You are on page 1of 41

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH


KHOA CƠ BẢN

TIỂU LUẬN
Đề tài:

XÂY DỰNG NHÀ NƯỚC PHÁP QUYỀN XÃ HỘI


CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Môn: Chủ nghĩa xã hội khoa học
GVHD: CB – TS. Nguyễn Thanh Hải
Sinh viên thực Trần Thị Thu Oanh : 2253801013138
hiện:
Nguyễn Ngọc Hà : 2253801011065
Hồ Thiên Ngân : 2253801012141
Nguyễn Khánh Huyền : 2253801011095
Phan Thị Thanh Trúc : 2253801015352
Trần Nguyễn Khánh Lê : 2253801013095
Bùi Thị Thanh Mai : 2253801015166
Nguyễn Thị Thu Hương : 2253801014045
Năm học 2023 - 2024
MỤC LỤC
A. Phần mở đầu....................................................................................................3
I. Lý do chọn đề tài..........................................................................................3
II. Mục tiêu đề tài..............................................................................................3
III. Cách thức tiếp cận, phương pháp nghiên cứu, phạm vi nghiên cứu.............4
B. Phần nội dung..................................................................................................1
I. Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam.......................................1
1. Khái niệm Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam...............1
2. Tính tất yếu của việc xây dựng, hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội
chủ nghĩa ở Việt Nam......................................................................................4
3. Cơ sở hình thành, quá trình hình thành và phát triển Nhà nước pháp
quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam....................................................................6
4. Bản chất, chức năng và đặc trưng của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ
nghĩa Việt Nam..............................................................................................12
5. Ý nghĩa của việc xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa nói
chung và Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam nói riêng.........17
6. Thực trạng việc xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt
Nam - Những thành tựu và hạn chế...............................................................19
II. Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa trên thế giới và một số bài học cho
Việt Nam...........................................................................................................25
1. Trung Quốc..............................................................................................25
2. Giải pháp cho Việt Nam..........................................................................27
III. Kết luận...................................................................................................32
C. Tài liệu tham khảo.........................................................................................35
A. Phần mở đầu
I. Lý do chọn đề tài
Một nhà nước muốn ổn định về chính trị, phát triển về kinh tế hay phát
huy vốn văn hóa, thì nhà nước ấy phải chọn riêng cho mình một mô hình và định
hướng đúng đắn, phù hợp. Việt Nam cũng là một quốc gia không nằm ngoài quy
luật này. Việc lựa chọn định hướng phát triển sẽ quyết định rất lớn đến vận mệnh
của một quốc gia độc lập, tự do.

Việc lựa chọn xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa đã được
Nhà nước ta khẳng định lần đầu tại Hội nghị lần thứ hai Ban Chấp hành Trung
ương Đảng khóa VII (ngày 29/11/1991). Sau nhiều năm xây dựng và phát triển,
mô hình Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam đã ngày càng hoàn
thiện so với trước đây.

Tuy nhiên, việc xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt
Nam là vấn đề lớn, phức tạp, lâu dài cần được nghiên cứu và cải cách liên tục
nhằm khắc phục những khó khăn, bất cập vẫn còn đang tồn tại. Chính vì nhu cầu
nghiên cứu về các vấn đề lý luận và thực tiễn đã nhằm xây dựng và phát triển
Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở nước ta được đề cập ở trên, chúng tôi
quyết định chọn đề tài “Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam” làm
đề tài nghiên cứu.

II. Mục tiêu đề tài


Đề tài này sẽ nghiên cứu những vấn đề mang tính tính lý luận trên thực
tiễn nhằm hiểu được sự thiết yếu của quá trình xây dựng Nhà nước pháp quyền
xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam, qua đó đề xuất những giải pháp để việc phát triển
Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở nước ta có hiệu quả hơn.
III. Cách thức tiếp cận, phương pháp nghiên cứu, phạm vi nghiên cứu
Cách thức tiếp cận: Bắt đầu nghiên cứu từ các vấn đề lý thuyết cơ bản đến
thực tiễn áp dụng và thi hành.

Phương pháp nghiên cứu: Lập luận, chứng minh, phân tích, tổng hợp đưa
ra các khái niệm và đúc kết những quan niệm từ các thành viên, kết hợp với
những tài liệu tham khảo từ các bài viết, sách, báo mà những luận điểm của đề
bài đưa ra đã dần được sáng tỏ trong bài tiểu luận.

Phạm vi nghiên cứu: Nghiên cứu các vấn đề về Nhà nước pháp quyền xã
hội chủ nghĩa tại Việt Nam và Trung Quốc.
B. Phần nội dung
I. Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam
1. Khái niệm Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam

Các quốc gia trên thế giới đều áp dụng pháp luật để quản lý và điều chỉnh
các mối quan hệ xã hội cũng như vấn đề kinh tế - chính trị. Và nhà nước ở quốc
gia đó được gọi là “Nhà nước pháp quyền”. Sau đây là một số quan điểm của
chúng tôi về khái niệm Nhà nước pháp quyền và Nhà nước pháp quyền xã hội
chủ nghĩa nói chung, Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam nói
riêng.

a. Nhà nước pháp quyền

Để hiểu rõ về khái niệm “Nhà nước pháp quyền”, chúng tôi sẽ phân tích
hai cụm từ “Nhà nước” và “pháp quyền” về diện ngôn ngữ và luật học.

Theo từ điển Cambridge, “pháp quyền” nghĩa là: “A set of laws that
people in the society must obey”. Chúng tôi tạm dịch với nghĩa là một hệ thống
pháp luật mà tất cả mọi người trong xã hội đó đều bắt buộc tuân thủ theo. Còn
theo từ điển Luật học, “pháp quyền” là: “Tư tưởng thể hiện quyền lực thống trị
của pháp luật trong xã hội có nhà nước, nhằm điều chỉnh các quan hệ xã hội và
duy trì trật tự xã hội”. Theo chúng tôi, pháp quyền là tất cả công dân thuộc đất
nước đó đều phải chịu trách nhiệm trước pháp luật như nhau.

Về khái niệm nhà nước, theo quan điểm Mác - Lênin cho rằng: nhà nước
mang bản chất giai cấp và nhà nước chỉ xuất hiện khi xã hội có sự phân chia giai
cấp. Từ các định nghĩa này, ta có thể dễ dàng liên tưởng đến thuật ngữ “Nhà
nước pháp quyền”. Chúng ta hiểu đơn giản “Nhà nước pháp quyền” là một nhà
nước xây dựng một hệ thống pháp luật tương đối hoàn chỉnh, phù hợp với quyền
con người và nhà nước đó được tổ chức và hoạt động trong khuôn khổ pháp luật

6
đó. Hay chúng ta có thể hiểu rằng, Nhà nước pháp quyền “mà ở đó, tất cả mọi
công dân đều được giáo dục pháp luật và hiểu biết pháp luật, tuân thủ pháp luật,
pháp luật phải đảm bảo tính nghiêm minh; trong hoạt động của các cơ quan nhà
nước, phải sự phân công, phối hợp, kiểm soát lẫn nhau, tất cả vì mục tiêu phục
vụ nhân dân”1

b. Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa

Có hai kiểu Nhà nước pháp quyền là Nhà nước pháp quyền tư sản và Nhà
nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa. 2 Trong phần nghiên cứu này, chúng tôi chỉ
nhắc đến Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa. Đây là một Nhà nước pháp
quyền mang bản chất của chế độ xã hội chủ nghĩa. Tức là ở nhà nước này nhân
dân được quyền làm chủ, được đảm bảo và bảo vệ lợi ích. Thông qua việc thực
thi pháp luật, nhà nước bảo đảm các điều kiện để nhân dân là chủ thể của quyền
lực chính trị. Mô hình Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa đã xuất hiện tại
các quốc gia có thể kể đến như: Việt Nam, Trung Quốc, Cuba, Lào. Dưới đây
chúng tôi sẽ phân tích chi tiết hơn về Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa
Việt Nam dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam.

c. Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam - Các yêu cầu và đòi
hỏi xây dựng nhà nước pháp quyền

Ở Việt Nam, thuật ngữ “Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa” lần đầu
tiên xuất hiện tại Hội nghị lần thứ hai Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa
VII (ngày 29/11/1991) do Tổng bí thư Đỗ Mười nêu lên, và tiếp tục được khẳng
định tại Hội nghị toàn quốc giữa nhiệm kỳ khóa VII của Đảng năm 1994. Hiện
nay, nhà nước chúng ta đang trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, và thuật
1
Bộ giáo dục và đào tạo (2021), Giáo trình Chủ nghĩa xã hội khoa học, Nxb.Chính trị Quốc gia sự thật, tr.156.

2
Lê Vy, 2022, Nhà nước pháp quyền là gì?Ví dụ về nhà nước pháp quyền?, Hiểu luật, https://hieuluat.vn/tu-dien-
phap-luat/nha-nuoc-phap-quyen-la-gi-2707-45706-article.html .

7
ngữ “Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa” được chính thức xuất hiện tại
khoản 1 Điều 2 Hiến pháp 2013, cụ thể như sau: “Nhà nước Cộng hòa xã hội
chủ nghĩa Việt Nam là nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của Nhân dân, do
Nhân dân, vì Nhân dân”. Thông qua Điều 2 Hiến pháp 2013, chúng tôi nhận ra
rằng đối với thực tiễn của Việt Nam, đất nước ta cần một số đòi hỏi cấp thiết khi
xây dựng Nhà nước pháp quyền.

Đầu tiên, chúng tôi nhắc đến mục tiêu Nhà nước pháp quyền là xây dựng
và thực thi một nền dân chủ, đảm bảo quyền lực chính trị thuộc về Nhân dân.
Nhân dân thực hiện quyền dân chủ của mình thông qua dân chủ trực tiếp; dân
chủ đại diện hay còn được gọi là dân chủ trực tiếp. Do đó, Nhà nước pháp quyền
xã hội chủ nghĩa Việt Nam cần phải có một cơ chế bảo vệ Hiến pháp và pháp
luật phù hợp và được tổ chức, hoạt động trong khuôn khổ đó. Tiếp đến, Nhà
nước cần tôn trọng, bảo đảm, đề cao quyền con người trong mọi lĩnh vực hoạt
động của nhà nước và xã hội. Và quyền lực nhà nước phải có sự phân công, phối
hợp, kiểm soát. Tuy nhiên, quyền lực nhà nước cần phải giới hạn trong các mối
quan hệ giữa nhà nước và xã hội, nhà nước và kinh tế. Ngoài ra còn các yêu cầu
sau:

Thứ nhất, yêu cầu gắn vấn đề công khai, minh bạch, trách nhiệm giải trình
trong tổ chức, hoạt động của các cơ quan hành chính nhà nước với việc kiểm
soát quyền lực nhà nước. Hiện nay tình trạng lạm dụng chức quyền vẫn còn xuất
hiện ở nước ta. Do đó, cần phải kiểm soát chặt chẽ hơn, xử lý các hành vi vi
phạm này một cách nghiêm minh, không được phân biệt đối xử.

Thứ hai, cần phải nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, công chức trong
khi thi hành công vụ. Điều 2 Hiến pháp 2013 nêu rõ “Nhà nước Cộng hòa xã hội
chủ nghĩa Việt Nam là nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của Nhân dân, do
Nhân dân, vì Nhân dân”. Do đó, cách ứng xử, thái độ, đạo đức nghề nghiệp của

8
đội ngũ cán bộ, công chức là rất quan trọng. Vì điều này sẽ ảnh hưởng trực tiếp
đến người dân khi họ phải tiếp xúc với cơ quan chức năng.

Thứ ba, cần phải công khai, minh bạch khi ban hành các chính sách, pháp
luật. Trước tiên và quan trọng nhất là cần phải lấy ý kiến người dân về các dự
thảo văn bản quy phạm pháp luật. Sau cần phải bảo đảm, minh bạch trong việc
soạn thảo, ban hành các chính sách của nhà nước.

Bàn về khái niệm “Nhà nước pháp quyền” hay “Nhà nước pháp quyền xã
hội chủ nghĩa” có khá nhiều quan điểm khác nhau. Tuy nhiên, những quan điểm
về vấn đề này chung quy lại là phải xây dựng và thực thi một nền dân chủ, đảm
bảo quyền lực chính trị thuộc về Nhân dân, quản lý và duy trì trật tự xã hội bằng
pháp luật, trong hoạt động của các cơ quan nhà nước, phải sự phân công, phối
hợp, kiểm soát lẫn nhau, tất cả vì mục tiêu phục vụ Nhân dân. Và để làm được
như thế, đòi hỏi họ phải xây dựng một bản Hiến pháp thật hoàn chỉnh, phù hợp
với quyền con người cũng như quyền công dân nước đó. Đặc biệt là phải phổ
biến, tuyên truyền pháp luật cho Nhân dân tiếp cận, tôn trọng, và tuân thủ theo.
Ngoài ra còn phải tiếp thu những vấn đề phản ánh từ Nhân dân, thẳng thắn nhìn
nhận, khắc phục các vấn đề liên quan đến lợi ích toàn dân.

2. Tính tất yếu của việc xây dựng, hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã
hội chủ nghĩa ở Việt Nam

Xây dựng Nhà nước pháp quyền nhằm đáp ứng xây dựng và hoàn thiện
nền dân chủ ở Việt Nam.

Nhà nước pháp quyền là nhà nước quản lý xã hội bằng pháp luật. Việc xây
dựng và hoàn thiện một nhà nước pháp quyền là nhiệm vụ trọng tâm trong việc
đổi mới hệ thống chính trị của nước ta. Để quản lý toàn diện giai cấp cần sử
dụng nhiều phương tiện và biện pháp khác nhau, trong đó pháp luật là công cụ
không thể thiếu.
9
Pháp luật có thể thực hiện chủ trương, chính sách của đất nước một cách
nhanh nhất. Lý luận và lịch sử về nhà nước và pháp luật cho thấy, pháp quyền là
một trong những giá trị phổ biến của nhân loại tiến bộ, thượng tôn pháp luật, thể
hiện nguyện vọng, thể hiện khát vọng của nhân dân về một xã hội dân chủ, bình
đẳng. Pháp quyền là hiện thân, là kết quả của quá trình cải cách dân chủ, đặc biệt
còn là nhu cầu tất yếu của nhà nước Việt Nam. Nói cách khác, chính bản chất
của nhà nước Việt Nam là dân chủ nên cần có hệ thống pháp luật dân chủ, mang
bản chất của giai cấp công nhân, nghĩ đến dân, bảo vệ dân, đồng thời tổ chức,
điều hành và quản lý theo pháp luật. Quyền lực bắt nguồn từ sự tham gia của
nhân dân và thu hút nhân dân tham gia thực hiện quyền lực nhà nước, nhất là
trong lĩnh vực pháp luật. Mặt khác, nhân dân còn có thể đánh giá, giám sát các
hoạt động của các tổ chức, các cơ quan, các viên chức nhà nước thông qua pháp
luật.

Xây dựng Nhà nước pháp quyền nhằm đáp ứng nhu cầu kinh tế và nhu cầu
hội nhập quốc tế của Việt Nam

Quá trình đa dạng hóa và toàn cầu hóa của nền kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa đã dẫn đến sự đa dạng hóa các quan hệ xã hội. Việc thiết
lập nhà nước pháp quyền ở Việt Nam đã thúc đẩy mạnh mẽ sự phát triển kinh tế,
đi kèm với cải cách xã hội. Đặc biệt là trên bình diện kinh tế thị trường, tiến tới
hội nhập kinh tế quốc tế. Vì vậy, công cụ điều tiết phải là pháp luật, vì nó nói
chung có giá trị pháp lý, nhất quán, có thể dự đoán được và bảo đảm thực thi.
Mặt khác, pháp luật vừa là phương tiện vừa là mục đích của hội nhập quốc gia.
Chỉ có một quốc gia pháp quyền mới đủ công bằng để bảo đảm sự phát triển của
đất nước, giữ vững độc lập và vững chắc hội nhập quốc tế. Vì lý do này, Việt
Nam cần phải xây dựng một quốc gia pháp quyền. Nhờ đó, đất nước chúng ta có

10
một hành lang pháp lý an toàn để bảo vệ chính mình và các đối tác quốc gia
khác.

3. Cơ sở hình thành, quá trình hình thành và phát triển Nhà nước pháp
quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam
a. Cơ sở hình thành Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam

Với khát vọng về một xã hội công bằng, dân chủ, bình đẳng đã xuất hiện
từ lâu trong lịch sử. Xuất phát từ nguyện vọng của nhân dân lao động muốn thoát
khỏi sự áp bức, bất công và chuyên chế, ước mơ xây dựng một xã hội dân chủ,
công bằng và những giá trị của con người được tôn trọng, bảo vệ và có điều kiện
để phát triển tự do bằng tất cả năng lực của mình, nhà nước xã hội chủ nghĩa ra
đời là kết quả của cuộc cách mạng do giai cấp vô sản và nhân dân lao động tiến
hành dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản. Để đảm bảo cho việc giữ vững và
thực thi có hiệu quả quyền lực chính trị, là yếu tố cơ bản cho nhân dân có quyền
thực hiện, quyền tham gia quản lý, kiểm soát toàn bộ nhà nước, khắc phục sự
“tha hóa” quyền lực trong bộ máy nhà nước. Đồng thời, để khơi dậy sức sống và
sự sáng tạo của nhân dân trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, Đảng và
nhà nước ta cần xây dựng một nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa. Nhà nước
pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam luôn xác định mục tiêu cao cả nhất là vì
con người, mọi hoạt động Nhà nước luôn hướng tới mục tiêu phục vụ con người
là chủ thể sáng tạo xã hội. Nhà nước pháp quyền phải đấu tranh, bảo vệ các
quyền tự do, dân chủ và lợi ích hợp pháp của nhân dân, giải quyết kịp thời những
yêu cầu, kiến nghị hợp pháp, chính đáng của nhân dân theo đúng quy định của
pháp luật.

Xuất phát từ bản chất nhà nước của Nhân dân, do Nhân dân, vì Nhân dân,
Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam được xây dựng dựa trên cơ sở
đáp ứng các nguyên tắc sau:

11
Thứ nhất, quyền lực nhà nước là thống nhất, có sự phân công, phối hợp và
kiểm soát giữa các cơ quan nhà nước khi thực hiện các quyền lập pháp, hành
pháp và tư pháp. Đảng nhấn mạnh sự cần thiết phải phân công rõ ràng, phối hợp
chặt chẽ và tăng cường kiểm soát quyền lực nhà nước.

Thứ hai, đề cao tính tối cao của Hiến pháp và pháp luật, mọi chủ thể tôn
trọng và nghiêm chỉnh thực hiện pháp luật, Hiến pháp là đạo luật tối cao, điều
chỉnh mọi quan hệ xã hội cơ bản nhất. Nhân dân thể hiện tinh thần tôn trọng các
giá trị, Hiến pháp và pháp luật có vai trò đặc biệt quan trọng đối với đời sống của
mọi người, đối với sự phát triển của đất nước, sự hưng thịnh của đất nước, qua
đó thể hiện tinh thần pháp quyền thực sự thấm vào mọi người, mọi cơ quan, tổ
chức và ý thức, hành vi, hoạt động của toàn xã hội.

Thứ ba, khẳng định và bảo vệ quyền con người, quyền công dân, tôn trọng
sự bình đẳng của mọi cá nhân trong việc thụ hưởng và phát triển quyền, không
phân biệt đối xử, đặc biệt là trong công tác tham gia, điều hành quản lý trong
Nhà nước và ngoài xã hội. Tại Việt Nam, quyền con người được Hiến pháp quy
định cụ thể tại khoản 1 Điều 14 Hiến pháp 2013: “Ở nước Cộng hòa xã hội chủ
nghĩa Việt Nam, các quyền con người, quyền công dân về chính trị, dân sự, kinh
tế, văn hóa, xã hội được công nhận, tôn trọng, bảo vệ, bảo đảm theo Hiến pháp
và pháp luật”; và để thực thi nghiêm túc, khoản 2 Điều 14 Hiến pháp quy định:
“Quyền con người, quyền công dân chỉ có thể bị hạn chế theo quy định của luật
trong trường hợp cần thiết vì lý do quốc phòng, an ninh quốc gia, trật tự, an toàn
xã hội, đạo đức xã hội, sức khỏe của cộng đồng”. Trên thực tế quyền con người,
quyền công dân mới chỉ được công nhận và quy định tại Hiến pháp cho nên việc
thực hiện, điều hành và kiểm soát chưa được triệt để. Vì vậy, khi thực hiện
quyền con người, quyền công dân mọi người phải tuân thủ theo quy định của
pháp luật.

12
Thứ tư, Đảng Cộng sản Việt Nam hoạt động trong khuôn khổ Hiến pháp
và pháp luật. Xuất phát từ vị trí, vai trò của Đảng và nhà nước, bản chất của
Hiến pháp và pháp luật trong điều kiện Đảng cầm quyền. Khi trở thành Đảng
cầm quyền, Đảng là lực lượng lãnh đạo xã hội thông qua việc đề ra đường lối,
chủ trương, chính sách của Đảng được thể chế hoá. Nguyên tắc Đảng hoạt động
trong khuôn khổ Hiến pháp và pháp luật xác định cán bộ, đảng viên thực hiện
đúng Hiến pháp và pháp luật chính là đã thực hiện sự lãnh đạo của Đảng. Nhận
thức của Đảng ta về nhà nước pháp quyền ngày càng sáng tỏ. Với chủ trương:
“Xây dựng Nhà nước pháp quyền Việt Nam của Nhân dân, do Nhân dân, vì
Nhân dân”, Đảng ta xác định: Nhà nước quản lý bằng pháp luật, mọi cơ quan, tổ
chức, cán bộ, công chức có nghĩa vụ chấp hành Hiến pháp và pháp luật.

Thứ năm, bảo vệ công lý, quyền con người, quyền công dân. Quyền và
nghĩa vụ của công dân được pháp luật thừa nhận, tôn trọng và đảm bảo rằng các
quyền và nghĩa vụ được thực hiện và thúc đẩy trong khuôn khổ pháp luật. Nhà
nước có mối quan hệ thường xuyên và chặt chẽ với Nhân dân, tôn trọng và lắng
nghe ý kiến, chịu sự kiểm soát của Nhân dân. Có cơ chế và biện pháp kiểm soát,
ngăn ngừa và trừng trị tệ quan liêu, tham nhũng, lạm quyền, vô trách nhiệm, xâm
phạm quyền dân chủ của Nhân dân.

b. Quá trình hình thành và phát triển Nhà nước pháp quyền xã hội chủ
nghĩa Việt Nam

Nhà nước pháp quyền ra đời từ sau Cách mạng tháng Tám năm 1945. Đây
là kết quả của một quá trình đấu tranh gian khổ do Đảng Cộng sản lãnh đạo. Đặc
biệt là ngày mùng 2 tháng 9 năm 1945 Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đọc bản Tuyên
ngôn độc lập khai sinh ra nước Việt Nam dân chủ cộng hoà. Sự ra đời của chính
thể dân chủ cộng hoà thể hiện một tư duy sáng tạo của Chủ tịch Hồ Chí Minh
trong việc lựa chọn mô hình tổ chức nhà nước, vừa tiếp thu được các giá trị phổ

13
biến của nền dân chủ nhân loại, vừa phù hợp với đặc điểm của đất nước. Đây là
dấu mốc quan trọng hay còn gọi là một bước tiến vĩ đại chấm dứt ách cai trị của
chế độ thực dân đối với nhân dân nước ta. Dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản
thì tới năm 1975 nước ta mới hoàn toàn thống nhất cả hai miền Nam - Bắc. Tư
tưởng về Nhà nước pháp quyền ra đời từ khát vọng giải phóng con người khỏi sự
áp bức của cường quyền của sức mạnh bởi luật pháp dựa trên nền tảng của chủ
nghĩa nhân đạo vì tự do và quyền con người. Tư tưởng Hồ Chí Minh về mô hình
của bộ máy nhà nước của Nhân dân, do Nhân dân, vì Nhân dân được thể hiện
sâu sắc trong các văn kiện pháp lý quan trọng của đất nước do chính Người chỉ
đạo xây dựng và ban hành. Tuy không tiếp nhận tư tưởng phân quyền vốn là nền
tảng lý luận của mô hình nhà nước dân chủ phương Tây, nhưng Hồ Chí Minh đã
đưa vào mô hình tổ chức bộ máy nhà nước hợp lý và khoa học của nguyên tắc
phân quyền. Tiếp xúc với nền văn minh Âu - Mỹ, nhất là kinh nghiệm tổ chức,
hoạt động của nhà nước trong quản lý các lĩnh vực của đời sống xã hội, Hồ Chủ
tịch cho rằng quản lý xã hội bằng pháp luật là dân chủ, tiến bộ và có tính phổ
biến đối với xã hội hiện đại.

Nhận thức được tầm quan trọng của luật pháp, Hồ Chí Minh đã đề cập đến
vai trò của chúng trong điều hành và quản lý xã hội. Hồ Chí Minh luôn khẳng
định: “Pháp luật của ta là pháp luật dân chủ, phải nghiêm minh và phát huy hiệu
lực thực tế. Nhà nước sử dụng pháp luật để quản lý xã hội. Song pháp luật của ta
đã có sự thay đổi về chất, mang bản chất của giai cấp công nhân, là một loại hình
luật pháp kiểu mới, pháp luật thật sự dân chủ, vì nó bảo vệ quyền tự do, dân chủ
của nhân dân lao động”. Với Hồ Chí Minh, pháp luật không phải là để trừng trị
con người mà là công cụ bảo vệ, thực hiện lợi ích của con người. Tư tưởng pháp
quyền trong tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước thông qua đội ngũ cán
bộ, công chức của Người thấm đượm lòng nhân ái, nghĩa đồng bào theo đạo lý
truyền thống ngàn năm của dân tộc Việt Nam.
14
Tiếp sau đó Đảng ta đã mở các cuộc đại hội nhằm thu thập ý kiến để xây
dựng hệ thống pháp luật Việt Nam. Đại hội lần thứ VI của Đảng Cộng sản Việt
Nam với đường lối đã đặt ra những cơ sở quan trọng trong việc đổi mới tư duy,
quan điểm về xây dựng nhà nước trong các điều kiện tiến hành cải cách kinh tế.
Cộng sản Việt Nam tại đại hội VI đã có đổi mới: “Dưới sự lãnh đạo của Đảng,
chức năng của Nhà nước là thể chế hóa bằng pháp luật, quyền hạn, lợi ích, nghĩa
vụ của nhân dân lao động và quản lý kinh tế, xã hội theo pháp luật. Nhà nước ta
phải đảm bảo quyền dân chủ thật sự của nhân dân lao động, đồng thời kiên quyết
trừng trị những kẻ vi phạm quyền làm chủ của nhân dân…”. Với tinh thần nhìn
thẳng vào sự thật, đánh giá đúng sự thật, Đại hội VI của nước ta đã chỉ ra nhiều
yếu kém, bất cập của bộ máy nhà nước để hoàn thiện tổ chức bộ máy nhà nước.
Những quan điểm chủ yếu của Đảng về xây dựng, cải cách bộ máy nhà nước
được xác định tại Đại hội VI, VII và tiếp tục được Đảng ta phát triển. Đến Hội
nghị đại biểu toàn quốc giữa nhiệm kỳ khóa VII (1994) lần đầu tiên Đảng ta
chính thức sử dụng thuật ngữ “Nhà nước pháp quyền" và nêu khá cụ thể, toàn
diện những quan điểm, nguyên tắc, nội dung xây dựng Nhà nước pháp quyền xã
hội chủ nghĩa của dân, do dân, vì dân ở Việt Nam, “tiếp tục xây dựng và từng
bước hoàn thiện Nhà nước pháp quyền Việt Nam. Đó là đất nước của nhân dân,
do nhân dân, vì nhân dân, quản lý mọi mặt đời sống xã hội bằng pháp luật, đưa
đất nước phát triển theo hướng xã hội chủ nghĩa.

Với cách thể hiện trong văn kiện Hội nghị đại biểu toàn quốc giữa nhiệm
kỳ khóa VII, những quan điểm cơ bản về các nội dung chủ yếu thuộc phạm trù
Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của Nhân dân, do Nhân dân, vì Nhân dân
đã được xác lập, đặt cơ sở lý luận cho việc triển khai chủ trương, giải pháp liên
tục đổi mới, hoàn thiện toàn bộ máy nhà nước trong những giai đoạn phát triển
tiếp theo.

15
Hội nghị Trung ương lần thứ ba khoá VIII đã thông qua nghị quyết “Phát
huy quyền làm chủ của nhân dân, tiếp tục xây dựng Nhà nước Cộng hoà xã hội
chủ nghĩa Việt Nam trong sạch, vững mạnh”. Việc xây dựng nhà nước pháp
quyền xã hội chủ nghĩa trong điều kiện chuyển đổi nền kinh tế là nhiệm vụ mới
mẻ, hiểu biết của chúng ta còn ít, có nhiều việc phải vừa làm, vừa tìm tòi, rút
kinh nghiệm. Đại hội đại biểu Đảng toàn quốc lần thứ IX và Đại hội đại biểu
toàn quốc lần thứ X đã tiếp tục khẳng định nhiệm vụ xây dựng và hoàn thiện nhà
nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa dưới sự lãnh đạo của Đảng. Đại hội XI đã làm
sâu sắc thêm nhận thức về xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa và
khẳng định “Tiếp tục đẩy mạnh việc xây dựng và hoàn thiện nhà nước pháp
quyền xã hội chủ nghĩa”. Đại hội XII của Đảng tiếp tục khẳng định quan điểm
nhất quán của Đảng về đẩy mạnh nhiệm vụ xây dựng Nhà nước pháp quyền xã
hội chủ nghĩa của Nhân dân, do Nhân dân, vì Nhân dân trong giai đoạn phát triển
mới3. Đại hội XIII (tháng 01/2021) Đảng ta khẳng định: Tiếp tục xây dựng Nhà
nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa kiến tạo phát triển, liêm chính, hành động,
đẩy mạnh phòng, chống tham nhũng, thực hành tiết kiệm, chống lãng phí, tạo đột
phá trong cải cách hành chính.4 Xây dựng, hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã
hội chủ nghĩa phải tiến hành đồng bộ với đổi mới hệ thống chính trị theo hướng
tinh gọn, hiệu quả của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa. Đẩy mạnh hoàn
thiện và nâng cao chất lượng, hiệu quả hoạt động của bộ máy nhà nước. Xác

3
Trần Đường, 2022, Tiếp tục xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa kiến tạo phát triển, liêm chính,
hành động theo quan điểm Đại hội XIII của Đảng, Tạp chí Cộng sản,
https://www.tapchicongsan.org.vn/web/guest/media-story/-/asset_publisher/V8hhp4dK31Gf/content/tiep-tuc-xay-
dung-nha-nuoc-phap-quyen-xa-hoi-chu-nghia-kien-tao-phat-trien-liem-chinh-hanh-dong-theo-quan-diem-dai-hoi-
xiii-cua-dang.
4
Trần Ngôn, 2021, Nghiên cứu, vận dụng quan điểm Đại hội XIII của Đảng về xây dựng nhà nước
pháp quyền vào bài giảng “Xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam của Nhân dân,
do Nhân dân, vì Nhân dân”, Cổng thông tin điện tử Trường chính trị tỉnh Hậu Giang,
https://truongchinhtri.haugiang.gov.vn/chi-tiet/-/tin-tuc/nghien-cuu--van-dung-quan-iem-ai-hoi-xiii-
cua-ang-ve-xay-dung-nha-nuoc-phap-quyen-vao-bai-giang-xay-dung-nha-nuoc-phap-quyen-xa-hoi-
chu-nghia-viet-nam-cua-nhan-dan--do-nhan-dan--vi-nhan-dan59552?fbclid=iwar0qsa4k7r0g-
sm6zctzaphfqzilabcqz_vjtepwgga4zmljzavbhmpjsnc.

16
định rõ cơ chế phân công, phối hợp thực thi quyền lực nhà nước, nhất là cơ chế
kiểm soát giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện các quyền lập pháp,
hành pháp, tư pháp trên cơ sở quyền lực nhà nước là thống nhất, xác định rõ hơn
quyền hạn và trách nhiệm của mỗi quyền. Từ khi ra đời cho đến nay, trong
đường lối của Đảng Cộng sản Việt Nam luôn luôn quán triệt tư tưởng xây dựng
nhà nước của Nhân dân, do Nhân dân và vì Nhân dân ở Việt Nam, coi trọng việc
xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật - phương tiện quan trọng trong quản
lý nhà nước.

4. Bản chất, chức năng và đặc trưng của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ
nghĩa Việt Nam
a. Bản chất của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam

Bản chất của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam đã được
khẳng định trong Điều 2 Hiến pháp 2013 rằng: “Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ
nghĩa Việt Nam là nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của Nhân dân, do
Nhân dân, vì Nhân dân. Nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam do Nhân
dân làm chủ; tất cả quyền lực nhà nước thuộc về Nhân dân mà nền tảng là liên
minh giữa giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và đội ngũ trí thức. Quyền
lực nhà nước là thống nhất, có sự phân công, phối hợp, và kiểm soát giữa các cơ
quan nhà nước trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp”.
Bản chất của nhà nước là nhà nước của Nhân dân, do Nhân dân, vì Nhân dân,
quyền lực thuộc về Nhân dân, hoạt động dựa trên nguyên tắc bình đẳng, là nhà
nước dân chủ, pháp quyền và mang tính đại đoàn kết dân tộc, được thể hiện cụ
thể qua tính giai cấp công nhân, tính nhân dân, tính dân tộc và tính thời đại. Bản
chất nhà nước chính là điểm xuất phát để xây dựng nên nhà nước pháp quyền.
Đầu tiên vẫn giữ đặc trưng của bản chất nhà nước là nhà nước của Nhân dân, do
Nhân dân và vì Nhân dân, thượng tôn Hiến pháp và pháp luật. Bên cạnh đó, Nhà

17
nước pháp quyền tôn trọng, bảo vệ các quyền con người, quyền công dân. Cuối
cùng là thống nhất quyền lực nhà nước, có sự phân công, phối hợp, và kiểm soát
trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp giữa các cơ quan
nhà nước do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo.

Tóm lại, bản chất của Nhà nước pháp quyền là nhà nước có tinh thần
thượng tôn pháp luật, chịu sự điều chỉnh của pháp luật. Chính vì vậy, pháp luật
phải đảm bảo được tính minh bạch, công khai, hiệu quả và hơn hết là đảm bảo
được sự bình đẳng của mọi cá nhân trước pháp luật.

b. Đặc trưng của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam

Từ những bản chất trên ta có thể rút ra được những đặc trưng cơ bản của
Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam.

Thứ nhất, là nhà nước của chế độ dân chủ, là nhà nước của Nhân dân, do
Nhân dân, vì Nhân dân. Đặc trưng này được thể hiện và khẳng định trong tư
tưởng Hồ Chí Minh cũng như trong các bản Hiến pháp, văn kiện của Đảng và
pháp luật. Tiếp tục hoàn thiện, đảm bảo chủ quyền nhân dân, coi con người là
chủ thể, là trung tâm của sự phát triển đồng thời thực hiện giám sát hoạt động
nhà nước với phương châm “dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra, dân giám
sát, dân thụ hưởng”. Xây dựng, thực thi nền dân chủ cùng với đó là việc đảm
bảo nhân dân nắm quyền lực chính trị chính là những mục tiêu của Nhà nước
pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam.

Thứ hai, Nhà nước pháp quyền tổ chức và hoạt động theo khuôn khổ Hiến
pháp và pháp luật. Đây là đặc trưng mang tính phổ biến và thể hiện rõ tinh thần
thượng tôn Hiến pháp và pháp luật, quản lý xã hội bằng Hiến pháp và pháp luật.
Vai trò của Hiến pháp và pháp luật là điều chỉnh các mối quan hệ cơ bản của các
hoạt động Nhà nước và xã hội, đồng thời quyết định tính hợp hiến, hợp pháp của
các cơ quan Nhà nước. Không phải chế độ lập Hiến nào, hệ thống pháp luật nào
18
cũng đem lại khả năng xây dựng Nhà nước pháp quyền, chỉ có Hiến pháp, hệ
thống pháp luật dân chủ, công bằng mới có thể là nền tảng cho việc xây dựng
Nhà nước pháp quyền trong xã hội.

Thứ ba, Nhà nước pháp quyền đề cao, tôn trọng, bảo vệ quyền con người,
quyền công dân theo Hiến pháp và pháp luật, được đảm bảo trong mọi lĩnh vực.
Đặc trưng này giống với hai đặc trưng trước ở chỗ là mang tính phổ biến của
Nhà nước pháp quyền xã hộic hủ nghĩa Việt Nam. Nó được khẳng định trong các
văn kiện của Đảng, Hiến pháp và các văn bản pháp luật. Quyền con người chính
là một trong những tiêu chí để đánh giá tính pháp quyền của một nhà nước. Vì
thế, mọi hoạt động của nhà nước trước hết phải xuất phát từ sự tôn trọng và đảm
bảo quyền con người, quyền công dân. Lấy việc tôn trọng, đảm bảo đó làm tiêu
chí để đánh giá hiệu quả hoạt động nhà nước, tạo điều kiện cho công dân thực
hiện tốt các quyền của mình. Chỉ như vậy mới có thể đáp ứng được những đòi
hỏi của đặc trưng này.

Thứ tư, quyền lực nhà nước được tổ chức và thực hiện dựa trên nguyên
tắc: phân công và kiểm soát quyền lực. Đặc trưng này thể hiện tính đặc thù và
tính sáng tạo trong vận dụng của Đảng và Nhà nước. Quyền lực nhà nước là
quyền lực thống nhất, phân công, phối hợp chặt chẽ kết hợp cùng với sự kiểm
soát của cơ quan nhà nước trong lập pháp, hành pháp và tư pháp.

Thứ năm, nhà nước pháp quyền gắn với cơ chế bảo vệ Hiến pháp và pháp
luật phù hợp.5 Như đã nói, Hiến pháp và hệ thống pháp luật dân chủ, công bằng
chính là nền tảng của Nhà nước pháp quyền. Chính vì vậy mà cơ chế bảo vệ
Hiến pháp và pháp luật phù hợp luôn được yêu cầu, nó còn là một điều kiện cần
thiết đảm bảo Hiến pháp, pháp luật được tôn trọng và được tuân thủ nghiêm
chỉnh.
5
Hồng Đoan, 2016, Đặc trưng cơ bản của Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam, Cổng thông tin điện tử tỉnh
Hà Giang, https://hagiang.gov.vn/pages/propagandanews.aspx .

19
Cuối cùng, quyền lực nhà nước được giới hạn trong quan hệ: nhà nước và
xã hội, nhà nước và kinh tế. Đối với quan hệ nhà nước và kinh tế, tính chất, trình
độ của nền kinh tế thị trường xác định vị trí, vai trò, chức năng cũng như nhiệm
vụ nhà nước. Nhà nước thông qua thị trường để điều tiết các quan hệ kinh tế và
khắc phục những sai sót của thị trường. Còn đối với mối quan hệ xã hội, Nhà
nước thông qua pháp luật để quản lý xã hội, đề cao và tôn trọng vai trò, tự quản
của các tổ chức và cộng đồng xã hội. Mối quan hệ giữa Nhà nước với kinh tế và
xã hội là quan hệ tương tác, chi phối lẫn nhau. Nhà nước không đứng trên kinh
tế, xã hội mà nó gắn liền với nhau, phục vụ trong phạm vi Hiến pháp và pháp
luật quy định.

Với những đặc trưng trên, có thể thấy Nhà nước pháp quyền xã hội chủ
nghĩa Việt Nam thể hiện những tư tưởng, những mặt tích cực, tiến bộ, đáp ứng
được những khát vọng của nhân dân về sự tự do, bình đẳng, công lý trong xã hội.

c. Chức năng của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam

Chức năng của Nhà nước pháp quyền là những hoạt động phù hợp với bản
chất, đặc trưng và những vai trò, nhiệm vụ của nó. Chức năng Nhà nước pháp
quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam bao gồm chức năng đối nội và đối ngoại:

 Đối nội

Chức năng đầu tiên là chức năng bảo vệ chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ.
Đây chính là một trong những chức năng chủ yếu vì chỉ khi Tổ quốc vững chắc
thì những chức năng đối nội khác của nhà nước mới có điều kiện thực hiện.
Chức năng này được thể hiện rõ trong việc bảo vệ chủ quyền đất nước, chế độ
chính trị. Ngoài ra còn trong các đạo luật, quy định của nhà nước thực hiện ý chí
của người dân.

20
Tiếp đến là chức năng tổ chức quản lý kinh tế thị trường theo hướng xã hội
chủ nghĩa. Nhà nước thể hiện vai trò đối với sự phát triển của kinh tế thông qua
hoạt động tổ chức quản lý. Nhà nước thực thi chính sách kinh tế vĩ mô đồng thời
quản lý nền kinh tế vĩ mô bằng luật pháp và đóng vai trò chủ đạo trong nền kinh
tế thị trường. Bên cạnh đó, xây dựng kế hoạch phát triển nền kinh tế quốc dân,
xác định mục tiêu phát triển kinh tế, xã hội và đưa ra những biện pháp để có thể
đạt được những mục tiêu trong thời gian nhất định. Việc sử dụng các công cụ tài
chính, tiền tệ, tín dụng để tạo điều kiện thuận lợi đóng vai trò tạo ra các nhân tố
kích thích hoặc hạn chế sự phát triển của các quan hệ kinh tế theo một hướng
nhất định.

Chức năng đối nội của nhà nước pháp quyền còn gồm chức năng bảo đảm
trật tự, an toàn xã hội, quyền và lợi ích hợp pháp của công dân. Đây là một chức
năng cũng rất quan trọng, vì nó chính là một trong những tiêu chí đánh giá mức
dân chủ trong Nhà nước pháp quyền. Nhà nước phải đảm bảo được trật tự, an
toàn xã hội trong công cuộc đổi mới. Để xây dựng và phát triển kinh tế, xã hội,
nhà nước phải có đủ sức mạnh để ngăn chặn những âm mưu, hành vi có ý gây
rối, bạo loạn gây mất trật tự xã hội, ảnh hưởng đến an ninh quốc gia cũng như sự
ổn định chính trị.

 Đối ngoại

Chức năng đối ngoại của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa là chức
năng mở rộng quan hệ, hội nhập kinh tế quốc tế và hợp tác hữu nghị với các
nước. Việc thực hiện toàn cầu hóa và hội nhập kinh tế các nước đang là xu
hướng của thế giới. Xu thế này ảnh hưởng mạnh mẽ đến mọi mặt trong xã hội
của mỗi quốc gia, từ đó dẫn đến sự thay đổi về nhận thức cũng như hành động
của các quốc gia trong quan hệ đối ngoại. Một trong những nguyên tắc trọng
trong quan hệ quốc tế của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam

21
chính là chủ động hội nhập kinh tế quốc tế, hợp tác hữu nghị với các nước vì hòa
bình, độc lập và phát triển. Từ việc hợp tác hữu nghị với các nước đặc biệt là các
nước láng giềng sẽ đem đến cơ hội hợp tác phát triển, mở rộng quan hệ ngoại
giao của nước nhà dựa trên nguyên tắc cùng có lợi, hòa bình và không can thiệp
công việc nội bộ của đối phương.

5. Ý nghĩa của việc xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa nói
chung và Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam nói riêng

Nhà nước là trụ cột của hệ thống chính trị do đó việc đổi mới và hoàn thiện
Nhà nước có ý nghĩa vô cùng quan trọng. Bởi vì điều này sẽ quyết định đến hiệu
quả tổ chức và hoạt động của toàn bộ hệ thống chính trị. Để làm rõ vị trí trụ cột
của Nhà nước trong hệ thống chính trị, ta cần đổi mới và tập trung vào mục tiêu
xây dựng nhà nước. Mặc dù vai trò của Nhà nước rất quan trọng tuy nhiên luôn
có giới hạn trong các mối quan hệ xã hội, kinh tế - chính trị. Do đó, Nhà nước
cần tối ưu hóa các biện pháp can thiệp các mối quan hệ đó thông qua cách ban
hành pháp luật. Bên cạnh đó, mục tiêu xây dựng một nhà nước pháp quyền ở
Việt Nam, là xây dựng một nhà nước thực sự của Nhân dân, do Nhân dân, vì
Nhân dân. Dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng Sản Việt Nam, việc xây dựng Nhà
nước pháp quyền lên xã hội chủ nghĩa ở nước ta là khó khăn về cả mặt lý luận và
thực tiễn. Để thực hiện hóa điều này, Nhà nước phải xây dựng một cơ chế hoạt
động cũng như ban hành Hiến pháp phù hợp, để tạo điều kiện cho mọi người
cùng phát huy năng lực, sáng tạo vì lợi ích của bản thân cũng như xã hội. Song
với đó, để đáp ứng mục tiêu này, khi xây dựng Nhà nước cần phải thể hiện được
giá trị “dân giàu, nước mạnh”.

Nhằm hoàn thiện cơ chế kiểm soát quyền lực nhà nước, đẩy mạnh phòng
chống tham nhũng, tiêu cực, tiếp tục đẩy mạnh cải cách hành chính, tăng cường
phân cấp, phân quyền, làm rõ chức năng nhiệm vụ quyền hạn của tổ chức cá

22
nhân trong bộ máy nhà nước đi đôi với năng lực thực thi xây dựng tổ bộ máy nhà
nước tinh gọn hoạt động hiệu lực, hiệu quả. Nhà nước cần tạo môi trường cạnh
tranh lành mạnh, bình đẳng và tạo nguồn tài nguyên, nguồn nhân lực hiệu quả.
Thông quá đó sẽ mang lại nhiều lợi ích cho quốc gia.

Đẩy mạnh cải cách tư pháp, bảo đảm tính độc lập của tòa án theo thẩm
quyền xét xử, thẩm phán hội thẩm xét xử độc lập và tuân theo pháp luật. Cùng
với việc xây dựng pháp luật và các chính sách mang nhiều lợi ích cho Nhân dân,
các doanh nghiệp.

Việc tổ chức Nhà nước pháp quyền trên cơ sở đổi mới và hoàn thiện hơn
nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam đòi hỏi Đảng, Nhà nước và Nhân dân
ta cùng cố gắng, cần phải vạch đích những hướng đi thích hợp và phù hợp, chủ
động hội nhập quốc tế. Với bối cảnh hiện nay, trong công cuộc hoàn thiện đất
nước tốt hơn và thực hiện đồng bộ những giải pháp tốt nhất, ta cần chỉ ra những
thành tựu cùng thừa nhận các điểm hạn chế của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ
Việt Nam. Đồng thời đề xuất những giải pháp nhằm hoàn thiện nền dân chủ
nước ta. Đây là những điều hết sức cần thiết vì điều đó góp phần căn cứ khoa
học giúp Đảng và Nhà nước xây dựng những chính sách, biện pháp dân chủ ngày
càng tốt hơn.

Xây dựng và hoàn thiện pháp quyền là một đề án có tính lâu dài đối với sự
phát triển của đất nước. Đây cũng là một nhiệm vụ trọng tâm nhằm đổi mới hệ
thống chính trị được Đảng đặt ra trong nghị quyết Đại hội hoàn thiện pháp luật
về tổ chức hoạt động cơ quan nhà nước, quản lý từng ngành, từng lĩnh vực để
thúc đẩy toàn bộ những hoạt động tiếp để đáp ứng xây dựng Nhà nước pháp
quyền xã hội chủ nghĩa.

Đặt vấn đề phân định rõ chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của các cơ quan
nhà nước nhằm thực hiện quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp theo nguyên tắc

23
pháp quyền song hành. Ngoài ra còn phải tăng cường kiểm soát quyền lực, xây
dựng một hệ thống pháp luật bảo đảm quyền làm chủ của nhân dân. Đây đều là
những vấn đề căn cốt trong xây dựng Nhà nước của dân, do dân, vì dân hiện nay.
Là thanh công cụ để điều hành Nhà nước, bảo đảm trật tự, an toàn nhưng cũng
đồng thời thúc đẩy phát triển kinh tế.

Vấn đề xây dựng, hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa luôn
là mục tiêu giữ vị trí đặc biệt quan trọng đối với sự nghiệp xây dựng củng cố một
Nhà nước của dân, do dân, vì dân. Để việc xây dựng Nhà nước pháp quyền xã
hội chủ nghĩa Việt Nam ngày càng ý nghĩa, không thể thiếu đi công sức đóng
góp của Nhân dân. Bởi vì vấn đề này không chỉ có sự tham gia lãnh đạo của
Đảng, Nhà nước, mà còn một nhân tố quan trọng đó chính là sự tham gia của
Nhân dân.

6. Thực trạng việc xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt
Nam - Những thành tựu và hạn chế

Tại Đại hội XIII của Đảng, Tổng bí thư, Chủ tịch nước Nguyễn Phú Trọng
đã nhận định một điều rằng: "Đất nước ta chưa bao giờ có được cơ đồ, tiềm lực,
vị thế và uy tín quốc tế như hiện nay”. Có thể nói, nhận định ấy xuất phát chính
từ những điều kiện ở hiện tại. Đó là: sự phát triển mạnh mẽ của nền kinh tế, sự
ổn định trong chính trị và xã hội, sự tăng cường trong công tác quốc phòng, an
ninh và hơn hết đó là sự củng cố vững chắc lòng đoàn kết toàn dân tộc. Những
điều kiện ấy đã khiến cho sức mạnh của đất nước về mọi mặt được nâng lên, tạo
tiền đề để việc xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở
Việt Nam được ngày một đẩy mạnh.

Mặc dù đạt được rất nhiều thành tựu quan trọng, song ta vẫn không thể
phủ nhận rằng việc xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa vẫn tồn tại
nhiều bất cập trong công tác tổ chức và quản lý. Tuy nhiên, với những điểm sáng

24
đã nêu, việc xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghãi ở Việt Nam thời
kỳ này đã đánh dấu một giai đoạn phát triển mới, với một nhà nước kiểu mới –
một Nhà nước của dân, do dân và vì dân.

a. Những thành tựu đã đạt được6

Nhờ chuyển từ cơ chế quan liêu, bao cấp sang nền kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập quốc tế, Nhà nước ta đã có nhiều sự thay đổi
trong vai trò, chức năng và nhiệm vụ của mình. Chức năng, nhiệm vụ và quyền
hạn của Nhà nước được cơ cấu lại theo hướng mở rộng xã hội hoá. Tức là, Nhà
nước đề cao sự tham gia của các cá nhân, tổ chức vào trong các lĩnh vực của đời
sống xã hội và chỉ can thiệp tới những công việc thật sự cần có Nhà nước. Đồng
thời, tư duy về vai trò, nhiệm vụ của mỗi cá nhân là cán bộ, công chức Nhà nước
cũng thay đổi, từ quyền uy - phục tùng chuyển sang phục vụ nhân dân và đời
sống của nhân dân.

Chính những thay đổi từ trong tư duy về vai trò, chức năng và nhiệm vụ
của Nhà nước đã góp phần đem lại những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử
trong công cuộc đổi mới của dân tộc:

Trong lĩnh vực kinh tế, Nhà nước đã phân rõ thẩm quyền của mình là
người điều tiết nền kinh tế, không trực tiếp tác động, can thiệp vào hoạt động sản
xuất. Qua đó, Nhà nước ban hành và tổ chức thực hiện các quy phạm pháp luật
trong lĩnh vực kinh tế có hiệu quả hơn. Bằng cách đó, nhà nước có thể thúc đẩy
sự phát triển của ngành này, hạn chế sự phát triển của ngành kia qua đó tác động
đến cả sự tăng trưởng lẫn sự ổn định của nền kinh tế. Nhà nước, đồng thời cũng

6
Tô Lâm, 2021, Một số vấn đề về xây dựng, hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam,
Tạp chí Cộng sản, https://tapchicongsan.org.vn/media-story/-/asset_publisher/V8hhp4dK31Gf/content/mot-so-
van-de-ve-xay-dung-hoan-thien-nha-nuoc-phap-quyen-xa-hoi-chu-nghia-viet-nam.

25
bảo đảm cho kinh tế và xã hội được phát triển hài hòa thông qua việc xử lý triệt
để các vi phạm.

Trong lĩnh vực xã hội, văn hoá, giáo dục, khoa học, công nghệ và môi
trường, với việc coi con người là trung tâm của sự phát triển, Nhà nước đã thực
hiện các chính sách nhằm phát huy tối đa nhân tố con người.

Trong công tác đối ngoại, Nhà nước ta tiếp tục thực hiện chính sách đối
ngoại độc lập, tự chủ, đa phương hoá, đa dạng hoá quan hệ với các nước trên thế
giới.

Về sự lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước: Tầm quan trọng và vai trò của
Đảng được khẳng định trong các văn kiện Đại hội Đảng và Hiến pháp các năm
từ 1980. Với vai trò là lực lượng duy nhất lãnh đạo nhà nước, lãnh đạo xã hội, sự
lãnh đạo của Đảng đã quyết định những phương hướng cơ bản nhất trong chính
trị của Nhà nước. Phương thức lãnh đạo của Đảng ngày một cải thiện. Chất
lượng lãnh đạo của Đảng được nâng cao hơn, trong khi vai trò lãnh đạo của
Đảng được giữ vững và tăng cường thì vai trò của Nhà nước, Mặt trận, đoàn thể
ngày càng được phát huy, nâng cao.

Về cơ chế kiểm soát quyền lực nhà nước: Việc bổ sung, khẳng định nội
dung “kiểm soát quyền lực” trong Hiến pháp 2013 đã thể hiện sự phát triển về
nhận thức trong việc thừa nhận đây là nguyên tắc cơ bản của Nhà nước pháp
quyền, tạo cơ sở cho việc tiếp tục tăng cường cơ chế kiểm soát quyền lực giữa
các cơ quan nhà nước trong giai đoạn kế tiếp. Từ đó cho thấy, Đảng và Nhà nước
ta đã thể hiện quyết tâm xây dựng một cơ chế kiểm soát quyền lực thật sự hiệu
quả thông qua Hiến pháp và pháp luật, trong đó Hiến pháp giữ vị trí tối thượng.
Qua đó, ngăn chặn, đẩy lùi tình trạng lạm quyền, lộng quyền, lợi dụng quyền lực,
góp phần xây dựng bộ máy nhà nước trong sạch, liêm chính, phát huy các quyền

26
làm chủ của nhân dân, bảo đảm cho mọi người dân được hưởng và thực hiện các
quyền của mình.

Về việc bảo đảm vai trò của Hiến pháp và hệ thống pháp luật: Hiến pháp
là văn bản có hiệu lực pháp lý cao nhất, đóng vai trò là đạo luật gốc và còn là cơ
sở cho các văn bản quy phạm pháp luật khác. Chính vì nhận thức được tầm quan
trọng ấy và để kịp thời thể chế hóa đường lối đổi mới của Đảng trong các kỳ Đại
hội, sau đổi mới, Quốc hội đã tiến hành hoạt động lập pháp (đối với Hiến pháp
1992, Hiến pháp 2013) và hoạt động sửa đổi Hiến pháp (năm 1988, 1989 - sửa
đổi Hiến pháp năm 1980) và năm 2001 (sửa đổi Hiến pháp năm 1992) nhằm xây
dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghãi Việt Nam của nhân dân, do nhân
dân, vì nhân dân. Đặc biệt với sự ra đời của Hiến pháp 2013 đã đánh dấu một
bước tiến mới trong lịch sử lập hiến của nước ta. Có thể nói, Hiến pháp năm
2013 là Hiến pháp của thời kỳ đổi mới toàn diện, đồng bộ cả về kinh tế và chính
trị. Hiến pháp năm 2013 thể hiện rõ và đầy đủ hơn bản chất dân chủ, tiến bộ của
Nhà nước và chế độ ta trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, về xây dựng
Nhà nước pháp quyền Việt Nam XHCN của nhân dân, do nhân dân và vì nhân
dân do Đảng ta lãnh đạo.

Cùng với hoạt động lập hiến, hoạt động lập pháp cũng được Nhà nước ta
không ngừng xây dựng và hoàn thiện, tạo cơ hội cho nền kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa có cơ hội để phát triển. Về số lượng, chỉ tính riêng Quốc
hội, từ sau đổi mới đã có hàng trăm đạo luật được ban hành. Số lượng ấy trong
mỗi năm lại không ngừng tăng lên, trong đó có nhiều đạo luật quan trọng như Bộ
luật dân sự, Bộ luật tố tụng dân sự, Bộ luật hình sự, Bộ luật tố tụng hình sự, Bộ
luật lao động,... Hơn thế, để phù hợp với mỗi giai đoạn phát triển của đất nước,
Nhà nước ta còn cho sửa đổi những điều luật không còn phù hợp và bổ sung
những điều luật mới. Không chỉ tăng lên về số lượng, chất lượng của của những

27
đạo luật ấy cũng ngày càng được hoàn thiện cả về nội dung lẫn hình thức, đảm
bảo tính thống nhất, minh bạch và ổn định cao

Việc thi hành Hiến pháp và pháp luật cũng được nhà nước đảm bảo, kịp
thời phát hiện và xử lý các vi phạm góp phần đảm bảo cho Nhà nước pháp quyền
xã hội chủ nghĩa được xây dựng và phát triển trên thực tế.

b. Những hạn chế chưa thể khắc phục

Bên cạnh những thành tựu nhất định của công cuộc đổi mới trong 37 năm
qua, nhà nước ta cũng đang đứng trước rất nhiều khó khăn, thách thức do những
yếu tố chủ quan và khách quan chưa thể khắc phục được:

Về tổ chức bộ máy nhà nước:7

Đối với Quốc hội, hoạt động của Quốc hội chưa thực sự chuyên nghiệp,
nhiều đại biểu Quốc hội vẫn chưa đáp ứng được những yêu cầu, nhiệm vụ đặt ra.
Thêm vào đó, một số tổ chức bộ máy trong các cơ quan của Quốc hội còn chậm
đổi mới; việc tiếp dân, tiếp xúc cử tri vẫn còn mang tính hình thức,…

Đối với Chủ tịch nước, một số chức năng, nhiệm vụ và mối quan hệ giữa
Chủ tịch nước với các cơ quan khác chưa được cụ thể hoá; Luật về Chủ tịch
nước cũng chưa được ban hành.

Chính phủ và của các cơ quan trong bộ máy hành chính nhà nước chưa
phân định rõ nhiệm vụ và thẩm quyền của mình trên một số lĩnh vực. Cơ cấu bên
trong của các bộ, cơ quan ngang bộ và chính quyền địa phương còn bị sắp xếp
thiếu hợp lý, tổ chức bộ máy hành chính còn cồng kềnh, thiếu nhịp nhàng, hiệu
quả; chức năng quản lý nhà nước còn yếu kém khi can thiệp trực tiếp vào hoạt
động sản xuất, đời sống xã hội,… thay vì điều chỉnh thông qua các chính sách.
7
Nguyễn Hoa, 2021, Tổ chức và hoạt động của Quốc hội khoá XIV – Thực trạng, nguyên nhân, phương hướng
và giải pháp, Tạp chí Quản lý nhà nước, https://www.quanlynhanuoc.vn/2021/03/18/to-chuc-va-hoat-dong-cua-
quoc-hoi-khoa-xiv-thuc-trang-nguyen-nhan-phuong-huong-va-giai-phap/

28
Cơ cấu tòa án cấp huyện và đội ngũ Thẩm phán bị dàn đều như nhau dẫn
đến sự mất cân bằng trong tổ chức và hoạt động. Các quy định về công tố, điều
tra, kiến nghị… còn mập mờ, chưa có văn bản quy định rõ dẫn đến sự thiếu cơ
sở và lúng túng trong quá trình thực hiện.

Tổ chức chính quyền ở địa phương chưa thực sự phát huy được tính chủ
động, sáng tạo trong quá trình hoạt động, mà vẫn còn nặng nề tính thống nhất
theo chỉ đạo, điều hành của trung ương. Mô hình tổ chức Uỷ ban nhân dân và
Hội đồng nhân dân ở các địa phương được thực hiện một cách đồng loạt, chưa
phát huy được sự hiệu quả trong quản lý và hầu như không thay đổi gì từ khi đổi
mới đến nay.

Về cơ chế kiểm soát quyền lực nhà nước 8: Trong cơ chế kiểm tra, giám sát
giữa các cơ quan, nhà nước mới chỉ có những chế tài về việc huỷ bỏ các văn bản
quy phạm pháp luật trái với Hiến pháp, luật, nghị quyết của Quốc hội, pháp lệnh,
nghị quyết của Ủy ban thường vụ Quốc hội mà chưa có cơ chế để xử lý những
quyết định trái với Hiến pháp của cơ quan tư pháp, lập pháp, hành pháp khi trái
với Hiến pháp. Hơn nữa, chưa có cơ chế quy định cách thức mà ba quyền lập
pháp, tư pháp và hành pháp kiềm chế, đối trọng lẫn nhau khiến cho nhiều quyền
lợi của các cơ quan chưa được thực hiện trên thực tế.

Về bảo đảm vai trò của Hiến pháp và hệ thống pháp luật: Có thể nói, việc
quản lý, xây dựng bộ máy nhà nước và đất nước ta bằng pháp luật vẫn còn rất
khó để làm, bởi hệ thống pháp luật còn nhiều yếu kém, chưa đáp ứng kịp với yêu
cầu của xã hội. Thêm vào đó, hệ thống pháp luật còn chưa hoàn chỉnh, chưa
đồng bộ, bộc lộ nhiều yếu kém khi các văn bản ban hành ra còn mâu thuẫn,
chồng chéo với nhau. Nhiều luật có chất lượng chưa cao, còn nhiều sơ hở, chưa

8
Vũ Phúc & Hữu Đức, 2020, Kiểm soát quyền lực nhà nước theo Hiến pháp Việt Nam, Tạp chí tổ chức nhà nước,
https://tcnn.vn/news/detail/48116/Kiem-soat-quyen-luc-nha-nuoc-theo-Hien-phap-Viet-Nam.html

29
sát với thực tiễn khiến cho việc sửa đổi, bổ sung các điều luật phải được thực
hiện liên tục.

Cơ chế bảo vệ Hiến pháp được giao cho nhiều cơ quan cùng làm, chưa có
cơ quan chuyên trách nên gây ra nhiều khó khăn trong thực hiện. Các quy định
bảo vệ Hiến pháp còn chung chung, nằm rải rác và khó áp dụng trong thực tiễn.
Thêm vào đó, công việc này được thực hiện chưa triệt để và thường xuyên, thậm
chí việc nhận diện vi phạm Hiến pháp nhiều khi được xem như là vi phạm pháp
luật thông thường.

II. Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa trên thế giới và một số bài học
cho Việt Nam
1. Trung Quốc9

Trung Quốc với hơn hai nghìn năm lịch sử phong kiến và truyền thống
nhân trị, trong xã hội hiện đại ngày nay đã kiên quyết bác bỏ “nhân trị’ và tiến
tới “pháp trị”, nhà nước pháp quyền. Kể từ khi giành được độc lập vào năm
1949, hệ thống pháp luật của Trung Quốc đã trải qua quá trình biến đổi sâu sắc
và sự thay đổi này không chỉ được thể hiện trong tư tưởng dân chủ của ba thế hệ
lãnh đạo Trung Quốc mà còn trong sự nỗ lực của các thế hệ học giả luật học
Trung Quốc. Trong nửa thế kỷ qua, việc áp dụng pháp trị hay nhân trị vào việc
quản lý đất nước là một chủ đề nóng và luôn được quan tâm, thảo luận của giới
luật học Trung Quốc đương thời. Các nghiên cứu về nhà nước pháp quyền Trung
Quốc có thể được chia ra làm ba giai đoạn chính, ở mỗi giai đoạn các cuộc thảo
luận đã được hình thành, đưa ra những lý luận chỉ dẫn cho việc xây dựng nhà
nước pháp quyền, góp phần thúc đẩy cho việc hình thành nhà nước pháp quyền
Trung Quốc đương đại.

9
Phan Anh, 2022, Nhà nước pháp quyền Trung Quốc hiện đại, tạp chí Nghề luật, số 2/2022, 5.

30
Giai đoạn đầu tiên, từ những năm 1950 đến cuối những năm 1970. Vào
đầu những năm 1950, vì những hạn chế của hệ thống pháp luật còn sơ khai và tư
tưởng pháp lý của Liên Xô cũ, Trung Quốc mới chỉ tập trung vào việc xây dựng
“hệ thống pháp luật dân chủ nhân dân”, từng bước một hoàn thiện hệ thống pháp
luật xã hội chủ nghĩa. Trong giai đoạn này vấn đề áp dụng pháp trị và nhân trị
được một số học giả đặt ra trong một số bài báo để tranh luận. Đến cuộc “Đại
cách mạng văn hóa”, nhà nước pháp quyền đã từng là một vấn đề nhạy cảm và bị
cấm đối với các nghiên cứu học thuật. Mãi cho đến những năm 1970, sau khi
Hội nghị toàn thể lần thứ ba của Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản
Trung Quốc khóa XI thiết lập đường lối tư tưởng giải phóng trí óc và tìm kiếm
chân lý từ thực tế thì nền luật học Trung Quốc đương đại mới có cơ hội phục hồi
và phát triển. Cộng đồng luật học sau đó với ý thức về sứ mệnh lịch sử đã sớm
tiếp tục nghiên cứu về nhân trị và pháp trị. Các học giả thời kỳ này đã tích cực
tham gia các cuộc thảo luận và tranh luận điển hình như Giáo sư Trần Thủ Nhất -
Khoa Luật Đại học Bắc Kinh, Vương Lễ Minh, Giáo sư Lý Bộ Vân, ... đã đưa ra
những tư tưởng tiến bộ tích cực về tầm quan trọng của pháp trị trong chủ trương
quản lý đất nước. Qua các cuộc thảo luận, một số hiểu lầm đã được làm sáng tỏ
và lý thuyết về nhà nước pháp quyền đã được thống nhất quan điểm trên hai
phương diện: Một là, nhà nước pháp quyền không phải do giai cấp tư sản sáng
tạo ra, pháp quyền là thành quả kết tinh của văn minh nhân loại, là một trong
những dấu hiệu quan trọng của nhà nước hiện đại; Hai là, nhà nước pháp quyền
sử dụng pháp trị chứ không phải nhân trị, chủ trương ủng hộ sử dụng pháp trị và
nâng cao vai trò, tầm quan trọng của pháp trị, phản đối việc sử dụng quyền lực
để đàn áp, thay thế pháp luật. Kết quả của cuộc thảo luận này là làm rõ được tầm
quan trọng của nhà nước pháp quyền, từ bỏ nhân trị trong lý luận và việc quản lý
điều hành quốc gia, cũng cho thấy được tầm quan trọng sống còn của việc
chuyển đổi từ “hệ thống pháp luật” sang “pháp quyền”.

31
Giai đoạn thứ hai, từ những năm 1980 đến đầu những năm 1990. Các cuộc
thảo luận và nghiên cứu ở giai đoạn này chủ yếu tập trung vào mối quan hệ giữa
nhân trị và pháp trị, đi sâu vào nội hàm của nhà nước pháp quyền xã hội chủ
nghĩa và trình độ lý luận pháp trị; ý nghĩa mối quan hệ qua lại và bản chất khoa
học của các phạm trù cơ bản như hệ thống pháp luật, dựa vào luật trị quốc hay
nhà nước pháp quyền,...

Giai đoạn thứ ba khởi đầu với việc Đại hội lần thứ 14 của Đảng Cộng sản
Trung Quốc đề xuất việc thiết lập nền kinh tế thị trường phù hợp với tình hình
chung của công cuộc đổi mới, mở cửa và đẩy mạnh hiện đại hóa xã hội chủ
nghĩa. Mối quan hệ giữa pháp quyền và dân chủ, kinh tế, văn hóa,... đã được
khám phá sâu sắc và rộng rãi. Các học giả đã làm sáng tỏ và nêu rõ trong các
cuộc thảo luận rằng cốt lõi của nhà nước pháp quyền là thực hiện chính trị dân
chủ, thượng tôn pháp luật, hành chính theo pháp luật, tư pháp công bằng, có cơ
chế giám sát quyền lực và phải luôn hạn chế quyền lực, đồng thời, nền kinh tế thị
trường cũng là nền kinh tế dựa trên pháp quyền.

Với một đất nước đã từng đề cao nhân trị, việc xây dựng một nhà nước
pháp quyền lấy pháp trị làm cốt lõi là một bước ngoặt lịch sử của Trung Quốc
hiện đại ngày nay. Trải qua một thời gian dài không ngừng hoàn thiện và phát
triển, giờ đây, Trung Quốc vẫn đang nỗ lực hiện đại hóa kinh tế và thúc đẩy nhà
nước pháp quyền. Hiện đại hóa kinh tế và áp dụng tư tưởng pháp quyền vào
quản lý nhà nước sẽ là nhiệm vụ chính của xã hội Trung Quốc và thế giới trong
tương lai. Đây là cơ hội cũng là thách thức cho nền luật học Trung Quốc đang
phát triển.

2. Giải pháp cho Việt Nam

Mô hình xây dựng Nhà nước pháp quyền sử dụng Hiến pháp và pháp luật
để quản lý và điều chỉnh các mối quan hệ xã hội đã được hầu hết các quốc gia

32
trên thế giới áp dụng vào thực tiễn, và Việt Nam cũng không ngoại lệ.

Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XIII, tại Hội nghị Trung ương VI
đã ban hành Nghị quyết số 27-NQ/TW về việc xây dựng và hoàn thiện Nhà nước
pháp quyền Xã hội chủ nghĩa Việt Nam với các mục tiêu tổng quát như sau:
“Hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam của Nhân dân, do
Nhân dân, vì Nhân dân, do Ðảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo; có hệ thống pháp
luật hoàn thiện, được thực hiện nghiêm minh, nhất quán; thượng tôn Hiến pháp
và pháp luật, tôn trọng, bảo đảm, bảo vệ hiệu quả quyền con người, quyền công
dân; quyền lực nhà nước là thống nhất, được phân công rành mạch, phối hợp
chặt chẽ, kiểm soát hiệu quả; nền hành chính, tư pháp chuyên nghiệp, pháp
quyền, hiện đại; bộ máy nhà nước tinh gọn, trong sạch, hoạt động hiệu lực, hiệu
quả; đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức có đủ phẩm chất, năng lực, thực sự
chuyên nghiệp, liêm chính; quản trị quốc gia hiện đại, hiệu quả; đáp ứng yêu cầu
phát triển đất nước nhanh, bền vững, trở thành nước phát triển, có thu nhập cao
theo định hướng xã hội chủ nghĩa vào năm 2045.”10

Nhà nước cần phải hoàn thành những nhiệm vụ, giải pháp cụ thể và thiết
thực để có thể thực hiện tốt các mục tiêu đã đề ra trong việc xây dựng Nhà nước
pháp quyền Xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Một vài giải pháp có thể kể đến như
sau:

Thứ nhất, cần tuyên truyền, phổ biến rộng rãi, giáo dục, cũng như nâng
cao nhận thức của toàn thể người dân Việt Nam về Nhà nước pháp quyền xã hội
chủ nghĩa Việt Nam. Thực tế cho thấy, một bộ phận lớn người dân nước ta chưa
thực sự hiểu về thuật ngữ “Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam”,
mô hình này hoạt động như thế nào, hoạt động của ai, do ai và vì ai? Mỗi một

10
2023, 10 nhiệm vụ, giải pháp xây dựng, hoàn thiện Nhà nước pháp quyền trong giai đoạn mới, Cổng thông tin
điện tử Chính phủ, https://xaydungchinhsach.chinhphu.vn/10-nhiem-vu-giai-phap-xay-dung-hoan-thien-nha-
nuoc-phap-quyen-trong-giai-doan-moi-119221129093612691.htm.

33
công dân Việt Nam cần phải nắm rõ về vấn đề này để có thể bảo vệ quyền và lợi
ích hợp pháp của mình, của người khác, cũng như góp phần xây dựng và hoàn
thiện mô hình nhà nước trong giai đoạn mới. Không những thế, toàn thể cán bộ,
Đảng viên và nhân dân cần quán triệt sâu sắc việc xây dựng và hoàn thiện Nhà
nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam là nhiệm vụ trọng tâm của đổi mới
hệ thống chính trị; được tiến hành đồng bộ với thực hiện dân chủ xã hội chủ
nghĩa và phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa.

Thứ hai, bảo đảm quyền làm chủ của Nhân dân, thượng tôn Hiến pháp và
pháp luật, tôn trọng, bảo đảm và bảo vệ quyền con người, quyền công dân. Nhà
nước cần tạo thêm nhiều điều kiện thuận lợi trong thực tiễn để nhân dân có thể
phát huy tối đa dân chủ trong việc quản lý và xây dựng Nhà nước pháp quyền xã
hội chủ nghĩa Việt Nam. Tuy nhiên, việc này sẽ song hành cùng với tăng cường
pháp chế, đề cao đạo đức xã hội và trách nhiệm công dân, giữ vững kỷ luật, kỷ
cương, xây dựng cho toàn bộ công dân Việt Nam lối sống thượng tôn Hiến pháp
và pháp luật.

Thứ ba, hệ thống pháp luật cần được hoàn thiện và đảm bảo sự nghiêm
minh, hiệu quả của cơ chế thực hiện pháp luật. Điều quan trọng nhất có lẽ là
phát triển nguồn nhân lực pháp luật: củng cố tổ chức pháp chế, tổ chức làm công
tác pháp luật; nâng cao trình độ, năng lực, bản lĩnh chính trị của toàn thể đội ngũ
công chức, cán bộ làm công tác xây dựng và thi hành pháp luật. Xây dựng hệ
thống pháp luật dân chủ, công bằng, nhân đạo, đầy đủ, kịp thời, đồng bộ, thống
nhất, công khai, minh bạch, ổn định, khả thi, dễ tiếp cận, đủ khả năng điều chỉnh
các quan hệ xã hội trên tất cả các lĩnh vực. Quy trình xây dựng pháp luật cũng
cần tiếp tục đổi mới, đảm bảo tính chuyên nghiệp, khoa học, kịp thời, khả thi và
hiệu quả. Đổi mới công tác phổ biến, giáo dục pháp luật để pháp luật dễ dàng
được tiếp cận bởi người dân.

34
Thứ tư, chất lượng hoạt động của Quốc hội cũng cần được nâng cao. Đề
cao vai trò, vị trí của Quốc hội, cũng như đại biểu Quốc hội vì Quốc hội là cơ
quan đại biểu cao nhất của nhân dân, đại diện cho ý chí, nguyện vọng của Nhân
dân và là cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất. Cần nghiên cứu tăng hợp lý số
kỳ họp của Quốc hội, nâng cao hiệu quả hoạt động của Ủy ban Thường vụ Quốc
hội để thực hiện tốt chức năng, nhiệm vụ do Hiến pháp quy định. Đối với đại
biểu Quốc hội, cần nâng cao chất lượng, hiệu quả hoạt động, bảo đảm tiêu
chuẩn, cơ cấu đại biểu Quốc hội; tăng hợp lý số lượng đại biểu Quốc hội chuyên
trách, giảm số lượng đại biểu công tác ở các cơ quan hành pháp, tư pháp.

Thứ năm, chúng ta cần nhận thức đúng, đầy đủ, sâu sắc về vị trí, quyền
hạn, nhiệm vụ của Chủ tịch nước với vai trò là Nguyên thủ Quốc gia.

Thứ sáu, tiếp tục đổi mới tổ chức và hoạt động của Chính phủ, chính
quyền địa phương; xây dựng nền hành chính nhà nước phục vụ Nhân dân,
chuyên nghiệp, pháp quyền, hiện đại, hiệu lực, hiệu quả. Tổ chức và hoạt động
của Chính phủ, chính quyền địa phương nên được tinh gọn, hoạt động hiệu quả,
liên kết, tổ chức các Bộ, các cơ quan chuyên môn đa ngành, đa lĩnh vực; giảm
hợp lý số lượng các Bộ, cơ quan ngang Bộ và cơ quan chuyên môn thuộc Ủy ban
nhân dân cấp tỉnh, cấp huyện. Xây dựng nền hành chính phục vụ Nhân dân, dân
chủ, pháp quyền, chuyên nghiệp, hiện đại, khoa học, trong sạch, công khai, minh
bạch, tạo môi trường thuận lợi cho người dân, doanh nghiệp.

Thứ bảy, để phụng sự cho Tổ quốc, phục vụ nhân dân, nền tư pháp nên
được xây dựng một cách chuyên nghiệp, hiện đại, công bằng, nghiêm minh, liêm
chính. Vì tư pháp là một nền công lý cho con người nên các chính sách, pháp
luật liên quan đến tư pháp cần đảm bảo tôn trọng và bảo vệ quyền con người,
quyền công dân.

35
Thứ tám, tăng cường sự lãnh đạo của Ðảng, phát huy vai trò của Mặt trận
Tổ quốc Việt Nam và nhân dân trong xây dựng, hoàn thiện Nhà nước pháp
quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Các phương thức lãnh đạo của Đảng cần đảm
bảo sự toàn diện, thống nhất phát huy trách nhiệm, tính chủ động, sáng tạo và
hiệu lực, hiệu quả trong quản lý, điều hành của Nhà nước. Xây dựng và hoàn
thiện cơ chế để Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức chính trị - xã hội thực
hiện tốt vai trò của mình trong việc phát huy quyền làm chủ của nhân dân.

Thứ chín, hoàn thiện cơ chế kiểm soát quyền lực nhà nước; đẩy mạnh
phòng, chống tham nhũng, tiêu cực. Cần bảo đảm quyền lực nhà nước là thống
nhất, có sự phân công rõ ràng, phối hợp chặt chẽ và tăng cường kiểm soát quyền
lực bên trong mỗi cơ quan và giữa các cơ quan nhà nước, giữa Trung ương và
địa phương, giữa các cấp chính quyền địa phương và giữa các cơ quan trong
cùng một cấp chính quyền. Kết hợp chặt chẽ, hiệu quả các cơ chế kiểm tra, giám
sát, kiểm soát quyền lực nhà nước của Ðảng, Nhà nước và Nhân dân; thực hiện
đầy đủ nguyên tắc tập trung dân chủ, trách nhiệm giải trình, công khai, minh
bạch trong từng cơ quan nhà nước.

Thứ mười, tăng cường, chủ động hội nhập quốc tế đáp ứng yêu cầu xây
dựng, hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam, xây dựng và
bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới. Hoàn thiện cơ chế để tích cực, chủ động hội
nhập quốc tế một cách toàn diện, sâu rộng, thực chất, hiệu quả, thực hiện nhất
quán đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, hòa bình, hữu nghị, hợp tác và phát
triển; bảo đảm cao nhất lợi ích quốc gia - dân tộc. Và tăng cường công tác thông
tin đối ngoại về chủ trương, đường lối của Ðảng, chính sách, pháp luật của Nhà
nước, những thành tựu trong xây dựng, hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội
chủ nghĩa, phát triển kinh tế - xã hội, bảo đảm và bảo vệ quyền con người, quyền
công dân của Việt Nam.

36
III. Kết luận
Trong suốt quá trình lịch sử dân tộc, với lòng yêu nước thương dân nồng
nàn, bằng trí tuệ tinh thông, hiểu rõ thời cuộc, tư duy chính trị nhạy bén mà Chủ
tịch Hồ Chí Minh đã tìm được con đường đúng đắn để giải phóng dân tộc. Người
cùng với những đồng chí của mình đã lãnh đạo nhân dân ta làm nên lịch sử, lập
nên nước Việt Nam dân chủ cộng hòa.

Ngay từ những bước đầu trên con đường giải phóng dân tộc, Nguyễn Ái
Quốc đã luôn mang trong mình tư tưởng “thần linh pháp quyền” trong việc thiết
lập một nền công lý cho quốc gia, xây dựng một đất nước hùng cường, sánh vai
với các cường quốc năm châu. Trải qua vô số cuộc chinh chiến gian khổ, ngày
30/4/1975 đất nước ta đã thực sự thống nhất, năm 1986 Đảng ta phát động công
cuộc đổi mới vĩ đại, từng bước hoàn thiện mô hình phát triển kinh tế đất nước.
Xóa bỏ cơ chế quản lý kinh tế cũ – cơ chế quản lý tập trung quan liêu, bao cấp
của các nước xã hội chủ nghĩa, hình thành cơ chế mới – cơ chế thị trường có sự
quản lý của nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa, phù hợp với bối cảnh
thực tiễn của đất nước.

Khái niệm nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa cũng lần đầu tiên được
nêu ra tại Hội nghị lần thứ hai Ban chấp hành trung ương Đảng khóa VII và tiếp
tục được khẳng định tại Hội nghị toàn quốc giữa nhiệm kỳ khóa VII của Đảng
năm 1994 cũng như trong văn kiện khác của Đảng. Tiếp đến là tại các đại hội lần
thứ X và XI của Đảng cũng đã có những bước tiến trong nhận thức về xây dựng
Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở nước ta.

Trong quá trình đổi mới đất nước, Đảng ta luôn coi trọng đổi mới hệ thống
chính trị mà trọng tâm là xây dựng, hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ
nghĩa. Thực tiễn qua 30 năm đổi mới, tư duy lý luận của Đảng về xây dựng và
hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ngày càng đầy đủ và phát

37
triển hơn, tạo cơ sở vững chắc cho việc xây dựng một nhà nước trong sạch, vững
mạnh, đáp ứng được yêu cầu phát triển đất nước trên con đường đi lên chủ nghĩa
xã hội. Bên cạnh đó, Đảng và Nhà nước ta đã vận dụng Tư tưởng Hồ Chí Minh
và chủ nghĩa Mác - Lênin, bao gồm hệ thống các quan điểm tích cực và tiến bộ
của nhà nước pháp quyền, tổ chức nhà nước và kinh nghiệm áp dụng các học
thuyết của các nước đưa vào áp dụng, xây dựng ở Việt Nam. Đây là quá trình nỗ
lực, tìm tòi, nghiên cứu, tiếp thu một cách có chọn lọc, không rập khuôn, không
sao chép, vận dụng sáng tạo để áp dụng một cách linh hoạt phù hợp với thực tiễn
của nước ta.

Tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Đảng ta xác định sáu nhiệm vụ
trọng tâm trong nhiệm kỳ Đại hội XIII và tại Hội nghị Trung ương 6, Ban Chấp
hành Trung ương Đảng khóa XIII đã ban hành Nghị quyết số 27-NQ/TW ngày
09/11/2022 xác định 10 nhiệm vụ về việc tiếp tục xây dựng và hoàn thiện Nhà
nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam trong giai đoạn mới 11. Đảng đã chỉ
rõ vị trí, tầm quan trọng của nhiệm vụ xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp
quyền xã hội chủ nghĩa. Đồng thời, đưa ra một hệ thống phương hướng, nhiệm
vụ, giải pháp toàn diện về xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội
chủ nghĩa phù hợp với tình hình mới.

Quá trình xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam là
một quá trình lâu dài. Việc xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội
chủ nghĩa Việt Nam theo quan điểm của Đảng trong điều kiện chuyển đổi nền
kinh tế là một vấn đề lý luận và thực tiễn hết sức mới mẻ, hiểu biết của chúng ta
còn ít, có nhiều việc phải vừa làm, vừa tìm tòi, rút kinh nghiệm. Vì thế trong quá

11
2023, 10 nhiệm vụ, giải pháp xây dựng, hoàn thiện Nhà nước pháp quyền trong giai đoạn mới, Cổng thông tin
điện tử Chính phủ, https://xaydungchinhsach.chinhphu.vn/10-nhiem-vu-giai-phap-xay-dung-hoan-thien-nha-
nuoc-phap-quyen-trong-giai-doan-moi-119221129093612691.htm.

38
trình triển khai và tổ chức thực hiện không thể tránh khỏi những khó khăn, thử
thách, thực tiễn đòi hỏi Đảng và nhà nước cần phải có những nhận thức đúng lý
luận khoa học, cách mạng, nâng cao sự nghiệp cách mạng, tiếp thu và kế thừa tư
tưởng nhà nước pháp quyền của Tư Tưởng Hồ Chí Minh và Chủ Nghĩa Mác -
Lênin, phát huy cao độ, thái độ, có trách nhiệm và hành động cách mạng đúng
đắn, giữ vững định hướng xã hội chủ nghĩa, tuyên truyền, xây dựng và hoàn
thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa. Kiên quyết đấu tranh, quán triệt
những tư tưởng bảo thủ, trì trệ, sai trái, tư tưởng chống phá nhà nước, chống phá
công cuộc xây dựng Nhà nước pháp quyền của các thế lực thù địch. Từ đó ngày
một hoàn thiện nhiệm vụ xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt
Nam của Nhân dân, do Nhân dân, và vì Nhân dân, do Đảng cộng sản Việt Nam
lãnh đạo. Xây dựng nên một hệ thống pháp luật hoàn thiện, được thực hiện
nghiêm minh, nhất quán; thượng tôn hiến pháp và pháp luật, tôn trong, đảm bảo,
bảo vệ hiệu quả quyền con người, quyền công dân; Quản trị quốc gia hiện đại,
hiệu quả; đáp ứng yêu cầu phát triển đất nước nhanh chóng, bền vững, trở thành
nước phát triển có thu nhập cao theo định hướng xã hội chủ nghĩa vào năm 2045.

39
C. Tài liệu tham khảo
1. Phan Nguyệt Anh (2022). Nhà nước pháp quyền Trung Quốc hiện đại. Tạp
chí Nghề luật, 2, 5.
2. Bộ giáo dục và Đào tạo (2021). Giáo trình Chủ nghĩa xã hội khoa học.
Nxb. Chính trị Quốc gia sự thật, tr.156.
3. Hồng Đoan (2016). Đặc trưng cơ bản Nhà nước pháp quyền XHCN Việt
Nam. Cổng thông tin điện tử tỉnh Hà Giang,
[https://hagiang.gov.vn/pages/propagandanews.aspx], (truy cập lần cuối
ngày 3/3/2023, vào lúc 20 giờ 26 phút).
4. GS. TS. Trần Ngọc Đường (2022). Tiếp tục xây dựng Nhà nước pháp
quyền xã hội chủ nghĩa kiến tạo phát triển, liêm chính, hành động theo
quan điểm Đại hội XIII của Đảng. Tạp chí cộng sản,
[https://www.tapchicongsan.org.vn/web/guest/media-story/-/
asset_publisher/V8hhp4dK31Gf/content/tiep-tuc-xay-dung-nha-nuoc-
phap-quyen-xa-hoi-chu-nghia-kien-tao-phat-trien-liem-chinh-hanh-dong-
theo-quan-diem-dai-hoi-xiii-cua-dang], (truy cập lần cuối ngày
07/03/2023, vào lúc 21 giờ 12 phút).
5. GS. TS. Tô Lâm (2021). Một số vấn đề về xây dựng, hoàn thiện Nhà nước
pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Tạp chí cộng sản.
[https://tapchicongsan.org.vn/media-story/-/asset_publisher/V8hhp4dK31
Gf/content/mot-so-van-de-ve-xay-dung-hoan-thien-nha-nuoc-phap-quyen-
xa-hoi-chu-nghia-viet-nam], (truy cập lần cuối ngày 06/03/2023 vào lúc
19 giờ 38 phút).
6. Nguyễn Thị Ngọc Hoa (2021), Tổ chức và hoạt động của Quốc hội khóa
XIV – Thực trạng, nguyên nhân, phương hướng và giải pháp, Tạp chí
Quản lý nhà nước,
[https://www.quanlynhanuoc.vn/2021/03/18/to-chuc-va-hoat-dong-cua-
quoc-hoi-khoa-xiv-thuc-trang-nguyen-nhan-phuong-huong-va-giai-phap/],
(truy cập lần cuối ngày 07/03/2023 vào lúc 21 giờ 36 phút).

40
7. ThS. Trần Trung Ngôn (2021). Nghiên cứu, vận dụng quan điểm Đại hội
XIII của Đảng về xây dựng Nhà nước pháp quyền vào bài giảng “Xây
dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam của Nhân dân, do
Nhân dân, vì Nhân dân”. Cổng thông tin điện tử Trường chính trị tỉnh Hậu
Giang. [https://truongchinhtri.haugiang.gov.vn/chi-tiet/-/tin-tuc/nghien-
cuu--van-dung-quan-iem-ai-hoi-xiii-cua-ang-ve-xay-dung-nha-nuoc-phap-
quyen-vao-bai-giang-xay-dung-nha-nuoc-phap-quyen-xa-hoi-chu-nghia-
viet-nam-cua-nhan-dan--do-nhan-dan--vi-nhan-dan59552], (truy cập lần
cuối ngày 05/03/2023 vào lúc 22 giờ 36 phút).
8. PGS. TS. Vũ Văn Phúc, Hà Hữu Đức (2020). Kiểm soát quyền lực nhà
nước theo Hiến pháp Việt Nam. Tạp chí tổ chức nhà nước,
[https://tcnn.vn/news/detail/48116/Kiem-soat-quyen-luc-nha-nuoc-theo-
Hien-phap-Viet-Nam.html], (truy cập lần cuối ngày 03/03/2023 vào lúc 21
giờ 31 phút).
9. “10 nhiệm vụ, giải pháp xây dựng, hoàn thiện Nhà nước pháp quyền trong
giai đoạn mới”, Cổng thông tin chính phủ,
[https://xaydungchinhsach.chinhphu.vn/10-nhiem-vu-giai-phap-xay-dung-
hoan-thien-nha-nuoc-phap-quyen-trong-giai-doan-moi-
119221129093612691.htm], (truy cập lần cuối ngày 09/03/2023 vào lúc 11
giờ 11 phút).
10.PGS. TS. Lưu Ngọc Tố Tâm (2021). Vận dụng nhận thức mới để xây dựng
và hoàn thiện nhà nước pháp quyền XHCN ở Việt Nam.
[https://dukcq.hatinh.gov.vn/tk-xh-qp-an/van-dung-nhan-thuc-moi-de-xay-
dung-va-hoan-thien-nha-nuoc-phap-quyen-xhcn-o-viet-nam-517.html],
(truy cập lần cuối ngày 09/03/2023 vào lúc 13 giờ 52 phút).

41

You might also like