You are on page 1of 25

ĐẠI HỌC QUỐC GIA THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN


Khoa Lưu trữ học và Quản trị văn phòng
----------

Bài tiểu luận

MÔN: HÀNH CHÍNH CÔNG

ĐỀ TÀI: THỂ CHẾ HÀNH CHÍNH NHÀ NƯỚC


NHÓM 3
Giảng viên hướng dẫn: Th.S Phạm Thị Phi Yến

TPHCM, ngày 20 tháng 6 năm 2021


DANH SÁCH THÀNH VIÊN NHÓM 3
STT Họ và tên Mã số sinh viên
1 Võ Thị Thanh Vy (nhóm trưởng) 2056130108
2 Thái Thị Thảo Vân 2056130114
3 Phạm Phương Thảo 2056130113
4 Lê Thị Kim Huệ 2056130042
5 Lê Quang Vinh 2056130105
6 Khuất Thị Thư 2056130096
7 Nguyễn Phú Vinh 2056130106
8 Lê Vũ Mai Trinh 2056130100
9 Nguyễn Thị Hoàng Yến 2056130122
10 Nguyễn Thị Mộng Vy 2056130110
11 Phạm Lê Cát Tường 2056130088
Nhận xét của giảng viên
….
……………………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………
MỤC LỤC

A. LỜI MỞ ĐẦU

B. NỘI DUNG

I. Khái niệm thể chế hành chính Nhà nước

1. Khái niệm…………………………………………………………………………..

2. Các yếu tố cấu thành thể chế hành chính Nhà nước………………………

II. Các vai trò của thể chế hành chính Nhà nước…………………………………...

1. Cơ sở pháp lý của quản lý hành chính Nhà nước………………………………..

2. Cơ sở để xây dựng cơ cấu tổ chức bộ máy nhà nước và thực hiện chức năng quản
lý nhà nước đã được phân công. (Hành pháp hành động)…………………………..

3. Cơ sở xác lập nhân sự trong các cơ quan hành chính Nhà nước…………………

4. Thể chế hành chính Nhà nước là cơ sở xây dựng quan hệ cụ thể giữa Nhà nước và
công dân, giữa Nhà nước và các tổ chức xã hội……………………………………….

III. Các yếu tố quyết định thể chế hành chính Nhà nước

1. Chế độ chính trị……………………………………………………………………….

2. Nền kinh tế và vai trò của hành chính nhà nước trong quản lý kinh tế……………

3. Yếu tố truyền thống, lịch sử, văn hóa………………………………………………

4. Ảnh hưởng của văn hoá bên ngoài……………………………………………………


C. KẾT LUẬN

D. TÀI LIỆU THAM KHẢO

II.
I. Khái niệm thể chế hành chính Nhà nước.
1. Khái niệm.
Thể chế: Là tổng hợp các quy định, nguyên tắc, các điều luật được sử dụng để chi
phối, định hướng sự phát triển của một tổ chức hay một nhà nước trong những lĩnh vực
nhất định.
Thể chế hành chính Nhà nước: là toàn bộ các quy định, quy tắc do nhà nước ban
hành để tạo khuôn khổ pháp lý cho tổ chức và hoạt động của các chủ thể quản lý hành
chính nhà nước, và tạo khuôn khổ pháp lý cho các chủ thể hành chính nhà nước ( ở đây
là các cơ quan, các cán bộ, công chức có thẩm quyền) thực hiện chức năng quản lý nhà
nước đối với xã hội.
2. Các yếu tố cấu thành thể chế hành chính Nhà nước.
Với quan niệm về thể chế hành chính Nhà nước như trên, thể chế hành chình Nhà
nước được cấu thành từ các yếu tố:
Hệ thống các văn bản quy phạm pháp luật về quản lý hành chính nhà nước trên tất cả
các lĩnh vực chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội, an ninh, quốc phòng, ngoại giao...
Ví dụ:
Nghị quyết số 128-NQ/CP ngày 11/10/2021 của Chính phủ ban hành quy định tạm
thời “Thích ứng an toàn, linh hoạt, kiểm soát hiệu quả dịch COVID-19”.
Nghị định số 58/2020/NĐ-CP ngày 27/05/2020 Quy định mức đóng bảo hiểm xã hội
bắt buộc vào Quỹ bảo hiểm tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp
Hệ thống các văn bản quy phạm pháp luật quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn
và cơ cấu tổ chức của bộ máy hành chính nhà nước từ Trung ương đến cơ sở;
Ví dụ:
Thông tư số 04/2008/TT-BNV của Bộ Nội vụ ngày 04/06/2008 về việc Hướng dẫn
chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của sở Nội vụ, phòng Nội vụ thuộc
UBND cấp tỉnh, cấp huyện .
Nghị định Số 61/2012/NĐ-CP của Chính phủ ngày 10 tháng 8 năm 2012 Quy định
chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của Bộ Nội vụ.
Hệ thống các văn bản quy phạm pháp luật quy định chế độ công vụ và công chức
nhà nước
Ví dụ:
Quyết định số 73/2011/QĐ-TTG của Thủ tướng Chính phủ : Về việc quy định một
số chế độ phụ cấp đặc thù đối với công chức, viên chức, người lao động trong các cơ
sở y tế công lập và chế độ phụ cấp chống dịch
Nghị quyết số 39-NQ/TW ngày 17/4/2015 của Bộ Chính trị về tinh giản biên chế và
cơ cấu lại đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức.

Hệ thống các văn bản quy phạm pháp luật quy định mối quan hệ giữa các cơ quan
hành chính nhà nước với cá nhân, tổ chức trong việc phục vụ nhân dân như: Hệ thống
các quy định nhằm giải quyết những tranh chấp hành chính giữa công dân với nền hành
chính thông qua khiếu nại, khiếu kiện hành chính và hệ thống các thủ tục hành chính
nhằm giải quyết các quan hệ giữa nhà nước với công dân và với các tổ chức xã hội.

Ví dụ:
Nghị định số 45/2020/NĐ-CP ngày 08/04/2020 Về thực hiện thủ tục hành chính trên
môi trường điện tử.
Nghị định số 124/2020/NĐ-CP ngày 19/10/2020 Quy định chi tiết một số điều và
biện pháp thi hành Luật Khiếu nại.
II. Các vai trò của thể chế hành chính Nhà nước

1. Cơ sở pháp lý của quản lý hành chính Nhà nước

Hoạt động quản lý của các cơ quan hành chính Nhà nước là sự tác động của quyền
lực Nhà nước đến các chủ thể trong xã hội: công dân và tổ chức, thể nhân hay pháp
nhân, công pháp hay tư pháp (công quyền), mang đắc trưng cưỡng bức kết hợp với
thuyết phục, giáo dục. Hành chính nhà nước phải hợp pháp và đòi đỏi công dân, tổ
chức xã hội phải thực hiện pháp luật.

Hệ thống hành chính của Nhà nước ta quản lý theo pháp luật, phân biệt lợi ích công,
lợi ích tập thể và lợi ích của cá nhân được tổ chức trong một hệ thống quyền lực nhà
nước thống nhất. Sự phân chia khu vực công, khu vực tư, quản lý khu vực công và khu
vực tư trong xã hội hiện đại, phát triển với nền hành chính phục vụ xã hội, phục vụ
công dân cần theo nguyên tắc công và tư đan xen. Nhà nước và nhân dân cùng làm,
theo quan điểm “xã hội hóa” các hoạt động các hoạt động dịch vụ lợi ích công công
cộng: có thể hiểu là cái gì Nhà nước làm tốt hơn thì Nhà nước đảm nhận, cái gì các
thành phần kinh tế - xã hội khác và tư nhân làm tốt hơn, hiệu quả hơn thì Nhà nước
giao cho các thành phần kinh tế đó làm, không phân biệt thuộc Nhà nước hay tư nhân.
Nhà nước, hệ thống hành chính nhà nước đóng vai trò là người cầm lái, giám sát, kiểm
tra, kiểm soát việc tuân thủ pháp luật của mọi hoạt động được tiền hành bởi các thần
phần, các chủ thể khác nhau trong xã hội.
Thể chế hành chính nhà nước với một hệ thông pháp luật (gồm luật, các văn bản
pháp quy dưới luật) do các cơ quan nhà nước có thẩm quyền ban hành, là cơ sở pháp lý
cho các cơ quan hành chính nhà nước các cấp thực hiện quản lý, bảo đảm thống nhất
quản lý nhà nước trên phạm vi quốc gia.

Hệ thống văn bản pháp luật ngày càng được bổ sung, hoàn chỉnh, hoàn thiện. Nhà
nước ngày càng hướng đến một Nhà nước dân chủ, hiện đại, pháp quyền với ý nghĩa
đầy đủ của nó thì tính hiệu lực của các thể chế Nhà nước và thể chế hành chính Nhà
nước ngày càng được nâng cao.

Hoàn thiện hệ thống pháp luật, nâng cao hiệu lực của pháp luật là yếu tố đảm bảo
cho hệ thống hành chính Nhà nước quản lý tốt đất nước theo hướng: Nhà nước quản lý
Nhà nước bằng pháp luật và mọi công dân, mọi thành phần kinh tế và mọi tổ chức xã
hội bình đẳng trước pháp luật

Ví dụ:

Từ năm 1946 đến nay, nước ta đã có 5 lần sửa đối hiến pháp để hệ thống pháp quyền
Xã hội Chủ nghĩa của nước ta ngày càng hoàn thiện và quyền lợi của nhân dân ngày
càng được đảm bảo. Như GS. Hoàng Thế Liên nhấn mạnh: 5 bản Hiến pháp của nước
ta (Hiến pháp năm 1946, năm 1959, năm 1980, năm 1992 có sửa đổi bổ sung vào năm
2001 và Hiến pháp năm 2013) là 5 nấc thang lớn vươn tới dân chủ và Nhà nước pháp
quyền, đồng thời thể hiện sự nhận thức, tiếp cận ngày càng đầy đủ hơn học thuyết về
nhà nước pháp quyền hiện đại.

2. Cơ sở để xây dựng cơ cấu tổ chức bộ máy nhà nước và thực hiện chức năng quản
lý nhà nước đã được phân công. (Hành pháp hành động).

Một trong những vấn để trong việc quản lý hành chính của mọi quốc gia chính là vấn
đề quyền lực, phân chia quyền lực, thực thi quyền lực giữa các cơ quan Nhà nước cũng
như các cơ quan chính quyền.

Trong nhà nước hiện đại, hiến pháp chính là đạo luật cơ bản xác định những thể thức
giành và thực thi quyền lực chính trị, quyền lực nhà nước. nó quy định về thể chế chính
trị, tức là tổng thể các vấn đề nguồn gốc, chủ thể và cơ chế phân bố quyền lực giữa các
cơ quan, quyết định các thể thức liên hệ với nhau trong các mối quan hệ ngang-dọc,
trên-dưới.
Hiến pháp nước ta (1992) quy định cụ thể Nhà nước Cộng hòa XHCN Việt Nam là
Nhà nước của dân, do dân, vì dân. Tất cả quyên lực nhà nước đều thuộc về nhân dân
mà nên tảng chính là sự liên minh của các giai cấp công nhân, nônng dân, tri thức. xác
lập mọi hoạt động của của các cơ quan Nhà nước, xã hội đều đặt dưới sự lãnh đạo của
Đảng cộng sản việt Nam. Quyền lực nhà nước từ nhân dân và được nhân dân trao cho
Quốc hội, Hội đồng nhân dân các cấp do nhân dân bầu và chịu trách nhiệm trước nhân
dân. Thể chế lập hiến gắn liền với Quốc hội trong việc lập hiến, lập pháp. Hiếp pháp
quy định cụ thể các tổ chức, cơ quan thực hiện các quyên lập pháp, hành pháp tư pháp.
Quy định tổ chức bộ máy Nhà nước từ Trung ương đến cơ sở. đó là nền tảng của sự ra
đời của các thể chế chi tiết hơn (Chính phủ, bộ, chính quyền địa phương).

Thể chế tổ chức bộ máy hành chính Nhà nước là một vấn dề được nhiều quốc gia
quan tâm dựa trên quan điểm quy tắc nhất định. Các thức tổ chức phải được thể chế
hóa trong văn bản pháp luật của Nhà nước. thể chế hành chính nhà nước về tổ chức xác
định cụ thể các chực năng, nhiệm vụ, quyền hạn, thẩm quyền, trách nhiệm cũng như
các phương tiện vật chất, nhân sự cho các cấp hoạt động.

Thể chế hành chính nhà nước quy định sự phân chia quyền hạn giữa các cơ quan
hành chính của Chính phủ Trung ương và giữa các cấp một cách cụ thể: chính phủ
Trung ương các bộ có quyền trên những vấn đề gì; hội đồng nhân dân và ủy ban nhân
dân ở địa phương có quyền gì. mối quan hệ giữa các cơ quan hành chính Trung ương
và giữa Trung ương với các cấp chính quyền địa phương. Thẩm quyền về việc ban
hành các văn bản pháp luật như thế nào,…

Thể chế hành chính nhà nước càng rõ ràng thì cơ cấu tổ chức các cơ quan hành chính
bộ máy Nhà nước càng rõ ràng gọn lẹ. việc thiếu các quy định cụ thể khoa học trong
việc phân chia quyền hàn trách nhiệm, nghĩa vụ trong hoạt động quản lý Nhà nước của
các cơ quan hành chính Nhà nước sẽ làm cho bộ máy hành chính Nhà nước cồng
kềnh , chức năng nhiệm vụ, chồng chéo và sẽ dẫn đến hoạt động kém hiệu quả không
năng suất. vấn đề phân chia quyền hạn trong việc trong tổ chức bộ máy hành chính
Nhà nước là cơ sở cho việc xác định:

Cơ quan hành chính Nhà Trung ương nước cần bao nhiêu Bộ, bao nhiêu đàu mối
thực hiện chức năng quản lý nhà Nước thống nhất trên tất cả lĩnh vực.
Có bao nhiên đơn vị chính quyền câp tỉnh- thành phố trực thược Trung ương; huyện,
quận, thị xã, xã, thị trấn; những căn cứ chính trị, kinh tế, xã hội và những tiêu chí để
xác định số lượng và quy mô của đơn vị hành chinh – lãnh thổ.

Nghiên cứu chia một cách khoa học chức năng, quyền hạn của bộ máy hành chính
Nhà nước để huy động cao nhất mọi khả năng của các chủ thể trong hoạt động quản lý
là một trong những vấn đề và là một trong những nội dung quan trọng của thể chế hành
chính Nhà nước.

3. Cơ sở xác lập nhân sự trong các cơ quan hành chính Nhà nước

Thể chế hành chính nhà nước chính là một yếu tố để xác định nhân sự trong các cơ
quan hành chính nhà nước ta hiện nay. Yếu tố con người trong các tổ chức nói chung
và trong các cơ quan hành chính nhà nước nói riêng có ý nghĩa vô cùng quan trọng.

Nếu như chức năng, nhiệm vụ không được xác định một cách rõ ràng, khoa học thì
khó có thể bố trí hợp lý được từng người vào các chức vụ cụ thể. Thể chế hành chính
không cụ thể, khoa học sẽ không thể bố trí được cán bộ, công chức hành chính vào
đúng vị trí, những người có năng lực, có trình độ sẽ không được bố trí đúng vị trí;
trong khi đó có thể bày ra quá nhiều đơn vị với chức năng, nhiệm vụ chồng chéo hoặc
quá vụn vặt, gây ra sự lãng phí…

Thể chế hành chính nhà nước khi được hiểu rõ có thể xác định hệ thống các hoạt
động cụ thể: ai phải làm cái gì, được trao quyền gì và phải làm như thế nào, do đó có
thể bố trí được đội ngũ nhân sự hợp lý.

Ví dụ:

Theo điều 8 Luật số 22/2008/QH12 của Quốc hội: LUẬT CÁN BỘ, CÔNG CHỨC
có nêu rõ nghĩa vụ của CBCC đối với Đảng, Nhà nước và nhân dân: trùng thành với
Đảng, Nhà nước; bảo vệ danh dự Tổ quốc; tôn trọng, tận tụy phục vụ nhân dân, lắng
nghe ý kiến của nhân dân, … hay là điều 11 của luật trên có nêu rõ quyền của CBCC
như: được đào tạo bồi dưỡng nâng cao trình độ, được pháp luật bảo vệ, được Nhà nước
bảo đảm tiền lương, …
Ngoài ra thông qua thể chế hành chính có thể quy định về số lượng nhân sự cần có
để đảm bảo không có quá nhiều nhân sự cho một cơ quan hoặc một tổ chức không cần
thiết.

Ví dụ: Chính phủ đưa ra nghị định quy định về chính sách tinh giản (cắt giảm) biên
chế vừa để giảm về số lượng CBCC, giảm chi phí hành chính, giảm ngân sách nhà
nước, vừa làm cho cơ cấu, số lượng, chất lượng của đội ngũ CBCC, nhất là chất lượng
chuyên môn, phẩm chất đạo đức nghề nghiệp ngày một nâng cao.

4. Thể chế hành chính Nhà nước là cơ sở xây dựng quan hệ cụ thể giữa Nhà nước và
công dân, giữa Nhà nước và các tổ chức xã hội

Công chức trong bộ máy hành chính Nhà nước không chỉ là người có quyền mệnh
lệnh mà còn là “công bộc” của dân, người đầy tớ của dân. Các tổ chức và công dân đòi
hỏi là Nhà nước ban hành các quyết định, tổ chức thực hiện các quyết định để đáp ứng
các loại yêu cầu của dân.

Nếu quan hệ giữa Nhà nước với công dân và các tổ chức xã hội không được xác lập
cụ thể, đầy đủ bằng một hệ thống thể chế đúng đắn thì Nhà nước và hành chính Nhà
nước sẽ tổ chức xã hội theo sở thích tùy tiện của người được Nhà nước trao quyền
quản lý.

Muốn tạo ra một Nhà nước mạnh thì cần giải quyết tốt mối quan hệ giữa 2 mặt đối
lập của thể chế của nền hành chính.

Xét trên phương diện Nhà nước có chức năng tạo ra luật với các văn bản lập quy để
quản lý Nhà nước, quản lý xã hội thì đây là mối quan hệ giữa Nhà nước với công dân
và các tổ chức xã hội mang ý nghĩa không bình đẳng và có tính bắt buộc, cưỡng bức.

Nhà nước có trách nhiệm đáp ứng đầy đủ mọi yêu cầu chính đáng của công dân và
các tổ chức xã hội được pháp luật ghi nhận. Đây là mối quan hệ công dân, tổ chức xã
hội là khách hàng và khách hàng là thượng đế nên Nhà nước phải đáp ứng các yêu cầu
đòi hỏi của công dân trong khuôn khổ pháp luật.

Thể chế hành chính xác định mối quan hệ giữa Nhà nước và công dân cũng phản ánh
tính chất tập trung dân chủ trong hoạt động quản lý Nhà nước. Xét về bản chất, Nhà
nước ta là Nhà nước của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân. Người dân có quyền và
nghĩa vụ tham gia vào hoạt động quản lý Nhà nước trong khuôn khổ pháp luật. Mối
quan hệ giữa Nhà nước và công dân được thấm nhuần trong phương châm: “dân biết,
dân bàn, dân làm, dân kiểm tra”. Sức mạnh và hiệu lực của thể chế hành chính phụ
thuộc vào giải quyết mối quan hệ giữa Nhà nước với công dân và các tổ chức xã hội.

Ví dụ:

Từ nhiều năm qua, Ðảng và Nhà nước ta luôn quan tâm xây dựng và tổ chức thực
hiện các chính sách xã hội, coi đây vừa là mục tiêu, vừa là động lực để phát triển bền
vững, ổn định chính trị - xã hội, thể hiện bản chất tốt đẹp của chế độ ta. Hệ thống pháp
luật và chính sách phát triển các lĩnh vực xã hội ngày càng được bổ sung và hoàn thiện.
Nguồn lực đầu tư phát triển các lĩnh vực xã hội ngày càng lớn, được tăng cường đầu tư
từ ngân sách nhà nước và các nguồn lực xã hội khác. Các lĩnh vực xã hội đạt được
nhiều thành tựu quan trọng. Ðời sống vật chất và tinh thần của người có công, người
nghèo, đồng bào dân tộc thiểu số được cải thiện, góp phần củng cố lòng tin của nhân
dân và sự ổn định chính trị - xã hội.

III. Các yếu tố quyết định thể chế hành chính Nhà nước

1. Chế độ chính trị

Nhà nước trước hết là công cụ trong tay giai cấp thống trị để giúp giai cấp đó thực
hiện các mục tiêu chính trị của mình. Do đó, mọi hoạt động của nhà nước đều không
thể đi ngược lại các mục tiêu chính trị. Các quy định về sự điều tiết của nhà nước đối
với xã hội cũng phải phù hợp với những định hướng chính trị trong xã hội. Chính vì
vậy, những định hướng chính trị có ảnh hưởng to lớn tới toàn bộ hệ thống thể chế nhà
nước nói chung và thể chế nhà nước hành chính nói riêng.

Chế độ chính trị của quốc gia (tổ chức quyền lực Nhà nước và quan hệ giữa quyền
lực Nhà nước với xã hội dân sự) có ý nghĩa quyết định trong việc tổ chức chính quyền
Nhà nước và thể chế hành chính Nhà nước. Các phương thức tổ chức Nhà nước: tập
quyển, phân quyền, tản quyền, tập trung, mang tính chính trị cũng ảnh hưởng lớn đến
thể chế hành chính Nhà nước. Chế độ chính trị của Nhà nước do bản chất của hệ thống
chính trị quốc gia đó quyết định.

Do đó bản chất chính trị, cơ cấu tổ chức hệ thống Nhà nước, vấn đề phân bố quyền
lực Nhà nước ảnh hưởng trực tiếp đến nội dung của thể chế hành chính Nhà nước.
Nhà nước Cộng hòa XHCN Việt Nam có vai trò trung tâm của quyền lực chính trị
thể hiện ý chí nhân dân. Nhà nước là bộ máy trực tiếp thực thi quyền lực của nhân dân
và là thiết chế biểu hiện và tập trung quyền lực của Đảng cầm quyền.

Nhà nước Cộng hòa XHCN Việt Nam là tổ chức duy nhất trong hệ thống chính trị có
quyền ban hành các văn bản quy phạm pháp luật từ Hiến pháp đến các quy chế cụ thể
để thể hiện ý chí và thực hiện quyền lực của nhân dân. Dân chủ XHCN ở nước ta cũng
được thể hiện qua việc đảm bảo thực thi quyền lực Nhà nước dân chủ, công khai theo
pháp luật và bằng pháp luật. Thể chế hành chính Nhà nước của nước ta mang tính chất
và nội dung chính trị của nền dân chủ XHCN, bảo đảm quyền con người và quyền
công dân được luật pháp quy định và cũng vì vậy, cơ quan Nhà nước, trực tiếp là cơ
quan hành chính Nhà nước phải tuân thủ thể chế hành chính do mình đề ra và trong quá
trình đề ra các thể chế hành chính phải tôn trọng pháp luật. Mặt khác, các cơ quan hành
chính Nhà nước phải tạo điều kiện để công dân thực hiện và chấp hành nghiêm chỉnh
quy định hợp pháp của các cơ quan hành chính Nhà nước (thể chế hành chính Nhà
nước).

Ví dụ:
Tại Điều 2 Hiến pháp 2013 khẳng định:
“Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là nhà nước pháp quyền xã hội chủ
nghĩa của Nhân dân, do Nhân dân, vì Nhân dân. Nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt
Nam do Nhân dân làm chủ; tất cả quyền lực nhà nước thuộc về Nhân dân mà nền tảng
là liên minh giữa giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và đội ngũ trí thức. Quyền
lực nhà nước là thống nhất, có sự phân công, phối hợp, kiểm soát giữa các cơ quan nhà
nước trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp”.

Điều 8

1. Nhà nước được tổ chức và hoạt động theo Hiến pháp và pháp luật, quản lý xã hội
bằng Hiến pháp và pháp luật, thực hiện nguyên tắc tập trung dân chủ.

2. Các cơ quan nhà nước, cán bộ, công chức, viên chức phải tôn trọng Nhân dân, tận
tụy phục vụ Nhân dân, liên hệ chặt chẽ với Nhân dân, lắng nghe ý kiến và chịu sự giám
sát của Nhân dân; kiên quyết đấu tranh chống tham nhũng, lãng phí và mọi biểu hiện
quan liêu, hách dịch, cửa quyền.
Điều 9

1. Mặt trận Tổ quốc Việt Nam là tổ chức liên minh chính trị, liên hiệp tự nguyện của
tổ chức chính trị, các tổ chức chính trị - xã hội, tổ chức xã hội và các cá nhân tiêu biểu
trong các giai cấp, tầng lớp xã hội, dân tộc, tôn giáo, người Việt Nam định cư ở nước
ngoài.

Mặt trận Tổ quốc Việt Nam là cơ sở chính trị của chính quyền nhân dân; đại diện,
bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của Nhân dân; tập hợp, phát huy sức
mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc, thực hiện dân chủ, tăng cường đồng thuận xã hội;
giám sát, phản biện xã hội; tham gia xây dựng Đảng, Nhà nước, hoạt động đối ngoại
nhân dân góp phần xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. 

 Từ đó cho thấy nhà nước ta là trung tâm quyền lực chính trị và những quy định
của nhà nước trong chế độ chính trị ảnh hưởng trực tiếp tới các thể chế hành chính nhà
nước và cả nền hành chính nhà nước.

2. Nền kinh tế và vai trò của hành chính nhà nước trong quản lý kinh tế:
Hoạt động của các cơ quan quản lý nhà nước về kinh tế là một nội dung rất quan
trọng trong hoạt động quản lý nhà nước.

Trong hoạt động quản lý nhà nước, thể chế kinh tế của một quốc gia bao gồm hệ
thống quy định pháp luật định hướng, dẫn dắt và can thiệp vào các hoạt động kinh tế
nhằm làm cho nền kinh tế quốc dân vận động theo hướng kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa. Tất cả nội dung đó tạo thành hệ thống thể chế kinh tế của quốc
gia. Vậy thể chế kinh tế là gì?

Thể chế kinh tế là toàn thể các luật chơi chính thức và phi chính thức điều tiết và chi
phối các quan hệ, hoạt động mang tính kinh tế của con người trong xã hội.

Có thể hiểu cụ thể hơn, thể chế kinh tế là các bộ quy tắc, các luật, các lệ điều chỉnh,
chế định các hành vi, các hoạt động, các quan hệ kinh tế; là bộ công cụ để điều chỉnh
các chủ thể tham gia hành vi kinh tế. Vị trí, vai trò, chức năng, năng lực, các mối quan
hệ và phương thức tổ chức vận hành của các chủ thể tham gia các hoạt động kinh tế
(nhà nước, doanh nghiệp, người dân, các hiệp hội…); Cơ chế, cách thức, các luật lệ
nhằm đạt được mục tiêu mà các chủ thể khi tham gia hành vi kinh tế mong muốn.
Thể chế kinh tế nói trên là nên tảng cơ bản để mỗi chủ thể kinh tế (doanh nghiệp nhà
nước, doanh nghiệp tư nhân, doanh nghiệp trong và ngoài nước) hoạt động một cách
hợp pháp. Đó cũng là nền tảng cơ bản để cơ quan hành chính nhà nước tiến hành các
hoạt động quản lý nhà nước cần thiết theo chức năng của mình. Những hoạt đồng mà
các cơ quan hành chính nhà nước tiến hành nhằm làm cho hoạt đông kinh tế định
hướng đúng như pháp luật nhà nước quy định.

Ví dụ:

Ở nước ta, trong giai đoạn kế hoạch hóa tập trung chỉ chập nhận và cho phép hoạt
động chủ yếu hai thành phần kinh tế thuộc sở hữu nhà nước và tập thể. Điều này được
nhà nước thể chế hóa trong các văn bản pháp luật. Sau khi chuyển sang nền kinh tế thị
trường, nhà nước ta thừa nhận sự đa dạng thành phần kinh tế và nhà nước đã thay đổi
một cách cơ bản thể chế kinh tế cũng như thể chế hành chính nhà nước để quản lý kinh
tế một cách tương ứng.

Chính phủ ban hành Nghị quyết về thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, giải ngân vốn
đầu tư công và xuất khẩu bền vững

Chính phủ vừa ban hành Nghị quyết số 63/NQ-CP về các nhiệm vụ, giải pháp chủ
yếu thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, giải ngân vốn đầu tư công và xuất khẩu bền vững
những tháng cuối năm 2021 và đầu năm 2022.

Nghị quyết đưa ra 5 mục tiêu:

1/ Phấn đấu quyết liệt để hoàn thành các mục tiêu, chỉ tiêu chủ yếu trong Nghị quyết
số 124/2020/QH14 của Quốc hội và Nghị quyết số 01/NQ-CP của Chính phủ

2/ Tập trung kiểm soát, đẩy lùi dịch COVID-19, phấn đấu hoàn thành tiêm chủng
đạt miễn dịch cộng đồng trong thời gian sớm nhất có thể.

3/ Giữ vững ổn định kinh tế vĩ mô, kiểm soát lạm phát, bảo đảm các cân đối lớn của
nền kinh tế; phát triển xuất nhập khẩu, hướng đến cán cân thương mại hài hòa, bền
vững.

4/ Phấn đấu tỷ lệ giải ngân vốn đầu tư ngân sách Nhà nước năm 2021 đạt 95-100%
kế hoạch được Thủ tướng Chính phủ giao từ đầu năm. Trong đó đến hết quý III/2021
giải ngân đạt tối thiểu 60% kế hoạch.
5/ Giữ vững ổn định chính trị xã hội, bảo đảm quốc phòng, an ninh, chủ động hội
nhập quốc tế toàn diện sâu rộng, gìn giữ môi trường hòa bình, tạo điều kiện thuận lợi
để phát triển nhanh, bền vững.

9 nhiệm vụ, giải pháp trọng tâm

Nghị quyết đề 9 nhiệm vụ, giải pháp trọng tâm gồm:

1/Tập trung cao độ phòng, chống dịch COVID-19, tạo điều kiện thúc đẩy phát triển
kinh tế-xã hội.

2/ Giữ vững ổn định kinh tế vĩ mô, bảo đảm các cân đối lớn.

3/ Đẩy mạnh phân cấp, phân quyền, cải cách hành chính, chuyển đổi số.

4/ Rà soát, hoàn thiện các quy định pháp luật để tháo gỡ khó khăn, vướng mắc về thể chế,
cơ chế, chính sách.

5/ Đẩy mạnh giải ngân vốn đầu tư công.

6/ Thúc đẩy xuất nhập khẩu, phát triển thương mại hài hòa, bền vững.

7/ Các giải pháp hỗ trợ người dân, doanh nghiệp, tháo gỡ khó khăn cho sản xuất, kinh
doanh.

8/ Đẩy mạnh công tác thông tin, tuyên truyền, tạo đồng thuận xã hội, theo tinh thần “lấy
tích cực đẩy lùi tiêu cực, lấy cái đẹp dẹp cái xấu”, truyền cảm hứng và tạo niềm tin cho
nhân dân, nâng cao ý thức trách nhiệm, tính tự giác, tích cực thực hiện phòng, chống dịch
và thúc đẩy sản xuất kinh doanh; tăng cường giám sát không gian mạng để loại bỏ các
thông tin xấu độc; chủ động đấu tranh, phản bác các quan điểm sai trái, xuyên tạc của các
thế lực thù địch.

9/ Củng cố quốc phòng, an ninh, giữ vững an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội, nâng
cao hiệu quả công tác đối ngoại, hội nhập quốc tế, giữ vững môi trường hòa bình, ổn định
và thuận lợi cho phát triển đất nước.

Trong đó, Chính phủ yêu cầu các bộ, cơ quan Trung ương, địa phương theo chức
năng, nhiệm vụ được giao thực hiện nghiêm các biện pháp phòng, chống dịch với tinh
thần “chống dịch như chống giặc”, phương châm “5K + vaccine” và tăng cường ứng
dụng công nghệ. Kết hợp hài hòa, hợp lý, hiệu quả giữa phòng ngừa và tấn công dịch
bệnh, lấy phòng ngừa là cơ bản, chiến lược, lâu dài, quyết định, tấn công là chủ động,
đột phá.

Tuyệt đối không được chủ quan, lơ là, mất cảnh giác, nhưng cũng không được hoang
mang, mất bình tĩnh, thiếu bản lĩnh. Rà soát các phương án phòng, chống dịch, rút kinh
nghiệm thực tiễn, tham khảo kinh nghiệm quốc tế, thường xuyên cập nhật tình hình
dịch bệnh, có kế hoạch cụ thể để chủ động phòng, chống dịch hiệu quả, nhất là tại các
khu công nghiệp, khu đông dân cư, chợ đầu mối thích nghi với dịch bệnh trong mọi
tình huống.

Tập trung mọi nguồn lực để thực hiện chiến lược vaccine, huy động và sử dụng hiệu
quả nguồn kinh phí từ Quỹ vaccine phòng, chống COVID-19. Vận động các đối tác đã
có cam kết thực hiện giao vaccine đúng tiến độ và trong thời gian sớm nhất. Tổ chức
hiệu quả chiến dịch tiêm vaccine phòng COVID-19; tập trung cho các đối tượng ưu
tiên, trong đó có các đối tượng thuộc địa bàn, ngành, lĩnh vực là động lực tăng trưởng
của nền kinh tế, công nhân, người lao động trong các khu công nghiệp và trong các
ngành thương mại, dịch vụ. Chủ động đàm phán, công nhận kết quả tiêm vaccine với
các nước, đặc biệt các quốc gia là đối tác quan trọng của Việt Nam.

Tiếp tục thúc đẩy nghiên cứu khoa học và ứng dụng công nghệ để phục vụ phát triển
kinh tế-xã hội, đặc biệt là các nhiệm vụ phòng, chống dịch bệnh.

Khuyến khích các doanh nghiệp, địa phương tiếp cận bình đẳng các nguồn vaccine,
tuân thủ thực hiện quản lý nhà nước, nhất là kiểm soát chất lượng và cấp phép của Bộ
Y tế, dứt khoát không để cạnh tranh không lành mạnh giữa khu vực Nhà nước và tư
nhân.

Tiến tới hình thành công nghiệp sản xuất vaccine

Bộ Y tế chủ trì phối hợp với các cơ quan, địa phương liên quan khẩn trương ban
hành, tổ chức thực hiện các biện pháp phòng, chống dịch phù hợp tại các nhà máy, khu
công nghiệp, chợ đầu mối, bảo đảm duy trì hoạt động sản xuất, kinh doanh.

Nghiên cứu, đề xuất thành lập trung tâm để chuyển giao công nghệ, nghiên cứu, sản
xuất vaccine đạt tiêu chuẩn quốc tế; xây dựng chính sách hỗ trợ đặc thù để thu hút tổ
chức, doanh nghiệp đầu tư, nghiên cứu, tiếp nhận công nghệ sản xuất vaccine, tiến tới
hình thành công nghiệp sản xuất vaccine.
Bộ Ngoại giao chủ trì, phối hợp với Bộ Y tế, Bộ Công an, Bộ Quốc phòng, Bộ Giao
thông vận tải hướng dẫn thủ tục xuất nhập cảnh, tạo thuận lợi cho các chuyên gia, tư
vấn vào Việt Nam, nhất là phục vụ các dự án đầu tư.

Giữ vững ổn định kinh tế vĩ mô, bảo đảm các cân đối lớn

Chính phủ yêu cầu Ngân hàng Nhà nước Việt Nam, Bộ Tài chính, Bộ Công Thương,
Bộ Kế hoạch và Đầu tư và các bộ, cơ quan Trung ương, địa phương theo chức năng,
nhiệm vụ được giao điều hành chính sách tiền tệ chủ động, linh hoạt, bảo đảm an toàn
hệ thống; phối hợp chặt chẽ, đồng bộ, hiệu quả các chính sách tài khóa, tiền tệ và các
chính sách khác, phù hợp với tình hình thực tiễn, góp phần ổn định kinh tế vĩ mô, kiểm
soát lạm phát, thúc đẩy tăng trưởng; kiểm soát chặt chẽ tín dụng các lĩnh vực tiềm ẩn
rủi ro; tích cực triển khai các biện pháp giám sát, kiểm soát và xử lý nợ xấu. Triệt để
tiết kiệm chi thường xuyên theo Nghị quyết số 58/NQ-CP ngày 8/6/2021 của Chính
phủ.

Theo dõi sát diễn biến tình hình, bảo đảm cân đối cung cầu hàng hóa thiết yếu, ổn
định giá cả, thị trường. Kiểm soát và có biện pháp kịp thời để đảm bảo nguồn cung và
giá cả của nguyên, nhiên, vật liệu đầu vào phục vụ sản xuất trong nước, đặc biệt là hoạt
động xây dựng, thực hiện các dự án đầu tư.

Đẩy mạnh Chương trình chuyển đổi số quốc gia, thúc đẩy hoạt động thương
mại điện tử

Về đẩy mạnh phân cấp, phân quyền, cải cách hành chính, chuyển đổi số, Chính phủ
yêu cầu các bộ, cơ quan Trung ương, địa phương tăng cường phân cấp, phân quyền đi
đôi với cá thể hóa trách nhiệm và tăng cường kiểm tra, giám sát. Đẩy mạnh cải cách,
cắt giảm ngay thủ tục hành chính, điều kiện kinh doanh, bảo đảm thực chất, hiệu quả,
tránh lãng phí thời gian, nguồn lực, tạo điều kiện thuận lợi nhất cho hoạt động sản xuất
kinh doanh.

Đẩy mạnh thực hiện Chương trình chuyển đổi số quốc gia đến năm 2025, định
hướng đến năm 2030; chủ động có giải pháp thúc đẩy, hỗ trợ người dân, doanh nghiệp
chuyển đổi số; đẩy mạnh thanh toán không dùng tiền mặt, khẩn trương triển khai thực
hiện thí điểm dịch vụ mobile money.
Bộ Công Thương chủ trì xây dựng chính sách thúc đẩy hoạt động thương mại điện
tử; có biện pháp xử lý nghiêm vi phạm, bảo đảm chất lượng hàng hóa và nâng cao
niềm tin cho người tiêu dùng.

Xử lý các điểm nghẽn trong giải ngân vốn đầu tư công

Chính phủ cũng yêu cầu các bộ, cơ quan Trung ương và địa phương tăng cường kỷ
luật, kỷ cương trong giải ngân vốn đầu tư công, đề cao vai trò, trách nhiệm người đứng
đầu; rà soát việc phân bổ kế hoạch vốn cho các dự án phù hợp với tiến độ thực hiện,
bảo đảm trọng tâm, trọng điểm, không dàn trải, manh mún, kéo dài.

Trong đó, tập trung: Đẩy nhanh tiến độ giải phóng mặt bằng, tháo gỡ kịp thời khó
khăn, vướng mắc liên quan đến đất đai, tài nguyên. Đôn đốc, đẩy nhanh tiến độ thi
công; thực hiện nghiệm thu, lập hồ sơ thanh toán ngay khi có khối lượng. Rà soát, điều
chuyển kế hoạch vốn giữa các dự án chậm giải ngân sang các dự án có tiến độ giải
ngân tốt, còn thiếu vốn. Thành lập tổ công tác thúc đẩy giải ngân vốn trong từng bộ, cơ
quan, địa phương để đôn đốc, kiểm tra, giám sát, xử lý các điểm nghẽn trong giải ngân
vốn đầu tư công. Kiểm điểm trách nhiệm của tập thể, người đứng đầu, cá nhân có liên
quan trong trường hợp không hoàn thành kế hoạch giải ngân theo tiến độ đề ra. Kiên
quyết chống trì trệ, xử lý nghiêm các trường hợp tiêu cực trong đầu tư công. Thực hiện
đấu thầu qua mạng theo quy định, bảo đảm công khai, minh bạch, lựa chọn nhà thầu đủ
năng lực. Xử lý nghiêm các trường hợp nhà thầu vi phạm tiến độ hợp đồng.

Khẩn trương ban hành chính sách hỗ trợ người dân, doanh nghiệp khó khăn do
COVID-19

Tại Nghị quyết này, Chính phủ đã giao Bộ Lao động-Thương binh và Xã hội chủ trì,
phối hợp với các bộ, ngành liên quan khẩn trương trình Chính phủ ban hành chính sách
hỗ trợ người lao động, người sử dụng lao động và các đối tượng gặp khó khăn do đại
dịch COVID-19.

Bộ Tài chính chủ trì, phối hợp với các bộ, cơ quan liên quan nghiên cứu, tiếp tục đề
xuất các giải pháp, chính sách về thuế, phí, lệ phí để hỗ trợ cho doanh nghiệp, người
dân và các đối tượng bị ảnh hưởng bởi dịch COVID-19.

Ngân hàng Nhà nước Việt Nam chủ trì, phối hợp với các bộ, cơ quan liên quan
nghiên cứu, đề xuất các chính sách, giải pháp về tín dụng để hỗ trợ cho doanh nghiệp,
người dân và các đối tượng bị ảnh hưởng bởi dịch COVID-19; chỉ đạo các tổ chức tín
dụng tiếp tục thực hiện các giải pháp tháo gỡ khó khăn, tăng cường khả năng tiếp cận
vốn cho người dân, doanh nghiệp; khuyến khích tổ chức tín dụng tiết giảm chi phí để
tiếp tục giảm lãi suất cho vay hỗ trợ sản xuất kinh doanh.

Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch chủ trì, phối hợp với các cơ quan liên quan xây
dựng chính sách kích cầu, phục hồi hoạt động du lịch, lữ hành; khẩn trương trình
Chính phủ ban hành chính sách giảm số tiền ký quỹ của các doanh nghiệp lữ hành.

3. Yếu tố truyền thống, lịch sử, văn hóa

Lịch sự phát triển của quốc gia và truyền thống, văn hóa dân tộc: Mỗi dân tộc trải
qua quá trình hình thành và phát triển lâu dài đều có những đặc điểm truyền thống, văn
hóa riêng, không giống với các dân tộc khác. Do đặc tính này mà mọi quy định để điều
tiết hành vi của các đối tượng trong xã hội phải được xây dựng phù hợp với các chuẩn
mực chung được thừa nhận trong truyền thống , văn hóa. Một hệ thống thể chế chỉ tốt
và được tự nguyện áp dụng khi nó phát huy được những ưu điểm của các giá trị truyền
thống, nhưng đồng thời cũng phải loại bỏ đi những nhược điểm của truyền thống như
những hủ tục lạc hậu, tư duy bảo thủ…

Ví dụ như giá trị phong tục văn hoá trong công sở hành chính:

Các giá trị văn hóa truyền thống tác động đến văn hóa chất lượng theo cả hai hướng
tích cực và tiêu cực:

Theo hướng tích cực: là hình thành những giá trị, chuẩn mực chân chính ở các cơ
quan hành chính như: tận tụy với nhân dân, trách nhiệm với công việc, chuyên nghiệp,
có hành vi, thái độ ứng xử đúng mực… tạo điều kiện thuận lợi cho việc xây dựng một
thế hệ trung thành với Tổ quốc. Xây dựng nên những giá trị truyền thống tốt như: Tinh
thần yêu nước, tinh thần đoàn kết, lòng tự hào dân tộc; Lòng thương yêu, quý trọng con
người, ý thức cộng đồng; Lòng dũng cảm, bất khuất, đức tính cần, kiệm, khiêm tốn,
giản dị, trung thực,…

Theo hướng tiêu cực: là những giá trị truyền thống lạc hậu, bảo thủ, không phù hợp
với bối cảnh, tình hình hiện tại như tư tưởng cục bộ, tiểu nông, bình quân chủ nghĩa…
sẽ tạo ra những lực cản trở cho cho việc xây dựng và phát triển một nền văn hóa chất
lượng, văn minh, hiện đại.
Ví dụ về truyền thống nét đẹp Việt Nam:

Ví việc rà soát thể chế, chính sách hành chính và văn hóa của Đảng và Nhà nước
trong thời gian qua có thể thấy, Việt Nam đang hình thành cơ chế chuyển hóa tài
nguyên mềm văn hóa thành sức mạnh mềm văn hóa trong các chiều tương tác quyền
lực. Các kết quả nghiên cứu gần đây của Viện Văn hóa Nghệ thuật quốc gia Việt Nam
phối hợp với Văn phòng UNESCO tại Hà Nội, các chuyên gia trong nước, quốc tế đã
bước đầu mang đến một cách hình dung phát triển các ngành công nghiệp văn hóa Việt
Nam trong giai đoạn hiện nay: Kế thừa những nhận thức sâu sắc tài nguyên văn hóa là
nguồn vốn quý giá phát triển kinh tế - xã hội, nhất là kinh tế du lịch, Đảng ta đã ban
hành Nghị quyết số 08-NQ/TW năm 2017 của Bộ Chính trị khóa XII về phát triển du
lịch trở thành ngành kinh tế mũi nhọn (Nghị quyết số 08). Văn bản này đã xác định
trách nhiệm của cả hệ thống chính trị, các cấp, các ngành, của toàn xã hội trong phát
triển du lịch bền vững, đưa ngành này trở thành ngành kinh tế mũi nhọn vừa phát huy
các di sản văn hóa và giá trị truyền thống tốt đẹp, vừa bảo vệ môi trường thiên nhiên,
bảo đảm sự hài hòa cả xã hội, việc làm, an ninh và quốc phòng.

Các nhà khoa học Việt Nam cũng cho rằng: để Việt Nam phát triển toàn diện, bền
vững trong bối cảnh hiện nay thì cải cách thể chế là vô cùng cần thiết, đó là con đường
ngắn nhất và hiệu quả nhất để tăng cường nội lực, thực hiện đoàn kết, bảo vệ đất nước,
và phát triển bền vững

Quay về lịch sử từ cuối những năm 70, khi nước ta lâm vào khủng hoảng kinh tế - xã
hội, Đảng ta, trên cơ sở tổng kết thực tiễn và những kinh nghiệm sáng tạo của nhân
dân, đã đề ra nhiều chủ trương đổi mới từng phần. Tuy vậy, những nhược điểm của mô
hình xây dựng chủ nghĩa xã hội lúc đó về căn bản chưa được khắc phục. Đất nước bị
bao vây, cấm vận. Trong quá trình thực hiện những  biện pháp cải cách, chúng ta lại
phạm một số sai lầm mới nên khủng hoảng kinh tế - xã hội diễn ra ngày càng gay gắt,
tỉ lệ lạm pháp lên đến 774,7% vào năm 1986.

Cuối năm 1986, tại Đại hội VI, với tinh thần “nhìn thẳng vào sự thật, đánh giá đúng
sự thật, nói rõ sự thật”, Đảng ta đã nghiêm khắc kiểm điểm sự lãnh đạo của mình,
khẳng định những mặt làm được, phân tích những sai lầm, khuyết điểm, đề ra đường
lối đổi mới toàn diện, mở ra bước ngoặt trong công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội ở
nước ta.
Và nhà nước ta đã có những hướng đổi mới về cải cách hành chính theo hướng giảm
bớt số nhân viên hành chính và tinh giản các thủ tục hành chính cải cách tư pháp để
tiếp cận gần hơn với nền tư pháp của thế giới; tăng cường dân chủ như lấy ý kiến nhân
dân trong quá trình lập hiến và lập pháp, tiếp xúc, đối thoại với các tầng lớp nhân dân,
minh bạch hóa các hoạt động nhà nước.

Ví dụ lịch sử như thực hiện đổi mới thể chính hành chính nhà nước Việt Nam
trong giai đoạn từ 1992 đến 1995 và đến thời điểm hiện nay:

Cải cách một bước nền hành chính nhà nước được xác định là yêu cầu bức xúc và là
trọng tâm của việc xây dựng và hoàn thiện Nhà nước, với mục tiêu xây dựng một nền
hành chính trong sạch, có đủ năng lực, sử dụng đúng quyền lực và từng bước hiện đại
hoá để quản lý có hiệu lực và hiệu quả công việc của nhà nước, thúc đẩy xã hội phát
triển lành mạnh, đúng hướng, phục vụ đắc lực đời sống nhân dân, xây dựng nếp sống
và làm việc theo pháp luật trong xã hội

Xuyên suốt các kỳ Đại hội VIII, IX, X, XI, cải cách hành chính luôn được Đảng coi
là vấn đề trọng tâm và phải được tiến hành đồng bộ trong cả hệ thống chính trị.

Nghị quyết số 38/CP năm 1994 của Chính phủ xác định cải cách thủ tục hành chính là
khâu đột phá, tập trung vào 7 lĩnh vực trọng điểm: thành lập và đăng ký kinh doanh;
đầu tư trực tiếp nước ngoài; xuất, nhập khẩu; xuất, nhập cảnh; cấp phép xây dựng và
giấy chứng nhận quyền sử dụng đất tại đô thị; cấp phát vốn ngân sách Nhà nước; khiếu
nại, tố cáo; đã góp phần giảm phiền hà cho người dân và tổ chức, phát hiện và loại bỏ,
sửa đổi nhiều thủ tục hành chính không còn phù hợp.

Kết quả cải cách hành chính đã thúc đẩy quá trình đổi mới kinh tế; dân chủ hoá đời
sống xã hội, hội nhập quốc tế,..củng cố và duy trì ổn định chính trị; phòng chống tiêu
cực, tiết kiệm, chống lãng phí.

Từ tư duy “hành là chính”, mang nặng tính quản lý, đội ngũ cán bộ, công chức, viên
chức trong hệ thống cơ quan hành chính đã có sự thay đổi căn bản trong nhận thức, tự
thay đổi, tự cải cách, chuyển sang tư duy phục vụ.
Hiệu lực và hiệu quả quản lý hành chính nhà nước của hệ thống hành chính được nâng
cao, tính thống nhất, công khai, minh bạch của nền hành chính đã được cải thiện và
bước đầu phát huy quyền làm chủ của nhân dân. Đã điều chỉnh một bước quan trọng về
chức năng, nhiệm vụ của Chính phủ, các bộ, cơ quan ngang bộ, cơ quan thuộc Chính
phủ và chính quyền địa phương các cấp để khắc phục những chồng chéo, trùng lắp
trong hoạt động của bộ máy nhà nước
Chính phủ đã tập trung chỉ đạo xây dựng và hoàn thiện thể chế về kinh tế, tổ chức và
hoạt động của hệ thống hành chính. Trong hai nhiệm kỳ Quốc hội khoá XI và khoá
XII, Chính phủ đã trình Quốc hội ban hành 148 luật, 46 pháp lệnh, mỗi năm Chính phủ
ban hành gần 200 nghị định hướng dẫn, tạo lập khuôn khổ thể chế cơ bản cho sự vận
hành nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Một loạt luật được ban hành,
như: Luật Doanh nghiệp, Luật Đầu tư, Luật Cạnh tranh, Luật Đất đai, Luật Hải quan…
đã kịp thời khắc phục tình trạng thiếu luật điều chỉnh các quan hệ kinh tế, dân sự và
nhiều lĩnh vực khác của đời sống xã hội.

Đến nay, gần 100% Bộ, ngành, địa phương đã thực hiện chế độ tự chủ, tự chịu trách
nhiệm trong sử dụng biên chế và kinh phí hành chính; các địa phương như thành phố
Hồ Chí Minh, Bình Dương triển khai thực hiện ở 100% số xã, góp phần nâng cao trách
nhiệm của thủ trưởng đơn vị và tăng cường sự giám sát của cán bộ, công chức trong sử
dụng biên chế, kinh phí để hoàn thành nhiệm vụ được giao; đồng thời, từng bước khắc
phục tình trạng cấp trên can thiệp quá sâu vào công việc của cấp dưới, cấp dưới thụ
động chờ đợi sự chỉ đạo cụ thể của cấp trên; gắn việc sử dụng kinh phí với chất lượng
và hiệu quả công việc, thúc đẩy cải cách thủ tục hành chính về phân bổ, chấp hành và
quyết toán ngân sách nhà nước, tạo tiền đề để đổi mới cơ chế quản lý tài chính theo kết
quả đầu ra.

    Và tiếp tục mục tiêu xây dựng, hoàn thiện hệ thống thể chế của nền hành chính
nhà nước, đồng bộ trên tất cả các lĩnh vực; nâng cao chất lượng thể chế kinh tế thị
trường định hướng xã hội chủ nghĩa, đồng bộ, hiện đại, hội nhập, trọng tâm là thị
trường các yếu tố sản xuất, nhất là thị trường quyền sử dụng đất, khoa học, công nghệ;
tạo được bước đột phá trong huy động, phân bổ và sử dụng có hiệu quả các nguồn lực
để thúc đẩy phát triển đất nước; tổ chức thi hành pháp luật nghiêm minh, hiệu quả,
nâng cao ý thức chấp hành pháp luật của cá nhân, tổ chức và xã hội.
 Ngày 15 tháng 7 năm 2021, Chính phủ ban hành Nghị quyết số 76/NQ-CP Ban hành
chương trình tổng thể cải cách hành chính Nhà nước giai đoạn 2021-2030. Theo đó,
giai đoạn này tập trung vào 6 nội dung, đó là: Cải cách thể chế; Cải cách thủ tục hành
chính; Cải cách tổ chức bộ máy hành chính nhà nước; Cải cách chế độ công vụ; Cải
cách tài chính công và Xây dựng, phát triển Chính phủ điện tử, Chính phủ số. Trọng
tâm cải cách hành chính 10 năm tới là: Cải cách thể chế, trong đó tập trung xây dựng,
hoàn thiện hệ thống thể chế của nền hành chính và nâng cao hiệu lực, hiệu quả tổ chức
thi hành pháp luật; xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức chuyên nghiệp, có
năng lực, phẩm chất đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ và sự phát triển của đất nước, trong đó,
chú trọng cải cách chính sách tiền lương; xây dựng và phát triển Chính phủ điện tử,
Chính phủ số.

Sau những năm thực hiện đường lối đổi mới toàn diện và 5 năm thực hiện Nghị
quyết Đại hội VII, đất nước đã vượt qua một giai đoạn thử thách gay go. Trong những
hoàn cảnh hết sức phức tạp, khó khăn, nhân dân ta không những đứng vững mà còn
vươn lên, đạt những  thắng lợi nổi bật trên nhiều mặt.

Công cuộc đổi mới trong những năm qua đã thu được những thành tựu to lớn, có ý
nghĩa rất quan trọng. Nhiệm vụ do Đại hội VII đề ra cho 5 năm 1991-1995 đã được
hoàn thành về cơ bản. Nước ta đã ra khỏi khủng hoảng kinh tế - xã hội, nhưng một số
mặt còn chưa vững chắc.
Nhiệm vụ đề ra cho chặng đường đầu của thời kỳ quá độ là chuẩn bị tiền đề cho
công nghiệp hóa đã cơ bản hoàng thành cho phép chuyển sang thời kỳ mới đẩy mạnh
công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.
Con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta ngày càng được xác định rõ hơn.
Xét trên tổng thể, việc hoạch định và thực hiện đường lối đổi mới những năm qua về
cơ bản là đúng đắn, đúng định hướng xã hội chủ nghĩa, tuy trong quá trình thực hiện có
một số khuyết điểm, lệch lạc lớn và kéo dài dẫn đến chệch hướng ở lĩnh vực này hay
lĩnh vực khác, ở mức độ này hay mức độ khác.

4. Ảnh hưởng của văn hoá bên ngoài


Các mối quan hệ quốc tế phát triển trên nhiều lĩnh vực như kinh tế, chính trị, văn hoá
giữa các nước đã ảnh hưởng đến thể chế hành chính của mỗi nước. Có nước sử dụng
những cái hay ở nước khác một cách sáng tạo để hoàn thiện thể chế hành chính của
nước mình; nhưng cũng có nước sử dụng mô hình thể chế hành chính của các nước
khác một cách rập khuôn, cứng nhắc. 
Ví dụ: Chế độ khoa cử của Trung Quốc được các nước phương Tây coi là một trong
những đặc điểm của nền văn hoá Trung Quốc. Họ đã tiếp nhận những ưu điểm của nó,
cải tiến thêm để tuyển chọn người vào trong bộ máy hành chính Nhà nước các cấp
thông qua việc thi tuyển. 
Ví dụ: Thể chế hành chính của Nhật Bản được gọi là mô hình “hỗn hợp” vì vừa chịu
ảnh hưởng của nền văn hoá phong kiến Trung Quốc, vừa chịu ảnh hưởng của các nước
như Pháp, Đức, Mỹ và lại xây dựng theo mô hình của Mỹ. Nhật Bản đã sử dụng mô
hình thể chế hành chính của Mỹ một các rập khuôn, cứng nhắc
Thể chế hành chính ở nước ta trong mấy thập kỉ qua gần như chịu ảnh hưởng nhiều
của mô hình kế hoạch hoá tập trung quan liêu bao cấp trước đây và đang dần chuyển
đổi sang mô hình phù hợp với xu thế hội nhập khu vực và quốc gia
Nước ta đã đạt được những thành tựu to lớn trong việc thực hiện đường lối “Việt
Nam muốn làm bạn với tất cả”: Quan niệm của Đảng ta về văn hoá cũng có những
bước phát triển, có vai trò to lớn trong công cuộc đổi mới. 
Chúng ta chủ trương tiếp nhận những nhân tố tiên tiến của văn hoá và thể chế hành
chính của các nước để vận dụng sáng tạo cho thể chế hành chính Nhà nước của Việt
Nam làm nền tảng cho hoạt động quản lý Nhà nước một cách hiệu quả
Ngoài ra những nhân tố khác như hoàn cảnh địa lý, những thay đổi kinh tế, chính trị
đang diễn ra trên thế giới ở những mức độ khác nhau, cũng gây ảnh hưởng tới các đặc
điểm của thể chế hành chính Nhà nước.

TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Giáo trình hành chính công của Học viện Hành Chính Quốc Gia,nhà xuất bản Khoa
Học Và Kỹ Thuật
2. http://vanban.chinhphu.vn/portal/page/portal/chinhphu/hethongvanban

3. Hành chính công (dùng cho nghiên cứu, học tập và giảng dạy sau đại học). NXB: Khoa
học và Kỹ thuật. Chủ biên: Ts. Nguyễn Ngọc Hiến
4. Https://timviec365.vn/blog/the-che-hanh-chinh-nha-nuoc-la-gi-new8761.html

5. Luật số 22/2008/QH12 của Quốc hội: LUẬT CÁN BỘ, CÔNG CHỨC
6. https://hcmcpv.org.vn/van-ban/nghi-quyet/mot-so-van-de-ve-chinh-sach-xa-hoi-giai-
doan-2012-2020-1338949675

7. https://sites.google.com/site/thietkebomayhanhchinh/bai-hoc-tu-su-khon-ngoan-cua-
singapore/vai-tro-cua-the-che/cac-yeu-to-anh-huong-toi-the-che-hanh-chinh-nha-nuoc

8. https://thuvienphapluat.vn/van-ban/bo-may-hanh-chinh/hien-phap-nam-2013-
215627.aspx

9. https://tcnn.vn/news/detail/41620/Cac-yeu-to-tac-dong-den-hieu-qua-quan-ly-nha-
nuoc-o-nuoc-ta-hien-nay.html

10. https://tuphap.hatinh.gov.vn/nghien-cuu-va-trao-doi/seo/muc-tieu-nhiem-vu-cai-cach-
the-che-cua-nen-hanh-chinh-nha-nuoc-giai-doan-20212030-11721

11. https://www.vietnamplus.vn/cai-cach-hanh-chinh-gop-phan-doi-moi-kinh-te-chong-
tieu-cuc/366599.vnp

12. https://dangcongsan.vn/tu-lieu-tham-khao-cuoc-thi-trac-nghiem-tim-hieu-90-nam-
lich-su-ve-vang-cua-dang-cong-san-viet-nam/tu-lieu-cuoc-thi/nhung-thanh-tuu-noi-bat-
cua-dat-nuoc-sau-10-nam-doi-moi-544009.html

You might also like