You are on page 1of 7

MỞ ĐẦU

Thomas đã từng viết: “Hiến pháp không phải là một đạo luật của chính quyền
nhưng là của nhân dân tạo dựng nên chính quyền và một chính quyền không có
hiến pháp là quyền lực không có quyền”. Hiến pháp là một bản văn đặt nền móng
cho một quốc gia hiện đại, là hiện thân của khế ước cơ bản giữa nhân dân và là
hình thức cao nhất của pháp luật. Thông qua hiến pháp, con người chính thức đánh
đổi quyền tự do tự nhiên để trở thành một công dân, chính thức đánh đổi một phần
quyền tự do quyết định của mình vào tay một số người cầm quyền để có sự che
chở của xã hội, đại diện bởi pháp luật. Cho đến hiện nay và tương lai sau này, nhà
nước đóng vai trò rất quan trọng trong cuộc sống của con người. Ở một phương
diện nào, nhà nước có xu hướng lạm quyền mà vi phạm đến quyền lợi cá nhân
sống trong nhà nước đó. Chính vì vậy phải có một bản văn quy định sự kiểm soát
quyền lực nhà nước.Đó là Bản Hiến pháp.Trên cơ sở đó, em đã lựa chọn đề tài làm
nổi bật vai trò của Hiến pháp trong xã hội hiện đại: “Hiến pháp là công cự để nhân
dân kiềm chế quyền lực nhà nước” để làm bài tập học kì của mình. Do kiến thức
còn hạn chế nên trong bài làm sẽ không tránh khỏi sự thiếu sót và sơ sài. Vì vậy rất
mong được sự góp ý và giúp đỡ của các thầy cô để em có thể hoàn thiện và có cái
nhìn sâu sắc hơn về đề tài này, đồng thời để rút kinh nghiệm cho các bài tập sau.
Em xin chân thành cảm ơn các thầy cô giáo trong tổ bộ môn!
NỘI DUNG
I. HIẾN PHÁP VÀ KIỂM SOÁT QUYỀN LỰC NHÀ NƯỚC
1. Kiểm soát quyền lực
Kiểm soát quyền lực là khái niệm về chính trị, pháp lý, triết học xã hội… có
hai ý nghĩa. Thứ nhất, là nói về kiểm soát tình trạng, hiện trạng của quyền lực
trong một quốc gia, một địa phương (như một bang của liên bang, một tỉnh của
một nhà nước đơn nhất). Thế giới đã từng chứng kiến việc một chính phủ mất
quyền kiểm soát, theo đó, xã hội rơi vào tình trạng lộn xộn, bạo lực vô tổ chức
bùng phát, các hoạt động (nhà trường, cảng hàng không, nhà máy, doanh
nghiệp…) rơi vào hỗn loạn. Hoặc chính quyền một địa phương bị tê liệt cần có sự
hỗ trợ của chính quyền Trung ương vì một lý do nào đó cũng liên quan đến nhận
thức về kiểm soát quyền lực. Thực tiễn đó nói lên rằng, một đất nước phát triển
bình thường thì quyền lực luôn trong tầm kiểm soát của nhà nước. Thứ hai,là nói
về quan hệ các quyền trong tổ chức nhà nước, trong hệ thống chính trị. Đây là
nghĩa chủ yếu của kiểm soát quyền lực
2. Hiến pháp
Hiến pháp là hệ thống các quy phạm pháp luật có hiệu lực pháp lí cao nhất,
quy định những vấn đề cơ bản và quan trọng nhất về chủ quyền quốc gia, chế độ
chính trị, chính sách kinh tế, văn hoá- xã hội, tổ chức quyền lực nhà nước, địa vị
pháp lí của con người và công dân.
Hiến pháp là một bản văn có nhiệm vụ kiểm soát quyền lực nhà nước. Kiểm
soát để bảo vệ nhân quyền, quyền cá nhân là mục tiêu hay còn có thể được gọi là
bản chất của Hiến pháp.Hiến pháp có đối tượng điều chỉnh ở nghĩa hẹp là quy định
chế độ chính trị. Hay nói cách khác, Hiến pháp có đối tượng điều chỉnh là việc quy
định chế độ nhà nước trong thời kì dân chủ.Điều đó nghĩa là Hiến pháp được sinh
ra trong cách mạng tư sản dân chủ, trở thành văn bản quy định chế độ nhà nước
thuộc về nhân dân
II. BIỂU HIỆN VÀ Ý NGHĨA CỦA KIỂM SOÁT NHÀ NƯỚC TRONG
HIẾN PHÁP
1. Hiến pháp ghi nhận quyền lực nhà nước được phân công phân nhiệm và tự
kiểm tra.
Nói đến kiểm soát quyền lực nhà nước thì điều quan trọng trước tiên là tổ chức
bộ máy nhà nước phải được phân công, phân nhiệm một cách đúng đắn, mạch lạc
giữa ba quyền lập, hành pháp và tư pháp. Có phân công phân nhiệm mới có sơ sở
để kiểm soát quyền lực. Nhân dân là chủ thể của quyền lập hiến, thì nhân dân là
chủ thể phân công quyền lực nhà nước. Chứ không phải là Quốc Hội chủ thể phân
công quyền lực nhà nước. Hay nói cách khác là phương tiện để giới hạn quyền lực
nhà nước. Theo nhận thức đó, trong bản Hiến pháp sửa đổi đã có một bước tiến
mới trong việc phân công quyền lực nhà nước. Lần đầu tiên trong lịch sử lập hiến
nước ta, Hiến pháp năm 1992 đã quy định quyền lực nhà nước được cấu thành từ
ba quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp (Điều 2). Nhưng Hiến pháp năm 1992 lại
chưa chỉ ra được một cách rõ ràng cơ quan nào là cơ quan lập pháp, cơ quan nào là
cơ quan hành pháp và cơ quan nào là tư pháp. Hiến pháp sửa đổi đã khắc phục
được nhược điểm đó bằng việc quy định Quốc hội là cơ quan thực hiện quyền lập
pháp, Chính phủ là cơ quan thực hiện quyền hành pháp và Tòa án nhân dân là cơ
quan thực hiện quyền tư pháp.
Một là, đối với quyền lập pháp là quyền đại diện cho nhân dân thể hiện ý chí
chung của quốc gia. Những người được nhân dân trao cho quyền này là những
người do phổ thông đầu phiếu bầu ra hợp thành cơ quan gọi là Quốc hội. Thuộc
tính cơ bản, xuyên suốt mọi hoạt động của quyền này là đại diện cho nhân dân, bảo
đảm cho ý chí chung của nhân dân được thể hiện trong các đạo luật mà mình là cơ
quan duy nhất được nhân dân giao quyền biểu quyết thông qua luật. Quyền biểu
quyết thông qua luật là quyền lập pháp, chứ không phải là quyền đưa ra các mô
hình xử sự cho xã hội. Vì vậy, quyền lập pháp không đồng nghĩa với quyền chỉ làm
ra luật. Đồng thời, là người thay mặt nhân dân giám sát tối cao mọi hoạt động của
Nhà nước, nhất là hoạt động thực hiện quyền hành pháp, để góp phần giúp cho các
quyền mà nhân dân giao cho các cơ quan nhà nước không bị lạm quyền, lộng
quyền hay bị tha hóa. Quyền hạn và nhiệm vụ của Quốc hội thực hiện quyền lập
hiến, lập pháp được quy định ở Điều 70 và Điều 120 của Hiến pháp hiện nay.
Hai là, quyền hành pháp là quyền tổ chức thực hiện ý chí chung của quốc gia
do Chính phủ đảm trách. Thuộc tính cơ bản, xuyên suốt mọi hoạt động của quyền
này là đề xuất, hoạch định, tổ chức soạn thảo chính sách quốc gia và sau khi chính
sách quốc gia được thông qua là người tổ chức thực hiện và quản lý nhà nước mà
thực chất là tổ chức thực hiện pháp luật để bảo đảm an ninh, an toàn và phát triển
xã hội. Thực tiễn cho thấy, không có một chính phủ thực hiện quyền hành pháp
một cách hữu hiệu, thông minh thì không thể có một nhà nước giàu mạnh, phát
triển ổn định cả về mặt kinh tế lẫn mặt xã hội. Thực hiện quyền này đòi hỏi Chính
phủ và các thành viên của Chính phủ cần nhanh nhạy, quyết đoán kịp thời và
quyền uy tập trung, thống nhất. Quyền hạn và nhiệm vụ của Chính phủ - cơ quan
thực hiện quyền hành pháp được quy định một cách khái quát ở Điều 96 Hiến pháp
hiện nay.
Ba là, quyền tư pháp là quyền xét xử, được nhân dân giao cho Tòa án thực
hiện. Độc lập và chỉ tuân theo pháp luật là nguyên tắc xuyên suốt và cao nhất trong
tổ chức thực hiện quyền này; nghiêm cấm cơ quan, tổ chức, cá nhân can thiệp vào
việc xét xử của thẩm phán và hội thẩm nhân dân (khoản 2, Điều 103). Đây thực
chất là quyền bảo vệ ý chí chung của quốc gia bằng việc xét xử các hành vi vi
phạm Hiến pháp, pháp luật từ phía công dân và cơ quan nhà nước. Vì vậy, bảo vệ
công lý, bảo vệ quyền con người, quyền công dân là nhiệm vụ hàng đầu của quyền
tư pháp (khoản 3, Điều 102). Mọi cơ quan, tổ chức và cá nhân có nghĩa vụ tôn
trọng, giữ gìn và bảo vệ tính pháp quyền và công lý trong các phán quyết của Tòa
án.
Việc xác nhận các cơ quan khác nhau thực hiện các quyền lập pháp, hành
pháp và tư pháp là một thay đổi quan trọng so với mô hình tập quyền Xã hội chủ
nghĩa trước đây. Nó tạo điều kiện để quy định nhiệm vụ, quyền hạn một cách đúng
đắn, mạch lạc giữa các cơ quan Quốc Hội, Chính phủ và Tòa án nhân dân trong
việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp. Đây chính là cơ sở để kiểm
soát quyền lực nhà nước, nhân dân có căn cứ để nhận xét, đánh giá hiệu lực và hiệu
quả thực hiện quyền lực nhà nước của mỗi quyền. Đồng thời khắc phục được sự
trùng lặp, dựa dẫm ỷ lại hoặc không rõ trách nhiệm trong tổ chức thực hiện quyền
lực nhà nước của mô hình tập quyền xã hội chủ nghĩa trước đây và xây dựng cơ
chế kiểm soát quyền lực nhà nước bên trong bộ máy nhà nước. Các đạo luật về tổ
chức bộ máy nhà nước như Luật Tổ chức Quốc Hội, Luật Tổ chức Chính phủ, Luật
Tổ chức Tòa án nhân dân, Luật Tổ chức Viện kiểm sát nhân dân sẽ lần lượt được
sửa đổi theo các tư tưởng mới nói trên của Hiến pháp để hình thành một cơ chế
kiểm soát quyền lực nhà nước từ bên trong bộ máy nhà nước.
2. Hiến pháp kiểm soát quyền lực nhà nước bằng việc đảm bảo cho nhân
quyền không bị vi phạm.
Nhân quyền vừa là kết quả, thước đo, vừa là động lực cho sự phát triển, ổn
định của một quốc gia văn minh. Quyền con người về chính trị, dân sự, kinh tế - xã
hội, văn hóa, đặc biệt, quyền có việc làm, thu nhập, nhà ở, học tập, được chăm sóc
sức khỏe, sống trong môi trường an toàn ngày càng trở thành những quyền cơ bản,
thiết thực và có ý nghĩa cao nhất về nhân quyền... Chính vì thế, tinh thần này được
khẳng định, trở thành điểm nhấn quan trọng trong Hiến pháp.
Trước hết cần khẳng định, một trong những vai trò quan trọng của Hiến pháp
là đề cao nhân quyền như tổng hòa quyền con người và quyền công dân, từ đó thể
chế hóa quan hệ giữa quyền lợi và nghĩa vụ công dân, đồng thời xác lập trách
nhiệm bảo đảm những quyền đó được thực hiện trên thực tế của Nhà nước. Hiến
pháp khẳng định Nhà nước Việt Nam là nhà nước pháp quyền XHCN của nhân
dân, do nhân dân, vì nhân dân; tất cả quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân; vì thế
quyền con người, quyền công dân về chính trị, dân sự, kinh tế, văn hóa, xã hội
được công nhận, tôn trọng, bảo vệ, bảo đảm theo Hiến pháp và pháp luật.
Theo Hiến pháp, nhân quyền được thể hiện, bảo đảm trước hết bởi các quyền
chính trị của công dân và dân tộc. Cụ thể: Mọi người đều bình đẳng trước pháp
luật, không ai bị phân biệt đối xử trong đời sống chính trị, dân sự, kinh tế, văn hóa,
xã hội; Mọi công dân đều có quyền bầu cử, quyền ứng cử vào Quốc hội, Hội đồng
nhân dân; quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí, tiếp cận thông tin, hội họp, lập hội,
biểu tình, quyền tham gia quản lý nhà nước và xã hội, tham gia thảo luận và kiến
nghị với cơ quan Nhà nước về các vấn đề của cơ sở, địa phương và cả nước; quyền
biểu quyết khi Nhà nước tổ chức trưng cầu ý dân; quyền khiếu nại, tố cáo với cơ
quan, tổ chức, cá nhân có thẩm quyền về những việc làm trái pháp luật của cơ
quan, tổ chức, cá nhân; quyền được xét xử kịp thời trong thời hạn luật định, công
bằng, công khai, quyền tự bào chữa, nhờ luật sư hoặc người khác bào chữa; quyền
được bồi thường thiệt hại về vật chất, tinh thần và phục hồi danh dự khi bị bắt,
giam, giữ, khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử, thi hành án trái pháp luật; Không ai bị
bắt nếu không có quyết định của Tòa án nhân dân, quyết định hoặc phê chuẩn của
Viện Kiểm sát nhân dân, trừ trường hợp phạm tội quả tang; Việc bắt, giam giữ
người do luật định. Nhà nước nghiêm cấm việc trả thù người khiếu nại, tố cáo hoặc
lợi dụng quyền khiếu nại, tố cáo để vu khống, vu cáo làm hại người khác; Các dân
tộc trên lãnh thổ Việt Nam bình đẳng, đoàn kết, tôn trọng và giúp nhau cùng phát
triển; Mọi hành vi kỳ thị, chia rẽ dân tộc đều bị nghiêm cấm; Các dân tộc có quyền
dùng tiếng nói, chữ viết, giữ gìn bản sắc dân tộc, phát huy phong tục, tập quán,
truyền thống và văn hóa tốt đẹp của mình; Nhân dân thực hiện quyền lực nhà nước
bằng dân chủ trực tiếp, bằng dân chủ đại diện thông qua Quốc hội, Hội đồng nhân
dân được bầu theo nguyên tắc phổ thông, bình đẳng, trực tiếp, bỏ phiếu kín; Công
dân Việt Nam ở nước ngoài là bộ phận không tách rời của cộng đồng dân tộc Việt
Nam, được Nhà nước bảo hộ, khuyến khích, tạo điều kiện giữ gìn và phát huy bản
sắc văn hóa dân tộc Việt Nam, giữ quan hệ gắn bó với gia đình và quê hương, góp
phần xây dựng quê hương, đất nước.
Bảo đảm nhân quyền vừa là mục đích vừa là cách thức để kiểm soát
quyền lực nhà nước. Nhà nước pháp quyền có mục tiêu đảm bảo quyền tự do
của con người, đối lập với nhà nước bạo lực. Nhà nước thừa nhận và có nghĩa
vụ đảm bảo tự do của con người. Pháp luật phải thể hiện là pháp luật của công
lý, của lý trí và phải bảo vệ quyền tự nhiên của con người. Nhà nước được
xây dựng trên nền tảng của xã hội công dân. Một xã hội mà ở đó công dân là
chủ thể, nhà nước có trách nhiệm phải phục tùng lợi ích của công dân mà
không có điều ngược lại. Pháp luật phải đứng trên nhà nước và nhà nước phải
có nghĩa vụ tuân thủ pháp luật.
3. Ý nghĩa của việc nhân dân kiểm soát quyền lực nhà nước.
Thực tế, khi đã hình thành quyền lực thì phải có sự kiểm soát quyền lực. Việc
hình thành quyền lực, dù là quyền lực của tổ chức hay là của cá nhân, thì cũng phải
được kiểm soát. Nếu quyền lực nhà nước không được kiểm soát sẽ dễ dẫn đến tình
trạng lạm quyền, lộng quyền, chuyên quyền, lợi dụng quyền lực để trục lợi, hoặc
làm sai lệch bản chất của Nhà nước pháp quyền. Tôi cho rằng, kiểm soát quyền lực
là nguyên tắc của Nhà nước pháp quyền, để các cơ quan lập pháp, hành pháp, tư
pháp thực thi có hiệu quả và hiệu lực chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn được Hiến
pháp quy định và được nhân dân ủy quyền. Mọi quyền lực thuộc về nhân dân, các
cơ quan lập pháp, tư pháp và hành pháp được nhân dân ủy quyền và được Hiến
pháp quy định, thì các quyền lực đó phải được kiểm soát chặt chẽ; tránh tình trạng
tổ chức hoặc cá nhân lợi dụng quyền lực để phục vụ cho lợi ích cá nhân, lợi ích
nhóm. Thực tế điều hành đất nước, quản lý xã hội trong thời gian qua đã cho bài
học sâu sắc: nơi nào, cấp nào thiếu vắng kiểm soát, giám sát quyền lực là nơi đó có
vấn đề về lạm quyền.
Điển hình của việc nhân dân kiểm soát quyền lực nhà nước đó là ở Việt Nam
được quy định rõ rang trong bản Hiến Pháp 2015. Tại Điều 2, Hiến pháp sửa đổi đã
khẳng định: “ bản chất của nhà nước ta là nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa
của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân”. Nhân dân là người làm chủ nhà nước.
Kiểm soát quyền lực nhà nước bắt nguồn từ nguồn gốc và bản chất của nhà nước.
Nhà nước của ai thì người đó phải là người chủ kiểm soát quyền lực nhà nước của
mình. Đây là một đòi hỏi tất yếu nảy sinh từ nhu cầu chính đáng và tự nhiên của
người chủ. Đối với quyền lực nhà nước lại càng là một đòi hỏi khách quan và cấp
thiết của người chủ là nhân dân phải kiểm soát được quyền lực nhà nước của mình.
Bởi, nếu không kiểm soát được quyền lực nhà nước thì quyền lực nhà nước sẽ bị
tha hóa, nhân dân là chủ thể giao quyền, ủy quyền sẽ bị mất quyền, bị lạm quyền từ
phía nhà nước
KẾT LUẬN
Kiểm soát quyền lực nhà nước là một vấn đề không đơn giản. Bởi vì, kiểm
soát quyền lực nhà nước, một mặt là để phòng chống sự lạm dụng quyền lực nhà
nước, nhưng mặt khác, làm sao để không phải vì kiểm soát quyền lực nhà nước mà
làm mất đi tính năng động, mềm dẻo cần phải có để tiến hành các công việc của
Nhà nước. Vì thế, vấn đề cơ bản của kiểm soát quyền lực nhà nước là làm cho bộ
máy nhà nước vừa có khả năng kiểm soát được xã hội, lại vừa không kém phần
quan trọng là buộc nhà nước phải tự kiểm soát được chính mình. Đồng thời, sự
kiểm soát quyền lực nhà nước giúp cho việc thực hiện quyền lực nhà nước một
cách thực sự rành mạch và để nhân dân thực sự là người chủ của quyền lực nhà
nước.
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Giáo trình Luật hiến pháp Việt Nam, NXB Công an nhân dân
2. Hiến pháp nước cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam (Năm
2013 – 1992 – 1980 – 1959 - 1946), NXB Lao động
3. Nguyễn Đăng Dung (2002), Hiến pháp và Bộ máy nhà nước,
NXB Giao thông Vận tải.
4. http://daibieunhandan.vn/default.aspx?tabid=76&NewsId=306
331
5. http://www.tapchicongsan.org.vn/Home/Nghiencuu-
Traodoi/2014/27784/Ve-quyen-luc-nha-nuoc-va-su-phan-cong-
phoi-hop-kiem.aspx
6. http://www.nhandan.com.vn/chinhtri/tuyentruyenhienphap/ite
m/22026802-nhan-quyen-diem-nhan-trong-hien-phap-sua-
doi.html

You might also like