự phản ánh mặt pháp lý trong đời sống xã hội. Ý thức
pháp quyền thể hiện ở tâm lý pháp quyền và hệ tƣ tƣởng pháp quyền. Thực chất của pháp
luật là ý chí pháp quyền của giai cấp thống trị biến thành luật lệ. Tâm lý pháp quyền bao
gồm những tâm trạng thái độ của công dân trƣớc hệ thống pháp luật.

Trang 32/136
Hệ tƣ tƣởng pháp quyền là hệ thống những quan điểm tƣ tƣởng về dân chủ, về
quyền lực nhà nƣớc, về quyền và nghĩa vụ công dân.... Trong xã hội có giai cấp, các giai
cấp bị trị cũng có ý thức chính trị ý thức pháp quyền nhƣng ý thức đó không biến thành
quyền lực chính trị.
- Ý thức đạo đức là bộ phận của ý thức xã hội phản ánh đời sống đạo đức của xã
hội, ở tâm lý, tƣ tƣởng đạo đức. Tâm lý đạo đức phản ánh những hiện tƣợng đạo đức nhƣ
tâm trạng, tình cảm đạo đức... Hệ tƣ tƣởng đạo đức là hệ thống những quan điểm về
nguyên tắc, chuẩn mực đạo đức phân biệt các hiện tƣợng thiện và ác, lẽ sống, lƣơng
tâm... đƣợc hệ thống hoá thành những học thuyết đạo đức. Cùng với ý thức pháp quyền
và hệ thống pháp luật, ý thức đạo đức có vai trò quan trọng trong thúc đẩy hay cản trở sự
phát triển xã hội. Ý thức đạo đức trong xã hội duy trì tốt đẹp, xã hội ổn định, phát triển. Ý
thức đạo đức lại điều chỉnh hành vi bằng sức mạnh của dƣ luận xã hội, bằng áp lực khen,
chê, đồng tình, hay phê phán. Nhận thức rõ vai trò to lớn của đạo đức cách mạng, hiện
nay toàn Đảng, toàn dân ta đang đẩy mạnh cuộc vận động lớn “Học tập và làm theo tấm
gương đạo đức Hồ Chí Minh''
- Ý thức khoa học là một hình thái ý thức xã hội đặc biệt, phản ánh bản chất và quy
luật của thế giới bằng những khái niệm, phạm trù. Ý thức khoa học của con ngƣời trƣớc
hết tồn tại dƣới dạng kinh nghiệm, sau khi đƣợc kiểm nghiệm nâng lên thành bài học
kinh nghiệm của con ngƣời. Do hoạt động nghiên cứu và thực tiễn cuộc sống thôi thúc,
tri thức khoa học của con ngƣời không ngừng phát triển hơn nữa trở thành lý luận sâu
sắc. Chủ nghĩa Mác-Lênin là đỉnh cao về tri thức lý luận khoa học cách mạng. Chính vì
vậy mà Đảng ta khẳng định chủ nghĩa Mác-Lênin, tƣ tƣởng Hồ Chí Minh là nền tảng tƣ
tƣởng và kim chỉ nam cho mọi hành động của Đảng ta và sự nghiệp cách mạng của nhân
dân ta.
- Ý thức tôn giáo có nguồn gốc tự nhiên từ nhu cầu tâm linh của con ngƣời và từ
điều kiện xã hội. Ý thức tôn giáo phản ánh tồn tại xã hội một cách hƣ ảo, không đúng
hiện thực, dẫn con ngƣời có lòng tin ảo tƣởng vào các lực lƣợng siêu nhiên nhƣ Chúa,
Thƣợng đế, thần thánh.... Ý thức tôn giáo làm cho con ngƣời không tin vào bản thân
mình mà chấp nhận hƣớng tới hạnh phúc ảo, mong giải thoát khỏi hiện thực. Khi bị lực
lƣợng xã hội lợi dụng thì tôn giáo mang tính chính trị, phục vụ lợi ích giai cấp thống trị.
Đảng ta tiếp tục khẳng định tín ngƣỡng, tôn giáo là nhu cầu tinh thần của một bộ
phận nhân dân, đang và sẽ tồn tại cùng dân tộc trong quá trình xây dựng chủ nghĩa xã

Trang 33/136
hội. Thực hiện chính sách nhất quán tôn trọng, bảo đảm quyền tự do tín ngƣỡng theo
hoặc không theo tôn giáo nào, quyền sinh hoạt tôn giáo bình thƣờng theo đúng pháp luật.
Các tôn giáo hoạt động trong khuôn khổ pháp luật, bình đẳng trƣớc pháp luật.

CÂU HỎI ÔN TẬP VÀ THẢO LUẬN

1. Phân tích vai trò của sản xuất vật chất và phƣơng thức sản xuất đối với quá trình
vận động và phát triển của con ngƣời và xã hội?
2. Phân tích mối quan hệ biện chứng giữa lực lƣợng và quan hệ sản xuất. Từ đó rút ra
ý nghĩa thực tiễn của mối quan hệ này ở nƣớc ta hiện nay?
3. Phân tích mối quan hệ biện chứng giữa cơ sở hạ tầng và kiến trúc thƣợng tầng. Từ
đó rút ra ý nghĩa thực tiễn của mối quan hệ này ở nƣớc ta hiện nay?
4. Phân tích đặc trƣng cơ bản của nhà nƣớc? Liên hệ nhà nƣớc Việt nam hiện nay?
Chủ đề thảo luận số 2: Chủ đề thảo luận: vấn đề tính độc lập tƣơng đối của Ý thức xã
hội với thực tiễn cuộc sống, học tập và lao động của sinh viên?

Trang 34/136
Bài 4: BẢN CHẤT VÀ CÁC GIAI ĐOẠN PHÁT TRIỂN
CỦA CHỦ NGHĨA TƢ BẢN
Sauk hi học xong bài này sinh viên có thể biết, hiểu và đánh giá quá trình hình
thành, các giai đoạn phát triển và bản chất của Chủ nghĩa tƣ bản qua đó lý giải một
cách khoa học, thực chất sự phát triển mạnh mẽ của chủ nghĩa tƣ bản với thành tựu ở
nhiều lĩnh vực hiên nay chỉ là nhất thời còn những mâu thuẫn nội tại, tiềm ẩn, kéo dài
không giải quyết đƣợc mới là vấn đề dẫn Chủ nghĩa tƣ bản đến khủng hoảng và diệt
vong.
I. SỰ HÌNH THÀNH CHỦ NGHĨA TƢ BẢN
1. Những tiền đề hình thành và bản chất chủ nghĩa tƣ bản
a. Những tiền đề hình thành
- Điều kiện kinh tế: Từ thế kỷ XVI ở nhiều nƣớc phong kiến Tây Âu đã diễn ra
mạnh mẽ quá trình sản xuất hàng hoá. Sản xuất hàng hoá ra đời khi có sự phân công lao
động xã hội với sự chuyên môn hoá cao hơn, nhu cầu tiêu dùng phong phú, việc trao đổi
sản phẩm ra đời và có chế độ tƣ hữu hoặc các hình thức sở hữu khác nhau về tƣ liệu sản
xuất làm cho những ngƣời sản xuất độc lập tự quyết định và có quyền trao đổi sản phẩm.
Sản xuất hàng hoá có ƣu điểm là thúc đẩy cải tiến kỹ thuật, tăng năng suất lao động xã
hội; tạo ra nhiều sản phẩm đáp ứng nhu cầu xã hội; đẩy mạnh quá trình xã hội hoá sản
xuất, thúc đẩy phân công lao động, chuyên môn hoá sản xuất, đẩy nhanh quá trình tích tụ
và tập trung sản xuất và tƣ bản. Đây là điều kiện kinh tế quyết định hình thành chủ nghĩa
Tƣ bản. Vì vậy, muốn hiểu thực chất quá trình ra đời của Chủ nghĩa tƣ bản, chúng ta cần
làm rõ những vấn đề liên quan đến sản xuất hàng hóa và hàng hóa.
Hàng hoá là sản phẩm của lao động, có thể thoả mãn nhu cầu nào đó của con
ngƣời thông qua trao đổi. Hàng hoá có hai thuộc tính là giá trị sử dụng và giá trị.
Giá trị của hàng hoá là lao động xã hội cần thiết của ngƣời sản xuất kết tinh trong
hàng hoá. Giá trị sử dụng là công dụng của sản phẩm có khả năng thoả mản nhu cầu của
con ngƣời thông qua trao đổi, mua bán.
Trong giai đoạn đầu của nhân loại, con ngƣời trao đổi trực tiếp vật phẩm này với
vật phẩm khác. Quá trình lịch sử lâu dài của lƣu thông hàng hoá, ngƣời ta mới tìm ra vật
trung gian là bạc hoặc vàng. Đó là những kim loại quý, dễ phân nhỏ, dễ bảo quản làm vật
ngang giá chung, từ đó tiền tệ ra đời. Tiền tệ là một thứ hàng hoá đặc biệt đƣợc tách ra
làm vật ngang giá chung cho các hàng hóa khác. Nó thể hiện lao động xã hội và biểu hiện

Trang 35/136
quan hệ giữa những ngƣời sản xuất hàng hoá. Tiền là thƣớc đo giá trị, là phƣơng tiện lƣu
thông, cất trữ và thanh toán.
Quy luật kinh tế cơ bản của sản xuất hàng hoá là quy luật giá trị. Nó đòi hỏi sản
xuất và trao đổi hàng hoá phải dựa trên cơ sở hao phí lao động xã hội cần thiết. Nó có tác
dụng điều tiết sản xuất và lƣu thông hàng hoá; kích thích cải tiến kỹ thuật, phát triển lực
lƣợng sản xuất nhƣng cũng tạo ra sự phân hoá nguời sản xuất thành kẻ giàu, ngƣời
nghèo…
- Tiền đề xã hội: Sau ba phát hiện địa lý thế giới (Tìm ra con đƣờng vòng ven
biển quanh Châu Phi của Vat-scô-đơ Gama (1445 – 1499). Tìm ra Châu Mỹ của Crít-
xtốp Cô-Lôm-bô (1492 – 1500). Tìm ra con đƣờng vòng quanh thế giới của Ma-gien-lăng
(1519 – 1522)) chủ nghĩa thực dân ra đời. Do nhu cầu trao đổi hàng hoá, xâm lƣợc các
“vùng đất mới” cùng hàng loạt các tiến bộ về kỹ thuật hàng hải, khai mỏ, nấu quặng,...
làm cho sản xuất hàng hóa ở Tây Âu phát triển nhanh.
Quá trình tập trung sản xuất và tích luỹ tƣ bản vào số ít ngƣời, cùng quá trình biến
ngƣời lao động thành ngƣời làm thuê ngày càng tăng. Chủ nghĩa tƣ bản bằng bạo lực rất
tàn khốc, dã man nhằm tƣớc đoạt những ngƣời sản xuất nhỏ, đuổi nông dân ra khỏi ruộng
đất của mình, tăng thuế, buôn bán nô lệ da đen... Nông dân mất ruộng, thợ thủ công, thị
dân phá sản… bổ sung vào đội quân làm thuê ngày càng đông dẫn tới sự phát triển các
công xƣởng thủ công sản xuất hàng hóa. Giai cấp tƣ sản gồm những nhà tƣ bản, sở hữu tƣ
liệu sản xuất xã hội và sử dụng lao động làm thuê đang dần hình thành, mâu thuẫn gay
gắt với địa chủ phong kiến. Trong nội bộ quý tộc phong kiến có sự phân hoá thành quý
tộc tƣ sản hoá. Giai cấp tƣ sản Tây Âu dần hình thành, dƣơng cao ngọn cờ, lôi kéo nông
dân chống chế độ phong kiến. Các cuộc khởi nghĩa chống phong kiến nổ ra liên tục và
lan rộng ở nhiều nƣớc Tây Âu.
- Tiền đề chính trị tƣ tƣởng: Từ thế kỷ XVI, một nền văn hoá mới của giai cấp
tƣ sản xuất hiện: đối lập gay gắt và muốn xóa bỏ hệ tƣ tƣởng, văn hoá phong kiến. Đó là
nền văn hoá Phục hƣng và phong trào cải cách tôn giáo. Thực chất đây là mặt trận tƣ
tƣởng của cuộc đấu tranh chống phong kiến của giai cấp tƣ sản.
Chế độ phong kiến Tây Âu ngày càng già cỗi trong lòng nó những tiền đề hình
thành chủ nghĩa tƣ bản châu Âu đang chuẩn bị bƣớc vào thời kỳ cách mạng tƣ sản và xác
lập chủ nghĩa tƣ bản. Cách mạng tƣ sản Hà Lan (1579 - 1609), cách mạng tƣ sản Anh
(1640 - 1688), cách mạng tƣ sản Mỹ (l776 - 1794), cách mạng tƣ sản Pháp (1789 - 1794)

Trang 36/136
... diễn ra dồn dập. Cách mạng tƣ sản thành công cùng với cuộc cách mạng công nghiệp
phát triển mạnh trong thế kỷ XVIII làm cho chủ nghĩa tƣ bản hình thành và nhanh chóng
trở thành hệ thống trên phạm vi thế giới.
b. Bản chất của chủ nghĩa tư bản
Bản chất của chủ nghĩa tư bản chính là quan hệ bóc lột của tư bản đối với công
nhân làm thuê dưới hình thức giá trị thặng dư. Chủ nghĩa tƣ bản chỉ có thể ra đời khi
trong xã hội có một lớp ngƣời lao động tự do và không có tƣ liệu sản xuất. Mặt khác,
phải có số lớn tiền, của cải khá lớn trong tay một số ngƣời để lập là các xí nghiệp. Tiền tệ
là biểu hiện đầu tiên của tƣ bản, nhƣng tiền chỉ chuyển hoá thành tƣ bản khi nó vận động
theo công thức là: T – H – T’, tiền ứng ra ban đầu, đƣa vào sản xuất hàng hoá, qua trao
đổi hàng hoá, thu về số lƣợng tiền mới lớn hơn số tiền ứng ra ban đầu. Số tiền tăng thêm
hay số tiền dƣ ra so với tiền ứng ban đầu gọi là giá trị thặng dƣ. Nhƣ vậy, tiền ứng ra ban
đầu trong quá trình vận động đã biến thành số tiền lớn hơn. Đó là quá trình chuyển hóa
tiền tệ thành tƣ bản, là công thức chung của tƣ bản.
Trong sản xuất, có một loại hàng hoá đặc biệt mà trong khi sử dụng nó có khả
năng tạo ra giá trị mới lớn hơn giá trị của bản thân nó. Đó là hàng hoá sức lao động. Sức
lao động là năng lực lao động của con ngƣời. Nó gồm thể lực, trí lực, kỹ năng của ngƣời
lao động đƣợc đem ra sử dụng trong lao động. Sức lao động là yếu tố cơ bản của mọi quá
trình sản xuất. Nó chỉ trở thành hàng hoá khi có hai điều kiện: Một là, ngƣời có sức lao
động đƣợc tự do về thân thể, có quyền đem bán sức lao động nhƣ hàng hoá. Hai là, họ
không có tƣ liệu sản xuất và của cải khác. Muốn sống, họ phải bán sức lao động của mình
cho ngƣời khác, tức là đi làm thuê. Hàng hoá sức lao động cũng có hai thuộc tính là giá
trị và giá trị sử dụng.
Giá trị hàng hóa sức lao động đƣợc quyết định bởi lƣợng lao động xã hội cần thiết
và tái sản xuất ra nó. Nó đƣợc xác định bằng toàn bộ giá trị của các tƣ liệu sinh hoạt cần
thiết về vật chất và tinh thần để duy trì đời sống bình thƣờng của công nhân và gia đình
họ, cùng những chi phí đào tạo để họ có trình độ nhất định. Giá trị của hàng hoá sức lao
động cũng nhằm thỏa mản nhu cầu của ngƣời mua, song nó có khác với hàng hoá thông
thƣờng ở chỗ khi sử dụng nó sẽ có khả năng tạo ra một lƣợng giá trị mới lớn hơn giá trị
bản thân nó. Đó chính là nguồn gốc của giá trị thặng dƣ.
2. Giai đoạn tự do cạnh tranh của chủ nghĩa tƣ bản
a. Quá trình sản xuất tư bản chủ nghĩa

Trang 37/136
Quá trình sản xuất tƣ bản chủ nghĩa là sự thống nhất giữa quá trình lao động tạo ra
giá trị sử dụng và quá trình sản xuất giá trị thặng dƣ. Nhà tƣ bản dùng tiền mua tƣ liệu
sản xuất, sức lao động và tiến hành sản xuất. Quá trình sản xuất có đặc trƣng là công
nhân lao động dƣới sự kiểm soát của nhà tƣ bản; sản phẩm làm ra thuộc sở hữu của nhà
tƣ bản. Bản chất của quan hệ sản xuất chủ nghĩa tư bản là ở chế độ tư hữu tư bản chủ
nghĩa về tư liệu sản xuất.
Giá trị thặng dƣ (ký hiệu là m) là phần giá trị dôi ra ngoài giá trị hàng hoá sức lao
động do công nhân làm thuê làm ra và bị nhà tƣ bản chiếm không. Có hai phƣơng pháp
sản xuất giá trị thặng dƣ là phƣơng pháp sản xuất giá trị thặng dƣ tƣyệt đối và phƣơng
pháp sản xuất giá trị thặng dƣ tƣơng đối. Giá trị thặng dư tuyệt đối là giá trị thặng dƣ thu
đƣợc do kéo dài ngày lao động quá giới hạn thời gian lao động cần thiết khi các điều kiện
khác không đổi. Giá trị thặng dư tương đối là giá trị thặng dƣ thu đƣợc do rút ngắn thời
gian lao động tất yếu trên cơ sở tăng năng suất lao động xã hội.
Tư bản bất biến là bộ phận tƣ bản tồn tại dƣới hình thức tƣ liệu sản xuất nhƣ nhà
xƣởng, máy móc, thiết bị, nguyên, nhiên liệu, vật liệu phụ…mà giá trị của nó đƣợc bảo
tồn và chuyển nguyên vẹn vào sản phẩm (c). Tư bản khả biến là bộ phận tƣ bản tồn tại
dƣới hình thức sức lao động. Trong quá trình sản xuất nó đƣợc tăng lên về lƣợng, do giá
trị sử dụng của hàng hoá sức lao động có đặc điểm khi đƣợc tiêu dùng thì nó tạo ra một
lƣợng giá trị mới lớn hơn giá trị bản thân nó (v). Tƣ liệu sản xuất có vai trò quan trọng
trong quá trình sản xuất, quyết định năng suất lao động của công nhân.
Giá trị của hàng hoá = c + v + m
Sản xuất giá trị thặng dƣ là quy luật kinh tế cơ bản của chủ nghĩa tƣ bản. Quy luật
giá trị thặng dƣ vạch rõ mục đích và phƣơng tiện của nền sản xuất chủ nghĩa tƣ bản.
Mục đích của sản xuất tƣ bản chủ nghĩa là sản xuất giá trị thặng dƣ ngày càng
nhiều càng tốt. Phƣơng tiện để đạt mục đích là cải tiến, phát triển khoa học kỹ thuật, tăng
năng suất lao động, mở rộng quy mô sản xuất, tăng cƣờng độ lao động, kéo dài ngày lao
động. Quy luật giá trị thặng dƣ tác động mạnh mẽ trong xã hội tƣ bản. Một mặt nó thúc
đẩy cải tiến kỹ thuật, phát triển lực lƣợng sản xuất, tăng năng suất lao động, xã hội hoá
sản xuất tạo ra nhiều hàng hoá đa dạng, phong phú... Mặt khác nó làm cho các mâu thuẫn
vốn có của chủ nghĩa tƣ bản ngày càng gay gắt, mâu thuẫn giữa tính chất xã hội của sản
xuất với sự chiếm hữu tƣ nhân tƣ bản chủ nghĩa về tƣ liệu sản xuất ngày càng tăng.

Trang 38/136
b. Tích luỹ tư bản
Tích lũy tƣ bản là biến một phần giá trị thặng dƣ thành tƣ bản phụ thêm để mở
rộng sản xuất. Tích lũy tƣ bản là tƣ bản hoá giá trị thặng dƣ. Nguồn gốc của tích lũy tƣ
bản là giá trị thặng dƣ. Quy mô tích lũy phụ thuộc vào giá trị thặng dƣ và tỷ lệ phân chia
khối lƣợng giá trị thặng dƣ thành quỹ tích luỹ và quỹ tiêu dùng của nhà tƣ bản.
Nhà tƣ bản thƣờng làm tăng quy mô khối lƣợng giá trị thặng dƣ bằng nhiều cách
khác nhau. Đơn giản là cắt xén tiền công, tăng cƣờng độ lao động kéo dài ngày lao động,
tăng năng suất lao động. Tinh vi hơn là gián tiếp thông qua sự phát triển của khoa học và
công nghệ và máy móc tự động hoá để có sự chênh lệch ngày càng lớn giữa bản sử dụng,
tƣ bản tiêu dùng; tƣ bản ứng trƣớc với quy mô tƣ bản thu về.
Quy luật chung của tích lũy tƣ bản là quá trình tích luỹ sự giàu có về số ít giai cấp
tƣ sản và là quá trình số đông giai cấp công nhân bị áp bức, bóc lột sức lao động một
cách tinh vi hơn. Đời sống nghèo khổ, thất nghiệp, bần cùng hóa, tất yếu dẫn tới mâu
thuẫn và đấu tranh giữa tƣ bản và công nhân ngày càng gay gắt quyết liệt.
c. Đặc điểm cơ bản của chủ nghĩa tư bản tự do cạnh tranh
Toàn bộ các hoạt động kinh tế vận hành theo cơ chế thị trƣờng, các xí nghiệp có
quy mô nhỏ, kỹ thuật chƣa cao. Giữa các nhà tƣ bản trong một ngành và giữa các ngành
diễn ra sự cạnh tranh gay gắt, quyết liệt. Cạnh tranh giữ vai trò thống trị trong nền kinh
tế. Quy luật kinh tế cơ bản của chủ nghĩa tƣ bản là quy luật giá trị thặng dƣ. Mục đích của
sản xuất tƣ bản là giá trị thặng dƣ. Để thỏa mãn mục đích này, chủ nghĩa tƣ bản đã dùng
mọi thủ đoạn nhƣ bóc lột lao động làm thuê. Tăng cƣờng độ lao động: kéo dài ngày lao
động, mở rộng sản xuất…Quá trình đó cũng là quá trình làm gay gắt thêm mâu thuẫn cơ
bản của chủ nghĩa tƣ bản, đó là mâu thuẫn giữa giai cấp tƣ sản ra giai cấp vô sản.
II. GIAI ĐOẠN ĐỘC QUYỀN CỦA CHỦ NGHĨA TƢ BẢN
1. Bản chất của chủ nghĩa đế quốc
a. Những đặc điểm kinh tế cơ bản của chủ nghĩa tư bản độc quyền.
- Tập trung sản xuất và sự ra đời các tổ chức độc quyền: Cuối thế kỷ XIX đầu thế
kỷ XX, tác động của cách mạng khoa học-kỹ thuật làm cho lực lƣợng sản xuất phát triển
mạnh mẽ và việc sử dụng chúng mang lại nguồn lợi nhuận rất cao. Song chí phí đầu tƣ
sản xuất rất lớn, không một nhà tƣ bản nào có đủ vốn đáp ứng đƣợc nhu cầu đầu tƣ, nên
họ phải liên kết với nhau để tập trung vốn.

Trang 39/136
Do tác động của quy luật giá trị thặng dƣ và quy luật cạnh tranh đã thúc đẩy quá
trình tích tụ và tập trung sản xuất, xuất hiện các xí nghiệp và công ty có quy mô rất lớn.
Khủng hoảng kinh tế đã làm phá sản hàng loạt các nhà tƣ bản nhỏ đồng thời xuất hiện các
xí nghiệp quy mô cực lớn. Việc xuất hiện những xí nghiệp khổng lồ đã tạo cơ sở vật chất
cho bƣớc chuyển từ tự do cạnh tranh sang độc quyền. Bởi vì, do xuất hiện các xí nghiệp
có qui mô sản xuất rất lớn, cạnh tranh gay gắt hơn. Để tránh thiệt hại, các xí nghiệp có
khuynh hƣớng thoả hiệp với nhau tích tụ và tập trung sản xuất mức độ cao dẫn tới hình
thành các tổ chức độc quyền. Tổ chức độc quyền là sự liên minh giữa các nhà tƣ bản lớn
nắm trong tay việc sản xuất hoặc tiêu thụ một hoặc một số loại hàng hoá nào đó nhằm thu
đƣợc lợi nhuận độc quyền cao. Độc quyền sinh ra từ cạnh tranh nhƣng không xóa bỏ
đƣợc cạnh tranh, trái lại, nó làm cho cạnh tranh thêm gay gắt.
- Sự hình thành tập đoàn tư bản tài chính: Tƣ bản tài chính là sự dung hợp hay
xâm nhập lẫn nhau giữa tổ chức độc quyền ngân hàng và tổ chức độc quyền sản xuất
công nghiệp. Tƣ bản tài chính với sức mạnh kinh tế của nó dần dần bao trùm toàn bộ nền
kinh tế. Nó có vai trò rất lớn là thống trị chi phối mọi mặt trong đời sống kinh tế, chính trị
của xã hội tƣ bản cũng nhƣ trong các quan hệ kinh tế quốc tế. Sự thống trị của các tập
đoàn tƣ bản tài chính đƣợc thực hiện bằng nhiều hình thức nhƣ chế độ tham dự, lập công
ty mới, phát hành trái phiếu. Sự thống trị này là cơ sở để thống trị về chính trị, xã hội. Họ
nắm bộ máy nhà nƣớc, biến nó thành công cụ đắc lực cho mục đích của các tập đoàn tƣ
bản tài chính.
- Xuất khẩu tư bản, đầu tư ra nước ngoài: Xuất khẩu tƣ bản là đƣa tƣ bản đầu tƣ ra
nƣớc ngoài nhằm thu đƣợc lợi nhuận cao nhất. Đây là một trong những đặc điểm cơ bản
của chủ nghĩa tƣ bản độc quyền. Xuất khẩu tƣ bản đƣợc thực hiện dƣới hai hình thức chủ
yếu là xây dựng ở nƣớc ngoài những xí nghiệp mới hoặc mua lại những xí nghiệp đang
hoạt động gọi là đầu tƣ trực tiếp. Hình thức khác là cho chính phủ hay tƣ nhân nƣớc
ngoài vay để thu lãi hay gọi là đầu tƣ gián tiếp. Mục đích xuất khẩu tƣ bản là nhằm thu
lợi nhuận độc quyền cao. Vì vây các nhà tƣ bản thƣờng đầu tƣ tƣ bản vào những nƣớc
kém phát triển về kinh tế. Do ở những nƣớc này kém phát triển về kinh tế, giá đất và tiền
lƣơng thấp, nguyên liệu rẻ...
Xuất khẩu tƣ bản có thể do tƣ bản tƣ nhân hoặc do nhà nƣớc tiến hành. Xuất khẩu
tƣ bản tƣ nhân là do các nhà tƣ bản thực hiện và thƣờng đầu tƣ vào những ngành có tốc
độ chu chuyến vốn nhanh lãi xuất lớn. Xuất khẩu tƣ bản nhà nƣớc là nhà nƣớc lấy ngân

Trang 40/136
quỹ của nƣớc mình đầu tƣ vào nƣớc nhập khẩu tƣ bản. Thông thƣờng xuất khẩu tƣ bản
nhà nuớc nhằm vào các lĩnh vực thuộc kết cấu hạ tầng để tạo điều kiện và môi trƣờng cho
tƣ bản tƣ nhân đầu tƣ. Xuất khẩu tƣ bản đem lại cho tƣ bản tài chính một món lợi nhuận
kếch xù trong việc khai thác tài nguyên thiên nhiên và trả công sức lao động rẻ ở các
nƣớc kém phát triển. Xuất khẩu tƣ bản còn tạo cơ sở kinh tế khách quan cho các tập đoàn
tƣ bản tài chính phân chia thị trƣờng thế giới.
- Sự phân chia thị trường thế giới giữa các tổ chức độc quyền: Sau khi các tổ chức
độc quyền phân chia xong thị trƣờng trong nƣớc, tất yếu sẽ mở rộng thị trƣờng ra nƣớc
ngoài. Do cạnh tranh gay gắt để giành thị trƣờng nên họ phải thỏa hiệp với nhau hình
thành các tổ chức độc quyền quốc tế để phân chia thị trƣờng và nguồn nguyên vật liệu.
Sự hình thành các tổ chức độc quyền quốc tế đánh dấu sự tích tụ và tập trung tƣ bản ở
giai đoạn cao hơn. Các tổ chức độc quyền quốc tế có ảnh hƣởng đến tình hình kinh tế và
chính trị của thế giới và đóng vai trò quan trọng trong việc đẩy nhanh quá trình xã hội
hóa sản xuất, làm cho lực lƣợng sản xuất phát triển.
- Sự phân chia lãnh thổ thế giới giữa các cường quốc đế quốc: Do quy luật phát
triển không đồng đều về kinh tế và chính trị nên một số nƣớc đế quốc mạnh hơn đã giành
giật thị trƣờng nƣớc ngoài để loại trừ đối thủ cạnh tranh về tiêu thụ và cung cấp hàng hoá,
nguyên liệu, nơi đầu tƣ. Các nƣớc đế quốc đấu tranh với nhau để phân chia lãnh thổ thế
giới. Các nƣớc đế quốc đi xâm chiếm, biến các nƣớc khác thành thuộc địa của mình.
b. Chủ nghĩa tư bản độc quyền nhà nước
Chủ nghĩa tƣ bản độc quyền nhà nƣớc là sự kết hợp giữa các tổ chức độc quyền và
bộ máy nhà nƣớc thành cơ cấu thống nhất. Trong đó, nhà nƣớc phụ thuộc vào các tổ chức
độc quyền và can thiệp trực tiếp vào quá trình kinh tế, nhằm bảo đảm lợi nhuận độc
quyền cao, củng cố và mở rộng sự thống trị của tƣ bản tài chính, duy trì quan hệ sản xuất
tƣ bản chủ nghĩa.
Nguyên nhân xuất hiện chủ nghĩa tƣ bản độc quyền nhà nƣớc là do tích tụ, tập
trung tƣ bản và sản xuất ở mức độ cao, lực lƣợng sản xuất phát triển mạnh, mang tính xã
hội hóa cao đòi hỏi có sự can thiệp của nhà nƣớc. Do tác động mạnh mẽ của cách mạng
khoa học công nghệ dẫn đến sự thay đổi về cơ cấu và cơ chế kinh tế, nhiều ngành và lĩnh
vực kinh tế mới xuất hiện. Mâu thuẫn của chủ nghĩa đế quốc, hệ thống xã hội chủ nghĩa
và phong trào đấu tranh giải phóng dân tộc phát triển buộc các tổ chức độc quyền phải
nắm nhà nƣớc, biến nó thành công cụ phục vụ cho mình.

Trang 41/136
Sự can thiệp trực tiếp của nhà nƣớc vào kinh tế nhƣ phát triển thị trƣờng trong
nƣớc: thu mua hàng hoá cho các tổ chức độc quyền qua các đơn đặt hàng, can thiệp vào
các quan hệ kinh tế quốc tế nhƣ điều chỉnh ngoại thƣơng, tiền tệ, tín dụng quốc tế, tạo
điều kiện cho tƣ bản độc quyền đầu tƣ ra ngoài. Nhà nƣớc tƣ sản điều tiết vĩ mô nền kinh
tế thông qua các chính sách và công cụ chính sách và chƣơng trình hoá nền kinh tế nhằm
tạo ra những cân đối vĩ mô và định hƣớng sự hoạt động kinh tế theo những mục tiêu đã
định. Nhà nƣớc sử dụng nguồn tài chính của mình để phân phối lại thu nhập quốc dân,
đầu tƣ vào những lĩnh vực cần thiết của nền kinh tế nhƣ phát triển kết cấu hạ tầng, cơ sở
nghiên cứu khoa học, bình ổn thị trƣờng đảm bảo việc tiêu thụ hàng hoá có lợi cho các tổ
chức độc quyền. Nhà nƣớc sử dụng hệ thống tiền tệ - tín dụng nhƣ một công cụ đắc lực
cho việc điều tiết vĩ mô nền kinh tế, sử dụng hệ thống luật pháp và bộ máy nhà nƣớc để
điều tiết nền kinh tế nhằm bảo vệ lợi ích cho các tổ chức độc quyền.
Chủ nghĩa tƣ bản độc quyền nhà nƣớc ở những mức độ nhất định có thể tạm thời
làm dịu bớt sự gay gắt các xung đột, các mâu thuẫn của chủ nghĩa tƣ bản nhƣng không
xoá đƣợc các mâu thuẫn. Về lâu dài, nó có thể làm cho các mâu thuẫn nội tại của chủ
nghĩa tƣ bản phát triển sâu sắc hơn.
2. Vai trò lịch sử của chủ nghĩa tƣ bản
a. Chủ nghĩa tư bản đã tạo ra những nhân tổ thúc đẩy sự phát triển kinh tế
Trong thế kỷ XIX, chủ nghĩa tƣ bản đã tạo ra khối lƣợng hàng hoá khổng lồ, nhiều
hơn tất cả các chế độ trƣớc đó cộng lại, Nó tạo ra sự biến đổi cơ cấu giai cấp-xã hội, sự
phát triển của hai giai cấp tƣ sản và vô sản
- Thực hiện xã hội hoá sản xuất, trong chủ nghĩa tƣ bản, quá trình xã hội hoá sản
xuất đã đạt đƣợc một bƣớc tiến lớn, tới trình độ rất cao, ngày càng phát triển cả về chiều
rộng và chiều sâu.
- Phát triển lực lượng sản xuất, tăng năng suất lao động xã hội. Dƣới tác động của
quy luật giá trị thặng dƣ, quy luật cạnh tranh và quy luật kinh tế khác của cơ chế thị
trƣờng, giai cấp tƣ sản đã tăng cƣờng bóc lột, làm giàu nhanh chóng. Quá trình đó đã tác
động thúc đẩy sự phát triển của lực lƣợng sản xuất, sử dụng tiến bộ của khoa học kỹ thuật
vào sản xuất, tăng năng suất xã hội, thúc đẩy nền sản xuất tƣ bản chủ nghĩa phát triển
mạnh mẽ.
- Chuyển sản xuất nhỏ thành sản xuất lớn hiện đại. Quá trình phát triển của chủ
nghĩa tƣ bản làm cho lực lƣợng sản xuất phát triển nhanh chóng từ sản xuất thủ công đến

Trang 42/136
sản xuất cơ khí lớn, tự động hóa, tin học hóa, công nghiệp hiện đại nhƣ hiện nay. Đó là
quá trình tạo ra công cụ lao động, cơ cấu kinh tế, cơ chế quản lý mới…
b. Chủ nghĩa tư bản đã gây ra những hậu quả nặng nề cho nhân loại
Chủ nghĩa tƣ bản là thủ phạm chính gây ra hai cuộc chiến tranh thế giới đẫm máu
trong thế kỷ XX. Chủ nghĩa tƣ bản gây ra chạy đua vũ trang, ô nhiễm môi trƣờng, ách áp
bức và nô dịch các dân tộc thuộc địa. Chủ nghĩa tƣ bản góp phần trầm trọng thêm nạn
nghèo đói, bệnh tật của hàng trăm triệu ngƣời, nhất là ở những nƣớc chậm phát triển.
Chủ nghĩa tƣ bản ra đời thể hiện rõ tính chất bóc lột dã man của giai cấp tƣ sản
ngay từ khi nó mới ra đời. Với các biện pháp tích lũy ban đầu tàn bạo, xâm lƣợc thuộc
địa, buôn bán nô lệ là nguyên nhân cơ bản nảy sinh những cuộc đấu tranh đầu tiên và
mạnh mẽ sau này của quần chúng nhân dân lao động chống lại giai cấp tƣ sản.
Sự phát triển của quá trình xã hội hóa tạo ra tiền đề vật chất đầy đủ cho cách mạng
vô sản, ra đời của xã hội mới cao hơn. Đảng ta khẳng định, con đƣờng đi lên của nƣớc ta
là sự phát triển quá độ lên chủ nghĩa xã hội bỏ qua chế độ tƣ bản chủ nghĩa, tức là bỏ qua
việc xác lập vị trí thống trị của quan hệ sản xuất và kiến trúc thƣợng tầng tƣ bản chủ
nghĩa, nhƣng tiếp thu, kế thừa những thành tựu mà nhân loại đã đạt đƣợc dƣới chế độ tƣ
bản chủ nghĩa, đặt biệt về khoa học công nghệ để phát triển nhanh lực lƣợng sản xuất,
xây dựng nền kinh tế hiện đại và trình độ quản lý …
CÂU HỎI ÔN TẬP VÀ THẢO LUẬN
1. Phân tích nguồn gốc giá trị thặng dƣ. Qua đó rút ra ý nghĩa của quy luật sản
xuất giá trị thặng dƣ.
2. Phân tích các tiền đề hình thành chủ nghĩa tƣ bản. Qua đó rút ra kết luận gì
về sự ra đời của chủ nghĩa tƣ bản.
3. Phân tích các giai đoạn phát triển của chủ nghĩa tƣ bản và vai trò của nó đối
với xã hội loài ngƣời.
Chủ đề thảo luận số 3: Vai trò lịch sử của Chủ nghĩa tƣ bản và những mâu thuẫn
lớn nội tại?
Chủ đề thảo luận số 4: Vận dụng quan điểm của chủ nghĩa Mác – Lênin về hàng
hóa sức lao động vào việc phỏng vấn xin việc làm ngày nay?

Trang 43/136
Bài 5: ĐẶC TRƢNG VÀ PHƢƠNG HƢỚNG XÂY DỰNG
CHỦ NGHĨA XÃ HỘI Ở VIỆT NAM
Sau khi học xong bài này sinh viên có thể: Trình bày tính tất yếu; các giai đoạn phát
triển chủ nghĩa xã hội; đặc trƣng và phƣơng hƣớng xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt
Nam. Phân biệt đƣợc các giai đoạn phát triển của chủ nghĩa xã hội và vận dụng những
kiến thức đã học góp phần vào công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam hiện
nay. Thừa nhận tính khoa học và có niềm tin vào việc lựa chọn con đƣờng xây dựng chủ
nghĩa xã hội ở Việt Nam hiện nay. Hiểu đƣợc quá trình hình thành giai cấp công nhân và
công đoàn Việt Nam.
I. Tính tất yếu và các giai đoạn của chủ nghĩa xã hội
1. Tính tất yếu của chủ nghĩa xã hội
- Tƣ tƣởng chủ nghĩa xã hội là những tư tưởng phản ánh cuộc đấu tranh của đông
đảo quần chúng lao động bị áp bức chống lại giai cấp thống trị bóc lột nhằm xóa bỏ
hoàn toàn áp bức, bóc lột, bất công, xóa bỏ mọi sự khác biệt giàu nghèo; là những ước
mơ, những lý thuyết dự báo về một xã hội công bằng, bình đẳng, mọi người có cuộc sống
ấm no, tự do, hạnh phúc; phản ánh những con đường đi đến xã hội tốt đẹp ấy. Tƣ tƣởng
chủ nghĩa xã hội nảy sinh, tồn tại và phát triển trên cơ sở xuất hiện chế độ tƣ hữu, chế độ
ngƣời bóc lột ngƣời, gắn liền với sự phân chia giai cấp và đấu tranh giai cấp. Tƣ tƣởng
chủ nghĩa xã hội có quá trình phát triển lâu dài, trải qua các giai đoạn: thời kỳ cổ đại, thời
kỳ trung đại, thời kỳ cận đại (thế kỷ XVI đến đầu thế kỷ XIX). Đặc biệt, những tƣ tƣởng
chủ nghĩa xã hội thế kỷ XIX (gọi là chủ nghĩa xã hội không tƣởng phê phán thế kỷ XIX)
là tiền đề lý luận trực tiếp cho sự ra đời của chủ nghĩa xã hội khoa học.
- Chủ nghĩa xã hội khoa học, đƣợc hiểu theo hai nghĩa. Theo nghĩa rộng là chủ
nghĩa Mác - Lênin, luận giải trên góc độ triết học, kinh tế và chính trị - xã hội về sự
chuyển biến tất yếu của xã hội loài ngƣời từ chủ nghĩa tƣ bản lên chủ nghĩa xã hội và chủ
nghĩa cộng sản. Theo nghĩa hẹp là một bộ phận hợp thành của chủ nghĩa Mác – Lênin.
- Tính tất yếu của CNXH
Chủ nghĩa Mác- Lênin khẳng định xã hội loài ngƣời phát triển tuần tự qua các hình
thái kinh tế - xã hội nhƣ sau: Hình thái kinh tế - xã hội công xã Nguyên thủy, hình thái
kinh tế - xã hội chiếm hữu nô lệ, hình thái kinh tế - xã hội Phong kiến, hình thái kinh tế-
xã hội Tƣ bản chủ nghĩa, hình thái kinh tế - xã hội Cộng sản chủ nghĩa. Mỗi hình thái
kinh tế - xã hội tƣơng ứng với một kiểu quan hệ sản xuất đặc trƣng phù hợp bởi tính chất

Trang 44/136
và trình độ phát triển của lực lƣợng sản xuất và một kiến trúc thƣợng tầng đƣợc xây dựng
trên quan hệ sản xuất đó.
Trong trong hình thài kinh tế tƣ bản chủ nghĩa, lực lượng sản xuất phát triển, đạt
đến trình độ xã hội hóa, mâu thuẫn với quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa dựa trên chế
độ sở hữu tư hữu tư nhân tư bản chủ nghĩa đối với tư liệu sản xuất, đây là mâu thuẫn
kinh tế cơ bản của chủ nghĩa tƣ bản. Tính gay gắt của mâu thuẫn trên lĩnh vực kinh tế,
quy định tính gay gắt ngày càng tăng của mâu thuẫn trên lĩnh vực xã hội, giữa giai cấp tư
sản – làm chủ, sở hữu tư liệu sản xuất, bóc lột sức lao động của công nhân và người lao
động với giai cấp công nhân và nhân dân lao động – không có tư liệu sản xuất, làm thuê,
bị bóc lột sức lao động, đã dẫn đến cuộc đấu tranh của giai cấp nhân và dân lao động
chống lại sự áp bức, bóc lột của giai cấp tư sản. Các cuộc đấu tranh của giai cấp công
nhân nhƣ bãi công, biểu tình đòi tăng lƣơng, đòi quyền dân sinh, dân chủ, cải thiện đời
sống liên tiếp nổ ra từ tự phát đến tự giác.
Dƣới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản, cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa tất yếu sẽ
bùng nổ để thay thế chủ nghĩa tƣ bản và thiết lập chủ nghĩa xã hội. Từ đó, giai cấp công
nhân, nhân dân lao động dƣới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản tiến hành cải tạo xã hội tƣ
bản, xây dựng chủ nghĩa xã hội. Cách mạng xã hội chủ nghĩa là điều kiện để giải phóng
lực lƣợng sản xuất, giải phóng giai cấp công nhân và nhân dân lao động, giải phóng xã
hội loài ngƣời.
Từ sau cách mạng tháng Mƣời Nga năm 1917, một giai đoạn mới, quá độ từ chủ
nghĩa tƣ bản lên chủ nghĩa xã hội trên phạm vi toàn thế giới đã bắt đầu. Các cuộc cách
mạng xã hội ở một loạt nƣớc châu Âu, châu Á và Mỹ la tinh giải phóng hầu hết các thuộc
địa của chủ nghĩa thực dân, mở ra khả năng cho nhiều nƣớc quá độ tiến lên chủ nghĩa xã
hội.
Lãnh tụ Hồ Chí Minh là ngƣời đã đƣa học thuyết chủ nghĩa Mác – Lênin vào Việt
Nam, tìm ra con đƣờng đấu tranh, giải phóng dân tộc, đã khẳng định muốn cứu nƣớc và
giải phóng dân tộc, không có con đƣờng nào khác ngoài con đƣờng cách mạng vô sản.
Chỉ có chủ nghĩa cộng sản mới đem lại cho mọi ngƣời, không phân biệt chủng tộc và
nguồn gốc sự tự do, bình đẳng, bác ái, đoàn kết, ấm no trên quả đất, làm cho mọi ngƣời
có niềm vui, hòa bình, hạnh phúc. Tất cả các dân tộc dù sớm hay muộn đều đi lên chủ
nghĩa xã hội.
2. Các giai đoạn phát triển của chủ nghĩa xã hội

Trang 45/136
a. Thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội
- Tính tất yếu và hai loại hình quá độ lên chủ nghĩa xã hội đƣợc lý giải từ những căn
cứ sau đây:
Thứ nhất: chủ nghĩa tƣ bản và chủ nghĩa xã hội khác nhau về bản chất (hình thức sở
hữu) vì vậy muốn xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội thì phải có một thời kỳ lịch sử
nhất định.
Thứ hai: chủ nghĩa xã hội đƣợc xây dựng trên nền sản xuất đại công nghiệp có trình
độ cao. Quá trình phát triển của chủ nghĩa tƣ bản đã tạo ra cơ sở vật chất kỹ thuật nhất
định chủ nghĩa xã hội, nhƣng muốn cho cơ sở vật chất kỹ thuật đó phục vụ cho chủ nghĩa
xã hội cần có thời gian tổ chức, xắp xếp lại. Đối với những nƣớc chƣa từng tiến hành
công nghiệp hóa-hiện đại hóa thì thời kỳ quá độ là thời kỳ tạo ra những cơ sở vật chất kỹ
thuật để trên đó những nguyên tắc cơ bản của chủ nghĩa xã hội đƣợc xây dựng lên
Thứ ba: Các quan hệ xã hội của chủ nghĩa xã hội không tự nảy sinh trong lòng chủ
nghĩa tƣ bản, chúng là kết quả của quá trình xây dựng và cải tạo chủ nghĩa xã hội. Vì vậy
cũng cần phải có thời gian để xây dựng và phát triển những quan hệ đó
Thứ tƣ: Công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội là một công việc mới mẻ, khó khăn
và phức tạp, phải cần có thời gian để giai cấp công nhân từng bƣớc làm quen với những
công việc đó
- Đặc điểm và thực chất của thời kỳ quá độ từ chủ nghĩa tƣ bản lên chủ nghĩa xã hội
Đặc điểm nổi bật của thời kỳ quá độ là sự tồn tại đan xen giữa cái mới và cái cũ,
giữa xã hội mới và xã hội cũ trên tất cả các lĩnh vực.
Thứ nhất: Kinh tế; là sự tồn tại nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần vận hành
theo cơ chế thị trƣờng, định hƣớng chủ nghĩa xã hội
Thứ hai: Trên lĩnh vực chính trị là sự tồn tại nhiều giai cấp tầng lớp khác nhau và có
lợi ích khác nhau (vừa thống nhất vừa đấu tranh với nhau, mâu thuẫn này chỉ đƣợc giải
quyết trong tiến trình xây dựng chủ nghĩa xã hội)
Thứ ba: Trên lĩnh vực văn hóa-tƣ tƣởng-xã hội; tồn tại nhiều tƣ tƣởng văn hóa khác
nhau. Bên cạnh tƣ tƣởng xã hội chủ nghĩa là chủ nghĩa Mác-Lênin giữ vai trò thống trị
còn tồn tại tƣ tƣởng tƣ sản, tiểu tƣ sản, tâm lý tiểu nông. Bên cạnh văn hóa mới xã hội
chủ nghĩa (tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc) còn những hủ tục lạc hậu
Thực chất của thời kỳ quá độ từ chủ nghĩa tƣ bản lên chủ nghĩa xã hội là thời kỳ
diễn ra cuộc đấu tranh giai cấp giữa giai cấp tƣ sản cùng các thế lực thù nghịch, phản

Trang 46/136
động chống phá con đƣờng đi lên chủ nghĩa xã hội với giai cấp công nhân và quần chúng
nhân dân lao động. Cuộc đấu tranh này diễn ra trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã
hội.
- Nội dung kinh tế, chính trị, văn hóa-xã hội của thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội
Thứ nhất: Nội dung kinh tế; Thực hiện việc xắp xếp, phân bố lại các lực lƣợng sản
xuất hiện có của xã hội; cải tạo quan hệ sản xuất cũ, xây dựng quan hệ sản xuất mới theo
định hƣớng xã hội chủ nghĩa
Đối với những nƣớc chƣa trải qua quá trình công nghiệp hóa tƣ bản chủ nghĩa, tất
yếu phải tiến hành công nghiệp hóa xã hội chủ nghĩa nhằm tạo ra cơ sở vật chất kỹ thuật
của chủ nghĩa xã hội.
Thứ hai trên lĩnh vực chính trị: tiến hành cuộc đấu tranh chống lại các thế lực thù
địch chống phá con đƣờng đi lên chủ nghĩa xã hội, tiến hành xây dựng nền dân chủ xã hội
chủ nghĩa, xây dựng Đảng trong sạch vững mạnh
Thứ ba trên lĩnh vực tƣ tƣởng – văn hóa xã hội: thực hiện tuyên truyền phổ biến
những tƣ tƣởng khoa học và cách mạng của chủ nghĩa Mác-Lênin trong toàn xã hội
Thứ tƣ trên lĩnh vực xã hội: Khắc phục những tệ nạn xã hội do xã hội cũ để lại, từng
bƣớc khắc phục sự chênh lệch phát triển giữa các vùng miền, các tầng lớp dân cƣ trong
xã hội nhằm thực hiện bình đẳng xã hội
b. Giai đoạn xã hội xã hội chủ nghĩa
Xã hội xã hội chủ nghĩa là một xã hội có những đặc trƣng cơ bản sau
Thứ nhất, cơ sở vật chất - kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội (hay xã hội xã hội chủ
nghĩa) là nền sản xuất công nghiệp hiện đại.
Thứ hai, xã hội - xã hội chủ nghĩa đã xoá bỏ chế độ tƣ hữu tƣ bản chủ nghĩa, thiết
lập chế độ công hữu về những tƣ liệu sản xuất chủ yếu
Thứ ba, xã hội - xã hội chủ nghĩa tạo ra cách tổ chức lao động và kỷ luật lao động
mới
Thứ tƣ, xã hội - xã hội chủ nghĩa thực hiện nguyên tắc phân phối theo lao động -
nguyên tắc phân phối cơ bản nhất
Thứ năm, Nhà nƣớc xã hội chủ nghĩa mang bản chất giai cấp công nhân, tính nhân
dân rộng rãi và tính dân tộc sâu sắc; thực hiện quyền lực và lợi ích của nhân dân

Trang 47/136
Thứ sáu, xã hội xã hội chủ nghĩa là chế độ đã giải phóng con ngƣời thoát khỏi áp
bức bóc lột, thực hiện công bằng, bình đẳng, tiến bộ xã hội, tạo những điều kiện cơ bản
để con ngƣời phát triển toàn diện.
c. Giai đoạn cao của chủ nghĩa xã hội – chủ nghĩa cộng sản
Trên cơ sở nghiên cứu quá trình phát triển lực lƣợng sản xuất của xã hội loài ngƣời
Mác đã có những dự báo về sự xuất hiện giai đoạn cao của hình thái kinh tế - xã hội cộng
sản chủ nghĩa (giai đoạn cao của chủ nghĩa cộng sản): lực lƣợng sản xuất phát triển mạnh
ở trình độ cao; năng suất lao động hết sức cao, của cải dồi dào; không còn sự khác biệt
giữa lao động trí óc với lao động chân tay; lao động trở thành nhu cầu; xã hội phân phối
theo nguyên tắc làm theo năng lực hƣởng theo nhu cầu. Về mặt chính trị Mác dự đoán,
những điều kiện kinh tế xã hội cho sự ra đời của nhà nƣớc không còn nữa, nhà nƣớc sẽ tự
tiêu vong, xã hội tự quản lý trên cơ sở đạo đức và danh dự.
II. Xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam
1. Thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam
Đặc điểm thời thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam.
Việt Nam quá độ lên chủ nghĩa xã hội, bỏ qua chế độ tƣ bản, từ một xã hội vốn là
thuộc địa, nửa phong kiến, lực lƣợng sản xuất rất thấp; đất nƣớc trải qua hàng chục năm
chiến tranh, hậu quả để lại còn nặng nề; những tàn dƣ thực dân, phong kiến còn nhiều;
các thế lực thù địch thƣờng xuyên tìm cách phá hoại chế độ xã hội chủ nghĩa và nền độc
lập dân tộc của nhân dân ta. Nhƣng chúng ta cũng có những thuận lợi: chính quyền thuộc
về nhân dân, đất nƣớc đi vào giai đoạn hòa bình xây dựng; dân tộc Việt Nam là một dân
tộc anh hung, có ý chí vƣơn lên mãnh liệt; nhân dân Việt Nam có lòng yêu nƣớc nồng
nàn, cần cù lao động và sáng tạo; chúng ta đã xây dựng đƣợc một số cơ sở vật chất ban
đầu; sự phát triển của khoa học – công nghệ và xu hƣớng hội nhập quốc tế là thời cơ để
đất nƣớc phát triển.
2. Đặc trƣng của chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam
Đi lên chủ nghĩa xã hội là khát vọng của nhân dân ta, là sự lựa chọn đúng đắn của
Đảng Cộng sản Việt Nam và Chủ tịch Hồ Chí Minh, phù hợp với xu thế phát triển của
lịch sử. Chủ nghĩa xã hội mà Việt Nam xây dựng có những đặc trƣng sau đây:
Một là, dân giàu, nƣớc mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh
Hai là, do nhân dân làm chủ

Trang 48/136
Ba là, có nền kinh tế phát triển cao dựa trên lực lƣợng sản xuất hiện đại và quan hệ
sản xuất tiến bộ phù hợp
Bốn là, có nền văn hoá tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc
Năm là, con ngƣời có cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc, có điều kiện phát triển
toàn diện
Sáu là, các dân tộc trong cộng đồng Việt Nam bình đẳng, đoàn kết, tôn trọng và
giúp nhau cùng phát triển
Bảy là, có Nhà nƣớc pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì
nhân dân do Đảng Cộng sản lãnh đạo
Tám là, có quan hệ hữu nghị và hợp tác với nhân dân các nƣớc trên thế giới.
Mục tiêu xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam
Mục tiêu tổng quát khi kết thúc thời kỳ quá độ ở nƣớc ta là xây dựng đƣợc về cơ
bản nền tảng kinh tế của chủ nghĩa xã hội với kiến trúc thƣợng tầng về chính trị, tƣ
tƣởng, văn hoá phù hợp, tạo cơ sở để nƣớc ta trở thành một nƣớc xã hội chủ nghĩa ngày
càng phồn vinh, hạnh phúc.
Mục tiêu cụ thể: Từ nay đến giữa thế kỷ XXI, toàn Đảng, toàn dân ta phải ra sức
phấn đấu xây dựng nƣớc ta trở thành một nƣớc công nghiệp hiện đại, theo định hƣớng xã
hội chủ nghĩa
Phƣơng hƣớng cơ bản xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam
Một là, đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nƣớc gắn với phát triển kinh tế
tri thức, bảo vệ tài nguyên, môi trƣờng.
Hai là, phát triển nền kinh tế thị trƣờng định hƣớng xã hội chủ nghĩa.
Ba là, xây dựng nền văn hoá tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc; xây dựng con ngƣời,
nâng cao đời sống nhân dân, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội.
Bốn là, bảo đảm vững chắc quốc phòng và an ninh quốc gia, trật tự, an toàn xã hội.
Năm là, thực hiện đƣờng lối đối ngoại độc lập, tự chủ, hoà bình, hữu nghị, hợp tác
và phát triển; chủ động và tích cực hội nhập quốc tế.
Sáu là, xây dựng nền dân chủ xã hội chủ nghĩa, thực hiện đại đoàn kết toàn dân tộc,
tăng cƣờng và mở rộng mặt trận dân tộc thống nhất.
Bảy là, xây dựng Nhà nƣớc pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân
dân, vì nhân dân.
Tám là, xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh

Trang 49/136
Trong quá trình thực hiện các phƣơng hƣớng cơ bản, phải đặc biệt chú trọng
nắm vững và giải quyết tốt các mối quan hệ lớn:
Một là, quan hệ giữa đổi mới, ổn định và phát triển
Hai là, giữa đổi mới kinh tế và đổi mới chính trị
Ba là, giữa kinh tế thị trƣờng và định hƣớng xã hội chủ nghĩa
Bốn là, giữa phát triển lực lƣợng sản xuất và xây dựng, hoàn thiện từng bƣớc quan
hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa
Năm là, giữa tăng trƣởng kinh tế và phát triển văn hoá, thực hiện tiến bộ và công
bằng xã hội
Sáu là, giữa xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa
Bảy là, giữa độc lập, tự chủ và hội nhập quốc tế
Tám là, giữa Đảng lãnh đạo, Nhà nƣớc quản lý, nhân dân làm chủ
III. Giai cấp công nhân và công đoàn Việt Nam
1. Giai cấp công nhân Việt Nam
a. Quá trình hình thành và phát triển của giai cấp công nhân Việt Nam
- Sự hình thành giai cấp công nhân Việt Nam
Chính sách khai thác thuộc địa thực dân Pháp đã đƣa lại hệ quả ngoài ý muốn của
chúng. Đó là sự trƣởng thành nhanh chóng cả về số lƣợng và chất lƣợng của giai cấp
công nhân Việt Nam. Ra đời sớm ngày trong thời kỳ khai thác thuộc địa lần thứ nhất của
thực dân Pháp (1897 - 1914), đến trƣớc chiến tranh thế giới thứ nhất, giai cấp công nhân
Việt Nam có số lƣợng khoảng 10 vạn ngƣời.
Sau chiến tranh Thế giới thứ nhất giai cấp công nhân Việt Nam phát triển khá
nhanh. Tính đến năm 1929 lên tới 22 vạn ngƣời, phần lớn sống áp trung ở các trung tâm
kinh tế quan trọng của Pháp là các vùng mỏ, đồn điền cao su, các thành phố lớn nhƣ Hà
Nội, Hải Phòng, Nam Định, Sài Gòn, Chợ Lớn,…
Đa số công nhân Việt Nam xuất thân từ nông dân, số ít từ thợ thủ công, tiểu thƣơng,
tiểu chủ,… Dƣới chế độ thực dân phong kiến, công nhân Việt Nam vừa là nô lệ làm thuê,
vừa là ngƣời dân mất nƣớc, cuộc sống rất cực khổ.
Giai cấp công nhân Việt Nam ra đời trƣớc giai cấp tƣ sản dân tộc. Giai cấp tƣ sản
Việt Nam bị thực dân và tƣ sản Pháp chèn ép. Điều đó làm cho giai cấp công nhân Việt
Nam sớm có ảnh hƣởng rộng lớn trong dân tộc. Trong một nƣớc thuộc địa nửa phong
kiến, bị ba tầng áp bức bóc lột của đế quốc, phong kiến và giai cấp tƣ sản nên giai cấp

Trang 50/136
công nhân Việt Nam sớm có ý thức dân tộc và ý thức giai cấp. Ngay khi mới ra đời, công
nhân đã tham gia cùng các phong trào yêu nƣớc Việt Nam đấu tranh chống Pháp.
Sinh trƣởng trong một nƣớc nông nghiệp lạc hậu, công nghiệp chƣa phát triển, hầu
hết xuất thân từ nông dân, giai cấp công nhân Việt Nam có quan hệ tự nhiên, gắn bó với
nông dân và nhân dân lao động, kế thừa truyền thống tốt đẹp của dân tộc. Đây là cơ sơ
vững chắc cho sự đoàn kết toàn dân tộc.
Từ năm 1919 đến năm 1925, giai cấp công nhân Việt Nam phát triển nhanh hơn về
số lƣợng. Bãi công của công nhân đã liên tiếp nổ ra ở Nam Định, Hà Nội, các đồn điền
miền Đông Nam Bộ... Mốc đánh dấu bƣớc tiến của phong trào công nhân Việt Nam từ
cuộc bãi công của công nhân xƣởng máy Ba Son (8 - 1925) do đồng chí Tôn Đức Thắng
lãnh đạo thắng lợi. Hoạt động tích cực của Hội Việt Nam cách cách mạng thanh niên đã
đƣa phong trào công nhân Việt Nam đi vào thời kỳ đấu tranh tự giác.
Đến năm 1926, cùng với sự lớn mạnh cả về số lƣợng và chất lƣợng của giai cấp
công nhân Việt Nam, đặc biệt là phong trào ''vô sản hóa” của Hội Việt Nam cách cách
mạng thanh niên phát triển mạnh mẽ từ năm 1928 làm cho các tổ chức công hội hình
thành. Chủ nghĩa Mác - Lênin đi vào phong trào công nhân và phong trào yêu nƣớc Việt
Nam dẫn tới ba tổ chức cộng sản đầu tiên của giai cấp công nhân Việt Nam lần lƣợt ra
đời.
Sự phát triển của ba tổ chức cộng sản: Đông Dƣơng Cộng sản đảng (6 - 1929), An
Nam Cộng sản đảng (8 - 1929), Đông Dƣơng Cộng sản liên đoàn (9 - 1929) và đặc biệt là
sự ra đòi Đảng Cộng sản Việt Nam (2 - 1930) đánh dấu một bƣớc ngoặt vĩ đại của cách
mạng Việt Nam, nó khẳng định giai cấp công nhân Việt Nam đã trƣởng thành và đủ sức
lãnh đạo cách mạng
Hơn tám thập kỷ qua, giai cấp công nhân Việt Nam dƣới sự lãnh đạo của Đảng đã
cùng với toàn dân giành đƣợc những thắng lợi vĩ đại, tạo ra những thay đổi có ý nghĩa vô
cùng quan trọng, chƣa từng có trong lịch sử dân tộc. Đó là thắng lợi của Cách mạng
Tháng 8 năm 1945 và việc thành lập Nhà nƣớc Việt Nam dân chủ cộng hoà thắng lợi
oanh liệt của các cuộc chiến tranh giải phóng dân tộc bảo vệ Tổ quốc và thắng lợi trong
công cuộc đối mới, đƣa đất nƣớc bƣớc vào thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại
hóa đất nƣớc.
- Đặc điểm và sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân Việt Nam

Trang 51/136
Giai cấp công nhân Việt Nam là một lực lƣợng xã hội to lớn, đang phát triển, bao
gồm những ngƣời lao động chân tay và trí óc, làm công hƣởng lƣơng trong các loại hình
sản xuất kinh doanh và dịch vụ công nghiệp, hoặc sản xuất kinh doanh và dịch vụ có tính
chất công nghiệp
Đặc điểm chung của giai cấp công nhân là giai cấp tiên tiến nhất vì họ đại biểu cho
lực lƣợng sản xuất tiến bộ, có trình độ xã hội hóa cao. Vì gắn với công nghệ và kỹ thuật
hiện đại, sống tập trung ở đô thị và tiếp cận với điều kiện làm việc công nghiệp nên giai
cấp công nhân có ý thức kỷ luật cao, có sự đoàn kết chặt chẽ và tinh thần cách mạng triệt
để. Giai cấp công nhân còn là lực lƣợng quốc tế nên nó mang trong mình bản chất quốc
tế.
Đặc điểm của giai cấp công nhân Việt Nam là ra đời trƣớc giai cấp tƣ sản dân tộc,
họ bị ba tầng áp bức bóc lột của đế quốc, phong kiến và giai cấp tƣ sản; họ có quan hệ
gắn bó tự nhiên với nông dân; sớm kế thừa và phát huy truyền thống yêu nƣớc, bất khuất
kiên cƣờng của dân tộc. Khi họ vừa ra đời là đã chịu ảnh hƣởng mạnh mẽ của thắng lợi
Cách mạng tháng Mƣời Nga năm 1917 và sự phát triển của chủ nghĩa Mác - Lênin. Điều
đó làm cho đội ngũ giai cấp công nhân Việt Nam sớm có truyền thống đoàn kết, không bị
ảnh hƣởng của chủ nghĩa cơ hội quốc tế II.
Những đặc điểm và hoàn cảnh ra đời đã nêu làm cho giai cấp công nhân Việt Nam
sớm trở thành lực lƣợng chính trị độc lập, tƣ giác trong cả nƣớc và nhanh chóng duy nhất
nắm quyền lãnh đạo cách mạng Việt Nam. “Với lý luận cách mạng tiên phong và kinh
nghiệm của phong trào vô sản quốc tế, giai cấp công nhân ta đã tỏ ra là ngƣời lãnh đạo
xứng đáng nhất và đáng tin cậy nhất của nhân dân Việt Nam''.
Xây dựng giai cấp công nhân nƣớc ta lớn mạnh trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp
hoá, hiện đại hoá đất nƣớc là nhiệm vụ quan trọng và cấp bách của Đảng, Nhà nƣớc, của
cả hệ thống chính trị, của mỗi ngƣời công nhân và của toàn xã hội.
Giai cấp công nhân nƣớc ta có sứ mệnh lịch sử to lớn: là giai cấp lãnh đạo cách
mạng thông qua đội tiền phong là Đảng Cộng sản Việt Nam; giai cấp đại diện cho
phƣơng thức sản xuất tiên tiến; giai cấp tiên phong trong sự nghiệp xây dƣng chủ nghĩa
xã hội, lực lƣợng đi đầu trong sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nƣớc vì mục
tiêu dân giàu, nƣớc mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh; lực lƣợng nòng cốt trong liên
minh giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và tầng lớp trí thức dƣới sự lãnh đạo của
Đảng.

Trang 52/136
b. Những truyền thống tốt đẹp của giai cấp công nhân Việt Nam hiện nay
Ngoài truyền thống tốt đẹp của dân tộc Việt Nam nhƣ yêu nƣớc, đoàn kết nhân
nghĩa, tự lực, tự cƣờng, lao động cần cù, thông minh sáng tạo, giai cấp công nhân Việt
Nam còn có các truyền thống tiêu biểu sau:
- Giai cấp công nhân Việt Nam là trung tâm đoàn kết của toàn dân tộc. Trong mọi
biến cố của lịch sử Việt Nam từ đầu thế kỷ XX đến nay giai cấp công nhân Việt Nam
luôn đứng ở vị trí tiên phong, là trung tâm đoàn kết với nông dân và các tầng lớp lao
động khác. Giai cấp công nhân Việt Nam là ngƣời đại biểu trung thành lợi ích của toàn
thể dân tộc. Lợi ích của giai cấp công nhân cũng chính và lợi ích của giai cấp nông dân,
trí thức và của cả dân tộc. Mục tiêu chung là xây dựng Việt Nam độc lập dân tộc, dân
giàu, nƣớc mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh chính là điểm tƣơng đồng làm cho
giai cấp công nhân đoàn kết toàn dân, “lấy dân làm gốc”, xây dựng và phát huy quyền
làm chủ của nhân dân lao động.
- Giai cấp công nhân Việt Nam sớm giành đƣợc và giữ vai trò lãnh đạo duy nhất của
mình đối với cách mạng. Đầu thế kỷ XIX, giai cấp đại chủ phong kiến Việt Nam đã trở
nên bảo thủ, lạc hậu, không đáp ứng yêu cầu mới của lịch sử. Giai cấp nông dân tuy đông
đảo, có tinh thần độc lập rất cao, nhƣng lao đông thủ công, phân tán nên không đại biểu
cho phƣơng thức sản xuất tiên tiến, họ không có hệ tƣ tƣởng độc lập. Giai cấp tƣ sản dân
tộc và các tầng lớp tiểu tƣ sản Việt Nam yếu kém về kinh tế và chính trị, không đứng
vững qua những thử thách của lịch sử.
Tiếp thu chủ nghĩa Mác - Lênin, giai cấp công nhân Việt Nam có lý luận tiên tiến
dẫn đƣờng, có lãnh tụ thiên tài Hồ Chí Minh, có tổ chức chặt chẽ dƣới sự lãnh đạo của
Đảng nên sớm nắm quyền duy nhất lãnh đạo cách mạng. Từ khi có Đảng, quyền lãnh đạo
duy nhất của giai cấp công nhân Việt Nam đã đƣợc thử thách và ngày càng khẳng định.
Ngày nay, chúng ta kiên quyết không chấp nhận đa nguyên, đa đảng nhƣng luôn luôn mở
rộng dân chủ trong toàn xã hội. Giai cấp công nhân Việt Nam vẫn duy nhất lãnh đạo và đi
tiên phong trong sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa.
- Truyền thống giữ vững độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội. Độc lập dân tộc gắn
liền với chủ nghĩa xã hội là sự lựa chọn khách quan của lịch sử Việt Nam. Các phong trào
yêu nƣớc theo khuynh hƣớng khác đã liên tiếp nổ ra nhƣng tất cả đều thất bại. Đảng Cộng
sản Việt Nam ra đời là kết quả của sự kết hợp chủ nghĩa Mác - Lênin và phong trào công

Trang 53/136
nhân với phong trào yêu nƣớc Việt Nam. Chính vì vậy, Đảng xác định sớm và kiên trì con
đƣờng đấu tranh giành độc lập dân tộc và tiến lên chủ nghĩa xã hội.
Nhờ gắn độc lập dân tộc với chủ nghĩa xã hội, cách mạng nƣớc ta đã vƣợt qua nhiều
gian nan, thử thách và liên tục giành thắng lợi. Nƣớc ta từ một nƣớc thuộc địa, nửa phong
kiến, kinh tế nghèo nàn, lạc hậu, đang đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa theo còn
đƣờng xã hội chủ nghĩa. Sự lựa chọn là hoàn toàn đúng đắn. Giai cấp công nhân Việt
Nam hoàn toàn xứng đáng với vai trò lãnh đạo cách mạng và trách nhiệm trƣớc dân tộc
về sự lựa chọn đó.
Quý trọng, giữ gìn, kế thừa và phát huy truyền thống tốt đẹp của dân tộc và của giai
cấp công nhân Việt Nam là niềm tự hào, là động lực lớn và trách nhiệm của mỗi chúng ta
hôm nay.
c. Quan điểm của Đảng về xây dựng và phát triển giai cấp công nhân
Quan điểm chỉ đạo
Kiên định quan điểm giai cấp công nhân là giai cấp lãnh đạo cách mạng thông qua
đội tiền phong là Đảng Cộng sản Việt Nam; giai cấp đại diện cho phƣơng thức sản xuất
tiên tiến; giai cấp tiên phong trong sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội, lực lƣợng đi đầu
trong sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nƣớc; lực lƣợng nòng cốt trong liên
minh giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và đội ngũ trí thức dƣới sự lãnh đạo của
Đảng. Sự lớn mạnh của giai cấp công nhân là điều kiện tiên quyết bảo đảm thành công
của công cuộc đổi mới, công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nƣớc
Xây dựng giai cấp công nhân lớn mạnh phải gắn bó hữu cơ với xây dựng, phát huy
sức mạnh của liên minh giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và đội ngũ trí thức dƣới
sự lãnh đạo của Đảng, của tất ca các giai cấp, các tầng lớp xã hội trong khối đại đoàn kết
toàn dân tộc - động lực chủ yếu của sự phát triển đất nƣớc, đồng thời tăng cƣờng quan hệ
đoàn kết, hợp tác quốc tế với giai cấp công nhân trên toàn thế giới.
Chiến lƣợc xây dựng giai cấp công nhân lớn mạnh thì phải đoàn kết chặt chẽ với
chiến lƣợc phát triển kinh tế - xã hội, công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nƣớc, hội nhập
quốc tế. Xử lý đúng đán mối quan hệ giữa tăng trƣởng kinh tế với thực hiện tiến bộ và
công bằng xã hội và chăm lo xây dựng giai cấp công nhân; đảm bảo hài hòa lợi ích giữa
công nhân, ngƣời sử dụng lao động, Nhà nƣớc và toàn xã hội; không ngừng nâng cao đời
số vật chất, tinh thần của công nhân, quan tâm giải quyết kịp thời những vấn đề bức xúc,
cấp bách của giai cấp công nhân.

Trang 54/136
Đào tạo bồi dƣỡng, nâng cao trình độ mọi mặt cho công nhân là một nhiệm vụ chiến
lƣợc. Đặc biệt quan tâm xây dựng thế hệ công nhân trẻ có học vấn, chuyên môn và kỹ
năng nghề nghiệp cao, ngang tầm khu vực và quốc tế, có lập trƣờng giai cấp và bản lĩnh
chính trị vững vàng, trở thành bộ phận nòng cốt của giai cấp công nhân.
Xây dựng giai cấp công nhân lớn mạnh là trách nhiệm của cả hệ thống chính trị, của
toàn xã hội và sự nỗ lực vƣơn lên của bản thân mỗi ngƣời công nhân, sự tham gia đóng
góp tích cực của ngƣời sự dụng lao động, trong đó sự lãnh đạo của Đảng và quản lý của
nhà nƣớc có vai trò quyết định, công đoàn có vai trò quan trọng trực tiếp trong việc chăm
lo xây dựng giai cấp công nhân. Xây dựng giai cấp công nhân phải gắn liền với xây dựng
Đảng trong sạch vững mạnh về chính trị, tƣ tƣởng và tổ chức, xây dựng tổ chức công
đoàn, Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh và các tổ chức chính trị - xã hội khác
trong giai cấp công nhân vững mạnh.
- Mục tiêu xây dựng giai cấp công nhân đến năm 2020
Xây dựng giai cấp công nhân lớn mạnh, có giác ngộ giai cấp và bản lĩnh chính trị
vững vàng; có ý thức công dân, yêu nƣớc, yêu chủ nghĩa xã hội, tiêu biểu cho tinh hoa
văn hóa dân tộc; nhạy bén và vững vàng trƣớc những diễn biến phức tạp của tình hình thế
giới và những biến đổi của tình hình trong nƣớc; có tinh thần đoàn kết dân tộc, đoàn kết,
hợp tác quốc tế, thực hiện sứ mệnh lịch sử của giai cấp lãnh đạo cách mạng thông qua đội
tiền phong là Đảng Cộng sản Việt Nam.
Xây dựng giai cấp công nhân lớn mạnh, phát triển nhanh về số lƣợng, nâng cao chất
lƣợng, có cơ cấu đáp ứng yêu cầu phát triển đất nƣớc, ngày càng đƣợc tri thức hóa: có trình
độ học vấn, chuyên môn, kỹ năng nghề nghiệp cao, có khả năng tiếp cận và làm chủ khoa
học - công nghệ tiên tiến, hiện đại trong điều kiện phát triển kinh tế tri thức; thích ứng
nhanh với cơ chế thị trƣờng và hội nhập kinh tế quốc tế, có giác ngộ giai cấp, bản lĩnh
chính trị vững vàng, có tác phong công nghiệp và kỷ luật lao động cao.
Trƣớc mắt, hình thành và triển khai thực hiện chiến lƣợc xây dựng giai cấp công
nhân lớn mạnh gắn với chiến lƣợc phát triển kinh tế- xã hội, công nghiệp hoá, hiện đại
hoá đất nƣớc. Giải quyết có hiệu quả những vấn đề bức xúc, cấp bách của giai cấp công
nhân, tạo đƣợc chuyển biến thật sự mạnh mẽ và rõ rệt trong việc nâng cao đời sống vật
chất, tinh thần của công nhân (về nhà ở tại các khu công nghiệp, tiền lƣơng và thu nhập,
bảo hiểm xã hội, nơi sinh hoạt văn hoá, cơ sở nuôi dạy trẻ…). Xây dựng quan hệ lao
động hài hoà, ổn định, tiến bộ trong các loại hình doanh nghiệp.

Trang 55/136
Có bƣớc tiến về đào tạo, nâng cao trình độ học vấn, chuyên môn, kỹ năng nghề
nghiệp đáp ứng kịp thời yêu cầu phát triển đất nƣớc, nhất là những ngành công nghiệp
mới. Tăng nhanh tỷ lệ lao động qua đào tạo; chú trọng đào tạo nghề cho công nhân từ
nông dân và nữ công nhân.
Nâng cao hơn về giác ngộ giai cấp, bản lĩnh chính trị, hiểu biết pháp luật, tác phong
công nghiệp và kỷ luật lao động, xây dựng lối sống lành mạnh trong công nhân, nhất là
công nhân trẻ. Tăng tỷ lệ đảng viên và cán bộ lãnh đạo, quản lý xuất thân từ công nhân.
Tăng số lƣợng và chất lƣợng cơ sở đảng trong các loại hình doanh nghiệp; sớm thành lập
tổ chức cơ sở đảng ở những doanh nghiệp có đủ điều kiện theo quy định của Điều lệ
Đảng; đổi mới nội dung, phƣơng thức hoạt động của tổ chức đảng tại doanh nghiệp phù
hợp với từng thành phần kinh tế.
- Nhiệm vụ và giải pháp xây dựng giai cấp công nhân Việt Nam thời kỳ đẩy mạnh
công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước
Tiếp tục nghiên cứu tổng kết thực tiễn, phát triển lý luận về giai cấp công nhân
trong điều kiện kinh tế thị trƣờng định hƣớng xã hội chủ nghĩa, đẩy mạnh công nghiệp
hoá, hiện đại hoá đất nƣớc và hội nhập kinh tế quốc tế.
Đẩy mạnh và nâng cao chất lƣợng đào tạo nghề, từng bƣớc trí thức hoá giai cấp
công nhân, để nƣớc ta có một đội ngũ công nhân có trình độ học vấn, chuyên môn, kỹ
năng nghề nghiệp ngày càng cao, có khả năng tiếp thu nhanh và làm chủ công nghệ mới,
nâng cao năng suất lao động, chất lƣợng và hiệu quả sản xuất kinh doanh.
Trƣớc mắt, cần tập trung bổ sung, sửa đổi, xây dựng một số chính sách lớn nhƣ:
chính sách hƣớng nghiệp ở cấp học phổ thông để giúp cho thanh niên, học sinh định
hƣớng đúng đắn việc chọn nghề và hiểu rõ đƣợc ý nghĩa của việc gia nhập đội ngũ công
nhân; tạo điều kiện phát triển đội ngũ công nhân từ có trình độ cao, chuyển một bộ phận
lớn nông dân thành công nhân.
Nhà nƣớc xây dựng chiến lƣợc, quy hoạch phát triển day nghề một cách đồng bộ,
đổi mới hệ thống dạy nghề đáp ứng yêu cầu thị trƣờng lao động trong nƣớc và quốc tế
nhằm đảm bảo sự cân đối ngày trong giáo dục - đào tạo, giữa hệ thống giáo dục - đào tạo
với phát triển kinh tế, giữa đào tạo và sử dụng, đáp ứng có hiệu qủa nguồn lao động có
chất lƣợng cao cho yêu cầu phát triển của nền kinh tế. Tăng cƣờng công tác quản lý nhà
nƣớc về dạy nghề. Làm tốt công tác dự báo nhu cầu lao động theo ngành nghề, cấp trình
độ.

Trang 56/136
Ban hành chính sách khuyến khích mạnh mẽ hơn đối với hoạt động đào tạo nghề,
thu hút mạnh hơn các thành phần kinh tế, tích cực tham gia vào lĩnh vực đào tạo nghề,
bao gồm cả ở trình độ cao. Từng bƣớc thực hiện đổi mới chi ngân sách cho dạy nghề theo
cơ chế đặt hàng, đấu thầu đối với các cơ sở dạy nghề của các thành phần kinh tế, đồng
thời thực hiện tốt hơn cơ chế kiểm định, đánh giá chất lƣợng dạy nghề.
Bổ sung, sửa đổi, xây dựng chính sách đào tạo, đào tạo lại công nhân; có chính sách
khuyến khích, tạo điều kiện cho công nhân tự học tập nâng cao trình độ học vấn, chuyên
môn, kỹ năng nghề nghiệp, ngoại ngữ. Xây dựng, hoàn thiện nội dung chƣơng trình đào
tạo nghề, gắn đào tạo lý thuyết với rèn luyện kỹ năng thực hành, gắn đào tạo nghề với
giáo dục nâng cao nhận thức về chủ nghĩa Mác - Lênin, tƣ tƣởng Hồ Chí Minh, về giai
cấp công nhân và với rèn luyện phẩm chất đạo đức, tác phong và công nghiệp, kỷ luật lao
động. Đƣa vào chƣơng trình đào tạo nghề nội dung học tập pháp luật lao động, Luật
Công đoàn, Luật doanh nghiệp,...
Điều chỉnh, bổ sung, quy hoạch mạng lƣới các cơ sở dạy nghề gắn với các ngành,
các chƣơng trình, dự án lớn, các vùng kinh tế trọng điểm. Ngân sách nhà nƣớc đầu tƣ tập
trung vào dạy nghề cho lao động nông thôn, các vùng miền núi, dân tộc thiểu số và
những ngành nghề đặc thù mà các đơn vị ngoại công lập không đầu tƣ; Nhà nƣớc làm
nòng cốt đồng thời có chính sách để thu hút các thành phần kinh tế, đầu tƣ xây dựng
trƣờng chuẩn, theo chƣơng trình chuẩn, để đào tạo công nhân có trình độ cao cho một số
ngành kinh tế mũi nhọn, yêu cầu kỹ thuật, công nghề hiện đại. Chú trọng đào tạo đồng
bộ, cả ở trong và ngoài nƣớc, đội ngũ giáo viên dạy nghề, cán bộ quản lý là những công
nhân có trình độ cao, để đáp ứng yêu cầu nhân lực của nền kinh tế, nhất là các ngành
công nghiệp mới, hiện đại. Củng cố và mở rộng các trƣờng đào tạo giáo viên dạy nghề
tạo khu vực và trên phạm vi cả nƣớc.
Khuyến khích các doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế hàng năm dành kinh
phí kinh tế thích đáng và thời gian cho đào tạo, đào tạo lại công nhân; đƣợc tính vào giá
trị đầu tƣ và hạch toán vào chi phí sản xuất của doanh nghiệp.
Tăng cƣờng đào tạo lao động đi làm việc ở nƣớc ngoài theo hợp đồng để có đủ điều
kiện về tay nghề, ngoại ngữ, tác phong công nghiệp, ý thức chấp hành kỷ luật lao động;
quy hoạch và phát triển đa dạng các hình thức, các thành phần kinh tế tham gia đƣa lao
động làm việc ở nƣớc ngoài.

Trang 57/136
Quan tâm bồi dƣỡng, nâng cao trình độ chính trị, ý thức giai cấp, tinh thần dân tộc
cho giai cấp công nhân. Cần nâng cao trình độ chính trị, ý thức giai cấp và bản lĩnh chính
trị, ý thức công dân, tinh thần dân tộc, gắn bó thiết tha với sự nghiệp cách mạng của
Đảng, của dân tộc, với chế độ xã hội chủ nghĩa, ý chí vƣơn lên thoát khỏi nghèo nàn, lạc
hậu, tinh thần xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, tinh thần phấn đấu vƣơn lên ngang tầm thời
đại trong điều kiện phát triển kinh tế tri thức và hội nhập kinh tế quốc tế, quyết tâm chiến
thắng trong cạnh tranh, tinh thần đấu tranh xây dựng, tác phong công nghiệp và kỷ luật
lao động, lƣơng tâm nghề nghiệp,... cho công nhân.
Tăng cƣờng sự lãnh đạo của các cấp uỷ đảng và hoạt động của tổ chức công đoàn,
Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh đối với công tác tuyên truyền, giáo dục trong
công nhân.
Nhà nƣớc đầu tƣ và có chính sách ƣu đãi, khuyến khích các doanh nghiệp đầu tƣ
(đƣợc tính vào giá trị đầu tƣ và hạch toán vào chi phí sản xuất) xây dựng và hoạt động
của các nhà văn hoá lao động, nhà văn hoá thanh niên, câu lạc bộ công nhân, hệ thống
truyền thông đại chúng, nơi sinh hoạt của tổ chức đảng, công đoàn, thanh niên, phụ nữ ở
các khu công nghiệp tập trung.
Bổ sung, sửa đổi, xây dựng và thực hiện nghiêm hệ thống chính sách, pháp luật để
đảm bảo quyền, lợi ích hợp pháp, chính đáng của công nhân; chăm lo đời sống vật chất,
tinh thần cho công nhân. Rà soát, bổ sung, sửa đổi, xây dựng các chính sách, pháp luật về
lao động, việc làm và đời sống vật chất, tinh thần, nâng cao thể chất cho công nhân; tập
trung trƣớc hết vào những chính sách liên quan trực tiếp đến những vấn đề bức xúc đang
đặt ra đề việc làm và đời sống của công nhân.
Bổ sung, sửa đổi, xây dựng các chính sách để phát huy các nguồn lực và sách nhiệm
của cả Nhà nƣớc, ngƣời sử dụng lao động, các tổ chức chính trị - xã hội, của toàn xã hội
và của công nhân trong việc chăm lo cải thiện đời sống vật chất, tinh thần cho công nhân
tƣơng xứng với năng suất lao động và những đóng góp của công nhân. Nhà nƣớc có
chính sách đầu tƣ cho các tỉnh, thành phố để xây dựng nhà ở và các công trình phúc lợi
công cộng cho công nhân.
Đề cao trách nhiệm của ngƣời sử dụng lao động trong việc chăm lo lợi ích, đời sống
vật chất, tinh thần cho công nhân; tính tự giác của ngƣời sử dụng lao động và của công
nhân trong thực hiện chính sách, pháp luật. Đồng thời tăng cƣờng công tác kiểm tra, giám

Trang 58/136
sát của Nhà nƣớc, tổ chức công đoàn và các tổ chức chính trị - xã hội khác trong doanh
nghiệp; có chế tài xử lý nghiêm các tổ chức và cá nhân vi phạm.
Trƣớc mắt, tập trung bổ sung, xây dựng một số chính sách lớn nhƣ: Bổ sung, sửa
đổi để bảo đảo thực hiện nghiêm các quy định về ký hợp đồng lao động và thoả ƣớc lao
động tập thể đối với tất cả các doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế.
Bổ sung, sửa đổi, nâng cao tính khả thi của các chính sách, pháp luật để cải thiện
điều kiện lao động, bảo hộ lao động, phòng chống có hiệu quả tai nạn lao động và bệnh
nghề nghiệp, tăng cƣờng chăm sóc sức khỏe công nhân, nhất là đối với công nhân nữ,
những công nhân làm việc nặng nhọc, độc hại, nguy hiểm. Nhà nƣớc tăng cƣờng đầu tƣ
phát triển và nâng cao chất lƣợng công tác khám, chữa bệnh của các cơ sở y tế nhất là ở
những nơi có đông công nhân.
Nghiên cứu ban hành Luật Tiền lương tối thiểu, nâng lƣơng tối thiểu đối với khu
vực sản xuất kinh doanh; quy định các nguyên tắc xây dựng thang lƣơng, bảng lƣơng để
ngƣời lao động và ngƣời sử dụng lao động có cơ sở xác định tiền lƣơng hợp lý đồng thời
tăng cƣờng công tác kiểm tra, thanh tra của Nhà nƣớc để đảm bảo quyền lợi của ngƣời
lao động; nâng cao năng lực quản lý lao động, tổ chức tiền lƣơng, nhất là công tác định
mức lao động trong các doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế. Bổ sung, sửa đổi,
xây dựng và thực hiện tất các chính sách bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế bảo hiểm thất
nghiệp và các chính sách an sinh xã hội khác. Bổ sung hoàn thiện thêm chính sách cho
nghỉ hƣu sớm đối với công nhân một số nghề nặng nhọc, độc hại, nguy hiểm.
Ban hành chính sách khuyến khích các doanh nghiệp và các thành phần kinh tế đầu
tƣ xây dựng nhà ở cho công nhân, nhất là tại có khu công nghiệp trên cơ sở quy hoạch
của Nhà nƣớc. Quy định phát triển khu công nghiệp phải đi liền với phát triển khu đô thị
mới và các công trình phúc lợi công cộng, trong đó có khu nhà ở cho công nhân. Có
chính sách về nhà ở cho công nhân thuê hoặc mua trả dần phù hợp và thu nhập thực tế
của công nhân. Nhà nƣớc đầu tƣ xây dựng nhà ở và các công trình phúc lợi công cộng
phục vụ lâu dài cho công nhân diện thu nhập thấp ; các doanh nghiệp đầu tƣ xây dựng
nhà ở cho công nhân đƣợc tính vào giá trị đầu tƣ và hạch toán vào chi phí sản xuất.
Ban hành quy định pháp luật và thực hiện Quy chế dân chủ ở cơ sở trong các doanh
nghiệp của tƣ nhân và doanh nghiệp có vốn đầu tƣ nƣớc ngoài; tăng cƣờng cơ chế đối
thoại, thƣơng lƣợng giữa ngƣời sử dụng lao động và ngƣời lao động. Quy định rõ quyền,

Trang 59/136
trách nhiệm của ngƣời sử dụng lao động và công nhân trong xây dựng quan hệ lao động
và công nhân trong xây dựng quan hệ lao động hài hòa, ổn định, tiến bộ.
Có chính sách tôn vinh thích đáng những ngƣời lao động giỏi, cả lao động chân tay
và lao động trí óc, có nhiều cống hiến cho sự phát triển của doanh nghiệp và xã hội; bổ
sung chính sách về thi đua và khen thƣởng trong các doanh nghiệp thuộc mọi thành phần
kinh tế.
Sớm hoàn thiện chính sách bán cổ phần cho công nhân khi cổ phần hoá doanh
nghiệp nhà nƣớc, để công nhân phát huy quyền làm chủ, gắn bó lâu dài với doanh nghiệp.
Nghiên cứu chính sách khuyến khích doanh nghiệp của tƣ nhân và doanh nghiệp có vốn
đầu tƣ nƣớc ngoài bán cổ phần cho công nhân.
Tổ chức thực hiện tốt pháp luật lao động; đổi mới, nâng cao hiệu lực quản lý nhà
nƣớc về lao động trong các doanh nghiệp. Bổ sung, hoàn thiện cơ chế phối hợp nữa Nhà
nƣớc, chủ doanh nghiệp, công đoàn để giải quyết tranh chấp lao động và xây dựng quan
hệ lao động hài hoà, ổn định, tiến bộ. Nghiên cứu sửa đổi, bổ sung, hoàn thiện pháp luật
về quan hệ lao động để giải quyết vấn đề tranh chấp lao động. Thực hiện đúng trách
nhiệm của các cấp chính quyền ở địa phƣơng theo luật định đối với các cuộc đình công
của công nhân trên địa bàn. Tăng cƣờng công tác kiểm tra, giám sát việc thực hiện chính
sách, pháp luật lao động. Bổ sung các chế tài xử lý nghiêm những tổ chức, cá nhân vi
phạm chính sách, pháp luật lao động. Có biện pháp hữu hiệu bảo vệ quyền và lợi ích của
ngƣời lao động khi làm việc ở nƣớc ngoài.
Tăng cƣờng sự lãnh đạo của Đảng, phát huy vai trò của tổ chức công đoàn và các tổ
chức chính trị và xã hội khác trong xây dựng giai cấp công nhân. Tăng cƣờng sự lãnh dạo
của các cấp uỷ đảng trong xây dựng giai cấp công nhân. Chú ý hơn nữa công tác bồi
dƣỡng, phát triển đảng trong công nhân. Có cơ chế, chính sách đẩy mạnh việc tuyển chọn,
đào tạo, bồi dƣỡng, sử dụng những cán bộ ƣu tú xuất thân từ công nhân, nhất là công nhân
trực tiếp sản xuất, tăng dần tỷ lệ cán bộ xuất thân từ công nhân trong bộ máy lãnh đạo các
cấp của Đảng, Nhà nƣớc, công đoàn và các tổ chức chính trị - xã hội khác.
Chú trọng công tác đào tạo, bồi dƣỡng, sử dụng và tạo cơ hội phát triển cho những
cán bộ công đoàn trẻ, cán bộ thanh niên có năng lực, trình độ và phẩm chất đạo đức tất
xuất thân từ công nhân. Tiếp tục đổi mới, chỉnh đốn Đảng, nâng cao năng lực lãnh đạo và
sức chiến đấu của tổ chức cơ sở đảng trong các doanh nghiệp. Đẩy mạnh bồi dƣỡng phát
triển đảng trong các trƣờng phổ thông, trƣờng đại học, cao đẳng, các trƣờng đào tạo nghề

Trang 60/136
và trong công nhân, chú trọng phát triển đảng ở những doanh nghiệp không có hoặc còn
ít đảng viên để tạo nguồn thành lập tổ chức cơ sở đảng trong phần lớn các doanh nghiệp.
Có chính sách động viên về vật chất; khuyến khích về tinh thần đối với đội ngũ cán
bộ đảng ở doanh nghiệp. Có nhiều hình thức tăng cƣờng và phát triển đảng viên tại các
doanh nghiệp của tƣ nhân và doanh nghiệp có vốn đầu tƣ nƣớc ngoài, làm nòng cất xây
dựng tổ chức cơ sở đảng, công đoàn, Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh và Hội
liên hiệp Thanh niên Việt Nam.
Đẩy mạnh phát triển đoàn viên và tổ chức công đoàn, Đoàn Thanh niên Cộng sản
Hồ Chí Minh và Hội Liên hiệp Thanh niên Việt Nam trong các loại hình doanh nghiệp.
Củng cố, đổi mới phƣơng thức hoạt động và nâng cao chất lƣợng các tổ chức cơ sở đã có,
sớm thành lập tổ chức cơ sở tại doanh nghiệp có đủ điều kiện theo quy định của pháp luật
và điều lệ của các tổ chức đó; tăng số lƣợng và chất lƣợng của các tổ chức này tại các loại
hình doanh nghiệp, nhất là những doanh nghiệp có đông công nhân.
Đổi mới và nâng cao chất lƣợng hoạt động của tổ chức Đoàn Thanh niên Cộng sản
Hồ Chí Minh và Hội liên hiệp Thanh niên Việt Nam trong các doanh nghiệp. Đổi mới nội
dung và phƣơng thức, nâng cao chất lƣơng hoạt động của tổ chức Đoàn Thanh niên Cộng
sản Hồ Chí Minh và Hội Liên hiệp Thanh niên Việt Nam trong các doanh nghiệp nhà
nƣớc. Đổi mới nội dung, phƣơng thức hoạt động, đa dạng hoá các loại hình thức tâp hợp,
vận động thanh niên làm việc trong các doanh nghiệp tƣ nhân và các doanh nghiệp có
vốn đầu tƣ nƣớc ngoài tham gia hoạt động Đoàn và Hội.
Hoạt động Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh và Hội Liên hiệp Thanh niên
Việt Nam trong các doanh nghiệp cần tập trung vào việc tạo điều kiện, ngừng nâng cao
trình độ học vấn, chuyên ngôn và kỹ năng nghề nghiệp, cổ vũ và khơi dậy tiềm năng sáng
tạo trong thanh niên công nhân; thƣờng xuyên nắm bắt tâm tƣ, nguyện vọng để phối hợp
với tổ chức công đoàn bảo vệ có hiệu quả quyền và lợi ích, tƣ vấn, hỗ trợ về mặt pháp lý
và bảo vệ thanh niên công nhân khi quyền và lợi ích hợp pháp chính đáng bị xâm phạm.
2. Công đoàn Việt Nam
a. Sự ra đời và vai trò của công đoàn Việt Nam
- Sự thành lập Công hội đỏ Bắc Kỳ (28/7/ 1929)
Từ khi tham gia Đảng Xã hội Pháp (1918). Nguyễn Ái Quốc đã đi đến kết luận cần
phải các tổ chức công đoàn ở các nƣớc thuộc địa. Khi về Trung Quốc hoạt động tổ chức
ra Hội Viêt nam cách mang thanh niên (6/1925), Ngƣời đã tổ chức nhiều lớp huấn luyện

Trang 61/136
đƣa chủ nghĩa Mác - Lênin vào phong trào công nhân Việt Nam. Sau đó, tại nhiều trung
tâm công nghiệp, khu mỏ, các chi bộ Thanh niên đã thành lợp ra các tổ chức công hội.
Cuộc bãi công của công nhân xƣởng máy Ba Son (8/1925) thắng lợi. Các sự kiện đó đánh
dấu bƣớc trƣởng thành của giai cấp công nhân Việt Nam.
Đến năm 1929, hoạt động tích cực của ba tổ chức công sản đã thúc đẩy phong trào
công nhân phát triển. Tổ chức công hội phát triển mạnh mẽ ở ba miền, nhất là ở miền Bắc
đã hình thành hệ thống công hội từ cơ sở đến các tỉnh, thành phố.
Trƣớc tình hình đó, Đông Dƣơng Cộng sản Đảng đã ra quyết định triệu tập Đại hội
để thành lập Công hội đỏ ở Bắc Kỳ. Ngày 28 tháng 7 năm 1929, tại số nhà 15 phố Hàng
Nón, Hà Nội, Đại hội đã họp thành lập Tổng Công hội đỏ, thông qua chƣơng trình, Điều
lệ, bầu ra Ban chấp hành lâm thời do đồng chí Nguyễn Đức Cảnh đứng đầu, ra Báo Lao
động và tạp chí Công hội đỏ (số đầu tiên ra ngày 14/ 8/ 1929).
Đại hội thành lập Tổng Công hội đó có ý nghĩa làịch sử to lớn, đáp ứng yêu cầu bức
thiết cả về lý luận và thực tiễn và đánh đấu bƣớc trƣởng thành của giai cấp công nhân Việt
Nam. Lần đầu tiên giai cấp công nhân Việt Nam có một đoàn thể cách mạnh lãnh đạo.
Đƣợc Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo, Tổng Công hội đỏ, nay là Tổng Liên đoàn
lao động Việt Nam đã vận động quần chúng đấu tranh góp phần cùng dân tộc giành thắng lợi
cách mạng tháng Tám năm 1945, thắng lợi trong các cuộc chiến tranh giữ nƣớc và giải
phóng dân tộc và góp phần thực hiện thắng lợi công cuộc đổi mới đất nƣớc.
- Vai trò và tính chất của công đoàn Việt Nam
Công đoàn là tổ chức chính trị - xã hội rộng lớn của giai cấp công nhân và của
ngƣời lao động, đƣợc thành lập trên cơ sở tự nguyện, là thành viên trong hệ thống chính
trị của xã hội Việt Nam, dƣới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam; đại diện cho cán
bộ, công chức, viên chức, công nhân và những ngƣời lao động khác (sau đây gọi chung là
ngƣời lao động), cùng với cơ quan nhà nƣớc, tổ chức kinh tế, tổ chức xã hội chăm lo và
bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp, chính đáng của ngƣời lao động; tham gia quản lý nhà
nƣớc, quản lý kinh tế - xã hội, tham gia thanh tra, kiểm tra, giám sát hoạt động của cơ
quan nhà nƣớc, tổ chức, đơn vị, doanh nghiệp; tuyên truyền, vận động ngƣời lao động
học tập nâng cao trình độ, kỹ năng nghề nghiệp, chấp hành pháp luật, xây dựng và bảo vệ
Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.
Công đoàn là tổ chức chínhtrị - xã hội rộng lớn của giai cấp công nhân và của
người lao động Việt Nam.

Trang 62/136
Công đoàn Việt Nam là một thành viên quan trọng trong hệ thống chính trị, là
trƣờng học chủ nghĩa xã hội của ngƣời lao động, trung tâm tập hợp, đoàn kết, giáo dục,
rèn luyện đội ngũ công nhân, viên chức và lao động, là chỗ dựa vững chắc của Đảng, là
sợi dây nối liền giữa đảng với quần chúng.
Công đoàn phải tổ chức thƣờng xuyên cho quần chúng góp ý xây dựng Đảng, giới
thiệu những đoàn viên ƣu tú cho đảng, tuyên truyền, phổ biến và tố chức thực hiện chủ
trƣơng, đƣờng lối của Đảng đến với đoàn viên công đoàn, nắm vững tâm tƣ, nguyện
vọng. những bức xúc của quần chúng công nhân viên chức, lao động để phản ánh với
Đảng đáp ứng yêu cầu, nguyện vọng chính đáng của quần chúng công nhân.
Công đoàn Việt Nam là ngƣời công tác đắc lực của Nhà nƣớc đƣợc Hiến pháp và
pháp luật của nƣớc Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam và toàn thể công nhân, viên
chức, lao động thừa nhận.
Công đoàn là trƣờng học kinh tế, trƣờng học quản lý, trƣờng học giáo giáo dục chủ
nghĩa xã hội: Là nơi vận động công nhân, viên chức và lao động tích cực tham gia sản xuất,
kinh doanh. Là ngƣời đại diện, ngƣời tổ chức cho công nhân, viên chức lao động trực tiếp
tham gia quản lý sản xuất, quản lý xí nghiệp và quản lý xã hội. Là nơi giáo dục phẩm chất
cách mạng, thế giới quan khoa học sự vững vàng về chính trị, tƣ tƣởng; sống và làm việc
theo Hiến pháp và pháp luật, có lối sống văn hóa, hƣớng thiện, có sức khỏe…
Trong công cuộc đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước hiện nay, vai
trò của tổ chức công đoàn Việt Nam ngày càng quan trọng.
Góp phần giáo dục công nhân lấy phát triển kinh tế là nhiệm vụ trọng tâm; xây
dựng và hoàn thiện kinh tế thị trƣờng, đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa, gắn với
kinh tế tri thức, chủ động hội nhập quốc tế. Góp phần đẩy mạnh công tác tuyên truyền
giáo dục chính trị trong công nhân viên chức và lao động, phát huy những truyền thống
văn hóa tốt đẹp của dân tộc, tiếp thu tinh hoa văn hóa của nhân loại, góp phần xây dựng
nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc.
Có trách nhiệm to lớn góp phần vào củng cố và phát huy khối đại đoàn kết dân tộc,
giữ vững ổn định chính trị, xã hội, tăng cƣờng mối quan hệ mật thiết giữa Đảng với
ngƣời lao động, phát huy cao nhất quyền là chủ đất nƣớc của công nhân, viên chức và lao
động; giữ vững mối quan hệ giữa Đảng, Nhà nƣớc với công nhân; nắm vững hai nhiệm
vụ chiến lƣợc là xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa.

Trang 63/136
Góp phần xây dựng giai cấp công nhân vững mạnh cả về số lƣợng và chất lƣợng,
thực sự là lực lƣợng nòng cốt của khối liên minh công nông, trí thức, đi đầu trong việc
thực hiện các chính sách xã hội.
Dƣới chủ nghĩa xã hội, công đoàn có ba chức năng chủ yếu:
Một là, chăm lo, bảo vệ lợi ích của ngƣời lao động. Công đoàn tham gia ý kiến
trong lĩnh vực tiền lƣơng, tiền thƣởng, phân phối, sử dụng quỹ phúc lợi tập thể; hƣớng
dẫn giúp đỡ công nhân, lao động ký kết hợp đồng, thỏa ƣớc lao động tập thể; giải quyết
tranh chấp lao động; kiểm tra giám sát việc thực hiện các chính sách và điều kiện là việc
cho ngƣời lao động.
Hai là, chức năng tham gia quản lý. Công đoàn tham gia quản lý là: tổ chức phong
trào thi đua lao động giỏi trong công nhân viên chức và lao động; tham gia cùng chính
quyền tìm việc làm và tạo điều kiện làm việc cho công nhân, lao động; tham gia xét duyệt
tiền lƣơng, tiền thƣởng, nhà ở; tham gia giải quyết khiếu nại, tố cáo của công nhân, viên
chức và lao động; tham gia xây dựng các chính sách xã hội; bảo hiểm xã hội, bảo hiểm
lao động, chính sách dân số kế hoạch hóa gia đình, phong trào đền ơn đáp nghĩa, cứu trợ
xã hội.
Ba là, chức năng giáo dục: Thông qua hoạt động thực tiễn công đoàn thực hiện chức
năng giáo dục, giáo dục chính trị, tƣ tƣởng để công nhân viên chức và lao động nhận thức
đƣợc lợi ích của họ gắn với lợi ích tập thể, lợi ích của xã hội; vững tin vào con đƣờng xã
hội chủ nghĩa, vào chủ nghĩa Mác - Lênin, tƣ tƣởng Hồ Chí Minh và đƣờng lối đổi mới
của Đảng; giáo dục truyền thống cách mạng của dân tộc, của địa phƣơng, của cơ quan, xí
nghiệp.
Công đoàn Việt Nam có tính giai cấp và tính quần chúng
Tính chất giai cấp của Công đoàn Việt Nam thể hiện ở giai cấp công nhân Việt
Nam là cơ sở xã hội đề hình thành tồn tại và phát triển tổ chức công đoàn. Công đoàn đặt
dƣới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, đội tiên phong của giai cấp công nhân
Công đoàn hoạt động nhằm thực hiện mục tiêu chính trị của Đảng và hoàn thành sứ mệnh
lịch sứ của giai cấp công nhân Việt Nam. Tổ chức, hoạt động của công đoàn theo là
nguyên tắc tập trung dân chủ.
Tính chất quần chúng của Công đoàn Việt Nam thể hiện ở Công đoàn kết nạp tất cả
công nhân, viên chức và lao động vào tổ chức mình, không phân biệt nghề nghiệp, tín
ngƣỡng, thành phần kinh tế. Cơ quan lãnh đạo của Công đoàn Việt Nam do đoàn viên tín

Trang 64/136
nhiệm bầu ra qua các kỳ đại hội, cán bộ công đoàn đều trƣởng thành từ phong trào quần
chúng. Nội dung hoạt động của công đoàn đáp ứng yêu cầu nguyện vọng của công nhân,
viên chức và lao động và vị lợi ích của đông đảo công nhân, viên chức và lao động
Tính giai cấp và tính quần chúng của công đoàn có quan hê gắn bó mật thiết phản
ánh bản chất và quyết định sự tồn tại, phát triển của Công đoàn.
Hệ thống tổ chức Công đoàn theo các cấp: Tổng Liên đoàn lao động Việt Nam là
cơ quan lãnh đạo của các cấp công đoàn: Liên đoàn lao động tỉnh, thành phố trực thuộc
Trung ƣơng, Liên đoàn lao động huyện, quận, thị xã, thành phố (thuộc tỉnh), Công đoàn
ngành trung ƣơng; Công đoàn cấp trên cơ sở; Công đoàn cơ sở.
Công đoàn hoạt động theo nguyên tắc tập trung dân chủ, đảm bảo sự lãnh đạo của
Đảng: Liên hệ mật thiết với quần chúng; đảm bảo tính tự nguyện của của quần chúng.
Phƣơng pháp hoạt động công đoàn chủ yếu là thuyết phục, tổ chức hoạt động; xây dựng
quy chế và hoạt động công đoàn theo quy chế
b. Phƣơng hƣớng phát triển Công đoàn trong thời kỳ công nghiệp hoá, hiện đại
hoá
- Xây dựng tổ chức công đoàn lớn mạnh, phát huy vai trò của công đoàn trong
xây dựng giai cấp công nhân
Đổi mới mạnh mẽ nội dung, phƣơng thức hoạt động của tổ chức công đoàn các cấp.
Nghiên cứu việc qui định cơ cấu đại diện công đoàn vào thƣờng vụ cấp ủy ở những nơi
có nhiều khu công nghiệp, đông công nhân. Các cấp công đoàn cần hƣớng mạnh hoạt
động về cơ sở, lấy cơ sở làm địa bàn hoạt động chủ yếu, lấy công nhân, viên chức, lao
động làm đối tƣơng vận động, lấy chăm lo bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp, chính đáng
của công nhân, viên chức, ngƣời lao động, xây dựng quan hệ lao động hài hòa, ổn định,
tiến bộ, góp phần thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội làm mục tiêu hoạt động.
Công đoàn cần tăng cƣờng hơn nữa công tác tuyên truyền, giáo dục nâng cao giác
ngộ giai cấp, bản lĩnh chính trị, ý thức tự lực, tự cƣờng, tinh thần cảnh giác cách mạng,
kiên định con đƣờng xã hội chủ nghĩa cho công nhân; tập hợp trí tuệ của công nhân để
tham gia xây dựng, bổ sung, sử đổi và thực hiện chính sách, pháp luật.
Chú trọng đào tạo, bồi dƣỡng cán bộ công đoàn cơ sở, nhất là chủ tịch công đoàn cơ
sở ở doanh nghiệp tƣ nhân và doanh nhiệp có vốn đầu tƣ của nƣớc ngoài, về trình độ
chính trị, hiểu biết chính sách, pháp luật lao động và kỹ năng công tác.

Trang 65/136
Sớm sửa đổi, bổ sung Luật Công đoàn để phù hợp, tƣơng thích với các quy định của
Hiến pháp, Bộ luật Lao động, Luật Doanh nghiệp và các văn bản pháp luật có liên quan;
xác định rõ vị trí, chức năng, quyền và cơ chế đảm bảo để công đoàn thực hiện tốt chức
năng trong thời kỳ mới. Việc thu kinh phí công đoàn tại doanh nghiệp thuộc các thành
phần kinh tế thực hiện theo quy định của Luật Công đoàn và của Chính phủ; sử dụng cho
việc đào tạo, bồi dƣỡng, nâng cao trình độ chính trị, chuyên môn, sinh họat văn hóa, thi
đua, khen thƣởng, phúc lợi xã hội và các hoạt động khác của công nhân tại chính doanh
nghiệp đó, kể cả việc trả lƣơng hoặc phụ cấp lƣơng cho cán bộ công đoàn tại doanh
nghiệp.
Đổi mới nội dung, phƣơng thức và nâng cao chất lƣợng đào tạo cán bộ nòng cốt.
Củng cố, nâng cao chất lƣợng dạy và học của các trƣờng Cao đẳng và Đại học. Tăng
cƣờng và mở rộng quan hệ đoàn kết, hợp tác quốc tế với giai cấp công nhân và công đoàn
các nƣớc trên thế giới.
- Đổi mới và mạnh mẽ tổ chức, nội dung của phương thức hoạt động của tổ
chức công đoàn tại các doanh nghiệp
Không ngừng nâng cao chất lƣợng, hiệu quả hoạt động của công đoàn cơ sở, để
công đoàn thực sự là chỗ dựa vững chắc của công nhân tại doanh nghiệp thuộc mọi thành
phần kinh tế, có sức hấp dẫn đối với ngƣời lao động và tạo đƣợc sự đồng tình, ủng hộ của
ngƣời sử dụng lao động.
Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam phối hợp chặt chẽ với Tổng Liên đoàn Loa động
Việt Nam để nâng cao hiệu quả công tác nữ công của công đoàn tại các doanh nghiệp và
khu công nghiệp. Sớm bổ sung cơ chế, chính sách bảo vệ cán bộ công đoàn cơ sở và chế
độ phụ cấp trách nhiệm cho cán bộ công đòan cơ sở.
Trong bối cảnh mối của sự nghiệp đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa và chủ
động hội nhập kinh tế quốc tế, mỗi ngƣời công nhân và lao động không ngừng nâng cao
giác ngộ và bản lĩnh chính trị, không ngừng nâng cao trình đọ học vấn và nghề nghiệp,
trình độ ngoại ngữ, nâng cao năng lực ứng dụng và sáng tạo công nghệ mới, lao động đạt
năng suất, chất lƣợng và hiệu quả ngày càng cao, xứng đáng là lực lƣợng tiên phong, đi
đầu thực hiện sứ mệnh xây dựng đất nƣớc Việt Nam dân giàu, nƣớc mạnh, xã hội công
bằng, dân chủ, văn minh.

Trang 66/136
CÂU HỎI ÔN TẬP VÀ THẢO LUẬN
1. Trình bày tính tất yếu của CNXH?
2. Trình bày các giai đoạn phát triển của CNXH?
3.Trình bày những đặc điểm thời kỳ quá độ lên CNXH ở Việt Nam?
4.Trình bày đặc trƣng của CNXH và đặc trƣng của CNXH ở Việt Nam?
5. Trình bày phƣơng hƣớng cơ bản xây dựng CNXH ở ViệtNam?
Chủ đề thảo luận số 5: Ở Việt Nam hiện nay có những thành phần kinh tế nào, hãy
nêu tên các thành thành kinh tế đó, các thành phần kinh tế tồn tại dƣới những hình thức
nào?
Chủ đề thảo luận số 6: Hssv hãy tìm hiểu Doanh nghiệp (nơi bạn đã đến tham quan,
hoặc đi thực tập, hoặc một doanh nghiệp mà bạn biết) về triết lý kinh doanh và những yêu
cầu đặt ra của doanh nghiệp đối với vị trí tuyển dụng?

Trang 67/136
BÀI 6: TRUYỀN THỐNG YÊU NƢỚC CỦA DÂN TỘC VIỆT NAM
Sau khi học xong bài này sinh viên có thể biết, hiểu đƣợc quá trình hình thành và
phát triển của dân tộc trong toàn bộ tiến trình lịch sử cùng những giá trị nổi bật nhất đã
góp phần định hình bản sắc riêng, truyền thống của dân tộc Việt nam. Từ đó, ngƣời học
có trách nhiệm gìn giữ, phát huy những truyền thống tốt đẹp, đặc biệt là truyền thống yêu
nƣớc của dân tộc Việt Nam trong thực tiễn học tập, ở hiện tại và tƣơng lai.
I. SỰ HÌNH THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN CỦA DÂN TỘC VIỆT NAM
1. Sự hình thành dân tộc Việt Nam
Việt Nam nằm ở khu vực Đông Nam châu Á, có bờ biển dài 3.260 km với hàng
nghìn hòn đảo, có vị trí địa lý chiến lƣợc quan trọng ở khu vực và thế giới, có tài nguyên
thiên nhiên phong phú và đa dạng. Việt Nam nằm ở ven biển, khu vực nhiệt đới gió mùa,
nền kinh tế sản xuất nông nghiệp trồng lúa nƣớc chịu ảnh hƣởng rất lớn của thiên nhiên
do vậy sớm tạo nên sự cố kết cộng đồng xóm làng, sự gắn bó con ngƣời với nhau, với
quê hƣơng bền chặt. Nền kinh tế chủ yếu là trồng lúa nƣớc, cƣ dân sớm biết làm thủy lợi,
dùng sức kéo động vật, công cụ đồng để sản xuất, đã biết làm đồ gốm…
Theo lịch sử và truyền thuyết, từ thời đại đồ đồng nƣớc ta có khoảng 15 bộ tộc gọi
là Lạc Việt định cƣ ở Bắc Bộ và Bắc Trung Bộ, chủ yếu là miền trung du và đồng bằng
sông Hồng, sông Mã. Các bộ tộc có chung vùng lãnh thổ, phƣơng thức sản xuất, kiểu tổ
chức xã hội, tiếng nói, tập quán, văn hóa. Do yêu cầu sản xuất và tồn tại, việc trao đổi
kinh tế, văn hóa mở rộng nên các bộ tộc có xu hƣớng liên minh, thống nhất với nhau.
Trong đó, bộ tộc Văn Lang là mạnh hơn cả đã thống nhất các bộ tộc dựng nên nƣớc Văn
Lang, đứng đầu là Hùng Vƣơng, khoảng thế kỷ thứ VII đến thế kỷ thứ VI TCN.
Thời kỳ Văn Lang (Hùng Vƣơng), trải qua 18 đời vua, là giai đoạn quan trọng –
thời kỳ mở nƣớc của dân tộc Việt Nam. Văn minh đầu tiên của ngƣời Việt (văn minh
sông Hồng), là văn minh nông nghiệp lúa nƣớc đạt đến trình độ cao. Sự xuất hiện sớm
của dân tộc và sự rực rỡ của nền văn hóa Văn Lang – Âu Lạc tạo nên cơ sở thống nhất,
đoàn kết dân tộc Việt Nam.
Nền tảng sức mạnh mở đầu cho sự nghiệp dựng nƣớc và giữ nƣớc của dân tộc bắt
đầu từ thực tiễn dựng nƣớc và các truyền thuyết, truyện cổ tích về nguồn gốc con cháu
Rồng Tiên, Sơn tinh - Thủy tinh, Thánh Gióng. Cộng đồng Việt Nam là kết quả của quá
trình hình thành và phát triển lâu dài trong lịch sử. Việt Nam hiện nay có 54 dân tộc, dân
tộc Kinh là dân tộc đa số, các dân tộc còn lại là thiểu số.

Trang 68/136
2. Dân tộc Việt Nam trong tiến trình lịch sử
- Thời kỳ dựng nước: Thời kỳ dựng nƣớc đầu tiên của dân tộc vào thế kỷ VIII-VII
TCN với sự ra đời của nhà nƣớc Văn Lang thời Hùng Vƣơng. Năm 208 TCN, Thục Phán
hợp nhất bộ tộc Lạc Việt và Âu Việt, xƣng vua là An Dƣơng Vƣơng, tên nƣớc là Âu Lạc,
kinh đô Cổ Loa (Hà Nội).
- Thời kỳ đấu tranh chống phong kiến phương Bắc: Các triều đại phong kiến
Trung Quốc lần lƣợt xâm chiếm, đô hộ nƣớc ta. Từ năm 187 - 179 trƣớc Công nguyên,
vua nƣớc Nam Việt là Triệu Đà chiếm và đô hộ nƣớc ta, đến năm 111 TCN, nhà Hán lại
chiếm, thống trị nƣớc ta. Năm 40 sau Công nguyên, Hai Bà Trƣng lãnh đạo nhân dân
khởi nghĩa giành độc lập và đóng đô ở Mê Linh. Năm 220 - 280, nhà Đông Ngô lại xâm
lƣợc, đô hộ. Năm 248, khởi nghĩa Bà Triệu bùng nổ đánh đổ chính quyền nhà Đông Ngô.
Từ năm 316 - 581, nhà Lƣơng xâm lƣợc, thống trị. Năm 542 Lý Bí lãnh đạo khởi nghĩa
chống quân Lƣơng, xƣng Lý Nam Đế, đặc tên nƣớc là Vạn Xuân, kinh đô ở Long Biên.
Tiếp tục cuộc khởi nghĩa chông nhà Lƣơng của Triệu Quang Phục (548 - 571) thắng lợi,
giành lại nƣớc Vạn Xuân. Từ năm 581 nhà Tùy, đến năm 618 là nhà Đƣờng thay nhau
xâm lƣợc, cai trị nƣớc ta. Năm 722 khởi nghĩa của Mai Thúc Loan thắng lợi, xƣng vƣơng
là Mai Hắc Đế lấy Vạn An (thuộc thị trấn Nam Đàn – Nghệ An hiện nay) làm kinh đô.
Năm 905, Khúc Thừa Dụ lãnh đạo đánh đuổi quân xâm lƣợc nhà Đƣờng, thiết lập
chính quyền xƣng là Tiết Độ Sứ. Năm 930 nƣớc ta rơi vào ách thống trị của quân Nam
Hán. Năm 938 Ngô Quyền đánh tan quân Nam Hán trên sông Bạch Đằng, ông xƣng
vƣơng, lấy Cổ Loa làm kinh đô, thành lập quốc gia phong kiến độc lập. Năm 968, Đinh
Bộ Lĩnh dẹp loạn 12 sứ quân, thống nhất quốc gia và xƣng Vƣơng, đặt tên nƣớc là Đại
Cồ Việt, lấy Hoa Lƣ làm kinh đô. Sau 12 năm, nhà Tiền Lê do Lê Hoàn kế tục trị vì đất
nƣớc đến năm 1009.
Năm 1010, Lý Công Uẩn lên ngôi (Lý Thái Tổ) dời đô từ Hoa Lƣ về thành Đại La,
đổi tên thành Thăng Long. Thời nhà Lý, đã hai lần đánh thắng quân xâm lƣợc Tống
(1075 - 1077). Nhà Lý tồn tại 216 năm, đến năm 1225 thì chuyển sang nhà Trần.
Nhà Trần (1226-1400): qua 13 đời vua, kéo dài 175 năm, lấy tên nƣớc Đại Việt,
kinh đô Thăng Long. Nhà Trần xây dựng và tăng cƣờng chế độ phong kiến trung ƣơng
tập quyền và đã ba lần đành thắng quân Nguyên Mông (năm 1258, 1285, 1287 - 1288).

Trang 69/136
Nhà Hồ (1400 - 1407) dời đô về An Tôn (Thanh Hóa) đổi tên là Tây Đô, đổi quốc
hiệu nƣớc là Đại Ngu. Trải qua 2 đời vua, tháng 7/ 1407 thất bại trong cuộc kháng chiến
chống nhà Minh xâm lƣợc.
Nhà Hậu Lê (1428 - 1527): qua 10 năm kháng chiến chống quân Minh thắng lợi
nhà Hậu Lê đƣợc thiết lập lấy Quốc hiệu là Đại Việt, kinh đô ở Thăng Long.
Nhà Mạc (1527 - 1592), sau đó là thời Trịnh – Nguyễn phân tranh (1627-1672, đất
nƣớc bị chia cắt thành Đàng trong và Đàng ngoài.
Năm 1786, khởi nghỉa Tây Sơn bùng nổ. Năm 1788, Nguyễn Huệ lên ngôi xƣng là
Quang Trung, năm 1789 đại phá quân Thanh, chấm dứt tình trạng chia cắt và thống nhất
đất nƣớc.
Triều Nguyễn (1802-1945), là thời kỳ chế độ phong kiến chuyên chế tập trung khá
hoàn thiện. Năm 1858, Pháp xâm lƣợc, nhà Nguyễn trở nên bảo thủ và để đất nƣớc rơi
vào tay Pháp.
- Việt Nam sau khi Pháp thống trị - đến nay: 1858 Pháp xâm lƣợc nƣớc ta, nhân
dân đứng lên chống Pháp. Tiêu biểu là phong trào Cần Vƣơng (1885-1896), khởi nghĩa
Hoàng Hoa Thám (1885-1913), phong trào Đông Du (1904-1908), phong trào Duy Tân
(1906-1908)…Các phong trào Pháp đàn áp và thất bại, do thiếu đƣờng lối cách mạng
đứng đắn.
Ngày 3-2-1930, Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời, lãnh đạo nhân dân và phong trào
cách mạng liên tiếp giành đƣợc những thắng lợi to lớn. Năm 1945, thắng lợi của Cách
mạng Tháng Tám thành công, khai sinh nhà nƣớc Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Năm
1954, bằng chiến dịch Điện Biên thắng lợi, kết thúc cuộc kháng chiến chống thực dân
Pháp. Từ (1954 - 1975) đánh thắng sự xâm lƣợc và can thiệp cử Mỹ giải phóng miện
Nam, thống nhất đất nƣớc, đƣa đất nƣớc đi lên chủ nghĩa xã hội.
II. NHỮNG BIỂU HIỆN TRUYỀN THỐNG YÊU NƢỚC CỦA DÂN TỘC VIỆT
NAM
Truyền thống là những yếu tố về sinh hoạt xã hội, phong tục, tập quán, lối sống,
đạo đức của một dân tộc đƣợc hình thành trong quá trình đƣợc lƣu truyền từ đời này sang
đời khác từ xƣa đến nay. Truyền thống yêu nƣớc của dân tộc Việt Nam là nét nổi bật
trong đời sống văn hóa tinh thần của ngƣời Việt, là di sản quý báu của dân tộc đƣợc hình
thành từ rất sớm, đƣợc củng cố và phát huy qua hàng ngàn năm lịch sử. Lòng yêu nƣớc
bắt nguồn từ những tình cảm đơn giản, trong một không gian nhỏ hẹp nhƣ: tình yêu gia

Trang 70/136
đình, yêu quê hƣơng nơi chôn nhau cắt rốn, nơi mình sinh sống gắn bó…Từ khi hình
thành quốc gia dân tộc Việt: Văn Lang - Âu Lạc những tình cảm gắn bó mang tính địa
phƣơng phát triển thành tình cảm rộng lớn - lòng yêu nƣớc.
1. Cơ sở hình thành truyền thống yêu nƣớc của dân tộc Việt Nam
- Khó khăn trong sản xuất: Về vị trí địa lý, nƣớc ta nằm trong khu vực nhiệt đới
gió mùa, nóng ẩm nên sản xuất nông nghiệp gặp nhiều khó khăn. Ngƣời Việt phải tìm
nhiều cách thích nghi với điều kiện tự nhiên khắc nghiệt nhƣ đắp đê, đào kênh, mƣơng
làm thủy lợi… Để khai thác những thuận lợi, khắc phục những khó khăn của thiên nhiên
trong sản xuất, ngƣời Việt phải gia tăng sự cố kết, đoàn kết trong cộng đồng, làng xóm hỗ
trợ lẫn nhau trong sản xuất và cuộc sống hàng ngày. Cùng từ đó, sự gắn bó con ngƣời với
nhau, với quê hƣơng, xứ sở nơi mình sinh sống ngày càng mật thiết, là cơ sở tạo nên tình
yêu với quê hƣơng, đất nƣớc.
- Thách thức trong chống giặc ngoại xâm: Việt Nam có vị trí quan trọng ở Đông
Nam Á là cầu nối liền đại lục với đại dƣơng, nên thuận lợi cho giao lƣu, kết nối với nhiều
dân tộc, tiếp thu có chọn lọc tinh hoa văn hóa bên ngoài. Do vị trí chiến lƣợc quan trọng,
nƣớc ta luôn là mục tiêu nhòm ngó, xâm lƣợc của giặc ngoại xâm, liên tiếp đối đầu với
các đế chế phong kiến hùng mạnh từ phƣơng Bắc, đế quốc tƣ bản giàu có từ phƣơng Tây
để giữ nƣớc, giải phóng dân tộc. Lịch sử chống ngoại xâm kéo dài là động lực chủ yếu
tác động sâu sắc đến sự hình thành tinh thần yêu nƣớc, truyền thống đoàn kết, ý chí quật
cƣờng, bất khuất, niềm tự hào, tự tôn dân tộc. Nên sự gắn bó con ngƣời, xóm làng, cả dân
tộc trong đấu tranh chống ngoại xâm để giữ làng, giữ nƣớc là cốt lõi văn hóa dân tộc.
Tinh thần yêu nƣớc trong mỗi con ngƣời, dòng họ, mỗi làng, mỗi xóm là một bộ phận của
văn hóa Việt Nam, là cơ sở cho truyền thống yêu nƣớc của dân tộc Việt Nam.
` 2. Biểu hiện nổi bật của truyền thống dân tộc Việt Nam
Trải qua mấy nghìn năm đấu tranh dựng nƣớc và giữ nƣớc, truyền thống yêu nƣớc
của dân tộc không ngừng bồi đắp và phát huy. Yêu nƣớc là truyền thống bao trùm và nổi
bật nhất của dân tộc ta trải qua hàng nghìn năm dựng nƣớc và giữ nƣớc. Yêu nƣớc là cơ
sở và biểu hiện thành các truyền thống đoàn kết, lao động cần cù, thông minh sáng tạo, tự
lực tự cƣờng, đánh giặc giữ nƣớc, kính trọng tổ tiên, hiếu học…
- Truyền thống lao động cần cù và sáng tạo
Cần cù vốn là một truyền thống quý báu và nổi bật của ngƣời Việt Nam. Do điều
kiện tự nhiên khó khăn, nhiều thách thức trong quá trình sản xuất nên nhân dân ta sớm

Trang 71/136
hình thành và ý thức rõ về vai trò, sự cần thiết của sự cần cù, chịu khó trong lao động.
Trong quá trình lao động, nhân dân ta luôn tìm tòi, sáng tạo trong kỹ thuật canh tác, dẫn
nƣớc, trị thủy; nghệ thuật luyện đồng, kiến trúc…Cùng với tinh thần lạc quan, yêu đời,
yêu lao động là một nét đặc sắc, thể hiện bản lĩnh của tâm hồn ngƣời Việt. Đây là động
lực quan trọng để tổ tiên ta vƣợt mọi gian khổ, hi sinh, bền bỉ phấn đấu xây dựng đất
nƣớc trong suốt chiều dài lịch sử. Ngày nay, phát huy truyền thống cần cù lao động sáng
tạo, thông minh hiếu học kết hợp với tiếp thu những tinh hoa, khoa học kỹ thuật hiện đại
của nhân loại, ngƣời Việt Nam sẽ tiếp tục khẳng định sức mạnh của những giá trị truyền
thống của dân tộc ở hiện tại và tƣơng lai.
- Truyền thống đoàn kết, nhân nghĩa
Đoàn kết, nhân nghĩa là truyền thống quý báu của dân tộc đƣợc hình thành và phát triển
trên từ thực tiễn lịch sử lâu dài đấu tranh để chinh phục, chế ngự sức mạnh từ thiên nhiên
và đánh đuổi giặc ngoại xâm để tồn tại. Đoàn kết là là liên kết nhiều ngƣời, nhiều làng
hay cả dân tộc thành một khối thống nhất để thực hiện một nhiệm vụ, mục đích nhất định.
Tinh thần đoàn kết thể hiện qua sự giúp đỡ lẫn nhau bằng những hành động cụ thể, nhất
là khi gặp khó khăn, hoạn nạn, thiên tai, địch họa, chiến tranh…Chủ tịch Hồ Chí Minh
coi đó là một yếu tố quyết định đến sự sống còn của dân tộc. Ngƣời khái quát thành chân
lý: “Đoàn kết, đoàn kết, đại đoàn kết. Thành công, thành công, đại thành công”. Còn
nhân nghĩa là lòng thƣơng ngƣời và tôn trọng lẽ phải, điều phải nên sẵn sàng tha thứ, bỏ
qua những lỗi lầm mà cao nhất là tha thứ cho cả kẻ thù đã từng xâm lƣợc, áp bức mình
nhƣ Lê Lợi, Nguyễn Trãi đã ứng xử với quân Minh năm 1427, Quang Trung đã làm với
quân Thanh 1789 và cách nhân dân ta thiết lập quan hệ ngoại giao tốt đẹp với Pháp, Mỹ,
Nhật Bản là những minh chúng hung hồn cho tinh thần nhân nghĩa cao cả đó. Ngày nay,
Đảng Cộng sản Việt Nam đã kế thừa và phát huy truyền thống dân tộc, đề ra đƣờng lối
đoàn kết giai cấp, đoàn kết dân tộc và đoàn kết quốc tế, kết hợp sức mạnh dân tộc với sức
mạnh thời đại.
- Truyền thống độc lập tự chủ, tự cường
Ngay từ rất sớm nhân dân ta đã nhân thức đƣợc rằng dù nhỏ bé, dân tộc ta hoàn
toàn có quyền độc lập và bình đẳng. Bất kỳ nƣớc nào dù lớn gấp nhiều lần, dù mạnh đến
bao nhiêu hễ xâm lƣợc nƣớc ta thì sẽ bị “đánh tơi bời”. Độc lập tự do là nội dung cơ bản
chù nghĩa yêu nƣớc của ngƣời Việt Nam. Nhân dân ta đã chiến đấu kiên cƣờng, không sợ

Trang 72/136
khó khăn gian khổ, chấp nhận hy sinh để có tự do, giải phóng, thống nhất, độc lập và
thoát khỏi sự nô dịch, áp bức, kìm kẹp và phụ thuộc dân tộc, quốc gia khác.
Lòng yêu nƣớc nồng nàn, ý chí độc lập, tự cƣờng đã trở thành một sức mạnh, động
lực tạo nên lợi thế về chính trị, tinh thần và chiến lƣợc chiến tranh để chiến thắng mọi kẻ
thù xâm lƣợc. Yêu nƣớc phải xây dựng đất nƣớc thoát khỏi nghèo nàn và lạc hậu. Khắc
phục nguy cơ tụt hậu xa về kinh tế so với các nƣớc, đó là giá trị to lớn của bài học phát
huy truyền thống yêu nƣớc hiện nay.
- Truyền thống đánh giặc giữ nước
Đánh giặc giữ nƣớc là một trong những truyền thống tiêu biểu của dân tộc Việt
Nam. Từ truyền thống Thánh Gióng đánh giặc Ân, lịch sử đất nƣớc còn ghi lại hàng trăm
cuộc khởi nghĩa lớn nhỏ, vô cùng oanh liệt thể hiện tinh thần bất khuất, kiên cƣờng chống
ngoại xâm của dân tộc.
Hai Bà Trƣng cùng các nữ tƣớng mở đầu truyền thống “anh hùng, bất khuất,
trung hậu, đảm đang” của phụ nữ Việt Nam cho đến thắng lợi của cuộc kháng chiến
chống Mỹ cứu nƣớc của thế kỷ XX , dân tộc ta đã chiến thắng hàng chục cuộc tấn công
xâm lƣợc với quy mô lớn của kẻ thù bên ngoài. Với nỗ lực phi thƣờng, mƣu trí sáng tạo,
dựa vào sức mạnh của toàn dân, nghệ thuật đánh giặc độc đáo (lấy ít đánh nhiều, lấy yếu
thắng mạnh, kết hợp khéo léo quân sự với ngoại giao…Tài thao lƣợc ngoại giao của ông
cha ta đã hạn chế mọi cái mạnh, khoét sâu mọi chỗ yếu của địch để chiến thắng).
Lịch sử Việt Nam là lịch sử của dân tộc anh hùng. Những truyền thống tốt đẹp mà
tổ tiên ta để lại là tài sản quý báu và thiêng liêng nhất của dân tộc. Quý trọng, giữ gìn, kế
thừa và phát huy truyền thống tốt đẹp đó trong học tập và lao động cũng là cách mỗi sinh
viên Cao Thắng phát huy truyền thống “đoàn kết, yêu nƣớc, giỏi nghề” của nhà trƣờng đã
đƣợc bao thế hệ thầy, trò xây dựng, gìn giữ và phát huy trong hơn 100 năm qua. Đây
cũng là động lực để chúng ta góp phần vào công cuộc đổi mới của toàn dân tộc quyết tâm
xây dựng, đƣa đất nƣớc thoát khỏi nghèo nàn và lạc hậu, khắc phục nguy cơ tụt hậu xa
hơn về kinh tế so với các nƣớc. Xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam ngày càng giàu
đẹp hơn.

NỘI DUNG ÔN TẬP VÀ THẢO LUẬN


1. Hãy trình bày khái quát về dân tộc Việt Nam trong tiến trình lịch sử?
2, Phân tích cơ sở hình thành truyền thống yêu nƣớc của dân tộc Việt Nam?

Trang 73/136
3. Phân tích những biểu hiện nổi bật của truyền thống yêu nƣớc Việt Nam?
Chủ đề thảo luận số 7: Nội dung thảo luận: Truyền thống yêu nƣớc Việt Nam với
việc phát huy truyền thống “đoàn kết, yêu nƣớc, giỏi nghề” của nhà trƣờng.

Trang 74/136
BÀI 7: TƢ TƢỞNG VÀ TẤM GƢƠNG ĐẠO ĐỨC HỒ CHÍ MINH
Sau khi học xong bài này sinh viên có thể hiểu đƣợc nguồn gốc hình thành và nội
dung cơ bản tƣ tƣởng Hồ Chí Minh về đạo đức; Vận dụng tƣ tƣởng, tấm gƣơng đạo đức
Hồ Chí Minh trong cuộc sống hàng ngày.
I. TƢ TƢỞNG HỒ CHÍ MINH
1. Khái niệm và nội dung tƣởng Hồ Chí Minh
Khái niệm tƣ tƣởng Hồ Chí Minh lần đầu tiên đƣợc sử dụng trong văn kiện Đại hội đại
biểu toàn quốc lần thứ VII của Đảng (1991) và ngày càng xác định rõ hơn.
Đại hội lần thứ XI của Đảng (2011) định nghĩa: "Tư tưởng Hồ Chí Minh là một hệ
thống quan điểm toàn diện và sâu sắc về những vấn đề cơ bản của cách mạng Việt Nam,
kết quả của sự vận dụng và phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin vào điều kiện cụ
thể của nước ta, kế thừa và phát triển các giá trị truyền thống tốt đẹp của dân tộc, tiếp
thu tinh hoa văn hoá nhân loại; là tài sản tinh thần vô cùng to lớn và quý giá của Đảng
và dân tộc ta, mãi mãi soi đường cho sự nghiệp cách mạng của nhân dân ta giành thắng
lợi".
Có thể khái quát tƣ tƣởng Hồ Chí Minh qua các nội dung chủ yếu sau:
+ Tƣ tƣởng về giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp và giải phóng con ngƣời.
+ Tƣ tƣởng về độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội, kết hợp sức mạnh
dân tộc với sức mạnh thời đại.
+ Tƣ tƣởng về sức mạnh của nhân dân, của khối đại đoàn kết dân tộc.
+ Tƣ tƣởng về quyền làm chủ của nhân dân, xây dựng nhà nƣớc của dân, do dân
và vì dân.
+ Tƣ tƣởng về quốc phòng toàn dân, xây dựng lực lƣợng vũ trang nhân dân.
+ Tƣ tƣởng về phát triển kinh tế văn hóa, không ngừng nâng cao đời sống vật chất
và tinh thần của nhân dân.
+ Tƣ tƣởng về đạo đức cách mạng, cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tƣ.
+ Tƣ tƣởng chăm lo bối dƣỡng cách mạng cho đời sau.
+ Tƣ tƣởng về xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh, cán bộ, đảng viên vừa là
ngƣời lãnh đạo, vừa là ngƣời đầy tớ thật trung thành của nhân dân…
2. Nguồn gốc và quá trình hình thành tƣ tƣởng Hồ Chí Minh
a. Nguồn gốc hình thành tƣ tƣởng Hồ Chí Minh
Bối cảnh lịch sử Việt Nam cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX

Trang 75/136
Chính quyền triều Nguyễn từng bƣớc khuất phục trƣớc cuộc xâm lƣợc của thực dân
Pháp. Các cuộc khai thác thuộc địa của thực Pháp sau đó đã làm cho xã hội Việt Nam có
sự phân hóa sâu sắc. Xã hội Việt Nam tồn tại hai mâu thuẫn cơ bản đó là mâu thuẫn giữa
toàn thể dân tộc Việt Nam với thực dân Pháp và mâu thuẫn giữa nông dân với địa chủ
phong kiến, trong đó mâu thuẫn chủ yếu là mâu thuẫn giữa toàn thể dân tộc Việt Nam với
thực dân Pháp.
Các cuộc khởi nghĩa của nhân dân ta dƣới sự lãnh đạo của các sỹ phu yêu nƣớc đi
theo khuynh hƣớng phong kiến bị thất bại. Điều đó chứng tỏ hệ tƣ tƣởng phong kiến đã
lỗi thời, lạc hậu.
Đầu thế kỷ XX, phong trào đấu tranh yêu nƣớc theo ý thức hệ tƣ sản xuất hiện. Tiêu
biểu là tƣ tƣởng bạo động của cụ Phan Bội Châu và tƣ tƣởng cải lƣơng của cụ Phan Châu
Trinh nhƣng tất cả đều thất bại.
Những thất bại đó làm cho cách mạng Việt Nam nằm trong tình trạng khủng hoảng về
đƣờng lối lãnh đạo. Một yêu cầu đặt ra lúc này là cần phải có một đƣờng lối cứu nƣớc
đúng đắn để giải phóng dân tộc khỏi ách thống trị của chủ nghĩa thực dân.
Bối cảnh thời đại
Chủ nghĩa tƣ bản chuyển từ giai đoạn tự do cạnh tranh sang giai đoạn độc quyền đã
xác lập địa vị thống trị của chúng trên toàn thế giới, chúng trở thành kẻ thù chung của
nhân dân trên thế giới.
Cuộc cách mạng Tháng mƣời Nga nổ ra và giành thắng lợi đã mở ra một thời kỳ mới
trong lịch sử xã hội loài ngƣời: Thời đại chống chủ nghĩa đế quốc, giải phóng dân tộc.
Tháng 3/1919, Quốc tế Cộng sản đƣợc thành lập làm cho phong trào công nhân ở các
nƣớc tƣ bản chủ nghĩa và phong trào giải phóng dân tộc ngày càng có mối quan hệ mật
thiết với nhau.
Nguồn gốc hình thành tƣ tƣởng Hồ Chí Minh
Giá trị truyền thống dân tộc
Hồ Chí Minh đã kế thừa và phát triển các giá trị truyền thống tốt đẹp của dân tộc.
Tiêu biểu là: Chủ nghĩa yêu nƣớc và ý chí kiên cƣờng, bất khuất trong đấu tranh dựng
nƣớc và giữ nƣớc; tinh thần tƣơng thân tƣơng ái, lòng nhân nghĩa, ý thức cố kết cộng
đồng; truyền thống lạc quan yêu đời; truyền thống cần cù, dũng cảm, thông minh, sáng
tạo trong sản xuất và chiến đấu nên cũng là một dân tộc ham học hỏi và không ngừng mở
rộng cửa đón nhận tinh hoa văn hóa nhân loại.

Trang 76/136
Giá trị truyền thống của dân tộc là tiền đề tƣ tƣởng lý luận xuất phát, tức là điểm đầu
tiên hình thành tƣ tƣởng Hồ Chí Minh, đặc biệt là chủ nghĩa yêu nƣớc.
Tinh hoa văn hóa nhân loại
Hồ Chí Minh tiếp thu có chọn lọc tƣ tƣởng tiến bộ của văn hóa văn hoá Đông - Tây để
phục vụ cho cách mạng Việt Nam.
Văn hoá phƣơng Đông: Hồ Chí Minh tiếp thu những mặt tích cực của Nho giáo, Phật
giáo, tƣ tƣởng dân chủ tiến bộ nhƣ chủ nghĩa tam dân của Tôn Trung Sơn.
Văn hoá phƣơng Tây: Hồ Chí Minh chịu ảnh hƣởng sâu rộng của nền văn hoá dân chủ
và cách mạng phƣơng Tây nhƣ: tƣ tƣởng tự do, bình đẳng trong Tuyên ngôn nhân quyền
và dân quyền của Đại cách mạng Pháp 1791, tƣ tƣởng dân chủ, về quyền sống, quyền tự
do, quyền mƣu cầu hạnh phúc trong Tuyên ngôn độc lập của Mỹ 1776. Điểm tích cực của
Thiên chúa giáo là lòng nhân ái đặc biệt là đức hy sinh cao cả của chúa Giêsu.
Chủ nghĩa Mác – Lênin
Chủ nghĩa Mác – Lênin là tiền đề tƣ tƣởng, lý luận trực tiếp quyết định bản chất cách
mạng, khoa học của tƣ tƣởng Hồ Chí Minh. Chủ nghĩa Mác – Lênin trang bị thế giới
quan, phƣơng pháp luận cho Hồ Chí Minh tổng kết kiến thức và kinh nghiệm thực tiễn để
tìm ra con đƣờng cứu nƣớc, xác định đƣợc con đƣờng cách mạng đúng đắn, phù hợp với
thực tiễn Việt Nam.
Hồ Chí Minh tiếp thu, vận dụng chủ nghĩa Mác- Lênin một cách sáng tạo, không rập
khuôn, máy móc
Phẩm chất cá nhân Hồ Chí Minh
Những điều kiện nêu trên tác động đến với nhiều ngƣời cùng thời nhƣng chỉ đến Hồ
Chí Minh mới phát triển thành tƣ tƣởng lý luận, mang dấu ấn của Ngƣời.
Tƣ duy của Ngƣời là tƣ duy độc lập, tự chủ, sáng tạo, nhận xét tinh tƣờng, sáng
suốt; là sự khổ công, kiên trì học tập tiếp thu tri thức nhân loại, kinh nghiệm đấu tranh
của các dân tộc; là ý chí của nhà yêu nƣớc nhiệt thành; tình yêu nƣớc, thƣơng dân,
thƣơng yêu những ngƣời cùng khổ, sẵn sàng chịu đựng hy sinh vì độc lập của Tổ quốc, vì
hạnh phúc của đồng bào.
b. Quá trình hình thành và phát triển tƣ tƣởng Hồ Chí Minh
Thời kỳ hình thành tƣ tƣởng yêu nƣớc và chí hƣớng cứu nƣớc (1890 - 1911)
Đây là giai đoạn Nguyễn Sinh Cung tiếp nhận truyền thống yêu nƣớc và nhân nghĩa
của dân tộc; hấp thụ vốn văn hóa Quốc học, Hán học và bƣớc đầu tiếp xúc với văn hóa

Trang 77/136
phƣơng Tây; chứng kiến cuộc sống khổ cực, điêu đứng của nhân dân và tinh thần đấu
tranh kiên cƣờng, bất khuất của cha anh đã hình thành hoài bão cứu nƣớc, cứu dân
Điều đặc biệt ở Hồ Chí Minh là có sự so sánh, đánh giá con đƣờng cứu nƣớc của
các thế hệ cha anh để từ đó xác định cho mình một hƣờng đi mới – đi sang phƣơng Tây:
phải tìm hiểu cho rõ bản chất của những từ Tự do, Bình đẳng, Bác ái của nƣớc Cộng hòa
Pháp, phải đi ra nƣớc ngoài, xem nƣớc Pháp và các nƣớc khác. Sau khi xem xét họ làm
nhƣ thế nào, sẽ trở về giúp đồng bào mình.
Thời kỳ tìm con đƣờng cứu nƣớc theo con đƣờng cách mạng vô sản (1911 - 1920)
Đây là thời kỳ Nguyễn Tất Thành buôn ba khắp các châu lục để tìm hiểu các cuộc
cách mạng lớn trên thế giới và khảo sát cuộc sống của nhân dân các dân tộc bị áp bức.
Năm 1920, Ngƣời tìm thấy con đƣờng chân chính cho sự nghiệp cứu nƣớc, giải phóng
dân tộc, Ngƣời biểu quyết gia nhập Quốc tế Cộng sản, tham gia sáng lập Đảng Cộng sản
Pháp.
Thời kỳ hình thành cơ bản tƣ tƣởng về cách mạng Việt Nam (1921 - 1930)
Đây là thời kỳ hoạt động thực tiễn và lý luận cực kỳ sôi nổi và phong phú của Ngƣời
để tiến tới thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam.
Hoạt động thực tiễn: Ngƣời hoạt động trên địa bàn nhiều nƣớc khác nhau nhƣ: ở
Pháp (1921-1923), Liên Xô (1923-1924), Trung Quốc (1924 - 1927), Xiêm - Thái Lan
(1928 - 1929).
Hoạt động lý luận: Ngƣời viết nhiều bài báo tố cáo tội ác của chủ nghĩa thực dân, đề
cập đến mối quan hệ mật thiết giữa cách mạng thuộc địa và cách mạng vô sản ở chính
quốc, khẳng định cách mạng giải phóng dân tộc thuộc địa là một bộ phận của cách mạng
vô sản thế giới. Các tác phẩm của Nguyễn Ái Quốc nhƣ: Bản án chế độ thực dân Pháp
(1925), Đƣờng cách mệnh (1927), Cƣơng lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng (1930)… là sự
phát triển và tiếp tục hoàn thiện tƣ tƣởng cách mạng về giải phóng dân tộc.
Thời kỳ thử thách, khó khăn, Ngƣời kiên trì giữ vững quan điểm cách mạng
(1930 - 1945)
Sau Hội nghị thành lập Đảng tháng 2/1930, Ban Chấp hành trung ƣơng lâm thời họp
Hội nghị lần thứ nhất vào tháng 10/1930. Tại hội nghị lần này, do ảnh hƣởng cánh tả của
Quốc tế Cộng sản, Ban Chấp hành trung ƣơng quyết định đổi tên Đảng thành Đảng Cộng
sản Đông Dƣơng, ra Nghị quyết thủ tiêu Cƣơng lĩnh chính trị do Nguyễn Ái Quốc thông

Trang 78/136
qua tại Hội nghị hợp nhất vì cho rằng đƣờng lối của Nguyễn Ái Quốc vạch ra “chỉ lo đến
việc phản đế, mà quên mất lợi ích giai cấp tranh đấu”.
Nguyễn Ái Quốc đã kiên trì bảo vệ quan điểm của mình về vấn đề dân tộc và vấn đề
giai cấp, về mối quan hệ giữa cách mạng giải phóng dân tộc thuộc địa và cách mạng vô
sản, chống lại những biểu hiện của khuynh hƣớng “tả” và biệt phái trong Đảng.
Thực tiễn đã chứng minh quan điểm của Ngƣời là đúng đắn. Thắng lợi của Cách
mạng Tháng Tám là sự khẳng định, kiểm chứng tính chân lý các quan điểm của Hồ Chí
Minh thể hiện trong Cƣơng lĩnh của Đảng; đó là thắng lợi của chủ nghĩa Mác – Lênin
đƣợc vận dụng và phát triển ngày càng sát, đúng với hoàn cảnh Việt Nam, là thắng lợi
của tƣ tƣởng độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội của Hồ Chí Minh.
Thời kỳ phát triển và hoàn thiện tƣ tƣởng về cách mạng Việt Nam (1945 - 1969)
Đây là thời kỳ Ngƣời về nƣớc hoạt động, lãnh đạo thắng lợi cuộc kháng chiến chốn
thực dân Pháp xâm lƣợc (1945 - 1954); lãnh đạo từng bƣớc xây dựng chủ nghĩa xã hội ở
miền Bắc và tiến hành cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nƣớc.
Ngày 2/9/1969, Chủ tịch Hồ Chí Minh qua đời, để lại bản Di chúc lịch sử về những
công việc quan trọng xây dựng đất nƣớc sau ngày thắng Mỹ, xây dựng Đảng Cộng sản
Việt Nam, về đoàn kết quốc tế.
Đây là thời kỳ, tƣ tƣởng của Hồ Chí Minh phát triển hoàn thiện thành hệ thống các
quan điểm tƣ tƣởng lý luận toàn diện và sâu sắc về những vấn đề cơ bản của cách mạng
Việt Nam, từ cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân đến cách mạng xã hội chủ nghĩa.
II. TẤM GƢƠNG ĐẠO ĐỨC HỒ CHÍ MINH
1. Hồ Chí Minh, tấm gƣơng đạo đức sáng ngời, tiêu biểu cho truyền thống
đạo đức dân tộc Việt Nam
Tiếp thu những giá trị đạo đức dân tộc, tinh hoa đạo đức nhân loại, đạo đức vô sản
của chủ nghĩa Mác – Lênin cùng với sự kiên trì rèn luyện, tu dƣỡng cá nhân, Hồ Chí
Minh đã tự xây dựng cho mình những phẩm chất đạo đức tiêu biểu nhất của ngƣời chiến
sĩ cộng sản, của truyền thống đạo đức của dân tộc Việt Nam.
Hồ Chí Minh đã tìm ra con đƣờng cứu nƣớc cho nhân dân ta, ngƣời sáng lập và
rèn luyện Đảng ta; Ngƣời sáng lập ra nƣớc Việt Nam Dân chủ Cộng hòa; Ngƣời sáng lập
Mặt trận Tổ quốc Việt Nam; đồng thời sáng lập lực lƣợng vũ trang và nhiều tổ chức đoàn
thể chính trị khác ở nƣớc ta.

Trang 79/136
Hồ Chí Minh là nhà báo, nhà thơ, nhà văn hóa lớn. Ngƣời tham gia sáng lập 9 tờ
báo, viết trên 2000 bài báo. Ngƣời chỉ rõ báo chí có trách nhiệm là ngƣời tuyên truyền,
ngƣời cổ động, ngƣời tổ chức và lãnh đạo quần chúng.
Tấm gƣơng đạo đức Hồ Chí Minh biểu hiện nổi bật ở phẩm chất tƣ duy độc lập tự
chủ và sáng tạo, có tầm nhìn xa trông rộng. Phong cách lãnh đạo của Ngƣời là dân chủ,
sâu sát tỷ mỉ, đúng mực. Hồ Chí Minh là ngƣời có phong cách làm việc khoa học, quý
trọng thời gian, tôn trọng lời hứa, giữ gìn kỷ luật, sống mực thƣớc, nêu gƣơng. Cách diễn
đạt nói và viết của Ngƣời rất ngắn ngọn, không cầu kỳ mà trong sáng, chân thực, gọn
gàng, rõ ý. Ngƣời chỉ cho mọi ngƣời phƣơng châm khi cầm bút, khi nói là phải rõ mục
đích viết và nói cho ai, viết và nói để làm gì và viết nói nhƣ thế nào?
Văn hóa ứng xử của Ngƣời tự nhiên, chân tình, cởi mở, chủ động và tế nhị. Lối
sống sinh hoạt đời thƣờng của Ngƣời là một mẫu mực về sự bình dị, khiêm tốn; cần,
kiệm, liêm chính, chí công vô tƣ ở mọi lúc, mọi nơi. Ngƣời luôn luôn gần gũi, hết lòng
thƣơng yêu con ngƣời. Ngƣời là tấm gƣơng mẫu mực về tự rèn luyện, giữ mình trong
sạch, không ham danh lợi; hy sinh quên mình vì lợi ích dân tộc.
2. Tƣ tƣởng Hồ Chí Minh về đạo đức cách mạng
a. Đạo đức là cái gốc của người cách mạng
Hồ Chí Minh coi đạo đức là nền tảng của ngƣời cách mạng, cũng giống nhƣ gốc
của cây, ngọn nguồn của sông suối. Ngƣời viết: "Cũng nhƣ sông thì có nguồn mới có
nƣớc, không có nguồn thì sông cạn. Cây phải có gốc, không có gốc thì cây héo. Ngƣời
cách mạng phải có đạo đức, không có đạo đức thì dù tài giỏi mấy cũng không lãnh đạo
đƣợc nhân dân. Vì muốn giải phóng cho dân tộc, giải phóng cho loài ngƣời là một công
việc to tát, mà tự mình không có đạo đức, không có căn bản, tự mình đã hủ hóa, xấu xa
thì còn làm nổi việc gì".
Tƣ tƣởng đạo đức Hồ Chí Minh là đạo đức trong hành động, lấy hiệu quả thực tế
làm thƣớc đo. Chính vì vậy, Ngƣời luôn đặt đạo đức bên cạnh tài năng, gắn đức với tài,
lời nói phải đi đôi với hành động và hiệu quả thực tế.
b. Nội dung đạo đức cách mạng
Vị trí của đạo đức cách mạng: Hồ Chí Minh quan niệm đạo đức là nền tảng và là
sức mạnh của ngƣời cách mạng, coi đó là cái gốc của cây, ngọn nguồn của sông suối.
Ngƣời cách mạng phải có đạo đức cách mạng làm nền tảng thì mới lãnh đạo đƣợc nhân
dân, hoàn thành đƣợc nhiệm vụ cách mạng vẻ vang,công việc thành công hoặc thất bại,

Trang 80/136
đều do cán bộ tốt hay kém. Quan niệm lấy đức làm gốc của Hồ Chí Minh không có nghĩa
là tuyệt đối hoá mặt đức, coi nhẹ mặt tài, Ngƣời cho rằng có tài mà không có đức là
ngƣời vô dụng nhƣng có đức mà không có tài thì làm việc gì cũng khó,cho nên, đức là
gốc nhƣng đức và tài phải kết hợp với nhau để hoàn thành nhiệm vụ cách mạng.
Tư tưởng Hồ Chí Minh về đạo đức cách mạng
Một là: Trung với nƣớc, hiếu với dân.
Theo Hồ Chí Minh trong những chuẩn mực chung của nền đạo đức cách mạng đây
là phẩm chất quan trọng nhất, bao trùm nhất và chi phối các phẩm chất khác.
Trung với nƣớc là trong mối quan hệ giữa cá nhân với cộng đồng và xã hội, phải
biết đặt lợi ích của Đảng, của Tổ quốc, của cách mạng lên trên hết, trƣớc hết; quyết tâm
phấn đấu thực hiện mục tiêu cách mạng; thực hiện tốt mọi chủ trƣơng, chính sách của
Đảng và pháp luật của Nhà nƣớc.
Hiếu với dân là bao nhiêu quyền hạn đều ở nơi dân, bao nhiêu sức mạnh đều ở nơi
dân,cán bộ, đảng viên là ngƣời công bộc, là đầy tớ thật trung thành của nhân dân. Dân là
chủ, Đảng của dân nên dân đói, dân dốt, dân rét, Đảng và Chính phủ đều có lỗi. Muốn
hiếu với dân thì phải dựa vào dân, tin ở sức mạnh của nhân dân:“Dễ mười lần không dân
cũng chịu. Khó trăm lần dân liệu cũng xong. Vì vậy, mỗi cán bộ phải kính dân, gần dân,
lấy dân làm gốc và phấn đấu hết lòng vì dân, việc gì có lợi cho dân phải hết sức làm, việc
gì có hại cho dân phải hết sức tránh.
Trung với nƣớc hiếu với dân vừa là lời kêu gọi hành động, vừa là định hƣớng chính
trị - đạo đức cho mỗi ngƣời Việt Nam trong cuộc đấu tranh cách mạng và xây dựng, phát
triển đất nƣớc.
Hai là: yêu thƣơng con ngƣời.
Quan niệm của Hồ Chí Minh về con ngƣời rất toàn diện và độc đáo: Ngƣời coi con
ngƣời là vốn quý nhất,suy cho cùng thì ở đời và làm ngƣời càng phải yêu nƣớc, thƣơng
dân, thƣơng nhân loại đau khổ. Hồ Chí Minh đã xác định tình yêu thƣơng con ngƣời là
một trong những phẩm chất đạo đức cao đẹp nhất. Ngƣời dành tình yêu thƣơng rộng lớn
cho những ngƣời cùng khổ,những ngƣời lao động bị áp bức bóc lột, Ngƣời viết: “Tôi chỉ
có một sự ham muốn, ham muốn tột bậc, là làm sao cho nước ta được hoàn toàn độc lập,
dân ta được hoàn toàn tự do, đồng bào ai cũng có cơm ăn áo mặc, ai cũng được học
hành.

Trang 81/136
Hồ Chí Minh yêu thƣơng đồng bào, đồng chí của Ngƣời, không phân biệt họ ở miền
xuôi hay miền ngƣợc, là trẻ hay già, trai hay gái... không phân biệt một ai, không trừ một
ai, hễ là ngƣời Việt Nam yêu nƣớc thì đều có chỗ trong tấm lòng nhân ái của Ngƣời.
Trong Di chúc, Ngƣời căn dặn Đảng phải có tình đồng chí thƣơng yêu lẫn nhau,
nhắc nhở mỗi cán bộ, đảng viên luôn luôn chú ý đến phẩm chất yêu thƣơng con ngƣời.
Ba là: cần kiệm liêm chính, chí công vô tƣ.
Cần tức là lao động cần cù, siêng năng; lao động có kế hoạch, sáng tạo, có năng suất
cao; lao động với tinh thần tự lực cánh sinh, phải thấy rõ lao động là nghĩa vụ thiêng
liêng, là nguồn sống, nguồn hạnh phúc của chúng ta. Cần phải là: một đức tính, phẩm
chất, thói quen. Để có cần: phải rèn luyện thƣờng xuyên; phải chống thói lƣời nghĩ, lƣời
làm, ỷ lại, dựa dẫm, ham chơi, ham vui.
Kiệm tức là tiết kiệm thời gian, tiết kiệm sức lao động, tiết kiệm tiền của của dân,
của nƣớc, của bản thân mình; cần tiết kiệm trong sản xuất và tiêu dùng; phải tiết kiệm từ
cái to đến cái nhỏ; không xa xỉ, không hoang phí, không bừa bãi, không phô trƣơng hình
thức, không liên hoan, chè chén lu bù.
Liêm tức là: luôn luôn tôn trọng giữ gìn của công và của dân; không xâm phạm một
đồng xu, hạt thóc của Nhà nƣớc, của nhân dân;phải trong sạch; không tham lam địa vị,
tiền tài, sung sƣớng; không ham ngƣời tâng bốc mình, chỉ có một cái ham là ham học,
ham làm, ham tiến bộ.
Chính là: thẳng thắn, đứng đắn, quang minh chính đại. Đối với mình: không tự cao,
tự đại; luôn chịu khó học tập cầu tiến bộ; luôn tự kiểm điểm để phát triển điều hay, sửa
đổi điều dở của bản thân mình. Đối với ngƣời: không nịnh hót ngƣời trên, không xem
khinh ngƣời dƣới; luôn giữ thái độ chân thành, khiêm tốn, đoàn kết thật thà, không dối
trá, lừa lọc. Đối với việc: để việc công lên trên, lên trƣớc việc tƣ, việc nhà.
Mỗi ngƣời còn phải chí công vô tƣ đối với ngƣời, với việc:Khi làm bất cứ việc gì
cũng đừng nghĩ đến mình trƣớc; khi hƣởng thụ thì mình nên đi sau; phải lo trƣớc thiên
hạ, vui sau thiên hạ.
Cần, Kiệm, Liêm, Chính liên quan chặt chẽ với nhau và gắn với Chí công vô tƣ,
thiếu một mặt nào đó thì không thể thành ngƣời có đạo đức cách mạng.
Bốn là: tinh thần quốc tế trong sáng.
Hồ Chí Minh đề cao tinh thần đoàn kết quốc tế vô sản, đó là tinh thần đoàn kết với
các dân tộc bị áp bức, với nhân dân lao động các nƣớc; là tinh thần đoàn kết của nhân dân

Trang 82/136
Việt Nam với tất cả những ngƣời tiến bộ trên thế giới vì những mục tiêu lớn của thời đại
là hoà bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội.
Nguyên tắc rèn luyện đạo đức cách mạng:
Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nêu ra những nguyên tắc cơ bản để định hƣớng sự lãnh
đạo của Đảng và việc rèn luyện của mỗi ngƣời.
Một là: Nói đi đôi với làm, phải nêu gƣơng về đạo đức.
Cán bộ đảng viên phải gƣơng mẫu “miệng nói tay làm”, phải nêu tấm gƣơng đạo
đức cách mạng trƣớc quần chúng; cán bộ, đảng viên đi trƣớc, làng nƣớc theo sau. Sống
theo phƣơng châm “Mình vì mọi ngƣời, mọi ngƣời vì mình”. Cổ vũ “ngƣời tốt, việc tốt”,
các điển hình tiêu biểu.
Hai là: Xây đi đôi với chống.
Xây dựng nền đạo đức cách mạng, giáo dục chuẩn mực đạo đức mới, khơi dậy ý
thức tự giác, đạo đức lành mạnh ở mọi ngƣời, hƣớng mọi ngƣời vào cuộc đấu tranh cho
sự trong sạch, lành mạnh về đạo đức. Nâng cao đạo đức cách mạng, kiên quyết đấu tranh
chống chủ nghĩa cá nhân - nguồn gốc của mọi thứ tệ nạn, thứ giặc “nội xâm” phá từ trong
ra, là đồng minh của kẻ thù, khó thấy, khó biết, gây ảnh hƣởng nghiêm trọng đến chế độ.
Chống chủ nghĩa cá nhân là chống các bệnh trái phép, cậy thế; bệnh địa phƣơng chủ
nghĩa, bè phái, quân phiệt, quan liêu, hách dịch; bệnh nịnh trên coi thƣờng dƣới; bệnh
hẹp hòi, hình thức; bệnh làm việc qua loa, vô kỷ luật; bệnh tranh giành địa vị tƣ lợi, lợi
dụng; bệnh lƣời học, lƣời nghĩ; bệnh thích ngƣời ta tâng bốc mình; bệnh ƣa sai khiến
ngƣời khác; bệnh tham lam; bệnh sinh hoạt xa hoa; bệnh hữu danh vô thực; bệnh “cận
thị”; bệnh ba hoa…
Ba là: Phải tu dƣỡng đạo đức suốt đời.
Ngƣời cũng khẳng định đạo đức không phải là thứ có sẵn trong mỗi ngƣời, không
phải trên trời sa xuống, mà đạo đức là do con ngƣời tiếp thu đƣợc qua giáo dục, tự tu
dƣỡng và bền bỉ rèn luyện trong môi trƣờng sống và trong đấu tranh cách mạng. Rèn
luyện đạo đức là một quá trình rất gian khổ, phải xác định tƣ tƣởng, kiên trì, tự giác, tự
nguyện, đề cao tinh thần tự phê bình và phê bình.Muốn rèn luyện đạo đức phải lấy tự
mình làm mực thƣớc; phải nêu tấm gƣơng tốt để hàng ngày giáo dục lẫn nhau; gắn với
việc rèn luyện đạo đức với thực tiễn công tác của mình; phải rèn luyện thƣờng xuyên,
liên tục và suốt đời.

Trang 83/136
Học tập tƣ tƣởng trong đạo đức Hồ Chí Minh, Đảng và Nhà nƣớc tiếp tục cổ động
phong trào thi đua yêu nƣớc trong thời kỳ đổi mới, biểu dƣơng các tập thể, cá nhân có
thành tích xuất sắc, dấy lên phong trào “ngƣời tốt việc tốt”, nêu gƣơng sáng đạo đức cách
mạng để mọi ngƣời tôn vinh và noi theo.
Học tập và làm theo tƣ tƣởng trong đạo đức Hò Chí Minh, sinh viên Cao Thắng cần
phải phải thực hiện nghiêm chỉnh nội quy, quy chế của nhà trƣờng. Siêng năng, chăm chỉ,
thực hiện tiết kiệm về thời gian, cơ sở vật chất. Không ngừng tũ dƣỡng rèn luyện phẩm
chất đạo đức, lối sống lành mạnh, ứng xử có văn hóa và đồng thời phát huy tốt truyền
thống của nhà trƣờng.
3. Học tập và làm theo tƣ tƣởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh trong giai
đoạn hiện nay
Phẩm chất đạo đức Hồ Chí Minh
Suốt đời vì dân, vì nước, quan điểm: “trung với nƣớc, hiếu với dân” là tôn chỉ,
nguyên tắc hoạt động xuyên suốt cuộc đời cách mạng của Ngƣời; tấm gƣơng đạo đức Hồ
Chí Minh là tấm gƣơng của một con ngƣời cả đời phấn đấu hy sinh, tất cả vì dân, vì
nƣớc, vì hạnh phúc con ngƣời.Hồ Chí Minh chỉ có một ham muốn, ham muốn tột bậc, là
làm sao nƣớc nhà đƣợc hoàn toàn độc lập, dân ta đƣợc hoàn toàn tự do, đồng bào ai cũng
có cơm ăn, áo mặc, ai cũng đƣợc học hành. Nói chuyện với đồng bào trƣớc khi sang thăm
Pháp (ngày 30-5-1946), Hồ Chí Minh khẳng định: Cả đời tôi chỉ có một mục đích, là
phấn đấu cho quyền lợi Tổ quốc và hạnh phúc của quốc dân. Những khi tôi ẩn nấp nơi
núi non, hoặc ra vào chốn tù tội, xông pha sự hiểm nghèo - là vì mục đích đó. Đến lúc
nhờ quốc dân đoàn kết, tranh đƣợc chính quyền, ủy thác cho tôi gánh việc Chính phủ, tôi
lo lắng đêm ngày, nhẫn nhục cố gắng - cũng vì mục đích đó, bất kỳ bao giờ, bất kỳ ở đâu,
tôi cũng chỉ đeo đuổi một mục đích, làm cho ích quốc lợi dân.
Ý chí và nghị lực tinh thần to lớn, vượt qua mọi thử thách, khó khăn để đạt được
mục đích, đƣợc nuôi dƣỡng bởi truyền thống đạo đức của dân tộc, ở Hồ Chí Minh đã hình
thành một lý tƣởng và hoài bão đúng đắn, tạo ra động lực cho Ngƣời vƣợt qua mọi thử
thách, chông gai để đƣa cách mạng đi đến thắng lợi cuối cùng. Trên các chặng đƣờng
cách mạng qua năm châu, bốn biển, Hồ Chí Minh sống một cuộc sống kham khổ, khó
khăn, ý chí và nghị lực tinh thần to lớn của Hồ Chí Minh trƣởng thành qua thực tiễn cách
mạng, kết hợp với một niềm tin, một tinh thần lạc quan từ trong tâm hồn của Ngƣời.
Trong cuộc đời hoạt động cách mạng, Hồ Chí Minh từng bị tù đày nhiều nơi, nhƣng vẫn

Trang 84/136
luôn giữ thái độ lạc quan, tin tƣởng vào sức mạnh của con ngƣời, vào cuộc sống, chính
nghĩa, với ý chí, nghị lực tinh thần to lớn, vƣợt qua mọi thử thách, khó khăn.
Hết lòng thương yêu, quý trọng, phục vụ nhân dân,là một tấm gƣơng mẫu mực phục
vụ nhân dân, Hồ Chí Minh ý thức rõ rằng, cán bộ phải có trách nhiệm với dân, làm cán
bộ chứ không phải quan cách mạng, cho nên từ việc nhỏ đến lớn đều phải vì nhân dân; ở
bất kỳ cƣơng vị nào cũng phải vì nhân dân mà phục vụ. “Làm Chủ tịch nước mệt
lắm.Trăm việc đều phải lo.Trời mưa, trời nắng, gió bão…, chưa ai lo, mình đã phải
lo.Các cháu choẹt mắt, chưa ai lo, mình đã phải lo”. Hồ Chí Minh định nghĩa cái gì có
lợi cho nhân dân, cho dân tộc là chân lý, và Ngƣời xem phục vụ nhân dân là phục tùng
chân lý; làm công bộc cho dân là một việc làm cao thƣợng.Hồ Chí Minh dặn dò: “Chúng
ta phải yêu dân, kính dân thì dân mới yêu ta, kính ta”. Hồ Chí Minh là ngƣời thấu hiểu
dân tình, chăm lo dân sinh, nâng cao dân trí để không ngừng thực hành dân chủ cho dân,
ngày đêm Ngƣời đau đáu một điều là “giành đƣợc độc lập rồi, thì phải làm cho dân đƣợc
ăn no mặc ấm”,nếu không, nền độc lập đó chẳng có giá trị gì; để dân đói, dân rét thì Đảng
và Chính phủ có lỗi với dân.
Nhân ái, vị tha, khoan dung, nhân hậu, luôn hết mực vì con người, Mohamed
Lamari, nguyên Đại sứ đặc mệnh toàn quyền Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Angiêri tại
Việt Nam, từng khẳng định: “Ƣu điểm lớn nhất của Chủ tịch Hồ Chí Minh là không chỉ
đấu tranh cho một lá cờ, cho một sự giải phóng ở bề mặt bên ngoài, Ngƣời muốn tiến
hành một cuộc chiến đấu cho phẩm giá con ngƣời, cho sự giải phóng và phúc lợi của toàn
dân và nhờ thế mà cuộc cách mạng do Ngƣời phát động đã mang tầm cỡ thế giới...”.Lòng
khoan dung nhân ái của Hồ Chí Minh luôn dành hết mực cho mọi kiếp ngƣời, Ngƣời cảm
thấy rất đau khổ khi nhìn thấy những thanh niên Mỹ chết một cách vô ích ở Việt
Nam,hiếm có một lãnh tụ nào trong chiến tranh mà lại thấy đƣợc máu nào cũng là máu,
ngƣời nào cũng là ngƣời, đều quý nhƣ nhau. Ngay đối với kẻ xâm lƣợc đã gây nên bao
đau thƣơng cho dân tộc mình, gây ra bao tội ác đối với nhân dân, nhƣng khi bị bắt, Ngƣời
vẫn căn dặn cán bộ, chiến sĩ ta phải đối xử với họ một cách khoan hồng, phải làm cho thế
giới thấy rằng dân tộc Việt Nam là một dân tộc văn minh, tiến bộ, văn minh hơn bọn đi
giết ngƣời, cƣớp nƣớc.
Cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư, đời riêng trong sáng, nếp sống giản dị và hết
sức khiêm tốn.Hồ Chí Minh là tấm gƣơng sáng về thực hành tiết kiệm trong ăn, mặc, ở, đi
lại... Mọi cái ở Ngƣời đƣợc sử dụng một cách hợp lý, tiết kiệm đã trở thành nếp sống,

Trang 85/136
sinh hoạt, thành giá trị văn hoá, triết lý nhân sinh, biểu trƣng của lối sông văn minh, hiện
đại làm cơ sở cho việc thực hiện tinh thần nhân văn cao cả trong thế giới còn nghèo đói,
khó khăn, vật lộn để sinh tồn và phát triển.Giữ mình liêm khiết, trong sạch, Hồ Chí Minh
sống trung thực, chân thành với chính mình và với ngƣời khác, luôn tôn trọng nhân cách
ngƣời khác, Ngƣời biết nâng con ngƣời lên, khuyến khích, động viên để con ngƣời thấy
rõ giá trị đích thực của cuộc sống, có khát vọng sống.
Phong cách Hồ Chí Minh
Nói phong cách Hồ Chí Minh là nói đến những đặc trƣng giá trị, mang đậm dấu ấn
Hồ Chí Minh, gắn liền với tƣ tƣởng, đạo đức của Ngƣời; thể hiện một nhân cách lớn, siêu
việt, trí tuệ lỗi lạc, đạo đức trong sáng, nhân văn. Đó là phong cách của một vĩ nhân, một
chiến sĩ cộng sản lỗi lạc, một nhà văn hóa lớn.
Phong cách Hồ Chí Minh đƣợc thể hiện trong mọi lĩnh vực sống và hoạt động của
Ngƣời, tạo thành một chỉnh thể nhất quán, có giá trị khoa học, đạo đức và thẩm mỹ.
Phong cách Hồ Chí Minh gồm những điểm nổi bật sau đây:
Về phong cách tư duy, bao gồm: phong cách tƣ duy khoa học, cách mạng và hiện
đại; phong cách tƣ duy độc lập, tự chủ, sáng tạo; phong cách tƣ duy hài hoà, uyển
chuyển, có lý có tình. Hồ Chí Minh luôn biết xuất phát từ cái chung, cái nhân loại, từ
những chân lý phổ biến, những “lẽ phải không ai chối cãi đƣợc” để nhận thức và lý giải
những vấn đề của thực tiễn.
Về phong cách làm việc, bao gồm: phong cách làm việc khoa học. Hồ Chí Minh yêu
cầu làm việc gì cũng phải điều tra, nghiên cứu, thu thập thông tin, số liệu, để nắm chắc
thực chất tình hình, “Đảng có hiểu rõ tình hình, thì đặt chính sách mới đúng”; phong cách
làm việc có kế hoạch. Ngƣời dạy, trong việc đặt kế hoạch “không nên tham lam, phải
thiết thực, vừa sức, từ thấp đến cao”, “chớ làm kế hoạch đẹp mắt, to tát, kể hàng triệu,
nhƣng không thực hiện đƣợc”; phong cách làm việc đúng giờ, Hồ Chí Minh quý thời gian
của mình bao nhiêu thì cũng quý thời gian của ngƣời khác bấy nhiêu. Ngƣời thƣờng
không để ai phải đợi mình, chủ động đến trƣớc nếu có thể; phong cách đổi mới, sáng tạo,
không chấp nhận lối cũ, đƣờng mòn. Ngƣời nói: Tƣ tƣởng bảo thủ nhƣ là sợi dây cột
chân, cột tay ngƣời ta..., muốn tiến bộ phải có tinh thần mạnh dạn, dám nghĩ, dám làm.
Về phong cách lãnh đạo, thể hiện qua việc: tuân thủ nghiêm ngặt nguyên tắc tập
trung dân chủ, tập thể lãnh đạo, cá nhân phụ trách; đi đúng đƣờng lối quần chúng, lắng
nghe ý kiến của đảng viên, của nhân dân, của những ngƣời “không quan trọng”. Theo

Trang 86/136
Ngƣời, phải biết động viên, khuyến khích khiến cho cán bộ cả gan nói, cả gan đề ra ý
kiến, tức là phải làm cho cấp dƣới không sợ nói sự thật và cấp trên không sợ nghe sự thật;
phải tổ chức việc kiểm tra, kiểm soát cho tốt. Trong giai đoạn 10 năm xây dựng chủ
nghĩa xã hội ở miền Bắc (1955-1965) không quản tuổi cao, công việc bề bộn, Ngƣời đã
thực hiện hơn 700 lƣợt đi thăm các địa phƣơng, công trƣờng, xí nghiệp, hợp tác xã, đơn
vị bộ đội để thăm hỏi chiến sĩ và đồng bào và xem xét tình hình, kiểm tra công việc. Về
phong cách nêu gƣơng, Ngƣời đòi hỏi, mỗi cán bộ, đảng viên phải làm kiểu mẫu trong
công tác và lối sống, trong mọi lúc, mọi nơi, nói phải đi đôi với làm để quần chúng noi
theo.
Về phong cách diễn đạt, đƣợc thể hiện qua: cách nói, cách viết giản dị, cụ thể, thiết
thực; diễn đạt ngắn gọn, cô đọng, hàm súc, trong sáng và sinh động, có lƣợng thông tin
cao. Bác Hồ thƣờng viết ngắn: “Pháp chạy, Nhật hàng, vua Bảo Đại thoái vị”,chỉ với 9
chữ mà Bác đã khái quát đƣợc cả ba giai đoạn đầy biến động của đất nƣớc. Nhiều câu
Bác đúc kết lại nhƣ châm ngôn: “Nƣớc lấy dân làm gốc”, “Không có gì quý hơn độc lập,
tự do”...; sinh động, gần gũi với cách nghĩ của quần chúng, gắn với những hình ảnh ví
von, so sánh cụ thể. Ngƣời dùng hình ảnh “con đỉa hai vòi” để nói về bản chất của chủ
nghĩa đế quốc, hoặc ví “lý luận nhƣ cái tên, thực hành nhƣ cái đích” để bắn...Phong cách
diễn đạt của Bác luôn luôn biến hoá, nhất quán mà đa dạng, Bác dạy: “Mỗi tƣ tƣởng, mỗi
câu nói, mỗi chữ viết, phải tỏ rõ cái tƣ tƣởng và lòng ƣớc ao của quần chúng”.
Về phong cách ứng xử, đƣợc thể hiện qua việc: khiêm tốn, nhã nhặn, lịch thiệp;
chân tình, nồng hậu, tự nhiên; linh hoạt, chủ động, biến hoá; vui vẻ hoà nhã, xoá nhoà
mọi khoảng cách...Với phong cách ứng xử đó đã lý giải vì sao, mỗi khi Bác Hồ xuất hiện
ở đâu là ở đó rộn lên niềm vui và tiếng cƣời hồ hởi không dứt.
Về phong cách sinh hoạt, bao gồm: phong cách sống cần kiệm, liêm chính; phong
cách sống hài hoà, nhuần nhuyễn giữa văn hoá Đông – Tây, nhƣng luôn giữ vững, yêu
quý và tự hào về văn hoá Việt Nam; tôn trọng quy luật tự nhiên, gắn bó với thiên nhiên
CÂU HỎI ÔN TẬP
1. Tƣ tƣởng Hồ Chí Minh là gì? Trình bày cơ sở hình thành tƣ tƣởng Hồ Chí Minh?
2. Phân tích Tƣ tƣởng về đạo đức cách mạng, cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tƣ
tƣởng Hồ Chí Minh? Liên hệ thực tiễn bản thân?
3. Trình bày sự cần thiết phải học tập và làm theo tƣ tƣởng, đạo đức, phong cách Hồ
Chí Minh? Liên hệ bản thân?

Trang 87/136
5. Trình bày những nội dung về phẩm chất đạo đức và phong cách Hồ Chí Minh.
Nội dung nào anh (chị) cảm thấy tâm đắc nhất?
Chủ đề thảo luận số 8: Là sinh viên trƣờng Cao Thắng anh chị cần phải làm gì để
học tập và làm theo phong cách làm việc Hồ Chí Minh?
Chủ đề thảo luận số 9: Vì sao sinh viên Cao Thắng phải rèn luyện đạo đức cách
mạng Hồ Chí Minh?

Trang 88/136
Bài 8: ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM
VÀ ĐƢỜNG LỐI CÁCH MẠNG CỦA ĐẢNG
Bài học nhằm nhằm làm cho sinh viên biết đƣợc hoàn cảnh ra đời của Đảng cộng
sản Việt Nam và đƣờng lối cách mạng của Đảng; hiểu đƣợc những nội dung cơ bản
đƣờng lối cách mạng của Đảng Cộng sản Việt Nam qua các thời kỳ lãnh đạo cách mạng
Việt Nam, đặc biệt là trong thời kỳ đổi mới; qua đó, xây dựng niềm tin vào sự lãnh đạo
của Đảng Cộng sản Việt Nam
I. Hoàn cảnh lịch sử ra đời của Đảng Cộng sản Việt Nam
1. Hoàn cảnh lịch sử
- Tình hình thế giới
Từ cuối thế kỷ XIX, chủ nghĩa tƣ bản đã chuyển từ tự do cạnh tranh sang giai đoạn
độc quyền (chủ nghĩa đế quốc) và từng bƣớc thiết lập đƣợc vai trò thống trị trên toàn thế
giới. Chính sách cai trị của chủ nghĩa đế quốc đã làm cho mâu thuẫn giữa nhân dân lao
động trên toàn thế giới với chủ nghĩa đế quốc triển ngày tăng, phong trào cách mạng thế
giới phát triển ngày càng mạnh mẽ.
Cuộc đấu tranh của nhân dân thế giới chống lại chủ nghĩa đế quốc diễn ra ở nhiều
nơi trong đó tiêu biểu nhất là cách mạng tháng Mƣời Nga (1917). Cách mạng tháng Mƣời
Nga thắng lợi, nhà nƣớc Xôviết dựa trên nền tảng liên minh công - nông ra đời đã đƣa thế
giới bƣớc vào một giai đoạn mới: giai đoạn đấu tranh chống chủ nghĩa đế quốc, giải
phóng dân tộc.
Sau thắng lợi của cách mạng tháng Mƣời Nga, năm 1919, Quốc tế Cộng sản (Quốc
tế III) đƣợc thành lập đã thúc đẩy sự phát triển mạnh mẽ của phong trào cộng sản và công
nhân quốc tế.
- Tình hình trong nƣớc
Năm 1858, thực dân Pháp xâm lƣợc nƣớc ta, đến năm 1884 chúng đã thiết lập đƣợc
sự thống trị trên toàn cõi Việt Nam. Quá trình khai thác thuộc địa triệt để của thực dân
Pháp đã làm cho xã hội Việt Nam có những biến đổi lớn, hai giai cấp mới ra đời: giai cấp
công nhân và giai cấp tƣ sản. Nƣớc ta từ chế độ phong kiến chuyển sang chế độ thuộc địa
nửa phong kiến. Trong xã hội tồn tại hai mâu thuẫn cơ bản: mâu thuẫn giữa toàn thể dân
tộc Việt Nam với thực dân Pháp xâm lƣợc và mâu thuẫn giữa nhân dân ta, chủ yếu là
nông dân với giai cấp địa chủ phong kiến tay sai, chỗ dựa cho bộ máy thống trị và bóc lột
của chủ nghĩa thực dân Pháp. Hai mâu thuẫn đó có quan hệ chặt chẽ với nhau, trong đó

Trang 89/136
mâu thuẫn giữa dân tộc ta với thực dân Pháp xâm lƣợc là mâu thuẫn chủ yếu. Vì vậy,
nhiệm vụ chống thực dân Pháp xâm lƣợc và nhiệm vụ chống địa chủ phong kiến tay sai
không tách rời nhau. Đấu tranh giành độc lập dân tộc phải gắn chặt với đấu tranh đòi
quyền dân sinh, dân chủ. Đó là yêu cầu của cách mạng Việt Nam đặt ra, cần đƣợc giải
quyết.
Cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX, nhiều cuộc khởi nghĩa của nhân dân dƣới sự lãnh
đạo của các sỹ phu yêu nƣớc đi theo khuynh hƣớng phong kiến, tiểu tƣ sản, tƣ sản và
nông dân bùng nổ mạnh mẽ nhƣng đều thất bại. Những thất bại đó đã đặt cách mạng Việt
Nam lâm vào tình trạng khủng hoảng sâu sắc về đƣờng lối và giai cấp lãnh đạo. Nhiệm
vụ lịch sử đặt ra là phải tìm một con đƣờng cách mạng mới, với một giai cấp lãnh đạo có
đủ điều kiện là đại biểu quyền lợi cho toàn dân tộc, của nhân dân, có đủ uy tín và năng
lực để lãnh đạo cách mạng Việt Nam đi đến thắng lợi.
Ngày 5/6/1911, ngƣời thanh niên yêu nƣớc Nguyễn Tất Thành (Sau này là Nguyễn
Ái Quốc - Hồ Chí Minh) với tên gọi Văn Ba, đã rời Tổ quốc sang phƣơng Tây tìm đƣờng
cứu nƣớc. Trong hành trình của mình, Ngƣời đã đi qua nhiều nơi, có cơ hội tìm hiểu các
cuộc cách mạng tƣ sản điển hình trên thế giới nhƣ: Cách mạng Mỹ (1776), Cách mạng
Pháp (1789)… Ngƣời đi đến kết luận: con đường cách mạng tư sản không thể đưa lại độc
lập và hạnh phúc thực sự cho nhân dân các nước nói chung, nhân dân Việt Nam nói
riêng.
Tháng 7/1920, Nguyễn Ái Quốc đọc bản Sơ thảo lần thứ nhất những luận cương về
vấn đề dân tộc và vấn đề thuộc địa của Lênin. Ngƣời tìm thấy trong luận cƣơng của
Lênin lời giải đáp về con đƣờng giải phóng cho dân tộc Việt Nam. Tháng 12/1920,
Nguyễn Ái Quốc gia nhập Quốc tế III và tham gia thành lập Đảng Cộng sản Pháp. Những
sự kiện này đánh dấu bƣớc ngoặt trong cuộc đời hoạt động cách mạng của Nguyễn Ái
Quốc: từ ngƣời yêu nƣớc trở thành ngƣời cộng sản. Ngƣời khẳng định: “Muốn cứu nước
và giải phóng dân tộc không có con đường nào khác con đường cách mạng vô sản”. Từ
đây, Nguyễn Ái Quốc xúc tiến truyền bá chủ nghĩa Mác - Lênin, vạch phƣơng hƣớng
chiến lƣợc cho cách mạng Việt Nam và chuẩn bị điều kiện để thành lập Đảng Cộng sản
Việt Nam.
Năm 1925 tại Quảng Châu, Trung Quốc, Nguyễn Ái Quốc thành lập Hội Việt Nam
cách mạng thanh niên, tích cực truyền bá chủ nghĩa Mác - Lênin vào phong trào công
nhân và phong trào yêu nƣớc Việt Nam. Phong trào yêu nƣớc của nhân dân Việt Nam

Trang 90/136
theo khuynh hƣớng vô sản phát triển ngày càng mạnh mẽ đã dẫn tới ba tổ chức cộng sản
đầu tiên ở Việt Nam ra đời: Đông Dƣơng cộng sản đảng (6/1929), An Nam cộng sản
đảng (8/1929) và Đông Dƣơng cộng sản liên đoàn (1/1930). Ba tổ chức có chung mục
đích chống Pháp, giành độc lập dân tộc nhƣng tổ chức và hoạt động độc lập,phân tán,
chia rẽ.
2. Hội nghị thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam
Đến cuối năm 1929 những ngƣời cách mạng Việt Nam trong các tổ chức cộng
sản đã nhận thức đƣợc sự cần thiết và cấp bách phải thành lập một đảng cộng sản
thống nhất, chấm dứt sự chia rẽ trong phong trào cộng sản ở Việt Nam. Điều này phản
ánh quá trình tự ý thức của những ngƣời cộng sản Việt Nam về nhu cầu phải thống
nhất các tổ chức cộng sản thành một đảng cộng sản duy nhất.
Nhận đƣợc tin về sự chia rẽ của những ngƣời Cộng sản ở Đông Dƣơng, Nguyễn Ái Quốc
rời Xiêm đến Trung Quốc. Ngƣời chủ trì hội nghị Hợp nhất tại Cửu Long, Hƣơng Cảng,
Trung Quốc (Hội nghị bắt đầu từ ngày 06/01/1930). Hội nghị quyết định hợp nhất các tổ
chức Cộng sản Đảng thành một đảng duy nhất lấy tên là Đảng Cộng sản Việt Nam, thông
qua Cƣơng lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng do Nguyễn Ái Quốc soạn thảo. Cƣơng lĩnh
xác định:
Phương hướng chiến lược của cách mạng Việt Nam là "làm tƣ sản dân quyền cách
mạng và thổ địa cách mạng để đi tới xã hội cộng sản".
Nhiệm vụ cụ thể của cách mạng tư sản dân quyền và thổ địa cách mạng bao gồm
hai nội dung dân tộc và dân chủ, chống đế quốc, chống phong kiến, song nổi lên hàng
đầu là nhiệm vụ chống đế quốc giành độc lập dân tộc.
Về lực lượng cách mạng, chủ trƣơng tập hợp lực lƣợng bao gồm toàn dân tộc, trong
đó lực lƣợng chính là công nhân, nông dân.
Lãnh đạo cách mạng là giai cấp công nhân thông qua Đảng Cộng sản.
Mối quan hệ của cách mạng Việt Nam với phong trào cách mạng thế giới, cách
mạng Việt Nam là một bộ phận của cách mạng thế giới.
Sự ra đời của Đảng Cộng sản Việt Nam theo một đƣờng lối chính trị đúng đắn tạo
nên một sự thống nhất về tƣ tƣởng, chính trị, tổ chức và hành động của phong trào cách
mạng cả nƣớc, hƣớng tới mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội.

Trang 91/136
Sự ra đời của Đảng Cộng sản Việt Nam là bƣớc ngoặt vĩ đại trong lịch sử cách
mạng nƣớc ta, chấm dứt thời kỳ khủng hoảng về đƣờng lối cứu nƣớc, là cơ sở dẫn đến
những thắng lợi oanh liệt và những bƣớc nhảy vọt lớn trong lịch sử dân tộc ta sau này.
Sự ra đời của Đảng Cộng sản Việt Nam với Cƣơng lĩnh, đƣờng lối cách mạng đúng
đắn chứng tỏ giai cấp công nhân Việt Nam đã trƣởng thành, đủ sức lãnh đạo cách mạng.
Sự ra đời của Đảng Cộng sản Việt Nam gắn liền với tên tuổi của Nguyễn Ái Quốc -
Hồ Chí Minh, ngƣời sáng lập, lãnh đạo và rèn luyện Đảng ta.
3. Vai trò của Đảng Cộng sản Việt Nam đối với cách mạng Việt Nam
Đảng Cộng sản Việt Nam là đội tiên phong của giai cấp công nhân, đồng thời là đội
tiên phong của nhân dân lao động và của dân tộc Việt Nam; đại biểu trung thành lợi ích
của giai cấp công nhân, của nhân dân lao động và của dân tộc. Đảng Cộng sản Việt Nam
– Ngƣời tổ chức và lãnh đạo mọi thắng lợi của cách mạng Việt Nam. Vai trò lãnh đạo của
Đảng thể hiện ở từng giai đoạn cách mạng cụ thể:
- Giai đoạn cách mạng giải phóng dân tộc:
Mục đích của cách mạng giải phóng dân tộc là đánh đổ ách thống trị của chủ nghĩa
thực dân, giành độc lập dân tộc và thiết lập chính quyền của nhân dân. Đảng Cộng sản
Việt Nam đã lãnh đạo nhân dân giành đƣợc thắng lợi này chính nhờ đƣờng lối đúng đắn,
phù hợp với yêu cầu của lịch sử.
Trong thời đại đế quốc chủ nghĩa, khi giai cấp tƣ sản vừa bóc lột giai cấp công nhân
ở chính quốc, vừa bóc lột nhân dân thuộc địa, cách mạng giải phóng dân tộc muốn thắng
lợi triệt để phải đi theo con đƣờng cách mạng vô sản. Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng
định: “Muốn cứu nước và giải phóng dân tộc không có con đường nào khác con đường
cách mạng vô sản”. Đảng của giai cấp vô sản ở các nƣớc thuộc địa nắm lấy và giƣơng
cao ngọn cờ giải phóng dân tộc, gắn phong trào giải phóng dân tộc trong nƣớc với phong
trào cách mạng thế giới.Thắng lợi của cách mạng tháng Tám năm 1945 trƣớc hết là thắng
lợi của đƣờng lối cách mạng giải phóng dân tộc đúng đắn của Đảng Cộng sản Việt Nam.
- Vai trò của Đảng trong sự nghiệp bảo vệ độc lập dân tộc và xây dựng, phát triển
đất nƣớc:
V.I.Lênin khẳng định: Giành đƣợc chính quyền đã khó, giữ đƣợc chính quyền còn
khó hơn nhiều. Sau thắng lợi của cách mạng giải phóng dân tộc, Đảng Cộng sản là lực
lƣợng duy nhất có thể tập hợp đƣợc đông đảo quần chúng nhân dân để bảo vệ thành quả
cách mạng. Có đƣợc khả năng đó là do Đảng gồm những ngƣời tiên tiến nhất của giai cấp

Trang 92/136
và dân tộc, trung thành, kiên định với lợi ích của dân tộc, luôn đi đầu, sẵn sàng hy sinh vì
nền độc lập dân tộc nên đƣợc nhân dân tin tƣởng và đi theo.
Trong sự nghiệp xây dựng và phát triển đất nƣớc, Đảng Cộng sản Việt Nam có khả
năng to lớn để lãnh đạo nhân dân xây dựng xã hội mới vì con đƣờng cách mạng do Đảng
lãnh đạo phù hợp với thời đại và quy luật phát triển của xã hội. Đảng không có mục đích
tự thân. Ngoài lợi ích của giai cấp công nhân, của nhân dân lao động, lợi ích của toàn dân
tộc Việt Nam, lợi ích của nhân dân tiến bộ trên thế giới, Đảng không có lợi ích nào khác.
Lịch sử cách mạng Việt Nam đã chứng tỏ không có một tổ chức chính trị nào có thể
thay thế đƣợc vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam. Thực tế trong quá trình đấu
tranh giành và giữ chính quyền, có những lực lƣợng chính trị tham gia cùng với Đảng,
nhƣng khi cách mạng gặp khó khăn, họ đều chùn bƣớc. Chỉ có Đảng Cộng sản Việt Nam
trung thành với lợi ích của giai cấp vô sản, của dân tộc, sẵn sàng chiến đấu hy sinh vì lợi
ích đó. Biết bao đảng viên và quần chúng của Đảng đã suốt đời phấn đấu, hy sinh vì lý
tƣởng cao cả, vì độc lập, tự do của Tổ quốc và chủ nghĩa xã hội. Sự lãnh đạo đúng đắn
của Đảng là nhân tố hàng đầu quyết định thắng lợi của cách mạng Việt Nam.
II. Đƣờng lối cách mạng của Đảng Cộng sản Việt Nam
1. Khái quát đƣờng lối cách mạng từ năm 1930 đến năm 1986
a. Đƣờng lối đấu tranh giành chính quyền (1930 - 1945)
- Chủ trƣơng đấu tranh trong những năm 1930 - 1935
Sau Hội nghị thành lập Đảng, Cƣơng lĩnh và Điều lệ của Đảng đƣợc bí mật đƣa vào
quần chúng. Phong trào cách mạng phát triển mạnh và tiến dần lên cao trào. Ban Chấp
hành Trung ƣơng lâm thời của Đảng vừa thành lập đã bƣớc ngay vào một cuộc thử thách
toàn diện trên cƣơng vị đội tiên phong lãnh đạo cuộc đấu tranh mới của dân tộc.
Giữa lúc thực dân Pháp đang ráo riết đàn áp cao trào cách mạng, tháng 10/ 1930,
Hội nghị Ban Chấp hành Trung ƣơng Đảng lần thứ nhất họp tại Hƣơng Cảng (Trung
Quốc). Hội nghị do Trần Phú chủ trì quyết định: Đổi tên Đảng Cộng sản Việt Nam thành
Đảng Cộng sản Đông Dơng. Thông qua Luận cương chính trị để thay thế cho Cƣơng
lĩnh. Thông Điều lệ Đảng, bầu Ban chấp hành trung ƣơng chính thức, đồng chí Trần Phú
đƣợc bầu làm Tổng Bí thƣ.
Luận cƣơng đã kế thừa và phát triển những quan điểm đúng đắn đƣợc thể hiện
trong Cƣơng lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng do Nguyễn Ái Quốc soạn thảo. Tuy nhiên
Luận cƣơng cũng bộc lộ những hạn chế: Đã đặt nhiệm vụ chống phong kiến lên trên

Trang 93/136
nhiệm vụ chống đế quốc; đánh giá không đúng mặt tích cực của địa chủ vừa và nhỏ, tƣ
sản dân tộc và tiểu tƣ sản nên đã hạn chế đoàn kết các lực lƣợng cách mạng.
Từ năm 1931, thực dân Pháp tăng cƣờng khủng bố cách mạng, hàng loạt tổ chức
Đảng bị phá vỡ, hầu hết uỷ viên Trung ƣơng Đảng trong nƣớc bị bắt. Ban lãnh đạo Đảng
ở nƣớc ngoài đã kịp thời ra bản Chương trình hành động (6/1932) nhằm khôi phục Đảng
và phong trào cách mạng.
Đầu năm 1935, sau khi hệ thống tổ chức của Đảng đƣợc xây dựng và chắp nối lại từ
cơ sở đến Trung ƣơng, Ban chỉ huy ở ngoài của Đảng quyết định triệu tập Đại hội Đảng.
Đại hội đại biểu lần thứ nhất của Đảng (3/1935) họp tại Ma Cao (Trung Quốc) đã đánh
giá tình hình cách mạng; vạch ra chủ trƣơng củng cố và phát triển Đảng ở những vùng
tập trung công nhân, phát triển các tổ chức quần chúng; mở rộng tuyên truyền chống đế
quốc, chống chiến tranh, ủng hộ Liên Xô và cách mạng Trung Quốc. Đại hội đã bầu Lê
Hồng Phong làm Tổng Bí thƣ của Đảng. Đại hội đại biểu lần thứ nhất đánh dấu sự phục
hồi của Đảng Cộng sản Đông Dƣơng và phong trào cách mạng Việt Nam.
- Chủ trƣơng đấu tranh trong những năm 1936 - 1939
Trƣớc những biến chuyển của tình hình trong nƣớc và thế giới, đặc biệt dƣới ánh
sáng của chủ trƣơng chuyển hƣớng chiến lƣợc của Đại hội lần VII Quốc tế Cộng sản
(7/1935), trong những năm 1936-1939 Ban Chấp hành Trung ƣơng Đảng Cộng sản Đông
Dƣơng đã các hội nghị Trung ƣơng: lần thứ hai (7/1936), lần thứ ba (3/1937), lần thứ tƣ
(9/1937) và lần thứ năm (3/1938) đề ra những chủ trƣơng mới.
Chủ trƣơng mới của Đảng trong những năm 1936 - 1939 là: Đấu tranh đòi quyền
dân chủ, dân sinh. Đảng xác định kẻ thù trƣớc mắt là bọn phản động thuộc địa và bè lũ
tay sai. Nhiệm vụ trƣớc mắt là chống phát xít, chống chiến tranh đế quốc, chống bọn
phản động thuộc địa và tay sai, đòi tự do, dân chủ, cơm áo và hòa bình. Đảng chủ trƣơng
thành lập Mặt trận nhân dân phản đế Đông Dương (Đến tháng 3/1938 đổi tên thành Mặt
trận dân chủ Đông Dương); đoàn kết chặt chẽ với giai cấp công nhân và Đảng Cộng sản
Pháp, “ủng hộ Mặt trận nhân dân Pháp”, “ủng hộ Chính phủ Mặt trận nhân dân Pháp”;
chuyển hình thức tổ chức bí mật không hợp pháp sang các hình thức tổ chức và đấu tranh
công khai, nửa công khai, hợp pháp và nửa hợp pháp.
Đƣờng lối cách mạng của Đảng những năm 1936 - 1939 đánh dấu bƣớc trƣởng
thành về chính trị, tƣ tƣởng, thể hiện bản lĩnh và tinh thần độc lập tự chủ, sáng tạo của
Đảng. Cao trào vận động dân chủ Đông Dƣơng là “hiếm có ở một xứ thuộc địa” đƣợc

Trang 94/136
Đảng ta ví nhƣ cuộc Tổng diễn tập lần thứ hai cho thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám
1945.
- Chủ trƣơng đấu tranh trong những năm 1939 - 1945
Trên thế giới, ngày 1/9/1939 chiến tranh thế giới lần thứ hai bùng nổ. Phátxít Đức
lần lƣợt chiếm các nƣớc châu Âu. Tháng 6/1940 Đức tấn công Pháp, chính phủ Pháp đầu
hàng Đức. Ngày 22/6/1941, Đức tấn công Liên Xô làm cho tính chất chiến tranh đế quốc
chuyển thành chiến tranh giữa các lực lƣợng dân chủ do Liên Xô làm trụ cột với các lực
lƣợng phát xít do Đức cầm đầu.
Ở trong nƣớc, thực dân Pháp thi hành chính sách thời chiến rất trắng trợn, đàn áp
phong trào đấu tranh của nhân dân ta, làm cho phong trào cách mạng bị tổn thất. Tháng
9/1940, phát xít Nhật vào Đông Dƣơng, thực dân Pháp đầu hàng và cấu kết với Nhật để
thống trị và bóc lột nhân dân ta, làm cho nhân dân ta phải chịu cảnh “một cổ hai tròng”.
Mâu thuẫn giữa dân tộc ta với Pháp - Nhật ngày càng trở nên gay gắt hơn bao giờ hết.
Kể từ khi Chiến tranh thế giới thứ hai bùng nổ, Ban Chấp hành Trung ƣơng Đảng
đã họp Hội nghị lần thứ sáu Hội nghị Trung ƣơng Đảng lần thứ 6 (11/ 1939), lần thứ 7
(11/1940), chủ yếu là Hội nghị lần thứ 8 (5/1941) do Nguyễn Ái Quốc chủ trì đã hoàn
thiện đƣờng lối cách mạng của Đảng với nội dung chủ yếu là:
Một là, đƣa nhiệm vụ giải phóng dân tộc lên hàng đầu
Hai là, quyết định thành lập Mặt trận Việt Minh để đoàn kết, tập hợp lực lƣợng cách
mạng nhằm mục tiêu giải phóng dân tộc.
Ba là, quyết định xúc tiến chuẩn bị khởi nghĩa vũ trang coi đây là nhiệm vụ trung
tâm của Đảng và nhân dân ta trong giai đoạn hiện tại.
Đƣờng lối giƣơng cao ngọn cờ giải phóng dân tộc, đặt nhiệm vụ dân tộc lên hàng
đầu là ngọn cờ dẫn đƣờng cho nhân dân ta tiến lên giành thắng lợi trong sự nghiệp đánh
Pháp, đuổi Nhật, giành độc lập cho dân tộc và tự do cho nhân dân.
Thực hiện Nghị quyết của Đảng và lời kêu gọi của Nguyễn Ái Quốc, các cấp bộ
đảng và Mặt trận Việt Minh đã tích cực xây dựng các tổ chức cứu quốc của quần chúng,
đẩy nhanh phát triển lực lƣợng chính trị và phong trào đấu tranh của quần chúng. Ngày
25/10/1941 Mặt trận Việt Minh tuyên bố ra đời. Từ đầu nguồn cách mạng Pắc Bó, Việt
Minh đã lan tỏa khắp nông thôn, thành thị, có hệ thống từ trung ƣơng đến cơ sở.Trên cơ
sở lực lƣợng chính trị của quần chúng, Đảng đã chỉ đạo việc vũ trang cho quần chúng
cách mạng, từng bƣớc tổ chức, xây dựng lực lƣợng vũ trang nhân dân.

Trang 95/136
Vào cuối năm 1944 đầu năm 1945, chiến tranh thế giới thứ hai bƣớc vào giai đoạn
kết thúc. Hồng quân Liên Xô quét sạch phátxít Đức ra khỏi lãnh thổ của mình và tiến nhƣ
vũ bão về phía Béclin. Phátxít Nhật lâm vào tình trạng nguy khốn.
Ở trong nƣớc, mâu thuẫn Nhật - Pháp ngày càng gay gắt, đêm 9/3/1945 Nhật đảo
chính Pháp để độc chiếm Đông Dƣơng. Ngày 12/3/1945 Đảng ra chỉ thị Nhật - Pháp bắn
nhau và hành động của chúng ta với chủ trƣơng phát động cao trào kháng Nhật cứu
nƣớc. Chỉ thị xác định kẻ thù cụ thể, trƣớc mắt và duy nhất của nhân dân Đông Dƣơng
sau cuộc đảo chính là phát xít Nhật. Nhiệm vụ trƣớc mắt là phát động một cao trào kháng
Nhật cứu nƣớc mạnh mẽ làm tiền đề cho cuộc tổng khởi nghĩa. Phƣơng châm đấu tranh
lúc này là phát động chiến tranh du kích, giải phóng từng vùng, mở rộng căn cứ địa. Chỉ
thị cũng dự kiến thời cơ để giành chính quyền.
Chỉ thị Nhật - Pháp bắn nhau và hành động của chúng ta (12/3/1945) thể hiện sự
nhận định sáng suốt, kiên quyết và kịp thời của Đảng ta, là kim chỉ nam cho mọi hành
động của toàn Đảng, của Việt Minh trong cao trào kháng Nhật cứu nƣớc, thúc đẩy tình
thế cách mạng mau chóng chín muồi
Sau tháng 3/1945, cao trào kháng Nhật cứu nƣớc diễn ra mạnh mẽ khắp cả nƣớc.
Tháng 5/1945, Hội nghị quân sự Bắc kỳ chủ trƣơng thành lập Việt Nam giải phóng quân,
phát triển mạnh chiến tranh du kích, mở rộng căn cứ địa cách mạng chuẩn bị Tổng khởi
nghĩa
Bƣớc vào tháng 8/1945, chiến tranh thế giới thứ hai bƣớc vào giai đoạn kết thúc,
phát xít Nhật bất ngờ tuyên bố đầu hàng (14/8/1945). Trƣớc sự phát triển hết sức nhanh
chóng của tình hình, Trung ƣơng quyết định họp hội nghị toàn quốc của Đảng tại Tân
Trào (Tuyên Quang) từ ngày 13 đến 15/8/1945. Hội nghị đã quyết định: Phát động tổng
khởi nghĩa trong cả nƣớc, giành lấy chính quyền từ tay phát xít Nhật và tay sai trƣớc khi
quân Đồng minh vào Đông Dƣơng. Nguyên tắc để chỉ đạo khởi nghĩa là tập trung thống
nhất và kịp thời, phải đánh chiếm ngay những nơi chắc thắng không kể thành phố hay
nông thôn; quân sự và chính trị phải phối hợp; phải làm tan rã tinh thần quân địch và dụ
hàng trƣớc khi đánh…
Ngày 16/8/1945, đại hội quốc dân cũng họp tại Tân Trào, nhất trí tán thành quyết
định tổng khởi nghĩa của Đảng, thông qua 10 chính sách lớn của Việt Minh, quyết định
đặt tên nƣớc là Việt Nam dân chủ cộng hòa, xác định Quốc kỳ, Quốc ca và thành lập Ủy

Trang 96/136
ban giải phóng dân tộc Việt Nam do Hồ Chí Minh làm Chủ tịch. Những quyết định kịp
thời, sáng suốt đó của Đảng trực tiếp dẫn đến thắng lợi cách mạng tháng Tám 1945.
Thắng lợi của cách mạng tháng Tám có ý nghĩa lịch sử
Đối với dân tộc: Thắng lợi của Cách mạng tháng Tám 1945 đã đập tan ách thống trị
của đế quốc và phong kiến, lập ra nƣớc Việt Nam dân chủ cộng hòa; đƣa nƣớc ta từ thuộc
địa thành một nƣớc độc lập tự do, nhân dân ta từ nô lệ thành ngƣời chủ đất nƣớc, Đảng ta
thành Đảng hợp pháp nắm chính quyền; đã đánh dấu bƣớc phát triển nhảy vọt trong lịch
sử dân tộc Việt Nam, mở ra kỷ nguyên mới cho lịch sử dân tộc, kỷ nguyên độc lập tự do.
Cách mạng Tháng Tám 1945 là cuộc cách mạng giải phóng dân tộc điển hình do
Đảng Cộng sản lãnh đạo. Cách mạng tháng Tám 1945 đã chọc thủng một khâu quan
trọng trong hệ thống thuộc địa của chủ nghĩa đế quốc, mở đầu thời kỳ suy sụp và tan rã
không tránh khỏi của chủ nghĩa thực dân cũ, góp phần cống hiến lớn lao vào sự nghiệp
giải trừ chủ nghĩa thực dân và giải phóng dân tộc trên thế giới. Thắng lợi của cách mạng
tháng Tám 1945 đã cổ vũ mạnh mẽ phong trào giải phóng dân tộc ở các nƣớc thuộc địa,
là niềm tự hào chung của nhân dân tiến bộ thế giới.
Cách mạng tháng Tám 1945 thành công xuất phát từ những nuyên nhân sau:
Nguyên nhân khách quan: Kẻ thù trực tiếp của nhân dân ta là phát xít Nhật đã bị
Liên Xô và Đồng minh đánh bại trong chiến tranh thế giới thứ hai, quân đội Nhật ở Đông
Dƣơng mất hết tinh thần chiến đấu, chính phủ bù nhìn thân Nhật rệu rã. Đảng Cộng sản
Đông Dƣơng đã chớp thời cơ đó phát động toàn dân nổi dậy nên đã giành đƣợc thắng lợi
nhanh chóng và ít đổ máu.
Nguyên nhân chủ quan: Cách mạng Tháng Tám 1945 là kết quả và đỉnh cao của 15
năm đấu tranh của toàn dân ta dƣới sự lãnh đạo của Đảng, mà trực tiếp là phong trào giải
phóng dân tộc 1939 - 1945. Cách mạng tháng Tám 1945 thành công do Đảng ta chuẩn bị
lực lƣợng vĩ đại của toàn dân đoàn kết trong Mặt trận Việt Minh, dựa trên cơ sở liên minh
công nông dƣới sự lãnh đạo của Đảng. Thắng lợi của cách mạng Tháng Tám 1945 là nhờ
Đảng có đƣờng lối cách mạng đúng đắn, dày dạn kinh nghiệm đấu tranh, đoàn kết, thống
nhất, nắm đúng thời cơ, chỉ đạo kiên quyết, khôn khéo. Sự lãnh đạo của Đảng là nhân tố
chủ yếu nhất, quyết định thắng lợi của cách mạng tháng Tám 1945. Thắng lợi của cách
mạng tháng Tám 1945 nhờ là có sự hy sinh, chiến đấu oanh liệt của các thế hệ cha anh
không quản ngại xƣơng máu vì nền độc lập tự do của dân tộc.
Những bài học kinh nghiệm rút ra từ cách mạng tháng Tám 1945

Trang 97/136
Một là, xây dựng đƣờng lối cách mạng đúng đắn, giƣơng cao ngọn cờ độc lập dân
tộc, kết hợp nhiệm vụ chống đế quốc và chống phong kiến.
Hai là, đoàn kết toàn dân, lấy liên minh công nông làm nền tảng trong mặt trận dân
tộc thống nhất.
Ba là, có phƣơng pháp cách mạng đúng đắn: kiên quyết sử dụng bạo lực cách
mạng, kết hợp chặt chẽ lực lƣợng chính trị với vũ trang; cô lập kẻ thù; chớp thời cơ, khởi
nghĩa từng phần tiến lên tổng khởi nghĩa.
Bốn là, xây dựng Đảng vững mạnh đủ sức lãnh đạo Tổng khởi nghĩa thắng lợi.
b. Đƣờng lối kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lƣợc (1945 - 1954)
Từ tháng 9/1945, chính quyền cách mạng đƣợc thiết lập trên cả nƣớc nhƣng ở tình
thế hiểm nghèo. Vận mệnh chính quyền non trẻ ví nhƣ “ngàn cân treo sợi tóc”.
Trƣớc tình hình mới, Trung ƣơng Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh đã sáng suốt phân
tích tình thế, dự đoán chiều hƣớng phát triển của các trào lƣu cách mạng trên thế giới và
sức mạnh mới của dân tộc để vạch ra chủ trƣơng và giải pháp đấu tranh nhằm giữ vững
chính quyền bảo vệ nền độc lập tự do vừa giành đƣợc.
Ngày 25/11/1945, Ban Chấp hành Trung ƣơng Đảng ra Chỉ thị Kháng chiến kiến
quốc, vạch con đƣờng đi lên cho cách mạng trong giai đoạn mới. Chỉ thị xác định: Tính
chất của cách mạng Đông Dƣơng lúc này vẫn là cuộc cách mạng dân tộc giải phóng. Kẻ
thù chính của ta lúc này là thực dân Pháp xâm lƣợc. Nhiệm vụ chủ yếu của nhân dân cả
nƣớc ta lúc này là củng cố chính quyền, chống thực dân Pháp xâm lƣợc, bài trừ nội phản,
cải thiện đời sống cho nhân dân.
Chỉ thị Kháng chiến kiến quốc đã giải quyết kịp thời những vấn đề quan trọng về
chỉ đạo chiến lƣợc và sách lƣợc cách mạng khôn khéo trong tình thế vô cùng hiểm nghèo
của nƣớc nhà; chủ trƣơng đó đã phát huy sức mạnh dân tộc, đẩy mạnh kháng chiến, bảo
vệ và xây dựng chế độ mới.
Trên cơ sở phân tích âm mƣu thủ đoạn của các kẻ thù đối với cách mạng Việt Nam,
Đảng ta đã chủ trƣơng hòa hoãn, nhân nhƣợng có nguyên tắc để bảo vệ chính quyền cách
mạng, tránh chiến tranh. Đặc biệt từ tháng 3/1946, Đảng chủ trƣơng hòa hoãn với thực
dân Pháp. Trong quá trình hòa hoãn chúng ta đã ký với Pháp Hiệp định Sơ bộ
(06/3/1946) và Tạm ƣớc (14/9/1946).

Trang 98/136
Đảng và Chính phủ nƣớc Việt NamDân chủ Cộng hoà đã tỏ rõ thiện chí, cố gắng
làm những việc có thể nhằm đẩy lùi chiến tranh, nhƣng với dã tâm cƣớp nƣớc ta một lần
nữa, thực dân Pháp thi hành chính sách việc đã rồi, tăng cƣờng khiêu khích và lấn chiếm.
Trƣớc âm mƣu xâm lƣợc của kẻ thù, ngày 19/12/1946 Ban chấp hành Trung ƣơng
Đảng đã phát động toàn quốc kháng chiến. Đƣờng lối kháng chiến chống thực dân Pháp
có những nội dung cơ bản sau:
Mục đích kháng chiến: Đánh phản động thực dân Pháp xâm lƣợc; giành thống nhất
và độc lập.
Tính chất kháng chiến: Cuộc kháng chiến của ta có tính chất dân tộc giải phóng và
dân chủ mới.
Phƣơng châm kháng chiến: toàn dân, toàn diện, lâu dài, dựa vào sức mình là chính
Triển vọng kháng chiến: mặc dù lâu dài, gian khổ, khó khăn, song nhất định thắng
lợi.
Thực hiện đƣờng lối kháng chiến của Đảng, từ năm 1947 đến năm 1950, Đảng đã
tập trung chỉ đạo cuộc chiến đấu làm thất bại âm mƣu đánh nhanh thắng nhanh, đánh lâu
dài của địch. Đặc biệt là thắng lợi của chiến dịch Biên Giới cuối năm 1950 đã giáng một
đòn nặng nề vào ý chí xâm lƣợc của địch, quân ta giành đƣợc quyền chủ động chiến lƣợc
trên chiến trƣờng chính Bắc bộ, đẩy thực dân Pháp vào thế bị động.
Điều kiện lịch sử đã đặt ra cho Đảng ta các yêu cầu bổ sung và hoàn chỉnh đƣờng
lối cách mạng Việt Nam, đƣa cuộc kháng chiến đến thắng lợi; đặc biệt là yêu cầu Đảng
phải ra công khai lãnh đạo cách mạng. Trƣớc tình hình đó, Đại hội đại biểu toàn quốc lần
thứ II của Đảng (02/1951) đã quyết định thành lập ở mỗi nƣớc Đông Dƣơng một Đảng
Cộng sản riêng. Ở Việt Nam Đảng ra hoạt động công khai, lấy tên là Đảng Lao động Việt
Nam. Thông qua Báo cáo Hoàn thành giải phóng dân tộc, phát triển dân chủ nhân dân,
tiến tới chủ nghĩa xã hội của Trƣờng Chinh. Báo cáo của đồng chí Trƣờng Chinh trình
bày toàn bộ đƣờng lối cách mạng Việt Nam. Đó là đƣờng lối cách mạng dân tộc, dân chủ
nhân dân tiến lên chủ nghĩa xã hội. Đƣờng lối cách mạng Việt Nam đƣợc tiếp tục bổ
sung, phát triển qua các hội nghị Trung ƣơng sau Đại hội II.
Thực hiện đƣờng lối của Đảng, chúng ta đã đạt đƣợc những kết quả:
Về chính trị: Đảng ra hoạt động công khai đã có điều kiện kiện toàn tổ chức, tăng
cƣờng sự lãnh đạo đối với cuộc kháng chiến. Bộ máy chính quyền đƣợc củng cố, khối đại
đoàn kết toàn dân phát triển lên một bƣớc mới.

Trang 99/136
Về quân sự: Thắng lợi của chiến dịch Điện Biên Phủ (07/5/1954) đƣợc ghi vào lịch
sử dân tộc nhƣ một Bạch Đằng, một Chi Lăng hay một Đống Đa trong thế kỷ XX và đi
vào lịch sử thế giới nhƣ một chiến công hiển hách, báo hiệu sự thắng lợi của nhân dân
các dân tộc bị áp bức, sự sụp đổ của chủ nghĩa thực dân “kiểu cũ”.
Trên mặt trận ngoại giao: Thực hiện phƣơng châm kết hợp đấu tranh chính trị, quân
sự và ngoại giao. Sau chiến thắng Điện Biên Phủ, ngày 8/5/1954, Hội nghị quốc tế về
chấm dứt chiến tranh Đông Dƣơng chính thức khai mạc ở Giơnevơ. Ngày 21/7/1954, các
văn bản của Hiệp định Giơnevơ về chấm dứt chiến tranh, lập lại hòa bình ở Đông Dƣơng
đƣợc ký kết, cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp của nhân dân ta kết thúc thắng lợi.
Cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp của nhân dân ta giành thắng lợi có ý nghĩa:
Đối với nƣớc ta, thắng lợi của cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp đã: Làm thất
bại cuộc chiến tranh xâm lƣợc của thực dân Pháp đƣợc đế quốc Mỹ giúp sức ở mức độ
cao, buộc chúng phải công nhận độc lập, chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ của các nƣớc
Đông Dƣơng. Làm thất bại âm mƣu mở rộng và kéo dài chiến tranh của đế quốc Mỹ, kết
thúc chiến tranh lập lại hòa bình ở Đông Dƣơng. Giải phóng hoàn toàn miền Bắc, tạo
điều kiện để miền Bắc tiến lên chủ nghĩa xã hội làm căn cứ địa, hậu thuẫn cho cuộc đấu
tranh ở miền Nam. Tăng thêm niềm tự hào dân tộc cho nhân dân ta và nâng cao uy tín
của Việt Nam trên trƣờng quốc tế.
Đối với quốc tế: Thắng lợi của nhân dân Việt Nam đã cổ vũ mạnh mẽ phong trào
giải phóng dân tộc trên thế giới. Mở rộng địa bàn, tăng thêm lực lƣợng cho chủ nghĩa xã
hội và cách mạng thế giới. Cùng với nhân dân Lào và Campuchia đập tan ách thống trị
của chủ nghĩa thực dân ở ba nƣớc Đông Dƣơng, mở ra sự sụp đổ của chủ nghĩa thực dân
“kiểu cũ” trên thế giới.
Cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp của nhân dân ta giành thắng lợi xuất phát
từ những nguyên nhân sau:
Có sự lãnh đạo vững vàng của Đảng, đứng đầu là Chủ tịch Hồ Chí Minh với đƣờng
lối chiến tranh nhân dân, toàn dân, toàn diện, lâu dài và dựa vào sức mình là chính, có
sức mạnh động viên và tổ chức toàn dân đánh giặc.
Có sự đoàn kết chiến đấu của toàn dân tập hợp trong mặt trận dân tộc thống nhất
rộng rãi - Mặt trận Liên Việt đƣợc xây dựng trên nền tảng khối liên minh công nông và trí
thức vững chắc.

Trang 100/136
Có lực lƣợng vũ trang gồm ba thứ quân do Đảng ta trực tiếp lãnh đạo ngày càng
vững mạnh, chiến đấu dũng cảm, mƣu lƣợc, tài trí là lực lƣợng quyết định tiêu diệt địch
trên chiến trƣờng, đè bẹp ý chí xâm lƣợc của địch, giải phóng đất đai của Tổ quốc.
Có chính quyền dân chủ nhân dân, của dân, do dân và vì dân đƣợc giữ vững, củng
cố và lớn mạnh, làm công cụ sắc bén tổ chức toàn dân kháng chiến và xây dựng chế độ
mới.
Có sự liên minh chiến đấu keo sơn giữa ba dân tộc Việt Nam, Lào, Campuchia cùng
chống một kẻ thù chung; có sự đồng tình, giúp đỡ của Trung Quốc, Liên Xô, các nƣớc xã
hội chủ nghĩa, của các dân tộc yêu chuộng hòa bình trên thế giới, kể cả nhân dân tiến bộ
Pháp.
Bài học kinh nghiệm rút ra từ cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lƣợc:
Một là, xác định đƣờng lối kháng chiến đúng đắn và không ngừng bổ sung, hoàn
chỉnh trong quá trình tiến hành kháng chiến..
Hai là, vừa kháng chiến vừa xây dựng chế độ mới, hậu phƣơng vững chắc cho cuộc
kháng chiến.
Ba là, không ngừng mở rộng và tranh thủ sự ủng hộ của nhân dân thế giới đối với
kháng chiến.
Bốn là, đẩy mạnh công tác xây dựng Đảng, tăng cƣờng sự lãnh đạo của Đảng trong
kháng chiến.
c. Đƣờng lối kháng chiến chống đế quốc Mỹ xâm lƣợc (1954 - 1975)
Sau cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và can thiệp Mỹ, nƣớc ta bị chia cắt làm
hai miền: Miền Bắc đƣợc giải phóng, từng bƣớc đi lên chủ nghĩa xã hội. Ở miền Nam, đế
quốc Mỹ đã nhảy vào để thay chân Pháp nhằm biến miền Nam thành thuộc địa kiểu mới
và căn cứ quân sự. Yêu cầu đặt ra cho Đảng ta lúc này là phải đề ra đƣợc đƣờng lối đúng
đắn, vừa phù hợp với tình hình mỗi miền, tình hình cả nƣớc, vừa phù hợp với xu thế
chung của thời đại.
Từ những đặc điểm tình hình của đất nƣớc, từ năm 1954 đến năm 1960, Đảng đã đề
ra chủ trƣơng cụ thể cho cách mạng hai miền. Đối với miền Bắc, Đảng chủ trƣơng hàn
gắn vết thƣơng chiến tranh, ổn định tình hình và từng bƣớc cải tạo xã hội chủ nghĩa. Đối
với miền Nam, Đảng chủ trƣơng tiếp tục cuộc cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân.

Trang 101/136
Trên cơ sở thực hiện nhiệm vụ của hai miền, Đại hội lần thứ III của Đảng (9/1960)
đã hoàn chỉnh đƣờng lối chiến lƣợc chung của cách mạng Việt Nam trong giai đoạn mới,
đó là:
Đƣờng lối tiến hành đồng thời hai nhiệm vụ chiến lƣợc: Một là, tiến hành cách
mạng xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc; hai là, giải phóng miền Nam khỏi ách thống trị của đế
quốc Mỹ và tay sai, thực hiện thống nhất nƣớc nhà, hoàn thành độc lập và dân chủ trong
cả nƣớc. Trong đó, cách mạng xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc giữ vai trò quyết định nhất
đối với sự phát triển của toàn bộ cách mạng Việt Nam và đối với sự nghiệp thống nhất
nƣớc nhà. Cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân ở miền Nam giữ vai trò quyết định trực
tiếp đối với sự nghiệp giải phóng miền Nam khỏi ách thống trị của đế quốc Mỹ và bè lũ
tay sai, thực hiện hòa bình thống nhất nƣớc nhà, hoàn thành cách mạng dân tộc dân chủ
nhân dân trong cả nƣớc. Mục tiêu chung là hòa bình thống nhất Tổ quốc.
Đƣờng lối chiến lƣợc chung thể hiện tinh thần độc lập, tự chủ và sáng tạo của Đảng;
tƣ tƣởng chiến lƣợc giƣơng cao ngọn cờ độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội đã tạo ra sức
mạnh tổng hợp để dân tộc ta đủ sức đánh thắng đế quốc Mỹ xâm lƣợc, giải phóng miền
Nam, thống nhất đất nƣớc.
Đƣờng lối khánh chiến chống Mỹ cứu nƣớc tiếp tục đƣợc bổ sung, hoàn chỉnh qua
quá trình chỉ đạo thực tiễn của cuộc kháng chiến nhƣ: Hội nghị Trung ƣơng Hội nghị
Trung ƣơng lần thứ 11,12 (1965), lần thứ 13 (1967), lần thứ 14 (1968), lần thứ 21(1973).
Đặc biệt là Hội nghị Bộ Chính trị cuối năm 1974 đầu năm 1975 đã đƣa đến thắng lợi của
chúng ta trong cuộc tổng tiến công và nổi dây mùa xuân năm 1975 giải phóng hoàn toàn
niềm Nam, thống nhất đất nƣớc.
Thực hiện đƣờng lối của Đảng, nhân dân hai miền đã đạt đƣợc những kết quả:
Ở miền Bắc, một chế độ xã hội mới - chế độ XHCN bƣớc đầu đƣợc hình thành.
Mặc dù chiến tranh ác liệt, tổn thất nặng nề về ngƣời và của, song, không có nạn đói, dịch
bệnh và sự rối loạn xã hội. Văn hóa, xã hội, y tế, giáo dục không những đƣợc duy trì mà
còn có sự phát triển mạnh; sản xuất công nông nghiệp không ngừng phát triển. Bảo vệ
vững chắc địa bàn vùng trời và vùng biển. Với chiến thắng lịch sử trận “Điện Biên Phủ
trên không” trên bầu trời Hà Nội cuối năm 1972 là niềm tự hào to lớn của dân tộc ta,
đƣợc nhân dân thế giới ngƣỡng mộ. Miền Bắc không chỉ “chia lửa” với các chiến trƣờng
mà còn hoàn thành xuất sắc vai trò căn cứ địa của cách mạng cả nƣớc và nhiệm vụ hậu
phƣơng lớn đối với chiến trƣờng miền Nam.

Trang 102/136
Ở miền Nam, với chủ trƣơng đánh cho Mỹ cút, đánh cho ngụy nhào, quân và dân
miền Nam đã lần lƣợt đánh bại các chiến lƣợc chiến tranh xâm lƣợc của đế quốc Mỹ và
tay sai: Chiến tranh đơn phƣơng, Chiến tranh đặc biệt, Chiến tranh cục bộ, Việt Nam hóa
chiến tranh, đỉnh cao là đại thắng Mùa Xuân 1975 với chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử,
quân và dân miền Nam đã đập tan toàn bộ chính quyền địch, buộc chúng phải tuyên bố
đầu hàng vô điều kiện, giải phóng hoàn toàn miền Nam, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ
cho Tổ quốc.
Thắng lợi của cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nƣớc có ý nghĩa lịch sử không chỉ
đối với dân tộc ta mà còn có ý nghĩa đối với thế giới:
Đối với nƣớc ta: Nhân dân ta đã hoàn thành cuộc cách mạng dân tộc dân chủ nhân
dân trên phạm vi cả nƣớc, mở ra một kỷ nguyên mới cho dân tộc ta, kỷ nguyên cả nƣớc
hòa bình, thống nhất, tiến lên chủ nghĩa xã hội. Làm tăng thêm sức mạnh vật chất, tinh
thần, thế và lực cho cách mạng và cho dân tộc Việt Nam, để lại niềm tự hào sâu sắc và
những kinh nghiệm quý cho sự nghiệp dựng nƣớc và giữ nƣớc giai đoạn sau. Góp phần
quan trọng vào việc nâng cao uy tín của Đảng và dân tộc Việt Nam trên trƣờng quốc tế.
Đối với thế giới: Thắng lợi của cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nƣớc đã đập tan
cuộc phản kích lớn nhất của chủ nghĩa đế quốc vào chủ nghĩa xã hội và cách mạng thế
giới kể từ sau cuộc chiến tranh thế giới lần thứ hai. Làm phá sản chiến tranh xâm lƣợc
của đế quốc Mỹ, gây tổn thất to lớn và tác động sâu sắc đến nội tình nƣớc Mỹ trƣớc mắt
và lâu dài. Góp phần làm suy yếu trận địa của chủ nghĩa đế quốc, phá vỡ một phòng
tuyến quan trọng của chúng ở khu vực Đông Nam Á, mở ra sự sụp đổ không thể tránh
khỏi của chủ nghĩa thực dân “kiểu mới”. Cổ vũ mạnh mẽ phong trào đấu tranh vì mục
tiêu độc lập dân tộc, dân chủ tự do và hòa bình phát triển của nhân dân thế giới.
Thắng lợi của cuộc kháng chiến chống đế quốc Mỹ xâm lƣợc bắt nguồn từ những
nguyên nhân sau đây:
Thắng lợi của sự nghiệp chống Mỹ, cứu nƣớc bắt nguồn từ sự lãnh đạo đúng đắn
của Đảng, ngƣời đại biểu trung thành cho những lợi ích sống còn của cả dân tộc Việt
Nam, một Đảng có đƣờng lối chính trị, đƣờng lối quân sự độc lập, tự chủ, đúng đắn, sáng
tạo.
Thắng lợi đó là kết quả của cuộc chiến đấu đầy gian khổ hy sinh của nhân dân và
quân đội cả nƣớc, đặc biệt là của cán bộ, chiến sĩ và đồng bào yêu nƣớc ở miền Nam.

Trang 103/136
Thắng lợi đó cũng là kết quả của sự nghiệp cách mạng xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc,
của đồng bào và chiến sĩ miền Bắc vừa chiến đấu vừa xây dựng, hoàn thành xuất sắc
nghĩa vụ của hậu phƣơng lớn, hết lòng hết sức chi viện cho tiền tuyến lớn miền Nam
đánh thắng giặc Mỹ xâm lƣợc.
Thắng lợi đó còn là kết quả của tình đoàn kết chiến đấu của nhân dân Việt Nam,
Lào, Campuchia và kết quả của sự ủng hộ hết lòng và sự giúp đỡ to lớn của các nƣớc xã
hội chủ nghĩa anh em. Sự ủng hộ nhiệt tình của phong trào công nhân và nhân dân tiến bộ
trên toàn thế giới cũng nhƣ nhân dân tiến bộ Mỹ.
Những bai học kinh nghiệm rút ra từ cuộc kháng chiến chống đế quốc Mỹ xâm
lƣợc:
Một là, đề ra và thực hiện đƣờng lối giƣơng cao ngọn cờ độc lập dân tộc và chủ
nghĩa xã hội nhằm huy động sức mạnh toàn dân đánh Mỹ, cả nƣớc đánh Mỹ.
Hai là, tin tƣởng vào sức mạnh của dân tộc, kiên định tƣ tƣởng chiến lƣợc tiến công,
quyết đánh và quyết thắng đế quốc Mỹ xâm lƣợc.
Ba là, thực hiện chiến tranh nhân dân, tìm ra biện pháp chiến đấu đúng đắn, sáng
tạo.
Bốn là, trên cơ sở đƣờng lối, chủ trƣơng chiến lƣợc chung đúng đắn phải có công
tác tổ chức thực hiện giỏi của các cấp bộ Đảng trong quân đội, của các ngành, các địa
phƣơng, thực hiện phƣơng châm giành thắng lợi từng bƣớc để đi tới thắng lợi hoàn toàn.
Năm là, phải hết sức coi trọng công tác xây dựng Đảng, xây dựng lực lƣợng cách
mạng ở cả hậu phƣơng và tiền tuyến, tranh thủ tối đa sự đồng tình, ủng hộ của quốc tế.
d. Đƣờng lối xây dựng, bảo vệ Tồ quốc (1975 - 1986)
Sau tháng 4/1975, đất nƣớc hoà bình, độc lập, thống nhất có nhiều thuận lợi. Khó
khăn nổi bật là nƣớc ta từ kinh tế phổ biến là sản xuất nhỏ, nghèo nàn, lạc hậu, chịu hậu
quả nặng nề của chiến tranh, tiến lên chủ nghĩa xã hội, bỏ qua chế độ tƣ bản chủ nghĩa.
Đấu tranh giữa lực lƣợng cách mạng và phản cách mạng còn diễn ra gay go, ác liệt.
Ngày 25/4/1976, Tổng tuyển cử bầu Quốc hội chung cả nƣớc thành công. Kỳ họp
thứ nhất Quốc hội khoá VI (7/1976) tại Hà Nội đã quyết định đặt tên nƣớc ta là Cộng hoà
Xã hội chủ nghĩa Việt Nam; Thủ đô là Hà Nội, đổi tên Sài Gòn là thành phố Hồ Chí
Minh.

Trang 104/136
Đại hội toàn quốc lần thứ IV của Đảng (12/1976) đã thông qua đƣờng lối chung,
đƣờng lối kinh tế và phƣơng hƣớng, nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội 5 năm (1976 -
1981)
Đường lối chung của cách mạng nước ta trong thời kỳ mới là nắm vững chuyên
chính vô sản, phát huy quyền làm chủ tập thể của nhân dân lao động, tiến hành đồng thời
ba cuộc cách mạng: cách mạng về quan hệ sản xuất, cách mạng khoa học - kỹ thuật, cách
mạng tƣ tƣởng và văn hoá, trong đó cách mạng khoa học - kỹ thuật là then chốt; đẩy
mạnh công nghiệp hoá xã hội chủ nghĩa là nhiệm vụ trung tâm của cả thời kỳ quá độ lên
chủ nghĩa xã hội; xây dựng chế độ làm chủ tập thể xã hội chủ nghĩa, xây dựng nền sản
xuất lớn xã hội chủ nghĩa, xây dựng nền văn hoá mới, con ngƣời mới xã hội chủ nghĩa.
Đường lối kinh tế ở nước ta là đẩy mạnh công nghiệp hoá xã hội chủ nghĩa xây
dựng cơ sở vật chất - kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội, đƣa nền kinh tế nƣớc ta từ sản xuất
nhỏ lên sản xuất lớn xã hội chủ nghĩa. Ƣu tiên phát triển công nghiệp nặng một cách hợp
lý trên cơ sở phát triển nông nghiệp và công nghiệp nhẹ, kết hợp xây dựng công nghiệp
và nông nghiệp cả nƣớc thành một cơ cấu kinh tế công - nông nghiệp.
Phương hướng, nhiệm vụ chủ yếu của kế hoạch 5 năm 1976 - 1980 là xây dựng một
bƣớc cơ sở vật chất - kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội, bƣớc đầu hình thành cơ cấu kinh tế
mới trong cả nƣớc mà bộ phận chủ yếu là cơ cấu công - nông nghiệp. Cải thiện một bƣớc
đời sống vật chất và văn hoá của nhân dân. Nhiệm vụ và chính sách đối ngoại nhằm tranh
thủ những điều kiện quốc tế thuận lợi để nhanh chóng khắp phục hậu quả chiến tranh,
xây dựng đất nƣớc, củng cố quốc phòng, góp phần vào cuộc đấu tranh vì hoà bình, độc
lập dân tộc, dân chủ và chủ nghĩa xã hội.
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ V của Đảng (3/1982) tiếp tục đƣờng lối chung,
đƣờng lối kinh tế do Đại hội IV đề ra.
Điểm mới trong nhận thức của Đại hội V là nhấn mạnh hai nhiệm vụ chiến lƣợc của
cách mạng nƣớc ta là xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội và sẵn sàng chiến đấu, bảo
vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Nƣớc ta đang ở chặng đường đầu tiên
của thời kỳ quá độ đi lên chủ nghĩa xã hội. Trong chặng đƣờng này cần coi nông nghiệp
là mặt trận hàng đầu, tập trung sản xuất hàng tiêu dùng để đảm bảo nhu cầu đời sống
trong nhân dân và xây dựng một số ngành công nghiệp mũi nhọn.

Trang 105/136
Thực hiện đƣờng lối của Đảng, đất nƣớc ta đạt một số thành tựu trong khôi phục
kinh tế, hàn gắn vết thƣơng chiến tranh, ổn định đời sống nhân dân, xây dựng cơ sở vật
chất và xác lập quan hệ sản xuất mới, bảo vệ Tổ quốc và hoàn thành nhiệm vụ quốc tế.
Đảng ta đã tiến hành ba bƣớc đổi mới cục bộ: Hội nghị Trung ƣơng 6 khoá IV
(8/1979) chủ trƣơng "làm cho sản xuất bung ra; Hội nghị Trung ƣơng 8, khoá V (6/1985)
chủ trƣơng xoá bỏ cơ chế tập trung quan liêu, bao cấp; Hội nghị Bộ Chính trị (1/1986)
kết luận xoá cơ chế bao cấp, phát triển nhiều thành phần kinh tế và phát triển nông
nghiệp. Tuy nhiên, các bƣớc đổi mới đó không thay đổi đƣợc tình hình khủng hoảng kinh
tế- xã hội. Đất nƣớc đang bị bao vây, cấm vận. Nền kinh tế còn nhiều khó khăn gay gắt,
đời sống nhân dân rất khó khăn, tiêu cực xã hội diễn ra phổ biến.
Có những nguyên nhân khách quan, nhƣng về chủ quan, do Đảng ta có những sai
lầm nghiêm trọng và kéo dài về chủ trƣơng, chính sách lớn; chậm đổi mới tƣ duy phát
triển kinh tế; chủ quan, nóng vội khi đề ra chủ trƣơng quá cao về tốc độ xây dựng cơ bản
và phát triển sản xuất; duy trì quá lâu cơ chế quản lý kinh tế tập trung, bao cấp.
2. Đƣờng lối cách mạng từ năm 1986 đến nay
Với tinh thần nhìn thẳng vào sự thật, đánh giá đúng sự thật, nói rõ sự thật, tại Đại
hội VI của Đảng (12/1986), Đảng đã nghiêm khắc kiểm điểm, khẳng định những mặt làm
đƣợc, phân tích rõ những sai lầm, khuyết điểm, đặc biệt là khuyết điểm chủ quan, duy ý
chí trong lãnh đạo kinh tế. Đại hội đã đề ra đƣờng lối đổi mới toàn diện, mở ra bƣớc
ngoặt trong công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nƣớc ta.
a. Đƣờng lối phát triển kinh tế
- Đƣờng lối công nghiệp hoá
+ Khái niệm công nghiệp hóa, hiện đại hóa
Đảng Cộng sản Việt Nam khẳng định: Công nghiệp hóa, hiện đại hóa là quá trình
chuyển đổi căn bản, toàn diện các hoạt động sản xuất kinh doanh, dịch vụ và quản lý kinh
tế, xã hội, từ sử dụng lao động thủ công là chính sang sử dụng một cách phổ biến sức lao
động với công nghệ, phƣơng tiện và phƣơng pháp tiên tiến, hiện đại, dựa trên sự phát
triển công nghiệp và tiến bộ khoa học, công nghệ, tạo ra năng suất lao động xã hội cao.
+ Mục tiêu cơ bản của công nghiệp hóa, hiện đại hóa
Cải biến nƣớc ta thành một nƣớc công nghiệp có cơ sở vật chất - kỹ thuật hiện đại,
cơ cấu kinh tế hợp lý, quan hệ sản xuất tiến bộ, phù hợp với trình độ phát triển của lực

Trang 106/136
lƣợng sản xuất, mức sống vật chất và tinh thần cao, quốc phòng - an ninh vững chắc, dân
giàu, nƣớc mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh.
+ Các quan điểm chỉ đạo quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa
Một là, côn nghiệp hóa gắn với hiện đại hóa và công nghiệp hóa, hiện đại hóa gắn
với phát triển kinh tế tri thức, bảo vệ tài nguyên, môi trường.
Trong thời đại ngày nay, cuộc cách mạng khoa học - kỹ thuật hiện đại đang nổ ra
nhƣ vũ bão, kinh tế tri thức ngày càng có vai trò nổi bật trong quá trình phát triển lực
lƣợng sản xuất, hơn nữa xu thế hội nhập và tác động của quá trình toàn cầu hóa đã tạo ra
nhiều cơ hội cũng nhƣ thách thức đối với đất nƣớc. Trong bối cảnh đó, chúng ta cần và
có thể tiến hành công nghiệp hóa theo kiểu rút ngắn thời gian, đó là công nghiệp hóa gắn
liền với hiện đại hóa.
Chúng ta tiến hành công nghiệp hóa, hiện đại hóa trong bối cảnh kinh tế tri thức
phát triển, vì vậy chúng ta chúng ta có thể tận dụng lợi thế của nƣớc đi sau để đồng thời
tiến hành công nghiệp hóa, hiện đại hóa gắn với phát triển kinh tế tri thức.
Tiến hành công nghiệp hóa, hiện đại hóa chúng ta cũng phải chú trọng bảo vệ tài
nguyên thiên nhiên và môi trƣờng có nhƣ vậy chúng ta mới có thể phát triển nhanh và
bền vững. Hơn nữa môi trƣờng tự nhiên và sự đa dạng sinh học là môi trƣờng sống và
hoạt động kinh tế của con ngƣời. Cho nên, bảo vệ môi trƣờng tự nhiên và bảo tồn đa dạng
sinh học chính là bảo vệ điều kiện sống của con ngƣời và cũng là nội dung của sự phát
triển bền vững.
Hai là, công nghiệp hóa, hiện đại hóa gắn với phát triển kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập quốc tế.
Thời kỳ đổi mới, công nghiệp hóa, hiện đại hóa đƣợc tiến hành trong nền kinh tế thị
trƣờng định hƣớng xã hội chũ nghĩa, nhiều thành phần nên công nghiệp hóa, hiện đại hóa
đƣợc thực hiện chủ yếu bằng cơ chế thị trƣờng. Điều này làm cho sử dụng các nguồn lực
có hiệu quả và đẩy nhanh quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Bởi vì, khi đầu tƣ vào
lĩnh vực nào, ở đâu, quy mô nhƣ thế nào, công nghệ gì đòi hỏi phải tính toán, cân nhắc kỹ
càng, hạn chế đầu tƣ tràn lan, sai mục đích, kém hiệu quả, gây lãng phí, thất thoát.
Công nghiệp hóa, hiện đại hóa nền kinh tế ở nƣớc ta hiện nay diễn ra trong bối cảnh
toàn cầu hóa kinh tế, tất yếu phải hội nhập và mở rộng quan hệ kinh tế quốc tế nhằm thu
hút nguồn đầu tƣ nƣớc ngoài, thu hút công nghệ hiện đại, học hỏi kinh nghiệm quản lý
tiên tiến của thế giới …. Bên cạnh đó, hội nhâp kinh tế quốc tế còn nhằm khai thác thị

Trang 107/136
trƣờng thế giới. Đây chính là sự kết hợp giữa sức mạnh dân tộc và sức mạnh thời đại để
phát triển kinh tế nói chung và công nghiệp hóa, hiện đại hóa nói riêng.
Ba là, lấy phát huy nguồn lực con người là yếu tố cơ bản cho sự phát triển nhanh và
bền vững.
Để tăng trƣởng kinh tế cần 5 yếu tố chủ yếu là: vốn; khoa học và công nghệ; con
ngƣời; cơ cấu kinh tế; thể chế chính trị và quản lý nhà nƣớc. Trong những yếu tố đó, yếu
tố con ngƣời giữ vai trò quyết định nhất vì con ngƣời là yếu tố duy nhất có khả năng sáng
tạo, tạo ra các yếu tố khác và sử dụng chúng vào sản xuất, đời sống.
Để phát triển nguồn lực con ngƣời đáp ứng yêu cầu của công nghiệp hoá, hiện đại
hoá cần đặc biệt chú ý đến phát triển giáo dục, đào tạo.
Nguồn nhân lực cho công nghiệp hoá, hiện đại hoá đòi hỏi phải đủ số lƣợng, cân đối
về cơ cấu và trình độ, có khả năng nắm bắt và sử dụng các thành tựu khoa học và công
nghệ tiên tiến của thế giới và có khả năng sáng tạo công nghệ mới.
Bốn là, coi phát triển khoa học và công nghệ là nền tảng, là động lực của công
nghiệp hóa, hiện đại hóa.
Khoa học và công nghệ có vai trò quyết định đến năng suất lao động, giảm chi phí
sản xuất, lợi thế cạnh tranh và tốc độ phát triển kinh tế nói chung.
Nƣớc ta tiến lên chủ nghĩa xã hội từ một nền kinh tế kém phát triển và tiềm lực
khoa học, công nghệ còn ở trình độ thấp. Vì vậy, muốn đẩy nhanh quá trình công nghiệp
hóa, hiện đại hóa gắn với phát triển kinh tế thi thức, chúng ta phải phát triển khoa học và
công nghệ nhƣ: chọn lọc nhập công nghệ, mua sáng chế kết hợp với sáng chế công nghệ
để nâng cao trình độ công nghệ, nhất là công nghệ thông tin, công nghệ sinh học, công
nghệ vật liệu mới.
Năm là, phát triển nhanh và bền vững; tăng trưởng kinh tế đi đôi với phát triển văn
hóa, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội.
Xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nƣớc ta là nhằm thực hiện mục tiêu: dân giàu, nƣớc
mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh. Để thực hiện mục tiêu đó, trƣớc hết kinh tế
phải phát triển nhanh, hiệu quả và bền vững. Chỉ có nhƣ vậy mới có khả năng xóa đói,
giảm nghèo, nâng cao đời sống vật chất, tinh thần của nhân dân, phát triển văn hóa, giáo
dục, y tế, rút ngắn khoảng cách chênh lệch giữa các vùng… Mục tiêu đó thể hiện sự phát
triển vì con ngƣời, mọi con ngƣời đều đƣợc hƣởng thành quả của sự phát triển.
+ Định hƣớng công nghiệp hóa, hiện đại hóa trong những năm tới

Trang 108/136
Một là, phát triển công nghiệp
Xây dựng nền công nghiệp và thƣơng hiệu công nghiệp quốc gia với tầm nhìn
trung, dài hạn, có lộ trình cho từng giai đoạn phát triển.
Tiếp tục thực hiện tốt chủ trƣơng và có chính sách phù hợp để xây dựng, phát triển
các ngành công nghiệp theo hƣớng hiện đại, tăng hàm lƣợng khoa học - công nghệ và tỉ
trọng giá trị nội địa trong sản phẩm, tập trung vào những ngành có tính nền tảng, có lợi
thế so sánh và có ý nghĩa chiến lƣợc đối với sự phát triển nhanh, bền vững, nâng cao tính
độc lập, tự chủ của nền kinh tế; có khả năng tham gia sâu, có hiệu quả vào mạng sản xuất
và phân phối toàn cầu.
Phát triển có chọn lọc một số ngành công nghiệp chế tạo, chế biến, công nghiệp
công nghệ cao, công nghiệp sạch, công nghiệp năng lƣợng, cơ khí, điện tử, hóa chất,
công nghiệp xây dựng, xây lắp, công nghiệp quốc phòng, an ninh. Chú trọng phát triển
các ngành có lợi thế cạnh tranh; công nghiệp hỗ trợ; công nghiệp phục vụ nông nghiệp,
nông thôn; năng lƣợng sạch, năng lƣợng tái tạo và sản xuất vật liệu mới; từng bƣớc phát
triển công nghệ sinh học, công nghiệp môi trƣờng và công nghiệp văn hóa. Tiếp tục phát
triển hợp lý một số ngành công nghiệp sử dụng nhiều lao động.
Phân bố công nghiệp hợp lý hơn trên toàn lãnh thổ; nâng cao hiệu quả các khu kinh
tế, khu công nghiệp, khu chế xuất; sớm đƣa một số khu công nghiệp công nghệ cao vào
hoạt động.
Hai là, đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp nông thôn, giải quyết
đồng bộ các vấn đề nông nghiệp, nông dân, nông thôn.
Xây dựng nền nông nghiệp theo hƣớng sản xuất hàng hóa lớn, ứng dụng công nghệ
cao, nâng cao chất lƣợng sản phẩm, đảm bảo an toàn vệ sinh thực phẩm; nâng cao giá trị
gia tăng, đẩy mạnh xuất khẩu.
Đẩy nhanh cơ cấu lại ngành nông nghiệp, xây dựng nền nông nghiệp sinh thái phát
triển toàn diện cả về nông, lâm, ngƣ nghiệp theo hƣớng hiện đại, bền vững, trên cơ sở
phát huy lợi thế so sánh và tổ chức lại sản xuất, thúc đẩy ứng dụng sâu rộng khoa học -
công nghệ vào sản xuất, quản lý nông nghiệp và đẩy nhanh công nghiệp hóa, hiện đại hóa
nông nghiệp, nông thôn để tăng năng suất, chất lƣợng, hiệu quả và sức cạnh tranh, bảo
đảm vững chắc an ninh lƣơng thực quốc gia cả trƣớc mắt và lâu dài; nâng cao thu nhập
và đời sống của nông dân. Chú trọng đầu tƣ vùng trọng điểm sản xuất nông nghiệp. Có
chính sách phù hợp để tích tụ, tập trung ruộng đất, thu hút mạnh các nguồn lực đầu tƣ

Trang 109/136
phát triển nông nghiệp; từng bƣớc hình thành các tổ hợp nông nghiệp - công nghiệp -
dịch vụ công nghệ cao.
Chuyển đổi cơ cấu kinh tế nông thôn gắn với xây dựng nông thôn mới và quá trình
đô thị hóa một cách hợp lý, nâng cao chất lƣợng dịch vụ và kết cấu hạ tầng kinh tế - xã
hội, thu hẹp khoảng cách về phát triển giữa đô thị và nông thôn, tăng cƣờng kết nối nông
thôn - đô thị, phối hợp các chƣơng trình phát triển nông nghiệp, nông thôn với phát triển
công nghiệp, dịch vụ và đô thị.
Phát huy vai trò chủ thể của hộ nông dân và kinh tế hộ; xác định vai trò hạt nhân
của doanh nghiệp trong nông nghiệp, đẩy mạnh sắp xếp, đổi mới, nâng cao hiệu quả hoạt
động của các doanh nghiệp nông, lâm, ngƣ nghiệp nhà nƣớc; phát triển hợp tác xã kiểu
mới và các hình thức hợp tác, liên kết đa dạng; hình thành các vùng nguyên liệu gắn với
chế biến và tiêu thụ.
Ba là, phát triển khu vực dịch vụ
Đẩy mạnh phát triển khu vực dịch vụ theo hƣớng hiện đại, đạt tốc độ tăng trƣởng
cao hơn các khu vực sản xuất và cao hơn tốc độ tăng trƣởng của cả nền kinh tế.
Tập trung phát triển một số ngành dịch vụ có lợi thế, có hàm lƣợng tri thức và công
nghệ cao.
Hiện đại hóa và mở rộng các dịch vụ có giá trị gia tăng cao.
Đổi mới và hoàn thiện cơ chế, chính sách giá dịch vụ giáo dục - đào tạo, y tế.
Hình thành một số trung tâm dịch vụ, du lịch tầm cỡ khu vực và quốc tế. Chủ động
phát triển mạnh hệ thống phân phối bán buôn, bán lẻ trong nƣớc, tham gia vào mạng
phân phối toàn cầu.
Bốn là, phát triển kinh tế biển
Phát triển mạnh kinh tế biển nhằm tăng cƣờng tiềm lực kinh tế quốc gia và bảo vệ
chủ quyền biển, đảo. Chú trọng phát triển các ngành công nghiệp dầu khí, đánh bắt xa bờ
và hậu cần nghề cá, kinh tế hàng hải (kinh doanh dịch vụ cảng biển, đóng và sửa chữa
tàu, vận tải biển), du lịch biển, đảo.
Có cơ chế tạo bƣớc đột phá về tăng trƣởng và chuyển dịch cơ cấu kinh tế biển, thu
hút mạnh hơn mọi nguồn lực đầu tƣ để phát triển kinh tế và bảo vệ môi trƣờng, ứng phó
với biến đổi khí hậu, khai thác tài nguyên biển, đảo một cách bền vững. Tập trung đầu tƣ,
nâng cao hiệu quả hoạt động các khu kinh tế ven biển.
Năm là, phát triển kinh tế vùng, liên vùng

Trang 110/136
Thống nhất quản lý tổng hợp chiến lƣợc, quy hoạch phát triển trên quy mô toàn bộ
nền kinh tế, vùng và liên vùng. Phát huy tiềm năng, thế mạnh của từng vùng, đồng thời
ƣu tiên phát triển các vùng kinh tế động lực, tạo sức lôi cuốn, lan tỏa phát triển đến các
địa phƣơng trong vùng và đến các vùng khác. Có chính sách hỗ trợ phát triển các vùng
còn nhiều khó khăn, nhất là vùng sâu, vùng xa, vùng đồng bào dân tộc thiểu số, miền núi
và hải đảo; phát triển kinh tế lâm nghiệp.
Đổi mới cơ chế phân cấp, phân quyền, gắn với phân định và nâng cao trách nhiệm
của trung ƣơng và địa phƣơng. Thực hiện quy hoạch vùng, chính sách vùng; sớm xây
dựng và thể chế hóa cơ chế điều phối liên kết vùng theo hƣớng xác định rõ vai trò đầu tàu
và phân công cụ thể trách nhiệm cho từng địa phƣơng trong vùng. Khắc phục tình trạng
nền kinh tế bị chia cắt bởi địa giới hành chính, hoặc đầu tƣ dàn trải, trùng lặp.
Xây dựng một số đặc khu kinh tế để tạo cực tăng trƣởng và thử nghiệm thể chế phát
triển vùng có tính đột phá.
Sáu là, phát triển đô thị
Đổi mới cơ chế, chính sách, kiểm soát chặt chẽ quá trình phát triển đô thị theo quy
hoạch và kế hoạch. Từng bƣớc hình thành hệ thống đô thị có kết cấu hạ tầng đồng bộ,
hiện đại, thân thiện với môi trƣờng, gồm một số đô thị lớn, nhiều đô thị vừa và nhỏ liên
kết và phân bố hợp lý trên các vùng; chú trọng phát triển đô thị miền núi, phát triển mạnh
các đô thị ven biển.
Nâng cao chất lƣợng, tính đồng bộ và năng lực cạnh tranh của các đô thị; chú trọng
phát huy vai trò, giá trị đặc trƣng của các đô thị động lực phát triển kinh tế cấp quốc gia
và cấp vùng, đô thị di sản, đô thị sinh thái, đô thị du lịch, đô thị khoa học.
Bảy là, xây dựng hệ thống kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội
Đẩy mạnh huy động và sử dụng hiệu quả nguồn lực xã hội để tiếp tục tập trung đầu
tƣ hình thành hệ thống kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội tƣơng đối đồng bộ với một số công
trình hiện đại. Ƣu tiên và đa dạng hóa hình thức đầu tƣ cho các lĩnh vực trọng tâm.
- Đƣờng lối xây dựng nền kinh tế thị trƣờng định hƣớng xã hội chủ nghĩa
Đặc trƣng, bản chất của nền kinh tế thị trƣờng định hƣớng xã hội chủ nghĩa
Việt Nam
Nền kinh tế thị trƣờng định hƣớng xã hội chủ nghĩa Việt Nam: Là nền kinh tế vận
hành đầy đủ, đồng bộ theo các quy luật của kinh tế thị trƣờng, đồng thời bảo đảm định
hƣớng xã hội chủ nghĩa phù hợp với từng giai đoạn phát triển của đất nƣớc. Đó là nền

Trang 111/136
kinh tế thị trƣờng hiện đại và hội nhập quốc tế; có sự quản lý của Nhà nƣớc pháp quyền
xã hội chủ nghĩa, do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo, nhằm mục tiêu "dân giàu, nƣớc
mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh".
Kinh tế thị trƣờng ở nƣớc ta không phải kinh tế kế hoạch hoá tập trung, cũng
không phải là kinh tế thị trƣờng tƣ bản chủ nghĩa và cũng chƣa hoàn toàn là kinh tế
thị trƣờng xã hội chủ nghĩa mà nó chỉ mới định hƣớng xã hội chủ nghĩa. Tính định
hƣớng xã hội chủ nghĩa đƣợc thể hiện trên 4 tiêu chí:
Về mục đích phát triển: Thực hiện “dân giàu, nƣớc mạnh, xã hội dân chủ, công
bằng, văn minh; giải phóng mạnh mẽ lực lƣợng sản xuất và không ngừng nâng cao đời
sống nhân dân; đẩy mạnh xóa đói giảm nghèo, khuyến khích mọi ngƣời vƣơn lên làm
giàu chính đáng, giúp đỡ ngƣời khác thoát nghèo và từng buớc khá giả hơn”.
Về phương hướng phát triển: Phát triển nền kinh tế với nhiều hình thức sở hữu,
nhiều thành phần kinh tế. Trong nền kinh tế nhiều thành phần, các thành phần kinh tế vừa
hợp tác, vừa cạnh tranh, trong đó kinh tế nhà nƣớc giữ vai trò chủ đạo, là công cụ chủ yếu
để Nhà nƣớc điều tiết nền kinh tế, định hƣớng cho sự phát triển vì mục tiêu dân giàu,
nƣớc mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh.
Về định hướng xã hội và phân phối: Thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội ngay
trong từng bƣớc đi và từng chính sách phát triển; tăng trƣởng kinh tế gắn kết chặt chẽ và
đồng bộ với phát triển xã hội, văn hóa, giáo dục và đào tạo, giải quyết tốt các vấn đề xã
hội vì mục tiêu phát triển con ngƣời. Hạn chế tác động tiêu cực của kinh tế thị trƣờng.
Trong lĩnh vực phân phối, định hƣớng xã hội chủ nghĩa đƣợc thể hiện qua chế độ
phân phối chủ yếu theo kết quả lao động, hiệu quả kinh tế, phúc lợi xã hội, theo mức
đóng góp vốn và các nguồn lực khác.
Về quản lý: phát huy vai trò làm chủ xã hội của nhân dân, bảo đảm vai trò quản lý,
điều tiết nền kinh tế của nhà nƣớc pháp quyền xã hội chủ nghĩa dƣới sự lãnh đạo của
Đảng. Đây là điểm khác biệt với kinh tế thị trƣờng tƣ bản chủ nghĩa.
Mục tiêu và quan điểm cơ bản tiếp tục hoàn thiện thể chế kinh tế thị trƣờng
định hƣớng xã hội chủ nghĩa ở nƣớc ta
Mục tiêu cơ bản của hoàn thiện thể chế kinh tế thị trƣờng định hƣớng xã hội chủ
nghĩa ở nƣớc ta là: Làm cho các thể chế phù hợp với những nguyên tắc cơ bản của kinh tế
thị trƣờng, thúc đẩy kinh tế thị trƣờng định hƣớng xã hội chủ nghĩa phát triển nhanh, hiệu

Trang 112/136
quả, bền vững, hội nhập kinh tế quốc tế thành công, giữ vững định hƣớng xã hội chủ
nghĩa, xây dựng và bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.
Quan điểm về hoàn thiện thể chế kinh tế thị trƣờng định hƣớng xã hội chủ nghĩa
Nhận thức đầy đủ, tôn trọng và vận dụng đúng đắn các quy luật khách quan của
kinh tế thị trƣờng, thông lệ quốc tế phù hợp với điều kiện của Việt Nam, bảo đảm định
hƣớng xã hội chủ nghĩa của nền kinh tế.
Đảm bảo tính đồng bộ giữa các bộ phận cấu thành của thể chế kinh tế, giữa các yếu
tố thị trƣờng và các loại thị trƣờng; giữa thể chế kinh tế với thể chế chính trị, xã hội; giữa
Nhà nƣớc, thị trƣờng và xã hội. Gắn kết hài hòa giữa tăng trƣởng kinh tế với tiến bộ và
công bằng xã hội, phát triển văn hóa và bảo vệ môi trƣờng.
Kế thừa có chọn lọc thành tựu phát triển kinh tế thị trƣờng của nhân loại, kinh
nghiệm tổng kết từ thực tiễn đổi mới ở nƣớc ta, chủ động và tích cực hội nhập kinh tế
quốc tế, đồng thời giữ vững độc lập, chủ quyền quốc gia, giữa vững an ninh chính trị, trật
tự, an toàn xã hội.
Chủ động, tích cực giải quyết các vấn đề lý luận và thực tiễn quan trọng, bức xúc,
đồng thời phải có bƣớc đi vững chắc, vừa làm vừa tổng kết, rút kinh nghiệm.
Nâng cao năng lực lãnh đạo của Đảng, hiệu lực và hiệu quả quản lý của Nhà nƣớc,
phát huy sức mạnh của cả hệ thống chính trị trong quá trình hoàn thiện thể chế kinh tế thị
trƣờng định hƣớng xã hội chủ nghĩa.
Một số chủ trƣơng tiếp tục hoàn thiện thể chế kinh tế thị trƣờng định hƣớng xã
hội chủ nghĩa
Tiếp tục hoàn thiện thể chế về sở hữu, phát triển các thành phần kinh tế, các loại
hình doanh nghiệp
Thể chế hóa quyền tài sản (bao gồm quyền sở hữu, quyền sử dụng, quyền định đoạt
và hƣởng lợi từ sử dụng tài sản) của Nhà nƣớc, tổ chức và cá nhân đã đƣợc quy định
trong Hiến pháp năm 2013.
Mọi doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế đều phải hoạt động theo cơ chế thị
trƣờng, bình đẳng và cạnh tranh theo pháp luật.
Tiếp tục đẩy mạnh cơ cấu lại doanh nghiệp nhà nƣớc theo hƣớng: doanh nghiệp nhà
nƣớc tập trung vào những lĩnh vực then chốt, thiết yếu; những địa bàn quan trọng và quốc
phòng, an ninh; những lĩnh vực mà doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế khác
không đầu tƣ.

Trang 113/136
Tiếp tục đổi mới nội dung và phƣơng thức hoạt động của kinh tế tập thể, kinh tế hợp
tác xã; đẩy mạnh liên kết và hợp tác dựa trên quan hệ lợi ích, áp dụng phƣơng thức quản
lý tiên tiến, phù hợp với cơ chế thị trƣờng.
Khuyến khích phát triển các loại hình doanh nghiệp, các hình thức tổ chức sản xuất
kinh doanh với sở hữu hỗn hợp, nhất là các doanh nghiệp cổ phần.
Hoàn thiện cơ chế, chính sách khuyến khích, tạo thuận lợi phát triển mạnh kinh tế tƣ
nhân ở hầu hết các ngành và lĩnh vực kinh tế, trở thành một động lực quan trọng của nền
kinh tế.
Nâng cao hiệu quả thu hút đầu tƣ trực tiếp của nƣớc ngoài.
Trong quản lý và phát triển các doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế, cần
phát huy mặt tích cực có lợi cho đất nƣớc, đồng thời kiểm tra, giám sát, kiểm soát, thực
hiện công khai, minh bạch, ngăn chặn, hạn chế mặt tiêu cực.
Phát triển đồng bộ các yếu tố thị trường và các loại thị trường
Thực hiện nhất quán cơ chế giá thị trƣờng; bảo đảm tính đúng, tính đủ và công khai,
minh bạch các yếu tố hình thành giá đối với hàng hoá, dịch vụ công thiết yếu; đồng thời
có chính sách hỗ trợ phù hợp cho đối tƣợng chính sách, ngƣời nghèo và đồng bào dân tộc
thiểu số.
Tiếp tục phát triển đồng bộ và vận hành thông suốt các loại thị trƣờng: hàng hóa, tài
chính, bất động sản, lao động, khoa học - công nghệ.
Đẩy mạnh, nâng cao hiệu quả hội nhập kinh tế quốc tế
Tiếp tục nghiên cứu, đàm phán, ký kết, chuẩn bị kỹ các điều kiện thực hiện các hiệp
định thƣơng mại tự do thế hệ mới, tham gia các điều ƣớc quốc tế trong các lĩnh vực kinh
tế, thƣơng mại, đầu tƣ,... Chủ động, tích cực hội nhập kinh tế quốc tế; đa dạng hóa, đa
phƣơng hóa quan hệ kinh tế quốc tế, tránh lệ thuộc vào một thị trƣờng, một đối tác cụ thể;
kết hợp hiệu quả ngoại lực và nội lực, gắn hội nhập kinh tế quốc tế với xây dựng nền kinh
tế độc lập, tự chủ.
Rà soát, hoàn thiện hệ thống pháp luật, cơ chế, chính sách nhằm thực thi có hiệu
quả các hiệp định thƣơng mại tự do mà Việt Nam đã ký kết.
Nâng cao năng lực lãnh đạo của Đảng, hiệu lực, hiệu quả quản lý của Nhà nước về
kinh tế - xã hội và phát huy vai trò làm chủ của nhân dân trong phát triển kinh tế - xã hội

Trang 114/136
Nâng cao năng lực hoạch định đƣờng lối, chủ trƣơng phát triển kinh tế - xã hội của
Đảng. Nâng cao năng lực và hiệu quả công tác tham mƣu về kinh tế - xã hội ở các cấp,
các ngành.
Nhà nƣớc thể chế hóa nghị quyết của Đảng, xây dựng, tổ chức thực hiện pháp luật,
chính sách, bảo đảm các loại thị trƣờng ngày càng hoàn thiện và vận hành thông suốt,
cạnh tranh công bằng, bình đẳng và kiểm soát độc quyền kinh doanh; tiếp tục đẩy mạnh
cải cách hành chính, cải cách tƣ pháp, cải thiện môi trƣờng đầu tƣ, kinh doanh.
Đổi mới, hoàn thiện cơ chế, chính sách để phát huy vai trò làm chủ của nhân dân;
bảo đảm quyền tự do, dân chủ trong hoạt động kinh tế của ngƣời dân theo quy định của
Hiến pháp, pháp luật và sự tham gia có hiệu quả của Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức
chính trị - xã hội trong xây dựng và giám sát việc thực hiện thể chế kinh tế và phát triển
kinh tế - xã hội.
b. Đƣờng lối xây dựng, phát triển văn hóa và xã hội
- Quan điểm chỉ đạo và chủ trƣơng về xây dựng và phát triển nền văn hóa
Trong thời kỳ đổi mới, Đảng Cộng sản Việt Nam đã hình thành từng bƣớc nhận
thức mới về đặc trƣng của nền văn hóa mới mà chúng ta cần xây dựng; về chức năng, vị
trí, vai trò của văn hóa trong phát triển kinh tế - xã hội và hội nhập quốc tế. Từ Đại hội VI
(1986) đến Đại hội XI (2016), Đảng Cộng sản Việt Nam đã có rất nhiều Nghị quyết đề
cập đến vấn đề xây dựng và phát triển văn hóa. Trên cơ sở kế thừa và phát triển các nghị
quyết trƣớc đó, đặc biệt là Nghị quyết Trung ƣơng 5 khóa VIII (1998), Nghị quyết Trung
ƣơng 9 khóa XI (2014) đã nêu lên 5 quan điểm sau:
Một là, văn hoá là nền tảng tinh thần của xã hội, là mục tiêu, là động lực phát triển
bền vững đất nước. Văn hóa phải đặt ngang hàng với kinh tế, chính trị, xã hội và hội
nhập quốc tế.
Văn hóa là nền tảng tinh thần của xã hội:
Các giá trị của văn hóa tạo thành nền tảng tinh thần của xã hội - vì nó đƣợc thấm
nhuần trong mỗi con ngƣời và trong cả cộng đồng; đƣợc truyền lại, tiếp nối và phát huy
qua các thế hệ; đƣợc vật chất hoá và khẳng định vững chắc trong cấu trúc xã hội của từng
dân tộc (thí dụ: cấu trúc này ở Việt Nam là cấu trúc Nhà - Làng - Nƣớc) đồng thời nó tác
động hàng ngày đến cuộc sống, tƣ tƣởng, tình cảm của mọi thành viên xã hội bằng môi
trƣờng xã hội - văn hoá.

Trang 115/136
Văn hóa là sợi chỉ đỏ xuyên suốt toàn bộ lịch sử của dân tộc, nó làm nên sức sống
mãnh liệt, giúp cộng đồng dân tộc Việt Nam vƣợt qua sóng gió và thác ghềnh để tồn tại
và không ngừng phát triển. Vì vậy, chúng ta chủ trƣơng làm cho văn hóa thấm sâu vào
mọi lĩnh vực của đời sống xã hội để các giá trị văn hóa trở thành nền tảng tinh thần bền
vững của xã hội, trở thành động lực phát triển kinh tế - xã hội
Văn hóa là động lực thúc đẩy phát triển
Nguồn lực nội sinh của sự phát triển của một dân tộc thấm sâu trong văn hóa. Phát
triển phải dựa trên cội nguồn, bằng cách phát huy cội nguồn. Cội nguồn đó của mỗi quốc
gia, dân tộc là văn hóa.
Kinh nghiệm đổi mới ở nƣớc ta cũng chứng tỏ rằng động lực của sự phát triển kinh
tế một phần quan trọng nằm trong những giá trị văn hoá đang đƣợc phát huy.
Ngày nay, trong điều kiện cuộc cách mạng khoa học và công nghệ hiện đại, yếu tố
quyết định cho sự tăng trƣởng kinh tế là trí tuệ. Vì vậy, một nƣớc giàu hay nghèo không
chỉ ở chỗ có nhiều hay ít tài nguyên và lao động mà trƣớc hết là có khả năng phát huy
đến mức cao nhất tiềm năng sáng tạo của nguồn lực con ngƣời hay không. Tiềm năm
sáng tạo này nằm trong các yếu tố cấu thành văn hóa, nghĩa là trong tri thức, và khả năng
sáng tạo, trong bản lĩnh tự đổi mới của mỗi cá nhân và của cả cộng đồng.
Trong nề kinh tế thị trƣờng, một mặt văn hóa dựa vào tiêu chuẩn của cái đúng, cái
tốt, cái đẹp để hƣớng dẫn và thúc đẩy ngƣời lao động. Mặt khác văn hóa sử dụng sức
mạnh của các giá trị truyền thống, của đạo lý dân tộc để hạn chế xu hƣớng sùng bái lợi
ích vật chất, sùng bái tiền tệ….
Nền văn hoá Việt Nam đƣơng đại, với những giá trị mới, sẽ là một tiền đề quan
trọng đƣa nƣớc ta hội nhập ngày càng sâu hơn và toàn diện hơn vào nền kinh tế thế giới.
Trong vấn đề bảo vệ môi trƣờng vì sự phát triển bền vững, văn hóa giúp hạn chế lối
sống chạy theo ham muốn quá mức của đời sống “xã hội tiêu thụ”, dẫn đến chỗ cạn kiệt
tài nguyên thiên nhiên, ô nhiễm môi trƣờng.
Văn hóa là mục tiêu của sự phát triển
Mục tiêu xây dựng một xã hội Việt Nam “dân giàu, nƣớc mạnh, dân chủ công bằng,
văn minh” chính là mục tiêu văn hóa.
Thực tế cho thấy, mối quan hệ giữa văn hóa và phát triển là vấn đề bức xúc của mỗi
quốc gia. Nhất là các nƣớc vốn trƣớc đây là thuộc địa thì việc giải quyết vấn đề này lai có
ý nghĩa hết sức quan trọng. Tuy nhiên, trong nhận thức và hành động, mục tiêu kinh tế

Trang 116/136
thƣờng lấn át mục tiêu văn hóa và đƣợc đặt ở vị trí ƣu tiên trong các kế hoạch, chƣơng
trình, chính sách phát triển.
Văn hóa phải đƣợc đặt ngang hàng với kinh tế, chính trị, xã hội
Chú trọng chăm lo xây dựng văn hóa trong Đảng, trong các cơ quan nhà nƣớc và
các đoàn thể; coi đây là nhân tố quan trọng để xây dựng hệ thống chính trị trong sạch,
vững mạnh.
Phát triển toàn điện các lĩnh vực văn hóa, xã hội hài hóa với phát triển kinh tế. Xử
lý tốt mối quan hệ giữa kinh tế và văn hóa để văn hóa thực sự là nền tảng tinh thần của xã
hội, là một động lực phát triển kinh tế, xã hội và hội nhập quốc tế.
Khi xác định mục tiêu giải pháp phát triển văn hoá phải căn cứ và hƣớng tới mục
tiêu giải pháp phát triển kinh tế - xã hội kinh tế - xã hội và ngƣợc lại.
Xây dựng chính sách văn hoá trong kinh tế để chủ động đƣa các yếu tố văn hoá
thâm nhập vào các hoạt động kinh tế - xã hội, xây dựng văn hoá kinh doanh, đạo đức
kinh doanh, văn minh thƣơng nghiệp; xây dựng đội ngũ doanh nhân thời hội nhập.
Hai là, xây dựng nền văn hoá Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, thống
nhất trong đa dạng của cộng đồng các dân tộc Việt Nam, với các đặc trưng dân tộc, nhân
văn dân chủ và khoa học.
Nền văn hóa tiên tiến là: Nền năn hóa yêu nƣớc và tiến bộ, bao gồm những giá trị
cao đẹp, tiến bộ của dân tộc, của nhân loại, có nội dung cốt lõi là lý tƣởng độc lập dân tộc
gắn liền với chủ nghĩa xã hội, trên nền tảng chủ nghĩa Mác - Lênin, tƣ tƣởng Hồ Chí
Minh. Nhằm mục tiêu tất cả vì con ngƣời. Tiên tiến không chỉ về nội dung tƣ tƣởng mà
trong cả hình thực biểu hiện, trong các phƣơng tiện truyền tải nội dung
Nền văn hóa đậm đà bản sắc dân tộc
Bản sắc dân tộc Việt Nam bao gồm những giá trị văn hóa truyền thống bền vững
của cộng đồng các dân tộc Việt Nam đƣợc vun đắp qua lịch sử hàng nghìn năm đấu tranh
dựng nƣớc và giữ nƣớc.
Bản sắc dân tộc là là nguồn sức mạnh giúp cho dân tộc ta vƣợt qua những khó khăn
thách thức trong quá trình đấu tranh dựng nƣớc và giữ nƣớc.
Bản sắc dân tộc thể hiện trong tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội: cách tƣ duy,
cách sống, cách dựng nƣớc, giữ nƣớc, cách sáng tạo trong văn hóa, khoa học, văn học,
nghệ thuật… nhƣng đƣợc thể hiện sâu sắc nhất là trong hệ giá trị của dân tộc, nó là cốt lõi
của một nền văn hóa.

Trang 117/136
Bản sắc dân tộc phát triển theo sự phát triển của thể chế kinh tế, thể chế xã hội và
thể chế chính trị của các quốc gia. Nó cũng phát triển theo quá trình hội nhập kinh tế thế
giới, quá trình giao lƣu văn hóa với các quốc gia khác và sự tiếp nhân tích cực văn hóa,
văn minh nhân loại.
Để xây dựng nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc chúng ta chủ trƣơng vừa
bảo vệ bản sắc dân tộc, vừa mở rộng giao lƣu, tiếp thu tinh hoa văn hóa nhân loại. Giữ
gìn bản sắc văn hóa dân tộc đi liền với chống những cái lạc hậu, lỗi thời trong phong tục,
tập quán và lề thói cũ.
Nét đặc trƣng nổi bật của văn hóa Việt Nam là sự thống nhất mà đa dạng, là sự hòa
quyện bình đẳng, sự phát triển độc lập của văn hóa các dân tộc cùng sinh sống trên lãnh
thổ Việt Nam. Hơn 50 dân tộc sống trên đất nƣớc ta đều có những giá trị và sắc thái vǎn
hóa riêng. Các giá trị và sắc thái đó bổ sung cho nhau, làm phong phú nền vǎn hóa Việt
Nam và củng cố sự thống nhất dân tộc là cơ sở để giữ vững sự bình đẳng và phát huy tính
đa dạng vǎn hóa của các dân tộc.
Ba là, phát triển văn hóa vì sự hoàn thiện nhân cách con người và xây dựng con
người để phát triển văn hóa. Trong xây dựng văn hóa, trọng tâm là chăm lo xây dựng con
người có nhân cách, lối sống tốt đẹp, với các đặc tính cơ bản: yêu nước, nhân ái, nghĩa
tình, trung thực, đoàn kết, cần cù, sáng tạo.
Phát triển văn hóa vì sự hoàn thiện nhân cách con ngƣời và xây dựng con ngƣời để
phát triển văn hóa. Đây là mối quan hệ biện chứng.
Trong xây dựng văn hóa, trong tâm là xây dựng con ngƣời có nhân cách, lối sống
tốt đẹp, với các đặc tính cơ bản: yêu nƣớc, nhân ái, nghĩa tình, trung thực, đoàn kết, cần
cù, sáng tạo.
Bốn là, xây dựng đồng bộ môi trường văn hóa, trong đó chú trọng vai trò của gia
đình, cộng đồng. Phát triển hài hòa giữa kinh tế và văn hóa; cần chú ý đầy đủ đến yếu tố
văn hóa và con người trong phát triển kinh tế.
Mỗi địa phƣơng, cộng đồng, cơ quan, đơn vị, tổ chức phải là một môi trƣờng văn
hóa lành mạnh, góp phần giáo dục, rèn luyện con ngƣời về nhân cách, lối sống. Gắn kết
xây dựng môi trƣờng văn hóa với bảo vệ môi trƣờng sinh thái. Đƣa nội dung giáo dục
đạo đức con ngƣời, đạo đức công dân vào các hoạt động giáo dục của xã hội.

Trang 118/136
Thực hiện chiến lƣợc phát triển gia đình Việt Nam, xây dựng gia đình thực sự là nơi
hình thành, nuôi dƣỡng nhân cách văn hóa và giáo dục nếp sống cho con ngƣời. Phát huy
giá trị truyền thống tốt đẹp, xây dựng gia đình no ấm, tiến bộ, hạnh phúc, văn minh.
Gắn các hoạt động văn hóa với phát triển kinh tế - xã hội, bảo đảm quốc phòng, an
ninh, với chƣơng trình xây dựng nông thôn mới, đô thị văn minh.
Phát huy các giá trị, nhân tố tích cực trong văn hóa tôn giáo, tín ngƣỡng; khuyến
khích các hoạt động tôn giáo gắn bó với dân tộc, hƣớng thiện, nhân đạo, nhân văn, tiến
bộ, "tốt đời, đẹp đạo". Khuyến khích các hoạt động "đền ơn đáp nghĩa", "uống nƣớc nhớ
nguồn", từ thiện, nhân đạo.
Năm là, xây dựng và phát triển văn hóa là sự nghiệp của toàn dân do Đảng lãnh
đạo, Nhà nước quản lý, nhân dân là chủ thể sáng tạo, đội ngũ trí thức giữ vai trò quan
trọng.
Mọi ngƣời Việt Nam phấn đấu vì dân giàu, nƣớc mạnh, xã hội công bằng, vǎn minh
đều tham gia sự nghiệp xây dựng và phát triển nền vǎn hóa nƣớc nhà. Công nhân, nông
dân, trí thức là nền tảng khối đại đoàn kết toàn dân, cũng là nền tảng của sự nghiệp xây
dựng và phát triển vǎn hóa dƣới sự lãnh đạo của Đảng, quản lý của Nhà nƣớc. Đội ngũ trí
thức gắn bó với nhân dân giữ vai trò quan trọng trong sự nghiệp xây dựng và phát triển
vǎn hóa.
- Chủ trƣơng giải quyết các vấn đề xã hội
+ Quan điểm về giải quyết các vấn đề xã hội
Một là, kết hợp các mục tiêu kinh tế với các mục tiêu xã hội.
Kế hoạch phát triển kinh tế phải tính đến mục tiêu phát triển các lĩnh vực xã hội có
liên quan trực tiếp
Mục tiêu phát triển kinh tế phải tính đến các tác động và hậu quả xã hội có thể xảy
ra để chủ động xử lý
Phải tạo đƣợc sự thống nhất, đồng bộ giữa chính sách kinh tế và chính sách xã hội.
Sự kết hợp giữa hai loại mục tiêu này phải đƣợc quán triệt ở tất cả các cấp, các
ngành, các địa phƣơng, ở từng đơn vị kinh tế cơ sở.
Hai là, xây dựng và hoàn thiện thể chế gắn kết tăng trưởng kinh tế với tiến bộ, công
bằng xã hội trong từng chính sách phát triển.

Trang 119/136
Trong từng bƣớc và từng chính sách phát triển (của chính phủ hay của ngành, của
trung ƣơng hay địa phƣơng), cần đặt rõ và xử lý hợp lý việc gắn kết giữa tăng trƣởng
kinh tế với tiến bộ và công bằng xã hội
Nhiệm vụ “gắn kết” này không dừng lại nhƣ một khẩu hiệu, một lời khuyến nghị
mà phải đƣợc pháp chế hoá thành các thể chế có tính cƣỡng chế, buộc các chủ thể phải
thi hành.
Các cơ quan, các nhà hoạch định chính sách phát triển quốc gia phải thấu triệt quan
điểm phát triển bền vững, phát triển “sạch”, phát triển hài hoà, không chạy theo số lƣợng
tăng trƣởng bằng mọi giá
Ba là, chính sách xã hội được thực hiện trên cơ sở phát triển kinh tế, gắn bó hữu cơ
giữa quyền lợi và nghĩa vụ, giữa cống hiến và hưởng thụ.
Chính sách xã hội có vị trí, vai trò độc lập tƣơng đối so với kinh tế, nhƣng không
thể tách rời trình độ phát triển kinh tế, cũng không thể dựa vào viện trợ nhƣ thời bao cấp.
Trong chính sách xã hội phải gắn bó giữa quyền lợi và nghĩa vụ, giữa cống hiến và
hƣởng thụ. Đó là một yêu cầu của công bằng xã hội và tiến bộ xã hội; xoá bỏ quan điểm bao
cấp, cào bằng; chấm dứt cơ chế xin - cho trong chính sách xã hội
Bốn là, coi trọng chỉ tiêu GDP bình quân đầu người gắn với chỉ tiêu phát triển con
người (HDI) và chỉ tiêu phát triển các lĩnh vực xã hội.
Quan điểm này khẳng định mục tiêu cuối cùng và cao nhất của sự phát triển phải là
vì con ngƣời, vì một xã hội dân giàu, nƣớc mạnh, công bằng, dân chủ, văn minh. Phát
triển phải bền vững, không chạy theo số lƣợng tăng trƣởng
+ Chủ trƣơng giải quyết các vấn đề xã hội
Một là, khuyến khích mọi người dân làm giàu theo pháp luật, thực hiện có hiệu quả
mục tiêu xoá đói, giảm nghèo.
Tạo cơ hội, điều kiện cho mọi ngƣời tiếp cận bình đẳng các nguồn lực phát triển.
Tạo động lực làm giàu trong đông đảo dân cƣ bằng tài năng, sáng tạo của bản thân,
trong khuôn khổ pháp luật và đạo đức cho phép.
Xây dựng và thực hiện có kết quả cao chƣơng trình xoá đói giảm nghèo; đề phòng
tái đói, tái nghèo; nâng cao dần chuẩn đói nghèo khi mức sống chung tăng lên.
Hai là, bảo đảm cung ứng dịch vụ công thiết yếu, bình đẳng cho mọi người dân,
tạo việc làm và thu nhập, chăm sóc sức khoẻ cộng đồng
Xây dựng hệ thống an sinh xã hội đa dạng; phát triển mạnh hệ thống bảo hiểm.

Trang 120/136
Đa dạng hoá các loại hình cứu trợ xã hội, tạo nhiều việc làm ở trong nƣớc và đẩy
mạnh xuất khẩu lao động.
Thực hiện chính sách ƣu đãi xã hội.
Đổi mới chính sách tiền lƣơng; phân phối thu nhập xã hội công bằng, hợp lý.
Ba là, phát triển hệ thống y tế công bằng và hiệu quả
Hoàn thiện mạng lƣới y tế cơ sở; quan tâm chăm sóc y tế tốt hơn đối với các đối
tƣợng chính sách; phát triển các dịch vụ y tế công nghệ cao, các dịch vụ y tế ngoài công
lập.
Bốn là, xây dựng chiến lược quốc gia về nâng cao sức khoẻ và cải thiện giống nòi
Quan tâm chăm sóc sức khoẻ sinh sản. Giảm nhanh tỷ lệ trẻ em suy dinh dƣỡng.
Đẩy mạnh công tác bảo vệ giống nòi, kiên trì phòng chống HIV/ AIDS và các tệ
nạn xã hội.
Năm là, thực hiện tốt các chính sách dân số và kế hoạch hoá gia đình
Giảm tốc độ tăng dân số, bảo đảm quy mô và cơ cấu dân số hợp lý.
Xây dựng gia đình no ấm, tiến bộ, hạnh phúc; bảo đảm bình đẳng giới; chống nạn
bạo hành trong quan hệ gia đình.
Sáu là, chú trọng các chính sách ưu đãi xã hội
Bảy là, đổi mới cơ chế quản lý và phƣơng thức cung ứng các dịch vụ công cộng.
c. Đƣờng lối quốc phòng, an ninh và đối ngoại
- Đƣờng lối quốc phòng, an ninh
+ Quan điểm và tƣ tƣởng chỉ đạo quốc phòng, an ninh
Bảo vệ Tổ quốc là nhiệm vụ chiến lược của cách mạng Việt Nam
Bảo vệ Tổ quốc là quy luật đối với mọi quốc gia, dân tộc. Sau cách mạng, kẻ thù
vừa bị đánh đổ luôn tìm cách phục thù, cấu kết với kẻ thù bên ngoài tìm cách chống lại
cách mạng, Một cuộc cách mạng chỉ có giá trị khi nó biết tự bảo vệ. Chủ tịch Hồ Chí
Minh nói: ''Các vua Hùng đã có công dựng nƣớc, Bác cháu ta phải cùng nhau giữ lấy
nƣớc''.
Trong lịch sử, ông cha ta đã đánh thắng mọi kẻ thù lớn mạnh bên ngoài và xây đắp
truyền thống dựng nƣớc và giữ nƣớc. Đảng ta đã phát huy truyền thống anh hùng của dân
tộc, đƣa cách mạng Việt Nam giành thắng lợi, Cách mạng tháng Tám 1945 đánh thắng đế
quốc xâm lƣợc, giữ gìn độc lập dân tộc. Qua hơn 30 năm đổi mới, độc lập chủ quyền,
toàn vẹn lãnh thổ, an ninh chính trị của đất nƣớc đƣợc giữ vững, trật tự an toàn xã hội

Trang 121/136
đƣợc bảo đảm. Quân đội nhân dân và Công an nhân dân có nhiều thành tích trong xây
dựng lực lƣợng, nâng cao tinh thần chiến đấu và sẵn sàng chiến đấu. Việc kết hợp phát
triển kinh tế với quốc phòng ở một số địa bàn đạt hiệu quả cao. Thế trận quốc phòng toàn
dân gắn với thế trận an ninh nhân dân đƣợc củng cố.
Xu thế của thế giới ngày nay, tuy hợp tác càng tăng nhƣng cạnh tranh cũng rất
quyết liệt, khu vực châu Á - Thái Bình Dƣơng đang phát triển năng động nhƣng cũng
tiềm ẩn một số nhân tố thể gây mất ổn định. Chủ nghĩa đế quốc và các thế lực thù địch
vẫn âm mƣu chống phá cách mạng nƣớc ta quyết liệt và tinh vi hơn bằng chiến lƣợc
“diễn biến hoà bình”. Sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nƣớc đang đặt ra
những nhiệm vụ hế sức nặng nề. Chúng ta đang đứng trƣớc cơ hội lớn và những thách
thức lớn. Nếu ta suy yếu, tụt hậu xa hơn về kinh tế thì nguy cơ ''diễn biến hoà bình'' và
các tệ nạn xã hội khác có điều kiện phát triển.
Tập trung phát triển kinh tế chúng ta không thể coi nhẹ là nhiệm vụ tăng cƣờng
quốc phòng, giữ vững an ninh quốc gia, toàn vẹn lãnh thổ và lợi ích dân tộc. Xây dựng
chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa là hai nhiệm vụ chiến là
của cách mạng Việt Nam hiện nay. Bảo vệ Tổ quốc là nhiệm vụ chiến lƣợc vừa thƣờng
xuyên lâu dài, vừa khẩn trƣơng cấp bách trong cục diện thế giới và nƣớc hiện nay.
Quan điểm cơ bản của Đảng về quốc phòng, an ninh
Xây dựng nền quốc phòng toàn dân và an ninh nhân dân vững mạnh toàn diện, bảo
vệ vững chắc Tổ quốc, độc lập, chủ quyền, thống nhất, lãnh thổ; kết hợp chặt chẽ hai
nhiệm vụ chiến lƣợc xây dựng và bảo vệ tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa; kết hợp
quốc phòng, giữ vững ninh với kinh tế; gắn bó và phối hợp chặt chẽ nhiệm vụ quốc
phòng, nhiệm vụ an ninh và hoạt dộng đối ngoại. Củng cố quốc phòng, giữ vững an ninh
quốc gia là nhiệm vụ trọng yếu thƣờng xuyên của Đảng, Nhà nƣớc và toàn dân.
Bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa là bảo vệ Đảng, Nhà nƣớc, nhân dân và chế độ
xã hội chủ nghĩa; bảo vệ an ninh chính trị, an ninh kinh tế, an ninh tƣ tƣởng văn hóa và
an ninh xã hội. Bảo vệ an ninh tƣ tƣởng là một nhiệm vụ quan trọng của bảo vệ văn hoá
và chế độ xã hội chủ nghĩa. Giữ vững nền tảng tƣ tƣởng chủ nghĩa Mác - Lênin, tƣ tƣởng
Hồ Chí Minh, bảo vệ đƣờng lối của Đảng, làm thất bại chiến là lƣợc "diễn biến hòa bình"
của các thế lực thù địch. Bảo vệ Tổ quốc là duy trì trật tự, kỷ cƣơng, an toàn xã hội; giữ
vững ổn định chính trị của đất nƣớc, ngăn ngừa, đẩy lùi và làm thất bại mọi âm mƣu, hoạt
động chống phá, thù địch, không để bị động, bất ngờ.

Trang 122/136
Sức mạnh bảo vệ tổ quốc là sức mạnh tổng hợp của khối đại đoàn kết toàn dân,
của cả hệ thống chính trị dƣới sự lãnh đạo của Đảng; kết hợp sức mạnh dân tộc với sức
mạnh của thời đại; kết hợp lực lƣợng và thế trận anh ninh nhân dân; kết hợp kinh tế với
quốc phòng; kinh tế và hoạt động đối ngoại. Hoàn thiện hệ thống pháp luật về bảo vệ Tổ
quốc, thể chế hoá các chủ trƣơng, chính sách của Đảng về xây dựng nền quốc phòng toàn
dân và an ninh nhân dân, tăng cƣờng quản lý Nhà nƣớc về quốc phòng, an ninh. Thƣờng
xuyên chăm lo xây dựng Đảng, tăng cƣờng lãnh đạo của Đảng đối với quân đội và công
an, đối với sự nghiệp củng cố quốc phòng và an ninh.
+ Nhiệm vụ quốc phòng và an ninh
Tiếp tục đổi mới và nâng cao chất lượng công tác giáo dục, bồi dưỡng kiến thức
quốc phòng, an ninh
Tăng cƣờng công tác giáo dục nhận thức về quốc phòng an ninh đối với đội ngũ
công chức. Kiến thức quản lý Nhà nƣớc về quốc phòng an ninh cần đƣa vào chƣơng trình
chính khoá đào tạo, bồi dƣỡng cho cán bộ, công chức và cho toàn dân, có nội dụng phù
hợp với từng đối tƣợng và đƣa vào chƣơng trình chính khoá trong các nhà trƣờng theo
cấp học, bậc học.
Chú trọng giáo dục thống nhất nhận thức về đối tƣợng và đối tác; nắm vững đƣờng
lối, quan điểm, yêu cầu nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới; nâng cao ý thức
trách nhiệm và tinh thần cảnh giác trong thực hiện nhiệm vụ quốc phòng, an ninh. Xây
dựng thế trận quốc phòng toàn dân và an ninh nhân dân. Giữ vững an ninh nội địa, giải
quyết kịp thời các mâu thuẫn, tranh chấp trong nhân dân; xây dựng “thế trận lòng dân''
làm nền tảng phát huy sức mạnh tổng hợp của toàn dân tộc, trong đó xây dựng cơ sở
chính trị - xã hội, thế trận quốc phòng toàn dân và an ninh nhân dân; coi trọng xây dựng
thế trận trên các địa bàn chiến lƣợc trọng yếu; xây dựng lực lƣợng nhân dân, tự vệ và
công an bảo vệ cơ sở.
Cơ sở chính trị - xã hội của quốc phòng an ninh là sự vững chắc của hệ thống
chính trị, nhận thức đúng đắn của cán bộ, đảng viên và nhân dân, sự vững vàng về chính
trị, tƣ tƣởng của lực lƣợng vũ trang, của chính quyền gắn bó chặt chẽ với nhân dân, kết
hợp giữa chiến lƣợc phát triển kinh tế - xã hội và chiến lƣợc quốc phòng bảo vệ an ninh
quốc gia. Kiên quyết làm thất bại mọi âm mƣu và thủ đoạn “diễn biến hoà bình'', bạo lọan
lật đổ. Coi trọng nhiệm vụ bảo đảm an ninh chính trị nội bộ, nâng cao khả năng tự bảo vệ
của mỗi ngƣời, của từng tổ chức, cơ quan, đơn vị.

Trang 123/136
Kết hợp phát triển kinh tế - xã hội với tăng cường sức mạnh quốc phòng và an
ninh trên cơ sở phát huy mọi tiềm năng của đất nước
Xây dựng thế trận quốc phòng toàn dân kết hợp chặt chẽ với thế trận an ninh nhân
dân. Đẩy mạnh xây dựng các khu vực phòng thủ tỉnh, thành phố. Tiếp tục phát triển các
khu kinh tế- quốc phòng, xây dựng các khu quốc phòng - kinh tế với mục tiêu tăng cƣờng
quốc phòng - an ninh là chủ yếu, tập trung vào các địa bàn trọng điểm chiến lƣợc và
những khu vực nhạy cảm trên biên giới đất liền, biển đảo.
Xây dựng công nghiệp quốc phòng trong hệ thống công nghiệp quốc gia dƣới sự chỉ
đạo, quản lý điều hành trực tiếp của Chính phủ, đầu tƣ có chọn lọc theo hƣớng hiện đại,
vừa phục vụ quốc phòng, vừa phục vụ dân sinh.
Xây dựng Quân đội nhân dân và Công an nhân dân cách mạng, chinh quy, tinh
nhuệ, từng bước hiện đại
Mục tiêu xây dựng lực lƣợng vũ trang chính quy, tinh nhuệ, từng bƣớc hiện đại và
có bản lĩnh chính trị vững vàng; trung thành tuyệt đối với tổ quốc, với Đảng và nhân dân;
có trình độ văn hoá và chuyên môn, nghiệp vụ ngày càng cao; quý trọng và hết lòng phục
vụ nhân dân. Có phẩm chất, đạo đức, lối sống lành mạnh: giản dị, kế thừa và phát huy
quyền thống vẻ vang của Đảng và dân tộc. Có năng lực chỉ huy và tác chiến thắng lợi
trong bất cứ hoàn cảnh nào. Có trình độ chiến đấu và sức chiến đấu ngày càng cao. Nâng
cao chất lƣợng tổng hợp, sức chiến đấu để lực lực lƣợng vũ trang thật sự là lực lƣợng
chính trị trong sạch, vững mạnh, tuyệt đối trung thành với tổ quốc, với Đảng, Nhà nƣớc
và nhân dân, đƣợc nhân dân tin cậy, yêu mến.
Đổi mới tổ chức, nội dung, phƣơng pháp huấn luyện đào tạo đi đôi với cải tiến, đổi
mới vũ khí, trang bị phƣơng tiện phù hợp với yêu cầu tác chiến mới: phát triển khoa học
quân sự, khoa học công an, nghệ thuật chiến tranh nhân dân; cải tiến thức thức hoạt động
của lực lƣợng chuyên trách, bán chuyên trách phối hợp với các tổ chức nhân dân trong
bảo vệ an ninh quốc gia, bảo đảm trật tự an toàn xã hội.
Xây dựng, bổ sung cơ chế lãnh đạo của Đảng và quản lý của Nhà nước đối với
hoạt động quốc phòng, an ninh
Tăng cƣờng sự lãnh đạo của Đảng về quốc phòng và an ninh. Thực hiện chế độ
chính ủy, chính trị viên, tăng cƣờng công tác Đảng, công tác chính trị trong quân đội.
Bổ sung chế độ phối hợp hoạt động giữa quốc phòng, an ninh, đối ngoại và các bộ,
ngành có liên quan trong phân tích, dự báo tình hình và làm tham mƣu đề xuất các giải

Trang 124/136
pháp thực hiện. Bổ sung, xây dựng các văn bản quy phạm pháp luật, các chính sách xã
hội có quan hệ đến nhiệm vụ quốc phòng, an ninh. Khẩn trƣơng chỉ đạo xây dựng và ban
hành các chiến lƣợc quốc gia: chiến lƣợc Quốc phòng, chiến lƣợc an ninh và các chiến
lƣợc chuyên ngành khác.
Tăng cƣờng quốc phòng, giữ vững an ninh quốc gia và toàn vẹn lãnh thổ là nhiệm
vụ trọng yếu, thƣờng xuyên của Đảng, Nhà nƣớc và của toàn dân. Đảng là ngƣời lãnh đạo
trực tiếp, tuyệt đối và toàn diện lực lƣợng vũ trang; Nhà nƣớc là công cụ của Đảng, tổ
chức quản lý chặt chẽ, phát huy cao độ của khối đại đoàn kết toàn dân. Quân đội nhân
dân và Công an nhân dân có vai trò nòng cốt trong việc thực hiện nhiệm vụ quốc phòng
và an ninh.
Tiếp nối truyền thống anh hùng của dân tộc, mỗi cán bộ, đảng viên, thanh niên có
trách nhiệm to lớn trong việc thực hiện nhiệm vụ quốc phòng và an ninh, bảo vệ Tổ quốc.
Luôn luôn mài sắc ý chí cách mạng, tinh thần cảnh giác, không mơ hồ ngón đòn "diễn biến
hòa bình" và mọi âm mƣu thâm độc của kẻ thù; chấp hành nghiêm chỉnh pháp luật, giữ gìn
trật tự an ninh, an toàn xã hội và bí mật quốc gia; sẵn sàng thực hiện tốt các công tác trên
mặt trận quốc phòng và an ninh ở lĩnh vực, địa bàn và nơi cƣ trú của mình.
- Đƣờng lối đối ngoại, chủ động và tích cực hội nhập quốc tế trong thời kỳ quá
độ lên chủ nghĩa xã hội
+ Mục tiêu, nhiệm vụ
Lấy việc giữ vững môi trƣờng hòa bình, ổn định tạo các điều kiện quốc tế thuận lợi
cho công cuộc đổi mới, để phát triển kinh tế - xã hội là lợi ích cao nhất của Tổ quốc.
Mở rộng đối ngoại và hội nhập kinh tế quốc tế là để tạo thêm nguồn lực đáp ứng
yêu cầu phát triển của đất nƣớc.
Kết hợp nội lực với các nguồn lực từ bên ngoài tạo thành nguồn lực tổng hợp để đẩy
mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa, thực hiện dân giàu, nƣớc mạnh, dân chủ ,công bằng,
văn minh.
Phát huy vai trò và nâng cao vị thế của Việt Nam trong quan hệ quốc tế.
Góp phần tích cực vào cuộc đấu tranh chung của nhân dân thế giới vì hòa bình, độc
lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội.
+ Tƣ tƣởng chỉ đạo
Bảo đảm lợi ích dân tộc chân chính là xây dựng thành công và bảo vệ vững chắc Tổ
quốc xã hội chủ nghĩa, đồng thời thực hiện nghĩa vụ quốc tế theo khả năng của Việt Nam.

Trang 125/136
Giữ vững độc lập tự chủ, tự cƣờng đi đôi với đẩy mạnh đa phƣơng hóa, đa dạng hóa
quan hệ đối ngoại.
Nắm vững hai mặt hợp tác và đấu tranh trong quan hệ quốc tế; cố gắng thúc đẩy
mặt hợp tác, nhƣng vẫn phải đấu tranh dƣới hình thức và mức độ thích hợp với từng đối
tác; đấu tranh để hợp tác; trách trực diện đối đầu, tránh bị đẩy vào thế cô lập.
Mở rộng quan hệ với mọi quốc gia và vùng lãnh thổ trên thế giới, không phân biệt
chế độ chính trị xã hội. Coi trọng quan hệ hòa bình, hợp tác với khu vực; chủ động tham
gia các tổ chức đa phƣơng, khu vực và toàn cầu.
Kết hợp đối ngoại của Đảng, ngoại gia Nhà nƣớc và đối ngoại nhân dân. Xác định
hội nhập kinh tế quốc tế là công việc của toàn dân.
Giữ vững ổn định chính trị, kinh tế - xã hội; giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc; bảo vệ
mội trƣờng sinh thái trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế.
Phát huy tối đa nội lực đi đôi với thu hút và sử dụng có hiệu quả các nguồn lực bên
ngoài; xây dựng nền kinh tế độc lập tự chủ; tạo ra và sử dụng có hiệu quả các lợi thế so
sánh của đất nƣớc trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế.
Bảo đảm sự thống nhất lãnh đạo của Đảng, sự lãnh đạo của Nhà nƣớc đối với các
hoạt động đối ngoại. Phối hợp chặt chẽ giữa hoạt động đối ngoại của Đảng, ngoại giao
Nhà nƣớc và ngoại giao nhân dân; giữa ngoại giao chính trị với ngoại giao kinh tế và
ngạo giao văn hóa; giữa đối ngoại với quốc phòng, an ninh.
+ Một số chủ trƣơng, chính sách lớn về mở rộng quan hệ đối ngoại, hội nhập
quốc tế trong thời gian tới
Bảo đảm lợi ích tối cao của quốc gia - dân tộc, trên cơ sở các nguyên tắc cơ bản của
luật pháp quốc tế, bình đẳng và cùng có lợi, thực hiện nhất quán đƣờng lối đối ngoại độc
lập, tự chủ, hòa bình, hợp tác và phát triển; đa dạng hóa, đa phƣơng hóa trong quan hệ đối
ngoại; chủ động và tích cực hội nhập quốc tế; là bạn, là đối tác tin cậy và thành viên có
trách nhiệm của cộng đồng quốc tế.
Nâng cao hiệu quả các hoạt động đối ngoại, tiếp tục đƣa các mối quan hệ hợp tác đi
vào chiều sâu, nâng cao chất lƣợng, hiệu quả công tác đối ngoại đa phƣơng, chủ động và
tích cực đóng góp xây dựng, định hình các thể chế đa phƣơng.
Triển khai mạnh mẽ định hƣớng chiến lƣợc chủ động và tích cực hội nhập quốc tế.
Nâng cao hiệu quả hội nhập kinh tế quốc tế, thực hiện đầy đủ các cam kết quốc tế,
xây dựng và triển khai chiến lƣợc tham gia các khu vực mậu dịch tự do với các đối tác

Trang 126/136
kinh tế, thƣơng mại quan trọng, ký kết và thực hiện hiệu quả các hiệp định thƣơng mại tự
do thế hệ mới trong một kế hoạch tổng thể với lộ trình hợp lý, phù hợp với lợi ích của đất
nƣớc.
Tăng cƣờng công tác nghiên cứu, dự báo chiến lƣợc, tham mƣu về đối ngoại; đổi
mới nội dung, phƣơng pháp, nâng cao hiệu quả công tác tuyên truyền đối ngoại; chăm lo
đào tạo, rèn luyện đội ngũ cán bộ làm công tác đối ngoại; bồi dƣỡng kiến thức đối ngoại
cho cán bộ chủ chốt các cấp.
Bảo đảm sự lãnh đạo thống nhất của Đảng, sự quản lý tập trung của Nhà nƣớc đối
với các hoạt động đối ngoại.
d. Đƣờng lối đại đoàn kết dân tộc và đoàn kết tôn giáo
- Quan điểm, phƣơng hƣớng và giải pháp đại đoàn kết dân tộc
+ Quan điểm của Đảng về đoàn kết dân tộc
Trong quá trình lãnh đạo cách mạng Việt Nam, Đảng ta luôn luôn xác định phát huy
sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc là nguồn lực chủ yếu để đấu tranh giành độc lập dân
tộc, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Thời kỳ đổi mới, qua các kỳ đại hội đã thấy rõ quá trình
phát triển tƣ duy của Đảng về đại đoàn kết toàn dân tộc để phù hợp với nhiệm vụ cách
mạng trong từng thời kỳ. Và cũng qua đó có thể rút ra một số quan điểm của Đảng về đại
đoàn kết toàn dân tộc trong xây dựng và bảo vệ Tổ quốcđƣợc thể hiện qua các nội dung
sau:
Về vị trí của khối đại đoàn kết toàn dân tộc trong xây dựng và bảo vệ Tổ quốc:
Đảng chỉ rõ: vấn đề dân tộc và khối đại đoàn kết toàn dân tộc vừa là chiến lƣợc cơ bản
lâu dài, vừa là vấn đề cấp bách của cách mạng Việt Nam
Về vai trò của đại đoàn kết toàn dân tộc trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ
quốc: Đảng Cộng sản Việt Nam khẳng định: Đại đoàn kết toàn dân tộc là nguồn sức
mạnh, động lực chủ yếu và là nhân tố có ý nghĩa quyết định bảo đảm cho thắng lợi của sự
nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.
Về cơ sở xây dựng khối đại đoàn kết dân tộc, thực hiện trên cơ sở lợi ích và đảm
bảo hài hòa các lợi ích chính đáng, hợp pháp của các giai cấp, tầng lớp xã hội, các dân
tộc.
Về lực lƣợng của khối đại đoàn kết toàn dân tộc: Sức mạnh của khối đại đoàn kết
toàn dân tộc là sức mạnh của cả cộng đồng các dân tộc Việt Nam, bao gồm đồng bào các

Trang 127/136
dân tộc, tôn giáo, các giai cấp, tầng lớp xã hội, các thành phần kinh tế, các lứa tuổi ở mọi
vùng miền của đất nƣớc và đồng bào ta cƣ trú ở nƣớc ngoài
Về nguyên tắc đoàn kết dân tộc: Đảng chỉ rõ: Đoàn kết dân tộc trên nền tảng liên
minh giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và đội ngũ trí thức tập hợp trong Mặt trận
dân tộc thống nhất do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo, Đảng là hạt nhân lãnh đạo của
khối đại đoàn kết toàn dân tộc.
Về ứng xử trong xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân tộc: Để xây dựng và tăng
cƣờng khối đại đoàn kết toàn dân tộc cần phải thƣờng xuyên có thái độ ứng xử đúng đắn.
Đảng chỉ rõ: “xóa bỏ mặc cảm, định kiến về quá khứ, thành phần giai cấp, chấp nhận
những điểm khác nhau không trái với lợi ích chung của dân tộc, đề cao tinh thần dân tộc,
truyền thống nhân nghĩa, khoan dung… để tập hợp, đoàn kết mọi ngƣời vào mặt trận
chung, tăng cƣờng đồng thuận xã hội”.
Về chủ thể xây dựng khối đại đoàn kết dân tộc: Đảng Cộng sản Việt Nam chỉ rõ:
xây dựng và phát huy sức mạnh đại đoàn kết dân tộc là “sự nghiệp của toàn dân tộc, của
cả hệ thống chính trị mà hạt nhân lãnh đạo là các tổ chức đảng”
+ Phƣơng hƣớng và giải pháp phát huy sức mạnh đại đoàn kết dân tộc
Những phương hướng cơ bản
Một là, quán triệt sâu sắc thực hiện đồng bộ các quan điểm, đƣờng lối của Đảng,
chính sách, pháp luật của Nhà nƣớc nhằm phát triển kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội,cải
thiện, nâng cao đời sống vật chất, tinh thần của đồng bào các dân tộc, thực hiện tiến bộ và
công bằng xã hội.
Đây là cơ sở vững chắc đảm bảo cho xã hội phát triển và ổn định tạo cơ sở để thực
hiện tiến bộ và công bằng xã hội, tạo nền tảng vật chất và tinh thần để xây dựng và phát
huy khối đại đoàn kết toàn dân tộc.
Hai là, thực hiện và phát huy dân chủ xã hội chủ nghĩa trong mọi lĩnh vực đời sống
xã hội, quan hệ xã hội.
Dân chủ xã hội chủ nghĩa là bản chất của chế độ ta, vừa là mục tiêu, vừa là động lực
phát triển đất nƣớc, đồng thời dân chủ còn là phƣơng thức tiến bộ nhất để nhân dân tham
gia quản lý xã hội, quản lý Nhà nƣớc.
Ba là, tổ chức và động viên các tầng lớp nhân dân các dân tộc tham gia các phong
trào thi đua yêu nƣớc để tập hợp, động viên nhân dân, tích cực xây dựng khối đại đoàn
kết toàn dân tộc

Trang 128/136
Các phong trào thi đua yêu nƣớc, các cuộc vận động xã hội do Đảng, Nhà nƣớc,
Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể xã hội phát động là hình thức hoạt động tích cực, có
hiệu quả cao để xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân tộc và phát triển đất nƣớc.
Bốn là, thực hiện hệ thống các chính sách đúng đắn, kịp thời đối với các giai cấp,
tầng lớp xã hội, tạo nên một cơ cấu xã hội - giai cấp, cơ cấu thành phần kinh tế phát triển
tích cực, phù hợp với sự phát triển đất nƣớc trong giai đoạn mới.
Những giải pháp chủ yếu
Thứ nhất, thƣờng xuyên nâng cao giác ngộ về đại đoàn kết toàn dân tộc cho cả hệ
thống chính trị và toàn dân
Xây dựng và phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc là sự nghiệp của cả hệ
thống chính trị và của toàn dân tộc, do Đảng lãnh đạo. Là chủ thể xây dựng và thực hành
đại đoàn kết toàn dân tộc, hệ thống chính trị và đồng bào các dân tộc trƣớc hết phải có sự
giác ngộ sâu sắc về khối đại đoàn kết toàn dân tộc. Đây là cơ sở, là điều kiện tiên quyết
để xây dựng và phát huy sức mạnh đại đoàn kết dân tộc
Thứ hai, bám sát mục tiêu, yêu cầu, nhiệm vụ cách mạng, thực tiễn của đất nƣớc,
tình hình khu vực và thế giới trong mỗi giai đoạn để có chủ trƣơng, chính sách xây dựng
khối đại đoàn kết toàn dân tộc đúng đắn, sáng tạo
Thứ ba, nắm vững tƣ tƣởng chỉ đạo về chiến lƣợc đại đoàn kết toàn dân tộc, phát
huy nội lực dân tộc, đề cao vai trò các chủ thể trong xây dựng khối đại đoàn kết dân tộc
Trong sự nghiệp giải phóng dân tộc, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, dù ở giai đoạn
nào thì sức mạnh nội lực dân tộc vẫn là nhân tố cơ bản, chủ yếu quyết định đến thắng lợi
của cách mạng. Bài học về phát huy sức mạnh nội lực dân tộc đã, đang và vẫn là bài học
quý báu và mang tính thời sự. Xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân tộc là con đƣờng,
phƣơng thức chủ yếu để phát huy nội lực dân tộc. Mặt khác, trong xây dựng khối đại
đoàn kết toàn dân tộc, thì sức mạnh nội lực dân tộc lại là yếu tố quyết định. Vì vậy, Đảng,
Nhà nƣớc phải luôn chú trọng chăm lo bồi dƣỡng sức dân, luôn khơi dậy và phát huy mọi
nguồn lực trong nhân dân, giải phóng mọi tiềm năng của đất nƣớc và đặc biệt là phát huy
cao độ, tính chủ động, tích cực, sang tạo của nhân dân trong sự nghiệp xây dựng và bảo
vệ Tổ quốc.
Thứ tư, thƣờng xuyên nêu cao tinh thần cảnh giác, chủ động, kiên quyết đấu tranh
với mọi biểu hiện chống phá khối đại đoàn kết toàn dân tộc của các thế lực thù địch

Trang 129/136
Chia rẽ, phá hoại khối đại đoàn kết toàn dân tộc Việt Nam là bản chất, âm mƣu, thủ
đoạn của chủ nghĩa đế quốc và các thế lực thù địch,phản động. Đấu tranh chống mọi biểu
hiện chống phá khối đại đoàn kết toàn dân tộc của các thế lực thù địch đòi hỏi phải
thƣờng xuyên tích cực, chủ động, kịp thời, toàn diện, đồng bộ; có nội dung và phƣơng
pháp đấu tranh phù hợp; phải phát huy mọi lực lƣợng, đề cao tinh thần trách nhiệm của
hê thống chính trị các cấp, của các cơ quan chức năng, bộ phận chuyên trách, các cấp ủy
đảng, chính quyền, đoàn thể, các nhà khoa học và toàn dân.
- Quan điểm và chủ trƣơng của Đảng về đoàn kết tôn giáo
+ Quan điểm
Tín ngƣỡng, tôn giáo là nhu cầu tinh thần của một bộ phận nhân dân, đã và sẽ tồn
tại cùng dân tộc trong quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nƣớc ta. Đồng bào tôn giáo
là bộ phân của khối đại đoàn kết dân tộc.
Thực hiện nhất quán chính sách tôn giáo và bảo đảm quyền tự do tín ngƣỡng, theo
hoặc không theo một tôn giáo nào, quyền sinh hoạt tôn giáo bình thƣờng theo đúng pháp
luật.
Đoàn kết đồng bào theo các tôn giáo khác nhau; đoàn kết đồng bào theo tôn giáo và
đồng bào không theo tôn giáo. Giữ gìn và phát huy những giá trị tích cực của truyền
thống tổ tiên, tôn vinh những ngƣời có công với Tổ quốc và nhân dân. Nghiêm cấm sự
phân biệt đối xử với công dân vì lý do tín ngƣỡng, tôn giáo. Đồng thời, nghiêm cấm lợi
dụng tín ngƣỡng, tôn giáo để hoạt động mê tín dị đoan, hoạt động trái pháp luật và chính
sách của Nhà nƣớc, kích động chia rẽ nhân dân, chia rẽ các dân tộc, gây rối, an ninh quốc
gia.
Lấy mục tiêu dân giàu, nƣớc mạnh, công bằng, dân chủ và văn minh là điểm tƣơng
đồng để gắn bó đồng bào các tôn giáo với sự nghiệp chung, mọi công dân không phân
biệt tín ngƣỡng, tôn giáo đều có quyền và nghĩa vụ xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. đồng
bào các tôn giáo nêu cao tinh thần yêu nƣớc, ý thức bảo vệ độc lập và thống nhất của Tổ
quốc; thông qua việc thực hiện tốt chính sách kinh tế - xã hội, an ninh, quốc phòng, bảo
đảm lợi ích vật chất và tinh thần của nhân dân nói chung, trong đó có đồng bào tôn giáo.
Công tác tôn giáo là trách nhiện của toàn bộ hệ thống chính trị do Đảng lãnh đạo, tổ
chức bộ máy và đội ngũ cán bộ chuyên trách làm công tác tôn giáo có trách nhiệm trực
tiếp, cần đƣợc củng cố và kiện toàn. Công tác quản lý Nhà nƣớc đối với các tôn giáo và

Trang 130/136
đấu tranh chống việc lợi dụng tôn giáo để chống chế độ chỉ thành công nếu làm tốt công
tác vân động quần chúng.
+ Chủ trƣơng
Mọi tín đồ đều có quyền tự do hành đạo tại gia đình và cơ sở thờ tự hợp pháp theo
quy định của pháp luật. Các tổ chức tôn giáo đƣợc Nhà nƣớc thừa nhận đƣợc hoạt động
theo pháp luật và đƣợc pháp luật bảo hộ, đƣợc hoạt động tôn giáo, mở trƣờng đào tạo
chức sắc, nhà tu hành, xuất bản kinh sách và giữ gìn, sửa chữa, xây dựng cơ sở thờ tự tôn
giáo của mình theo đúng quy định của pháp luật.
Việc theo đạo truyền đạo cũng nhƣ mọi hoạt động tôn giáo khác đều phải tuân thủ
Hiến pháp và pháp luật không đƣợc lợi dụng tôn giáo tuyên tạc tà đạo, hoạt động mê tín
dị đoan, không đƣợc ép buộc ngƣời dân theo đạo. Nghiêm cấm các tổ chức truyền đạo,
ngƣời truyền đạo và các cách thức truyền đạo trái phép, vi phạm các quy định của Hiến
pháp và pháp luật.
Phát triển kinh tế - xã hội, nâng cao đời sống vật chất, văn hoá của nhân dân, trong
đó có đồng bào các tôn giáo. Tạo điều kiện cho các tôn giáo hoạt đông bình thƣờng theo
đúng chính sách và pháp luật của Nhà nƣớc. Đẩy mạnh phong trào thi đua yêu nƣớc, xây
dựng cuộc sống ''tốt đời, đẹp đạo'' trong quần chúng tín đồ, chức sắc, nhà tu hành ở cơ sở.
Xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân tộc thực hiên thắng lợi công cuộc đổi mới, xây dựng
và bảo vệ đất nƣớc.
Phát huy tinh thần yêu nƣớc của đồng bào có đạo, tự giác và phối hợp đấu tranh làm
thất bại âm mƣu của các thế lực thù địch lợi dụng vấn đề tôn giáo, dân tộc để phá hoại
đoàn kết dân tộc, chống đối chế độ. Các tôn giáo thực hiện quan hệ đối ngoại phù hợp với
đƣờng lối đối ngoại của Đảng và Nhà nƣớc. Tổng kết việc thực hiện các chỉ thị, nghị
quyết của Đảng về công tác tôn giáo. Tăng cƣờng nghiên cứu cơ bản, tổng kết thực tiễn,
góp phần cung cấp luận cứ khoa học cho việc xây dựng và thực hiện các chủ trƣơng,
chính sách trƣớc mắt và lâu dài đối với tôn giáo.
Mỗi ngƣời trong xã hội cần nâng cao nhận thức, thống nhất quan điểm, của Đảng về
vấn đề tôn giáo. Giữ gìn và phát huy truyền thống thờ cúng tổ tiên, tôn vinh và nhớ ơn
những ngƣời có công với Tổ quốc, dân tộc và nhân dân, tôn trọng tín ngƣỡng truyền
thống của đồng bào các dân tộc và đồng bào có đạo. Phát huy truyền thống yêu nƣớc, ý
thức bảo vệ độc lập và thống nhất của Tổ quốc, làm cho các tôn giáo gắn bó với dân tộc
với đất nƣớc, thi đua xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.

Trang 131/136
CÂU HỎI ÔN TẬP
1. Phân tích nội dung Cƣơng lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng và ý nghĩa lịch sử của
việc thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam.
2. Cách mạng tháng Tám 1945 thành công xuất phát từ những nguyên nhân nào? Ý
nghĩa lịch sử của cách mạng tháng Tám 1945?
3. Trình bày nội dung đƣờng lối kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lƣợc (1945-
1954). Kết quả thực hiện đƣờng lối đó?
4. Trình bày nội dung đƣờng lối kháng chiến chống đế quốc Mỹ xâm lƣợc (1954 -
1975). Thắng lợi của cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nƣớc có ý nghĩa lịch sử nhƣ thế
nào?
5. Công nghiệp hóa hiện đại hóa là gì? Giải thích vì sao Đảng ta chủ trƣơng công
nghiệp hóa gắn với hiện đại hóa và công nghiệp hóa, hiện đại hóa gắn với phát triển kinh
tế tri thức, bảo vệ tài nguyên môi trƣờng?
6. Kinh tế thị trƣờng định hƣớng xã hội chủ nghĩa Việt Nam là gì? Vì sao nói phát
triển kinh tế thị trƣờng định hƣớng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam là một tất yếu lịch sử?
7. Làm rõ quan điểm sau đây của Đảng: xây dựng nền văn hoá Việt Nam tiên tiến,
đậm đà bản sắc dân tộc, thống nhất trong đa dạng của cộng đồng các dân tộc Việt Nam,
với các đặc trƣng dân tộc, nhân văn dân chủ và khoa học.
8. Trình bày mục tiêu, nhiệm vụ và tƣ tƣởng chỉ đạo đƣờng lối đối ngoại ở nƣớc ta
htiện nay.
9. Trình bày quan đểm của Đảng về đại đoàn kết dân tộc trong giai đoạn hiện nay
Chủ đề thảo luận số 10: Tìm hiểu về nền khoa học và công nghệ ở Việt Nam
hiện nay? Chú ý đến cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ 4, nền kinh tế chia sẻ, mạng xã
hội?
Chủ đề thảo luận số 11: Tìm hiểu các thành phần kinh tế ở Việt Nam hiện nay?
Chủ đề thảo luận số 12: Vấn đề xây dựng văn hóa nơi học tập và sinh sống?
Chủ đề thảo luận số 13: Vấn đề thực hiện bảo vệ môi trƣờng nơi học tập và sinh
sống?

Trang 132/136
Bài 9: XÂY DỰNG NHÀ NƢỚC PHÁP QUYỀN
XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Bài học này nhằm giúp sinh viên nhận biết đƣợc tầm quan trọng và phƣong hƣớng,
nhiệm vụ trong đƣờng lối xây dựng nhà nƣớc pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam
của Đảng. Giải tích thực trạng và ý nghĩa phƣơng hƣớng, nhiệm vụ trong đƣờng lối xây
dựng nhà nƣớc pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam của Đảng ta.
I. TẦM QUAN TRỌNG CỦA XÂY DỰNG NHÀ NƢỚC PHÁP QUYỀN XÃ
HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
1. Sự cần thiết xây dựng nhà nƣớc pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam
Khái niệm nhà nước: là một tổ chức đặc biệt của quyền lực chính trị, một bộ máy
chuyên làm nhiệm vụ cƣỡng chế và thực hiện các chức năng quản lý đặc biệt, nhằm duy
trì trật tự xã hội, thực hiện mục đích bảo vệ địa vị của giai cấp thống trị trong xã hội.
Khái niệm nhà nước pháp quyền: là nhà nƣớc mà mọi chủ thể đều tuân thủ nghiêm
chỉnh, chịu phục tùng pháp luật – một pháp luật có tính công bằng, tính lý trí, thể hiện
đầy đủ những giá trị cao nhất của xã hội, của con ngƣời.
Lưu ý: Nhà nƣớc pháp quyền không phải là một kiểu nhà nƣớc riêng gắn liền với
một giai cấp, nhƣ nhà nƣớc phong kiến, nhà nƣớc tƣ sản, nhà nƣớc xã hội chủ nghĩa mà
là một cách thức tổ chức nhà nƣớc, trong đó có sự phân công và tổ chức quyền lực để bảo
đảm Hiến pháp và pháp luật giữ địa vị tối cao. Việc xây dựng và phân công quyền lực
nhà nƣớc ở các nƣớc không hoàn toàn giống nhau, do những điều kiện kinh tế, chính trị,
xã hội, lịch sử và truyền thống dân tộc quy định.
Đặc trưng của nhà nước pháp quyền
Một là, bảo đảm tính tối cao của Hiến pháp và pháp luật trong đời sống xã hội.
Pháp luật phải phản ánh ý chí chung của nhân dân và lợi ích chung của xã hội. Nhà nƣớc
thực hiện và bảo vệ các quyền dân sự, chính trị, kinh tế, xã hội và văn hoá của công dân.
Pháp luật chỉ cấm những gì có hại cho xã hội. Công dân đƣợc tự đo làm những gì pháp
luật không cấm.
Hai là, nhà nƣớc và nhân dân bảo đảm trách nhiệm lẫn nhau, có quan hệ mật thiết
và ràng buộc lẫn nhau về quyền và nghĩa vụ do pháp luật điều chỉnh.
Ba là, nhà nƣớc pháp quyền có hình thức tổ chức quyền lực thích hợp để thực hiện
hữu hiệu việc xây dựng hệ thống pháp luật, giám sát sự tuân thủ pháp luật xử lý các vi
phạm pháp luật, bảo đảm cho pháp luật đƣợc thực hiện một cách nghiêm minh.

Trang 133/136
Sự cần thiết xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam
Xây dựng nhà nƣớc pháp quyền vững mạnh để bảo vệ và phát huy những thành
quả trong quá trình đổi mới và hội nhập quốc tế về mọi mặt: kinh tế, chính trị, văn hóa,
xã hội
Xây dựng nhà nƣớc pháp quyền để giải quyết những vấn đề nẩy sinh do mặt trái
của quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa, kinh tế thị trƣờng và hội nhập quốc tế mang
lại.
Xây dựng nhà nƣớc pháp quyền để phát huy dân chủ xã hội chủ nghĩa, mở rộng
quan hệ quốc tế. Đồng thời, đập tan âm mƣu “Diễn biến hòa bình” mà các thế lực chống
phá đang nhắm vào Đảng và Nhà nƣớc ta.
Những đặc trưng của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam
Một là, đó là Nhà nƣớc của dân, do dân và vì dân; tất cả quyền lực nhà nƣớc thuộc
về nhân dân
Hai là, quyền lực nhà nƣớc là thống nhất, có sự phân công rành mạch và phối hợp
chặt chẽ giữa các cơ quan nhà nƣớc trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp
và tƣ pháp
Ba là, Nhà nƣớc đƣợc tổ chức và hoạt động trên cơ sở Hiến pháp, pháp luật và bảo
đảm cho Hiến pháp và các đạo luật giữ vị trí tối thƣợng trong điều chỉnh các quan hệ
thuộc tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội
Bốn là, Nhà nƣớc tôn trọng và bảo đảm quyền con ngƣời, quyền công dân nâng
cao trách nhiệm pháp lý giữa Nhà nƣớc và công dân; thực hành dân chủ, đồng thời tăng
cƣờng kỷ cƣơng, kỷ luật
Năm là, Nhà nƣớc pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam do Đảng Cộng sản Việt
Nam lãnh đạo, đồng thời bảo đảm sự giám sát của nhân dân, sự phản biện xã hội của Mặt
trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức thành viên của Mặt trận.
2. Bản chất Nhà nƣớc pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam
Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam là Nhà nước pháp quyền của dân,
do dân, vì dân, mang bản chất giai cấp giai cấp công nhân, tính dân tộc, tính nhân dân.
Bản chất giai cấp giai cấp công nhân của nhà nƣớc thể hiện ở chỗ: nhà nƣớc là cơ
quan quyền lực tập trung của giai cấp công nhân, nhân dân lao động, đặt dƣới sự lãnh đạo
của Đảng Cộng sản nhằm bảo vệ lợi ích của giai cấp công nhân và nhân dân lao động;

Trang 134/136
thực hiện trấn áp những thế lực phản động, những lực lƣợng chống đối con đƣờng đi lên
chủ nghĩa xã hội.
Sự lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nƣớc pháp quyền xã hội chủ nghĩa là tất yếu
khách quan để giữ vững đƣợc bản chất giai cấp công nhân, bảo đảm đƣợc quyền lực
thuộc về nhân dân. Đảng lãnh đạo Nhà nƣớc đƣợc thể hiện ở chỗ: Đảng đề ra đƣờng lối,
chủ trƣơng, chính sách lớn cho sự phát triển trong từng thời kỳ. Nhà nƣớc thể chế hóa, cụ
thể hoá đƣờng lối, chủ trƣơng, chính sách của Đảng thành Hiến pháp, pháp luật. Đảng
lãnh đạo bằng công tác kiểm tra việc quán triệt, tổ chức thực hiện đƣờng lối của Đảng và
pháp luật của Nhà nƣớc. Tuy nhiên, Đảng lãnh đạo Nhà nƣớc không có nghĩa là Đảng
bao biện, làm thay Nhà nƣớc, mà là để phát huy trách nhiệm, tính chủ động, sắc bén và
hiệu lực trong quản lý, điều hành của Nhà nƣớc, bảo đảm thực hiện đƣờng lối của Đảng
trong thực tiễn. Phát huy vai trò trách nhiệm của Mặt trận tổ quốc, các đoàn thể, các tổ
chức xã hội và nhân dân trong việc tham gia xây dựng kiểm tra giám sát hoạt động và bảo
vệ Nhà nƣớc.
Tính dân tộc của Nhà nƣớc ta thể hiện là Nhà nƣớc ta thừa kế và phát huy những giá
trị truyền thống tốt đẹp của dân tộc và con ngƣời Việt Nam. Có chính sách dân tộc đúng
đắn, chăm lo lợi ích mọi mặt của các dân tộc trong cộng đồng Việt Nam, coi đoàn kết dân
tộc, đoàn kết toàn dân là đƣờng lối chiến lƣợc và động lực to lớn để xây dựng và bảo vệ
Tổ quốc; giữ vững độc lập, tự chủ trong quan hệ đối ngoại; kết hợp đúng đắn chủ nghĩa
yêu nƣớc chân chính với chủ nghĩa quốc tế trong sáng của giai cấp công nhân.
Tính nhân dân thể hiện ở chỗ, toàn bộ hoạt động của Nhà nƣớc đều thể hiện quan
điểm của giai cấp công nhân, thực hiện ý chí và nguyện vọng của nhân dân, phục vụ lợi
ích của giai cấp công nhân, nhân dân lao động và của cả dân tộc.
Tổ chức quyền lực của Nhà nƣớc pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam là thống
nhất, có sự phân công và phối hợp giữa các cơ quan Nhà nƣớc trong việc thực hiện các
quyền lập pháp, hành pháp, tƣ pháp. Sự phân công rành mạch và sự phối hợp chặt chẽ
giữa các cơ quan Nhà nƣớc trong việc thực hiện ba quyền nhằm vừa đảm bảo tính độc lập
chủ động tính trách nhiệm cao của từng cơ quan Nhà nƣớc trong việc thực thi quyền lực,
đảm bảo tính thống nhất, khách quan, hiệu quả, tránh tình trạng lạm quyền, chuyên quyền
của hệ thống cơ quan Nhà nƣớc.
II. PHƢƠNG HƢỚNG XÂY DỰNG NHÀ NƢỚC PHÁP QUYỀN XÃ HỘI
CHỦ NGHĨA VIỆT NAM

Trang 135/136
1. Những yêu cầu mang tính nguyên tắc
Nhà nƣớc luôn phải giữ bản chất cách mạng và khoa học, hoàn thiện nền dân chủ
xã hội chủ nghĩa, làm cho nhà nƣớc thật sự là của dân, do dân, vì dân
Nhà nƣớc phải đƣợc tổ chức theo nguyên tắc quyền lực nhà nƣớc là thống nhất, có
sự phân công và phối hợp giữa các cơ quan lập pháp, hành pháp, tƣ pháp trong thực thi
quyền lực nhà nƣớc
Nhà nƣớc quản lý xã hội bằng hiến pháp và pháp luật, từng bƣớc hoàn thiện hệ
thống pháp luật, tăng cƣờng pháp chế xã hội chủ nghĩa.
Đảm bảo sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam đối với Nhà nƣớc. Đảm bảo
nhà nƣớc đƣợc tổ chức và hoạt động đúng hƣớng, mang bản chất giai cấp công nhân,
thống nhất hữu cơ với tính nhân dân, tính dân tộc.
2. Phƣơng hƣớng xây dựng nhà nƣớc pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam
Xây dựng, hoàn thiện Nhà nƣớc pháp quyền xã hội chủ nghĩa do Đảng lãnh đạo là
nhiệm vụ trọng tâm của đổi mới hệ thống chính trị
Hoàn thiện thể chế, chức năng, nhiệm vụ, phƣơng thức và cơ chế vận hành, nâng
cao hiệu lực, hiệu quả của Nhà nƣớc pháp quyền xã hội chủ nghĩa
Hoàn thiện tổ chức và nâng cao chất lƣợng, hiệu quả hoạt động của bộ máy nhà
nƣớc
Chú trọng công tác xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức.

NỘI DUNG ÔN TẬP


1. Trình bày đặc trƣng chung của nhà nƣớc pháp quyền ?
2. Trình bày đặc trƣng nhà nƣớc pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam ?
3. Phân tích bản chất nhà nƣớc pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam ?
Chủ đề thảo luận số 14: Hãy so sánh sự giống và khác nhau giữa đạo đức và pháp
luật?

TP.HCM, Tháng 7 Năm 2019


Bộ môn Lý luận Chính trị - Thể dục – Quân sự

Trang 136/136

You might also like