You are on page 1of 21

I.

Nhà nước pháp quyền chủ nghĩa xã hội ở VN


1.Khái niệm
+ (Sơ lược) : Nhà nước pháp quyền là nhà nước thượng tôn pháp luật , nhà nước hướng
tới những vấn đề phúc lợi cho mọi người, toạ điều kiện cho cá nhân được tự do, bình
đẳng, phát huy hết năng lực của chính mình Trong hoạt động, các cơ quan của nhà nước
được phần chia quyền ẽo ràng và được mọi người chấp nhận trên nguyên tắc bình đẳng
của csc thế lực,giai cấp và tằng lớp trong xã hội .
+ Ví dụ về nhà nước pháp quyền : Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam chính
là một nhà nước pháp quyền.Tại Hội nghị lần thứ hai Ban Chấp hành Trung ương Đảng
khoá VII (ngày 29/11/1991), lần đầu tiên khái niệm “Nhà nước pháp quyền xã hội chủ
nghĩa” được nêu ra tại Việt Nam và tiếp tục được khẳng định tại Hội nghị toàn quốc giữa
nhiệm kỳ khoá VII của Đảng năm 1994... Tiếp theo là tại các Đại hội lần thứ X và XI của
Đảng đã có bước phát triển về chất trong nhận thức về xây dựng Nhà nước pháp quyền
XHCN ở nước ta.
Ngoài ra, Nước Cộng hoà xã hội chũ nghĩa VIệt Nam do nhân dân làm chủ, tất cả quyền
lực nhà nước thuộc về nhân dân mà nền tảng là liên minh giữa hai giai cấp công nhân với
giai cấp nông dân và dội ngũ tri thứ. Quyền lực nhà nước là thống nhất có sự phân công,
phối hợp, kiểm soát giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện các quyền lập pháp,
hành pháp, tư pháp.

2.Bản chất
+ Điều 2 Hiến pháp năm 2013 thể hiện bản chất của nhà nước pháp quyền :

“ Của dân, do dân, vì dân”

Tư tưởng Hồ Chí Minh về Nhà nước của dân, do dân, vì dân:

+ “Của dân”: nhân dân là chủ thể tối cao và duy nhất của quyền lực nhà nước. Toàn bộ
quyền lực nhà nước đều bắt nguồn từ nhân dân, do nhân dân uỷ quyền cho bộ máy nhà
nước thực hiện, nhằm phụng sự lợi ích của nhân dân. Bộ máy nhà nước được thiết lập là
bộ máy thừa hành ý chí, nguyện vọng của nhân dân, đội ngũ cán bộ, công chức nhà nước
không thể là các ông quan cách mạng mà là công bộc của nhân dân. Và cũng chính là nhà
nước của đan, do chính nhân dân lập thông qua chế độ bầu cử dân chủ. ( Bầu cử dân chủ
là phương thức thành lập bộ máy nhà nước đã được xác lập trong nền chính trị hiện đại,
đảm bảo tính chính đáng của chính quyền khi tiếp nhận sự uỷ quyền quyền lực từ nhân
dân.)
+ “Do dân”: Đối với Chủ tịch Hồ Chí Minh, một nhà nước của dân thực sự pjair là một
nhà nước do dân và vì dân. Bởi vì nhân dân là nguồn sức mạnh của Nhà nước,là nguồn trí
tuệ, là nguồn sáng kiến vô tận, nhà nước có chức năng khởi nguồn và phát hiện, tiếp thu
và hờn thiện sáng kiến của nhân dân để xây dựng chính sách ngày môtk hoàn thiện
hơn.Ngoài ra, một Nhà nước do dân còn là một Nhà nước biết lắng nghe và học hỏi nhân
dân, biết tôn trọng bồi dưỡng và nâng cao sức dân, thấu hiểu tâm tư, nguyện vọng, ý chí
của nhân dân.

+”Vì dân”: Tư tưởng Hồ Chí Minh về một Nhà nước vì dân, tất cả vì hạnh phúc của dân
là tư tưởng nhất quán trong suốt cuộc đời của Người. Vì thế nhân dân không chỉ nói lên
những mong muốn của mình mà còn chỉ ra được nhà nước cần phải hành động như thế
nào để giải quyết các vấn đề quốc kế dân sinh. Chình vì lẽ đó Nhà nước được thành lập
không vì mục đích làm thay cho dân, mà thực hiện vai trò người cầm lái, người tổ chức
để nhân dân bằng trí tuệ, sức mạnh của mình giải quyết các vấn đề của chính mình.
Người viết: “Nếu không có nhân dân thì Chính phủ không đủ lực lượng. Nếu không có
Chính phủ thì nhân dân không ai dẫn đường. Vậy nên Chính phủ với nhân dân phải đoàn
1
kết thành một khối” . Nhà nước của dân, do dân không có mục đích tự thân, ý nghĩa,
mục tiêu và sứ mệnh của Nhà nước là phụng sự hạnh phúc của nhân dân, vì nhân dân.

Tóm lại một Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam là nhà nước của dân, do
dân, vì dân, được xây dựng dựa tren nền tảng của khối liên minh giai cấp công nhân với
gia cấp nông dân và tầng lớp trí thức, do Đảng cộng sản Việt Nam lãnh đạo. Trong Nhà
nước đó, mọi quyền lực thuộc về nhân dân, quyên lực nhà nước là thống nhất, có sự phân
công và phối hợp giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiền quyền lập pháp, hành
pháp và tư pháp.

3.Giá trị
Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam tồn tại, vận động và phát triển thông
qua các giá trị của nó. Giá trị của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam là
phẩm chất cao cả, có ý nghĩa mang tính mục tiêu, quan điểm, làm nền tảng chi phối quá
trình xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Đó là các
giá trị cốt lõi: chủ quyền nhân dân; quyền lực nhà nước là thống nhất; phân công và kiểm
soát quyền lực nhà nước; công bằng, công lý, quyền con người, quyền công dân; thượng
tôn pháp luật; giá trị tối cao của Hiến pháp
4.Đặc điểm
- Thứ nhất là xây dựng nhà ước do nhân dân lao dộng làm chủ, đó là Nhà nước của
dân, do dân, vì dân.
Của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân: Nhà nước Việt Nam hiện nay là nhà nước của
dân, do chính nhân dân lập qua thông qua chế độ bầu cử dân chủ. Tư tưởng về một nhà
nước của dân, do dân, vì dân đã được thể chế hoá thành một mục tiêu hiến định ngay
trong bản Hiến pháp đầu tiên của chính thể dân chủ cộng hoà ở nước ta - Hiến pháp 1946:
“Xây dựng một chính quyền mạnh mẽ và sáng suốt của nhân dân” (Lời nói đầu - Hiến
pháp 1946). Đặc điểm này của Nhà nước ta tiếp tục được khẳng định trong các bản Hiến
pháp 1959, 1980 và 1992.
Ví dụ: mọi công dân được sinh ra, lớn lên ở Việt Nam đều có quyền như nhau. Gồm
quyền tự do ngôn luận, quyền bình đẳng, quyền bầu cử cũng như ứng cử, quyền và nghĩa
vụ lao động, học tập,… Mà không ai có quyền ngăn cấm, các chính sách được nhà nước
ban hành đều mang những lợi ích tốt đẹp cho nhân dân.
- Thứ hai là Nhà nước được tổ chức và hoạt động dựa trên các cơ sở Hiến pháp và
pháp luật. Trong tất cả các hoạt động xã hội, pháp luật được đặt ở vị trí tới thượng
để điều chỉnh các quan hệ xã hội
Đây là nguyên tắc tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước ta, vừa là quan điểm chỉ
đạo tiếp tục thực hiện việc cải cách bộ máy nhà nước. “ Quyền lực nhà nước là thống
nhất có sự phân công và phố hợp giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện quyền
lập pháp, hành pháp, tư pháp. Đó là hai mặt của một vấn đề trong tổ chức, xây dựng nhà
nước”. Quốc hôi luôn được xác định là cơ quan đại biểu cao nhất của nhân dân, cơ quan
quyền lực nhà nước cao nhất, cơ quan duy nhất có quyền lập hiến và lập pháp, quyết định
nhưng vấn đề cơ bản, quan trọng của đất nước.
Ví dụ: Để ban hành một văn bản pháp luật, cần có sự phối hợp, kết hợp,  kiểm tra, giám
sát giữa rất nhiều cơ quan như Quốc Hội, Tòa án, Viện kiểm sát và đông đảo quần chúng
nhân dân. Sau khi văn bản pháp luật đã được phê duyệt và thống qua, được ban hành thì
cần có hệ thống các văn bản khác kèm theo để giải thích, hướng dẫn thực hiện sao cho
thống nhất. Ngay cả các văn bản kèm theo này cũng có sự kết hợp của nhiều cơ quan
hữu quan
- Thứ ba là quyền lực nhà nước là thống nhất, có sự phân công rõ ràng, có cơ chế
phối hợp nhịp nhàng và kiểm soát giữa các cơ quan, lập pháp, hành pháp và tư
pháp
Quyền con người là tiêu chí đánh giá tính pháp quyền của chế độ nhà nước. Mọi hoạt
động của Nhà nước đều phải xuất phát từ sự tôn trọng và đảm bảo quyền con người, tạo
mọi điều kiện cho công dân thực hiện quyền của mình theo đúng các quy định của luật
pháp. Mới quan hệ giứa cá nhân và nhà nước được xác định chặt chẽ về phương diện
pháp luật và mang tính bình đẳng.
- Thứ tư: Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam phải do Đảng Cộng sản
Việt Nam lãnh đạo, phù hợp với Điều 4 Hiến pháp năm 2013. Hoạt động của Nhà
nước được giám sát bới nhân dân với phương châm “Dân biết, dân bàn, dân làm,
dân kiểm tra” thông qua các tổ chức chá nhân được nhân dân uỷ nhiệm.
Đặc trưng này thể hiện tính đặc thù của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt
Nam, gắn với hệ thống chính trị Việt Nam, là sự thể hiện sinh động việc vận dụng sáng
tạo của Đảng và Nhà nước ta. Thêm vào đó đặc trưng này còn đòi hỏi phải tiếp tục hoàn
thiện cơ chế phân công, phối hợp, kiểm soát giữa các cơ quan trong việc thực hiện các
quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp theo hướng xác định rõ ràng.
Ví dụ: Việc giám sát của Mặt trận tổ quốc là để đảm bảo: “dân biết, dân bàn, dân làm và
dân kiểm tra”, hay thực hiện Pháp lệnh dân chủ ở xã, phường, thị trấn…đều do Đảng
lãnh đạo
- Thứ năm là Nhà nước pháp quuyền xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam tôn trong quyền
con người, coi con người là chủ thể, là trung tâm của sự phát triển
Quyền dân chủ nhân dân được thực hành một cách rộng rãi, “nhân dân có quyền bẩu cử
và bãi miễn những đại biểu không xứng đáng” .Đặc trưng này thể hiện tính phổ biến của
Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam, được ghi nhận trong các văn kiện của
Đảng, Hiến pháp và pháp luật Việt Nam.  Xây dựng và thực hiện pháp luật để khẳng
định, hiện thực hóa các giá trị, đặc trưng, nguyên tắc, nội dung của Nhà nước pháp quyền
xã hội chủ nghĩa Việt Nam trong đời sống xã hội và Nhà nước.
Ví dụ: quyền sở hữu, quyền làm việc, quyền được bảo vệ sức khỏe; quyền học tập, quyền
tự do tôn giáo,...đều là quyền con người và được nhà nước tôn trọng
- Thứ sáu là tổ chứ và hoạt dộng của bộ máy nhà nước theo nguyên tắc tập trung
dân chủ, có sự phân công, phân cấp, phối hợp và kiểm soát lẫn nhau, nhưng đảm
bảo quyền lực là thông nhất và sự chỉ đạo thống nhất cảu Trung ương.
Đây là đặc trưng phổ biến, cốt lõi, được cộng đồng quốc tế thừa nhận như một giá trị
không thể thiếu được của Nhà nước pháp quyền. Đây cũng là điều kiện tiên quyết để Nhà
nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam thực hiện chức năng quan trọng của mình:
thực hiện pháp luật công bằng, khách quan, nghiêm minh, nhất quán, bảo vệ hiệu quả các
quyền con người, quyền công dân, duy trì và bảo vệ công lý. Thêm vào đó, Nhà nước
pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam mang bản chất giai cấp công nhân, phục vụ lợi
ích cho nhân dân; nhà nước là công cụ chủ yếu để Đảng Cộng sản Việt Nam định hướng
đi lên chủ nghĩa xã hội.
II.phát huy tính dân chủ, xây dựng nn pháp quyền xhcn ở VN hiện nay
1. phát huy tính dân chủ
a)Kn dân chủ
Dân chủ là chế độ chính trị trong đó toàn bộ quyền lực Nhà nước thuộc về nhân dân, do
dân thực hiện trực tiếp hoặc thông qua đại diện do dân bầu ra; là hình thức tổ chức thiết
chế chính trị của xã hội dựa trên việc thừa nhận nhân dân là nguồn gốc của quyền lực,
thừa nhận nguyên tắc bình đẳng, tự do và quyền con người.
Dân chủ xã hội chủ nghĩa là bản chất của chế độ chính trị do Đảng Cộng sản Việt Nam
lãnh đạo, vừa là mục tiêu, vừa là động lực của sự phát triển đất nước
Ví dụ: Công dân đủ 18 tuổi trở lên đều được đi bầu cử, nhân dân được tư do sinh sống,
kinh doanh, học tập trong phạm vi cho phép của pháp luật
b.Phát huy dân chủ xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam hiện nay
/Hạn chế
Nhận thức về dân chủ và xây dựng nền dân chủ xã hội chủ nghĩa còn hạn chế, chưa đầy
đủ và hệ thống, chưa lý giải và làm sáng tỏ kịp thời nhiều vấn đề do thực tiễn đặt ra, chưa
giải quyết tốt mối quan hệ giữa dân chủ và kỷ luật, kỷ cương; chưa coi trọng đúng mức
phát triển các hình thức dân chủ trực tiếp
-Dân chủ trong đảng:
Công tác tư tưởng còn thiếu sắc bén, thiếu sức thuyết phục, tính chiến đấu còn hạn chế,
chưa sâu sát thực tế, chưa linh hoạt. Tình trạng suy thoái của một bộ phận không nhỏ cán
bộ đảng viên về chính trị, tư tưởng, đạo đức, lối sống một phần là do công tác tư tưởng
chưa làm tốt chức năng, nhiệm vụ giáo dục chính trị và tư tưởng. Các thông tin chưa
được cung cấp thường xuyên để dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra. Công tác tổ
chức, cán bộ vẫn chậm được đổi mới, còn một số biểu hiện trì trệ, yếu kém, bất cập. Tổ
chức bộ máy của hệ thống chính trị có quá nhiều đầu mối, trách nhiệm tập thể và cá nhân
không rõ ràng, chất lượng hoạt động và hiệu quả thấp Công tác kiểm tra, giám sát của
Đảng còn nhiều hạn chế, đặc biệt là chưa thực hành đầy đủ dân chủ trong công tác này.
Hầu hết các vụ tham nhũng, tiêu cực không phải do cấp ủy, tổ chức đảng, cơ quan kiểm
tra phát hiện được mà chủ yếu do nhân dân phát hiện, tố cáo hoặc báo chí nêu
-Dân chủ trong nn:
Dân chủ trong Nhà nước vẫn còn những hạn chế nhất định. Quyền lực nhà nước là của
nhân dân giao cho các cơ quan nhà nước, giao cho những con người cụ thể, mà ở con
người cụ thể khi các dục vọng, thói quen nổi lên thì khả năng sai lầm trong việc thực thi
quyền lực càng lớn. Không thể khẳng định người được ủy quyền luôn làm đúng, làm đủ
những gì mà nhân dân ủy quyền. Vì vậy, phải kiểm soát quyền lực nhà nước để hạn chế
sự lộng quyền, lạm quyền Nhà nước còn chậm thể chế hóa các chủ trương của Đảng về
dân chủ thành pháp luật, thành quy chế, nên các chủ trương của Đảng đi vào cuộc sống
rất chậm làm ảnh hưởng đến sự phát triển của đất nước
-Dân chủ trong xã hội:
nhận thức về dân chủ trong một bộ phận cán bộ, đảng viên và nhân dân còn nhiều hạn
chế, nên thiếu trách nhiệm trong việc triển khai thực hiện dân chủ ở cơ sở. nhiều chủ
trương về thực hành dân chủ trong xã hội chưa được thể chế hóa, nên chủ trương thì đúng
và hay, nhưng thực tế thực hành dân chủ trong xã hội chưa tốt, quyền làm chủ của nhân
dân chưa được tôn trọng và phát huy đầy đủ việc giải quyết yêu cầu phát huy dân chủ, tự
do ngôn luận, lắng nghe các ý kiến khác biệt, tư duy phản biện trong xã hội với việc giữ
vững kỷ luật, kỷ cương, phép nước còn nhiều bất cập chưa có cơ chế bảo đảm để nhân
dân thực hiện vai trò chủ thể của quyền lực, trên thực tế, quyền lực vẫn thuộc về các cơ
quan nhà nước. Việc nhân dân giám sát chính quyền cũng chưa có cơ chế rõ ràng, trên
thực tế, việc giám sát này còn rất mờ nhạt.
/Nguyên nhân:
-Thứ nhất, vấn đề dân chủ ở nước ta còn chưa được giải quyết tốt cả về lý luận lẫn thực
tiễn, nhiều vấn đề đặt ra chưa được giải quyết rõ ràng
-Thứ hai, việc thực hành dân chủ trong Đảng và trong Nhà nước của chúng ta chưa tốt
nên ảnh hưởng đến thực hành dân chủ trong xã hội, Đảng chưa nêu được tấm gương về
thực hành dân chủ.
-Thứ ba, Nhà nước pháp quyền đang trong giai đoạn hình thành cho nên việc thể chế hóa
các chủ trương của Đảng về dân chủ chưa kịp thời.
/c)Giải pháp phát huy dân chủ xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam
Mở rộng và phát huy dân chủ xã hội chủ nghĩa là một trong những mục tiêu và hoạt động
xuyên suốt của Đảng Cộng sản và Nhà nước Việt Nam kể từ khi bắt đầu công cuộc đổi
mới. Cốt lõi tư tưởng của Đảng về mở rộng và phát huy đân chủ xã hội chủ nghĩa thể
hiện ở việc hoàn thiện và hiện thực hóa cơ chế bảo đảm dự tham gia có hiệu quả của mọi
tầng lớp nhân dân vào tất cả các quá trình xây dựng, tôe chức thực hiện và giám sát thực
hiện các đường lối, chủ trương, chính sách và quy định pháp luật của Đảng và Nhà nước
trên mọi lĩnh vực
Một là, xây dựng, hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa tạo
ra cơ sở kinh tế vững chắc cho xây dựng dân chủ xã hội chủ nghĩa.
Trước hết cần thể chế hóa quan điểm của Đảng về phát triển đa dạng các hình thức sở
hữu, thành phần kinh tế; bảo hộ các quyền và lợi ích hợp pháp của chủ sở hữu tài sản
thuộc các hình thức sở hữu trong nền kinh tế. Xây dựng, hoàn thiện luật pháp về sở hữu
đối với các tài sản mới như sở hữu trí tuệ, cổ phiếu, trái phiếu… quy định rõ, quyền trách
nhiệm của các chủ sở hữu đối với xã hội. Cùng với đó là có nhận thức đúng đắn về vai trò
quan trọng của thể chế, xây dựng và hoàn thiện thể chế phải được tiến hành đồng bộ cả
ba khâu: Ban hành văn bản, quy định của thể chế; xây dựng cơ chế vận hành, thực thi thể
chế trong hoạt động kinh doanh cụ thể; hoàn thiện tổ chức bộ máy theo dõi, giám sát việc
thi hành thể chế, xử lý vi phạm và tranh chấp trong thực thi thể chế. Tập trung cải cách
hành chính, từ bộ máy hành chính đến thủ tục hành chính. Đồng thời, phải phát triển
đồng bộ các yếu tố thị trường và các loại thị trường. Hình thành việc rà soát, bổ sung,
hoàn thiện các quy định pháp luật về kinh doanh phù hợp với Việt Nam.
Hai là, xây dựng Đảng Cộng sản Việt Nam trong sạch , vững mạnh với tư cách điều kiện
tiên quyết để xây dựng nền dân chủ xã hội chủ nghĩa Việt Nam.
Để đảm bảo vai trò lãnh đạo của mình, Đảng phải vững mạnh về chính trị, tư tưởng và tổ
chức; thường xuyên tự đổi mới, tự chỉnh đốn, ra sức nâng cao trình độ trí tuệ, bản lĩnh
chính trị, phẩm chất đạo đức và năng lực lãnh đạo. Đảng phải dân chủ hóa trong sinh
hoạt, thực hiện nguyên tắc tập trung dân chủ, tự phê bình và phê bình. Có như vậy, Đảng
mới đảm bảo sự lãnh đạo trong sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội và xây dựng nền
dân chủ xã hội chủ nghĩa.
Ba là, xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa vững mạnh với tư cách điều kiện
để thực thi dân chủ xã hội chủ nghĩa.
Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở nước ta đặt dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng
sản Việt Nam phải thực thi quyền dân chủ của nhân dân trên tất cả mọi lĩnh vực của đời
sống xã hội, thể hiện bằng Hiến pháp và pháp luật. Nhà nước phải đảm bảo quyền con
người là giá trị cao nhất. Chính vì vậy, tất cả các chính sách, pháp luật đều phải dựa vào ý
chí, nguyện vọng của nhân dân. Nhà nước đảm bảo quyền tự do của công dân, đảm bảo
danh dự, nhân phẩm, quyền và lợi ích hợp pháp của công dân bằng pháp luật và trên thực
tế đời sống xã hội
Bốn là, nâng cao vai trò của các tổ chức chính trị - xã hội trong xây dựng nền dân chủ xã
hội chủ nghĩa.
Các tổ chức chính - xã hội ở nước ta cần phải đổi mới mạnh mẽ phương thức hoạt động
để nâng cao vị trí, vai trò của mình, để tham gia giám sát, phản biện đường lối, chính
sách, pháp luật của Đảng và Nhà nước. Tạo ra khối đoàn kết toàn dân, chăm lo đời sống
nhân dân, thực hiện dân chủ trong đời sống xã hội. Đồng thời tham gia vào bảo vệ chính
quyền, xây dựng Đảng, bảo vệ quyền lợi chính đáng của nhân dân.
Năm là, xây dựng và từng bước hoàn thiện các hệ thống giám sát, phản biện xã hội để
phát huy quyền làm chủ của nhân dân.
Tăng cường công tác giám sát, phản biện xã hội là yếu tố đảm bảo xây dựng nền dân chủ
xã hội chủ nghĩa ở nước ta, nó ảnh hưởng tới đời sống tâm lý của nhân dân khi nhìn nhận
đánh giá các chủ trường, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước. Do
đó, cần công khai hóa, minh bạch hóa, dân chủ hóa về thông tin, về chủ trương, chính
sách của Đảng và Nhà nước, đặc biệt là các vấn đề liên quan đến lợi ích chính đáng của
nhân dân. Cần cụ thể hóa hơn nữa các quy chế và hình thức thể hiện sự tôn trọng, lắng
nghe ý kiến của nhân dân đối với các vấn đề phát triển của đất nước.
Ngoài ra cần nâng cao dân trí, văn hóa pháp luật cho toàn thể xã hội (cán bộ đảng viên,
công chức, viên chức, nhân dân…).
/Liên hệ sinh viên:
Là công dân nói chung và là sinh viên nói riêng, bản thân mỗi người đều có quyền lợi và
nghĩa vụ phát huy tính dân chủ. Sinh viên cần:
- Tích cực tuyên truyền, phổ biến pháp luật đến người thân, bạn bè, đồng nghiệp, bảo
đảm rằng người thân của mình cũng tôn trọng và thực hiện nghiêm chỉnh các quy định
của pháp luật.
- Đồng tình ủng hộ, tích cực hưởng ứng mạnh mẽ, hiểu pháp luật để sống đúng, sống
hạnh phúc và hành động trong khuôn khổ pháp luật: “Sống, làm việc theo Hiến pháp và
Pháp luật”
- Tập trung vào giáo dục, xây dựng đạo đức cách mạng, lối sống lành mạnh cho mọi sinh
viên. Lấy việc xây dựng lối sống “cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư” theo tư tưởng,
đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh
III.XÂY DỰNG
1.THỰC TRẠNG
a)BỘ MÁY NHÀ NƯỚC

 Thành tựu
Với thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám năm 1945, Đảng Cộng sản Việt Nam, chính
đảng đã chèo lái con thuyền cách mạng Việt Nam ngay từ khi ra đời đã trở thành đảng
cầm quyền. Nhờ đó, các cơ sở, thể chế cầm quyền, điều kiện bảo đảm cho sự cầm quyền
và năng lực lãnh đạo, cầm quyền của Đảng ngày càng được củng cố, với những thành tựu
nổi bật sau đây:
Thứ nhất, Đảng thống nhất lãnh đạo trực tiếp, tuyệt đối, về mọi mặt đối với lực lượng vũ
trang nhân dân
Thứ hai, Đảng thống nhất lãnh đạo công tác tổ chức, cán bộ và quản lý đội ngũ cán bộ
của cả hệ thống chính trị, các tập đoàn kinh tế, doanh nghiệp nhà nước, các đơn vị sự
nghiệp công lập
Thứ ba, Đảng thống nhất lãnh đạo công tác tư tưởng đối với hệ thống chính trị và toàn xã
hội

 Hạn chế
Bên cạnh những thành công và những thắng lợi, thành tựu là cơ bản, phương thức lãnh
đạo, cầm quyền của Đảng còn một số hạn chế, bất cập, cần được nhận diện một cách
nghiêm túc, khoa học.
Thứ nhất, hạn chế, bất cập trong nhận thức lý luận về đảng cầm quyền, nội dung, phương
thức cầm quyền của Đảng.
Thứ hai, hạn chế, bất cập trong xây dựng chủ trương, nghị quyết của Đảng.
Thứ ba, hạn chế, bất cập trong công tác tư tưởng, lý luận của Đảng.
b)HỆ THỐNG PHÁP LUẬT
 Thành tựu
Sau hơn 70 năm hình thành và phát triển, hệ thống pháp luật Việt Nam đã từng bước
được hoàn thiện. Pháp luật trở thành công cụ chủ yếu để quản lý nhà nước, quản lý xã
hội. Đặc biệt sau gần 30 năm tiến hành sự nghiệp đổi mới dưới sự lãnh đạo của Đảng,
Nhà nước ta đã từng bước xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật, góp phần quan
trọng vào việc hình thành và phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa, từng bước hoàn thiện hệ thống chính trị, tạo môi trường pháp lý cho việc hội nhập
quốc tế. Hệ thống pháp luật nước ta ngày càng phát triển cân đối hơn trên phương diện
cấu trúc và phương diện nguồn của pháp luật.

 Hạn chế
Các nhược điểm của hệ thống pháp luật nước ta
Tính thống nhất của hệ thống pháp luật không cao: Hệ thống văn bản quy phạm pháp luật
đa dạng về hình thức, đồ sộ về số lượng, không được thường xuyên rà soát, hệ thống hoá
khiến người dân rất khó tiếp cận, tìm hiểu và tuân thủ đúng yêu cầu của pháp luật.
Tính toàn diện, đồng bộ, cân đối của hệ thống pháp luật tuy có cải thiện nhưng vẫn còn
sự chênh lệch lớn về số lượng văn bản và mức độ hoàn thiện của pháp luật trong các lĩnh
vực khác nhau
c)DÂN CHỦ HÓA ĐỜI SỐNG

 Thành tựu
Là một trong những đặc trưng thể hiện bản chất của chế độ, dân chủ xã hội chủ nghĩa
được hiểu trên một số khía cạnh như sau:
Thứ nhất, xét về bản chất, dân chủ xã hội chủ nghĩa là chế độ quyền lực thuộc về nhân
dân, do nhân dân quản lý và điều hành xã hội.
Thứ hai, dân chủ xã hội chủ nghĩa là mục tiêu, là động lực và đặc trưng cơ bản nhất cấu
thành nên mô hình phát triển xã hội ở Việt Nam.
Thứ ba, dân chủ xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam được tổ chức chặt chẽ, có sự phân công,
phối hợp thực hiện giữa các cơ quan, đơn vị, các tổ chức cấu thành nên nó.

 Hạn chế
Trong so sánh với nhu cầu khách quan của sự phát triển đất nước, thực trạng dân chủ ở
Việt Nam vẫn còn nhiều hạn chế, yếu kém, cả ở việc nhận thức, thực hành và phát huy
dân chủ và cả ở việc giám sát và phản biện xã hội.
- Thực hiện dân chủ còn nhiều khiếm khuyết hay hạn chế, tức dân chủ chưa thật sự và
chưa đầy đủ, thì chắc chắn đó sẽ là một trở ngại đối với sự phát triển hoặc khiến sự phát
triển rơi vào tình trạng kém bền vững. Đó còn là một sự lãng phí nguồn lực nội sinh, bởi
không dân chủ hoặc thiếu dân chủ thì không thể mở rộng cơ hội để huy động một cách
triệt để, hiệu quả các nguồn lực, trước hết là trí tuệ của toàn Đảng, toàn dân tham gia vào
sự phát triển. Không chỉ vậy, sự hạn chế về dân chủ còn khiến sức mạnh bảo vệ Tổ quốc,
đặc biệt là sức mạnh tinh thần và văn hóa khó tránh khỏi bị phân tán, lãng phí.
d)MỐI QUAN HỆ GIỮA NHÀ NƯỚC VÀ CÔNG DÂN

 Thành tựu
Mặc dù ra đời trước thời kỳ đổi mới đất nước, nhưng bước sang giai đoạn xây dựng
NNPQ XHCN, thực hiện nền kinh tế thị trường định hướng XHCN và hội nhập quốc tế,
mối quan hệ giữa Nhà nước và công dân (NNVCD) mới có nhiều thay đổi và được xem
là một trong những mối quan hệ vô cùng quan trọng, được nhận thức rõ và sâu sắc hơn.
Đó là quan hệ thống nhất về quyền và nghĩa vụ pháp lý, được khẳng định dưới dạng các
quy phạm Hiến pháp, hơn nữa còn được cụ thể hóa thông qua các quan hệ pháp luật
khác.

 Hạn chế
Trong bối cảnh hiện nay, đặc biệt với sự phát triển mạnh mẽ của nền kinh tế thị trường,
việc giải quyết mối quan hệ bình đẳng giữa NNVCD đang nảy sinh nhiều vấn đề phức
tạp hơn. Chẳng hạn, quá trình giải phóng mặt bằng, thu hồi, đền bù quyền sử dụng đất,
vấn đề môi trường… đang diễn ra rất phức tạp. Đây là nội dung cần giải quyết triệt để
trong mối quan hệ giữa Nhà nước – Doanh nghiệp – Công dân, nhưng trên thực tế, pháp
luật đã không theo kịp sự phát triển kinh tế – xã hội, đôi khi còn lạc hậu.
e)ĐẢNG VÀ NHÀ NƯỚC TRONG CÔNG CUỘC PHÒNG CHỐNG COVID 19

 Thành tựu
- Thích ứng an toàn, linh hoạt, kiểm soát dịch hiệu quả: Chính phủ đã chủ động, khẩn
trương, kịp thời ban hành trên 100 văn bản (bao gồm các nghị quyết, chỉ thị, công
điện, công văn...) để đáp ứng yêu cầu cấp bách trong phòng, chống dịch với mục tiêu
bảo đảm sức khỏe, tính mạng của nhân dân lên trên hết và trước hết.
- Về công tác y tế: Chính phủ đã kịp thời chỉ đạo ngành y tế phối với các bộ, ngành
khác để triển khai nhiều giải pháp nhằm bảo đảm có đủ nguồn vaccine tiêm cho nhân
dân trong điều kiện nguồn cung cấp vaccine rất khan hiếm.
- Về an sinh xã hội: Công tác bảo đảm an sinh xã hội, bảo đảm lương thực, thực phẩm
đã được Chính phủ chỉ đạo và tổ chức thực hiện kịp thời thông qua việc triển khai các
chính sách hỗ trợ người lao động, người sử dụng lao động gặp khó khăn do đại dịch
COVID-19 theo các nghị quyết, quyết định của Quốc hội, Ủy ban Thường vụ Quốc
hội, Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ. Qua đợt dịch lần thứ 4, nhiều trường hợp tử
vong do dịch bệnh bùng phát mạnh, đặc biệt là ở các tỉnh, thành phố khu vực phía
nam, Chính phủ đã chỉ đạo xây dựng chính sách hỗ trợ cho trẻ mồ côi do dịch bệnh
COVID-19.
2.Định hướng tiếp tục xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa
kiến tạo phát triển, liêm chính, hành động trong thời gian tới
Đại hội XIII của Đảng đã đề ra các định hướng tiếp tục xây dựng và hoàn thiện Nhà nước
pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở nước ta trong thời gian tới, trong đó có những điểm mới
so với trước đây.
Một là, xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩ dưới sự lãnh đạo của Đảng:
- Trước hết, Đại hội XIII của Đảng xác định tiếp tục xây dựng và hoàn thiện Nhà nước
pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân do Đảng lãnh
đạo là nhiệm vụ trọng tâm của đổi mới hệ thống chính trị. Định hướng chung là:
“Nâng cao năng lực, hiệu lực, hiệu quả hoạt động của Nhà nước. Xác định rõ hơn vai
trò, vị trí, chức năng, nhiệm vụ và quyền hạn của các cơ quan nhà nước trong việc
thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp trên cơ sở các nguyên tắc pháp
quyền, bảo đảm quyền lực nhà nước là thống nhất, có sự phân công rành mạch, phối
hợp chặt chẽ và tăng cường kiểm soát quyền lực nhà nước. Xây dựng hệ thống pháp
luật đầy đủ, kịp thời, đồng bộ, thống nhất, khả thi, công khai, minh bạch, ổn định, lấy
quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của người dân, doanh nghiệp làm trọng tâm
thúc đẩy đổi mới sáng tạo, bảo đảm yêu cầu phát triển nhanh, bền vững”.
Hai là, cải cách thể chế và phương thức hoạt động của nhà nước
- Đối với việc xây dựng và hoàn thiện thiết chế Quốc hội, cần phải: “Tiếp tục đổi mới
tổ chức và hoạt động của Quốc hội, bảo đảm Quốc hội thực sự là cơ quan đại biểu
cao nhất của nhân dân, cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất”(8) theo các định hướng
cụ thể và có nhiều điểm mới. Trước hết, hoạt động cơ bản của Quốc hội là hoạt động
nghị trường, vì thế đổi mới phương thức hoạt động của Quốc hội, nâng cao chất
lượng và hiệu quả hoạt động nghị trường là nhiệm vụ hàng đầu của đổi mới Quốc
hội. Trong đó chủ yếu là phát huy dân chủ và pháp quyền trong việc thực hiện các
chức năng lập pháp, giám sát tối cao và quyết định các vấn đề trọng đại của đất nước.
Ba là, xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức trong sạch và có chất lượng
- Văn kiện Đại hội XIII của Đảng nhấn mạnh: “Tập trung xây dựng đội ngũ cán bộ,
công chức, viên chức có tính chuyên nghiệp cao, có năng lực sáng tạo dựa trên cơ chế
cạnh tranh về tuyển dụng, chế độ đãi ngộ và đề bạt; có phẩm chất đạo đức tốt và bản
lĩnh chính trị vững vàng”. Tăng cường kỷ luật, kỷ cương đi đôi với cải cách tiền
lương, chế độ chính sách đãi ngộ, tạo môi trường điều kiện để thúc đẩy đổi mới, sáng
tạo, phục vụ phát triển; xây dựng cơ chế lựa chọn, đào tạo, thu hút, trọng dụng nhân
tài, khuyến khích bảo vệ cán bộ dám nghĩ, dám nói, dám làm, dám chịu trách nhiệm,
dám đổi mới sáng tạo, dám đương đầu với khó khăn, thử thách và quyết liệt trong
hành động vì lợi ích chung. Có cơ chế sàng lọc, thay thế kịp thời những người không
hoàn thành nhiệm vụ, vi phạm pháp luật, đạo đức công vụ, đạo đức nghề nghiệp.
Bốn là, đấu tranh phòng chống tham nhũng, lãng phí, thực hành và tiết kiệm.
- Đảng và Nhà nước ta chủ trương: Tiếp tục hoàn thiện các thể chế và đẩy mạnh cải
cách hành chính phục vụ nhiệm vụ, phòng, chống tham nhũng, lãng phí, xây dựng và
hoàn thiện cơ chế khuyến khích và bảo vệ những người đấu tranh chống tham nhũng;
xây dựng các chế tài để xử lý các cá nhân và tổ chức vi phạm; động viên và khuyến
khích toàn Đảng; toàn dân thực hành tiết kiệm.
3.Trách nhiệm của sinh viên trong việc xây dựng nhà nước pháp quyền xhcn ở nước
ta hiện nay
Nhà nước pháp quyền XHCHVN là nhà nước của dân, do dân, vì dân, thế nên mọi người
dân đều có trách nhiệm xây dựng nhà nước, sinh viên cũng không ngoại lệ. vậy là sinh
viên chúng ta cần làm gì?
- Gương mẫu chấp hành chính sách, pháp luật và thực hiện nghĩa vụ công dân.
- Tham gia giữ gìn trật tự, an toàn xã hội, quốc phòng, an ninh quốc gia.
- Chủ động đề xuất ý tưởng, sáng kiến trong quá trình xây dựng chính sách, pháp luật;
tham gia quản lý nhà nước và xã hội.
- Tích cực tham gia tuyên truyền, vận động Nhân dân thực hiện Hiến pháp và pháp luật.
- Xây dựng các mô hình sản xuất, kinh doanh tạo việc làm; tham gia bảo vệ môi trường
và các hoạt động vì lợi ích của cộng đồng, xã hội.
- Tích cực tham gia hoạt động chăm sóc, giáo dục và bảo vệ trẻ em.
- Phát huy truyền thống dựng nước và giữ nước của dân tộc; xung kích, sáng tạo, đi đầu
trong công cuộc đổi mới, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.
- Sẵn sàng bảo vệ Tổ quốc, bảo vệ độc lập, giữ vững chủ quyền, an ninh quốc gia, thống
nhất và toàn vẹn lãnh thổ; đảm nhận công việc khó khăn, gian khổ, cấp bách khi Tổ quốc
yêu cầu.
- Đấu tranh với các âm mưu, hoạt động gây phương hại đến lợi ích quốc gia, dân tộc.
IV.Ý NGHĨA VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU TRONG VIỆC NÂNG CAO TINH THẦN
THƯỢNG TÔN PHÁP LUẬT
1.Thượng tôn pháp luật là gì ?
Khái niệm nhà nước pháp quyền đã nêu rõ nhà nước pháp quyền là nhà nước
thượng tôn pháp luật, vậy thượng tôn pháp luật là gì?
“Thượng tôn pháp luật” trong tiếng Anh là “Strictly abide by the laws” hàm ý là tất cả
mọi thành phần trong xã hội của một quốc gia, lãnh thổ phải tôn trọng và chấp hành triệt
để luật pháp của quốc gia, lãnh thổ đó. Một khi luật pháp đã được ban hành, thì toàn xã
hội phải lấy nó làm chuẩn mực để hành xử theo cho phù hợp, không phân biệt thành
phần, địa vị xã hội, không một ai có quyền “ngồi trên” pháp luật cả. 
“Thượng tôn pháp luật” là khi pháp luật được sử dụng và đóng vai trò cao nhất trong việc
điều tiết từng mối quan hệ, từng giao dịch diễn ra trong xã hội. Một chế độ thượng
tôn pháp luật được hình thành khi tất cả các chủ thể trong xã hội, từ các cơ quan Nhà
nước cho tới người dân và doanh nghiệp, luôn coi trọng pháp luật trong mọi hành xử của
mình...
Để mọi tổ chức, cá nhân thấm nhuần sâu sắc giá trị của pháp luật trong nhà
nước pháp quyền, có thái độ, hành vi tích cực xử sự pháp luật đúng đắn, các cơ quan
tư pháp phối hợp với chính quyền các địa phương, các cơ quan, đơn vị, tổ chức chính trị-
xã hội có liên quan tăng cường và không ngừng đẩy mạnh công tác giáo dục pháp luật,
nhằm nâng cao ý thức thượng tôn pháp luật cho mọi tổ chức, cá nhân. Qua đó, đề cao
quyền cũng như trách nhiệm, nghĩa vụ của mọi người trong học tập, tìm hiểu pháp luật và
tự giác chấp hành pháp luật.

 Tư tưởng triết học về thượng tôn pháp luật: Theo giáo sư luật học Brian Tamanaha,
thượng tôn pháp luật có nghĩa là cả chính quyền lẫn người dân phải cùng chịu sự ràng
buộc bởi luật và phải tuân theo luật. Định nghĩa này chứa đựng ba hàm ý chính: giới
hạn quyền lực nhà nước, đúng thủ tục pháp lý và bình đẳng trước pháp luật. Như vậy,
một chính quyền chỉ được coi là thượng tôn pháp luật khi nó bị ràng buộc bởi pháp
luật hiện hành và chính quyền, công dân đồng song cùng thực hiện trên nguyên tắc lấy
pháp luật làm chuẩn trong thực hiện hành vi ứng xử. Nếu chỉ có một bên tuân thủ pháp
luật, còn một bên chỉ kêu gọi mà không thực hiện thì bằng không, việc nói coi trọng
pháp luật thực ra chỉ là kêu gọi người khác thực hiện, chứ không phải là chính mình,
nếu như vậy thì quyền lực đã bị giới hạn.
 Tư tưởng thượng tôn PL của chủ tịch HCM: Thể hiện trong quan niệm về vai trò của
pháp luật trong xã hội và các quyền tự do, dân chủ của công dân. Hồ Chí Minh không
chỉ coi trọng việc quản lý xã hội bằng pháp luật và tinh thần thượng tôn pháp luật mà
còn rất chú trọng đến việc thực thi quyền của con người. Không chỉ coi trọng việc ban
hành pháp luật, Hồ Chí Minh còn chăm lo đến việc tuyên truyền pháp luật nhằm đưa
pháp luật vào cuộc sống, tạo điều kiện cho pháp luật được thi hành trong các cơ quan
nhà nước và nhân dân. Như vậy, trong tư tưởng Hồ Chí Minh, không chỉ đề cao tinh
thần pháp luật, vai trò của pháp luật trong quản lý xã hội, mà còn coi trọng việc tuyên
truyền, giáo dục pháp luật để người quản lý bằng pháp luật và thực thi pháp luật thực
hiện cho đúng.Do đó, học tập tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh không chỉ
học tập tinh thần coi trọng pháp luật trong cuộc sống và làm việc, mà còn học tập
Người cách dân vận để đưa pháp luật thực hành hiệu quả trong cuộc sống.

2.Ý Nghĩa:
Xây dựng pháp luật là yêu cầu tất yếu của Nhà nước, chấp hành pháp luật là ý thức
trách nhiệm của công dân. Việc thượng tôn pháp luật có vị trí, vai trò rất quan trọng, có
ý nghĩa quyết định đến thắng lợi của sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Đặc biệt,
trong xu thế hội nhập hiện nay, giáo dục nâng cao ý thức pháp luật làm cho mọi người
chấp hành pháp luật không chỉ là yêu cầu mà còn là trách nhiệm của mọi người
dân; tinh thần thượng tôn pháp luật thể hiện thước đo trình độ phản ánh ý thức chính trị
của công dân.
1.Làm cho mọi công dân chung sức, đồng lòng vì sự nghiệp xây dựng và hoàn thiện
một Việt Nam dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh.
Nâng cao ý thức thượng tôn pháp luật cũng có nghĩa là mọi công dân phát huy triệt để
tinh thần đại đoàn kết toàn dân tộc, cùng tích cực hành động vì một Việt Nam dân giàu,
nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh.
Hiểu rõ sâu sắc giá trị ấy, hằng năm, các cơ quan tư pháp ở tỉnh ta đã phối hợp với
chính quyền các địa phương, các cơ quan, đơn vị, ban, ngành, đoàn thể đẩy mạnh và
tăng cường các hoạt động tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật đến từng người
dân với nhiều hình thức đa dạng, phong phú, dễ hiểu, để mọi người dân có thể nắm bắt
kịp thời và chấp hành nghiêm túc các chủ trương, đường lối của Đảng, chính
sách, pháp luật của Nhà nước. Đây cũng chính là một bộ phận của công tác giáo dục
chính trị, tư tưởng và là nhiệm vụ thường xuyên của toàn bộ hệ thống chính trị các cấp,
các ngành với mục tiêu cuối cùng là hỗ trợ và tạo điều kiện để mọi cá nhân, tổ chức biết
sử dụng pháp luật làm phương tiện, công cụ bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của mình,
của Nhà nước và của xã hội.
2. Là nền tảng xây dựng Chính phủ liêm chính, kiến tạo
Tinh thần “Thượng tôn pháp luật” chính là việc làm thiết thực góp phần nâng cao hiệu
quả xây dựng Chính phủ liêm chính, kiến tạo và phát triển.
Sự liêm chính của cán bộ, công chức có thể đạt được bằng hai cách. Cách thứ nhất là
tăng cường trau dồi, nâng cao đạo đức, khi giải quyết công việc không để bị thao túng
bởi lợi ích cá nhân, lợi ích nhóm. Cách thứ hai là tuyệt đối tuân thủ các quy định của
pháp luật, trong cuộc sống nói chung và trong thực thi công vụ nói riêng. Cán bộ, công
chức, viên chức tuân thủ triệt để các quy định của pháp luật thì gần như sẽ không có khả
năng và cơ hội để vi phạm pháp luật. Tuy nhiên, ở đây cũng cần phải có một hệ thống
pháp luật rõ ràng, cụ thể và hoàn chỉnh về các quy trình, thủ tục, về công khai, minh
bạch, kê khai tài sản…
3. Là nền tảng xây dựng Chính phủ hành động, phục vụ người dân và doanh nghiệp
Trong một Chính phủ hành động phục vụ người dân và doanh nghiệp, các cán bộ nhà
nước từ cấp lãnh đạo tới cấp thi hành đều lấy lợi ích công, lợi ích của nhân dân làm lợi
ích cao nhất, theo tinh thần mà Bác Hồ đã răn dạy: “Việc gì có lợi cho dân ta phải hết
sức làm”. Chính phủ phục vụ trước tiên là chính phủ làm hết chức trách của mình theo
quy định của pháp luật. Trong Chính phủ phục vụ, cơ quan nhà nước phải nhận biết
được nhu cầu của người dân, của doanh nghiệp để từ đó đưa ra các chủ trương, chính
sách, các biện pháp hành động, quản lý phù hợp. Ở đây, chúng ta lại càng thấy rõ vai trò
của tinh thần “Thượng tôn pháp luật”. Nếu chức trách, nhiệm vụ của các cơ quan nhà
nước, của các cán bộ, công chức nhà nước được quy định tường minh trong các văn bản
quy phạm pháp luật và pháp luật thực sự có vị trí thượng tôn đối với các cơ quan nhà
nước và xã hội thì các cán bộ, công chức sẽ phải thực hiện đầy đủ và có trách nhiệm
chức trách, nhiệm vụ của mình. Như vậy, “Thượng tôn pháp luật” không chỉ là nội dung
cốt lõi hình thành Nhà nước pháp quyền mà còn đóng vai trò là cơ sở để xây dựng thành
công Chính phủ liêm chính, kiến tạo, hành động phục vụ người dân và doanh nghiệp như
lời cam kết của người đứng đầu Chính phủ.
4. Giúp người dân nâng cao ý thức dân về trách nhiệm sống và thực hiện theo pháp
luật
Giúp cho mn được học tập và tìm hiểu pháp luật, mọi tổ chức, cá nhân phải có trách
nhiệm và nghĩa vụ nâng cao ý thức tuân thủ, chấp hành pháp luật. Mỗi tổ chức, cá nhân
ngoài việc sống, làm việc theo Hiến pháp và pháp luật cũng cần nêu cao tinh thần trách
nhiệm trong tuyên truyền gương người tốt, việc tốt, điển hình tiên tiến trong xây dựng,
thực hiện và bảo vệ pháp luật; các mô hình hay, cách làm hiệu quả trong công tác phổ
biến, giáo dục pháp luật; phê phán, đấu tranh với hành vi vi phạm pháp luật hoặc lệch
chuẩn xã hội…

 Phản đề:
Mặc dù vậy, vẫn còn đâu đó một bộ phận nhỏ người dân vẫn chưa tuân thủ nghiêm các
quy tắc ứng xử trong xã hội cũng như các quy định của pháp luật, nên dẫn đến tình
trạng vi phạm pháp luật, để lại hệ lụy xấu trong gia đình và cộng đồng, xã hội.
Ngược dòng thời gian 1-2 năm trở lại đây, Tòa án nhân dân hai cấp trong tỉnh đã đưa ra
xét xử công khai nhiều vụ án hình sự liên quan đến các hành vi vi phạm về lâm luật; vận
chuyển, mua, bán, tàng trữ trái phép chất ma túy; trật tự xã hội…Điều đó cho thấy, mặc
dù những cá nhân bị đưa ra xét xử tuy ý thức được hành vi của mình là vi
phạm pháp luật, vì nhiều động cơ khác nhau nên vẫn cố tình vi phạm pháp luật. Đây
cũng chính là hành vi coi thường kỷ cương, phép nước, thiếu tôn trọng pháp luật, cần
phải được xử lý nghiêm bằng pháp luật để giáo dục và răn đe xã hội.
Hay câu chuyện gần đây nhất, những hành vi thiếu ý thức thượng tôn pháp luật trong
thời gian đại dịch Covid-19 đang hoành hành, cả nước đang gồng mình chống dịch, vậy
mà vẫn có những cá nhân bất chấp các quy định của pháp luật về triển khai các
biện pháp chống dịch, vi phạm pháp luật và để lại hệ lụy không tốt cho xã hội.
Nghiêm trọng hơn, nhiều người dân thiếu ý thức chấp hành các quy định của pháp luật
về triển khai các biện pháp phòng, chống dịch Covid- 19  về thực hiện nguyên tắc 5K;
không chấp hành tự theo dõi sức khỏe tại nhà sau khi đã được cách ly hoặc trốn cách ly;
trốn về từ vùng dịch không khai báo…mà hậu quả tất yếu là sẽ gây nguy cơ cao cho dịch
Covid-19 lây lan trong cộng đồng, gây hao tổn kinh phí Nhà nước cũng như công sức
của những người đang thực hiện nhiệm vụ chống dịch.

 Pháp luật phải được thực hiện nghiêm trên mọi lĩnh vực. Không ai có thể nằm
ngoài “vùng cấm” của pháp luật. Mọi người phải tuân thủ, cùng hướng tới xây
dựng một xã hội thượng tôn pháp luật.
V.Câu hỏi củng cố
1.Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam là Nhà nước quản lí mọi mặt của đời
sống xã hội
A. Bằng pháp luật
B. Bằng chính sách
C. Bằng đạo đức
D. Bằng chính trị
2. Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam do tổ chức nào dưới đây lãnh đạo?
A. Mặt trận Tổ quốc Việt nam
B. Đảng Cộng sản Việt Nam
C. Hội liên hiệp Phụ nữ Việt Nam
D. Liên đoàn Lao động Việt Nam
3.Nội dung nào dưới đây thể hiện khái niệm nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt
Nam?
A. Nhà nước của nhân dân, do nhân dan và vì nhân dân.
B. Quản lí mọi mặt của đời sống xã hội bằng pháp luật.
C. Do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo.
D. Cả A, B và C.
4.Câu hỏi tình huống: Khi thấy chính quyền địa phương có những biểu hiện chưa công
khai minh bạch chuyện tài chính, bà A kiên quyết phê bình và đấu tranh. Việc này thể
hiện bà A
A. Thích thể hiện bản thân.
B. Muốn gây rối với chính quyền địa phương.
C. Có trách nhiệm trong việc tham gia xây dựng, quản lí Nhà nước.
D. Thích gây sự chú ý.
5. “Xây dựng các chế tài để xử lý các cá nhân và tổ chức vi phạm” là nội dung của chủ
trương nào của Đảng ta trong công cuộc xây dựng và hoàn thiện nhà nước pháp quyền xã
hội chủ nghĩa?
A.Xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức trong sạch và có chất lượng
B.Cải cách thể chế và phương thức hoạt động của nhà nước
C.Xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa dưới sự lãnh đạo của Đảng
D.Đấu tranh phòng chống tham nhũng, lãng phí, thực hành và tiết kiệm
VI.Câu hỏi các nhóm:
1. Xây dựng nhà nước pháp quyền XHCN là trách nhiệm của ai?
Mọi công dân. Vì nhà nước pháp quyền xhcnvn là nhà nước “của dân, do dân, vì
dân”, người dân được hưởng mọi lợi ích thì cũng có trách nhiệm trong việc xây dựng nhà
nước pháp quyền
2. Bên cạnh 4 nội dung xây dựng và hoàn thiện nhà nước pháp quyền xhcn thì hiện nay
Đảng ta còn có những chủ trương nào mới ?
Ngoài những nội dung trên, đảng ta còn nwhngx chủ trường xây dựng các cơ quan
và đại phương như sau:
+Đối với việc xây dựng và hoàn thiện các cơ quan tư pháp: Định hướng tổng quát xây
dựng nền tư pháp Việt Nam là: “Tiếp tục xây dựng nền tư pháp Việt Nam chuyên nghiệp,
hiện đại, công bằng, nghiêm minh, liêm chính, phụng sự Tổ quốc, phục vụ nhân dân”.
Tiếp tục đổi mới tổ chức, nâng cao chất lượng, hiệu lực, hiệu quả hoạt động và uy tín của
tòa án nhân dân, viện kiểm sát nhân dân, cơ quan điều tra, cơ quan thi hành án và các cơ
quan, tổ chức tham gia vào quá trình tố tụng tư pháp. Giải quyết kịp thời, đúng pháp luật
các loại tranh chấp, khiếu kiện theo luật định”. Tăng cường khả năng tiếp cận pháp luật
của người dân và doanh nghiệp.
+Đối với việc xây dựng và hoàn thiện chính quyền địa phương, định hướng chung là:
“Tiếp tục hoàn thiện tổ chức chính quyền địa phương phù hợp với địa bàn nông thôn, đô
thị, hải đảo, đơn vị hành chính, kinh tế đặc biệt theo luật định”. Cải cách phân cấp ngân
sách nhà nước theo hướng phân định rõ ngân sách Trung ương, ngân sách địa phương.
Gắn kết và đổi mới tổ chức bộ máy và cơ chế hoạt động của Mặt trận Tổ quốc, các tổ
chức chính trị - xã hội ở các cấp.
3. Có ý kiến cho rằng nhà nước pháp quyền là nhà nước phải sử dụng pháp luật để can
thiệp sâu vào hoạt động của mọi cá nhân, tổ chức trong xã hội. ý kiến này đúng hay sai,
vì sao
Sai. Nhà nước pháp quyền quản lý xã hội = pháp luật chứ không can thiệp vào đời
sống hay hoạt động của các cá nhân, tổ chức. Cá nhân được phép làm những gì PL không
cấm, NN làm những gì PL cho phép
4. SO SÁNH KHÁC NHAU GIỮA NHÀ NƯỚC PHÁP QUYỀN XÃ HỘI CHỦ NGHĨA
VIỆT NAM VÀ NHÀ NƯỚC PHÁP QUYỀN PHƯƠNG TÂY
Hai kiểu nhà nước pháp quyền đều phải thừa nhận phương thức tổ chức và vận
hành bộ máy nhà nước do pháp luật quy định. Tuy nhiên, bản chất và nội dung pháp luật
về tổ chức, xây dựng và vận hành bộ máy của hai nhà nước đó có nhiều điểm khác nhau.
Cơ bản và rõ nhất, chính là sự khác nhau trong các quy phạm của Hiến pháp và pháp luật
về tổ chức, cơ cấu nhân và việc xây dựng, vận hành của bộ máy quyền lực nhà nước
Trong Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, nhà nước và công dân đều phải thừa nhận
tính tối cao của pháp luật, vì pháp luật xã hội chủ nghĩa thể hiện ý chí nguyện vọng của
toàn thể nhân dân. Trong Nhà nước pháp quyền tư sản, nhà nước và công dân cũng phải
thừa nhận tính tối cao của pháp luật, nhưng pháp luật tư sản không phải là pháp luật của
toàn dân, không thể hiện chính xác và đầy đủ ý chí và nguyện vọng của toàn dân mà chỉ
phản ánh ý chí, nguyện vọng của một bộ phận nhân dân, đó là những người giàu, là giai
cấp tư sản. Nói cách khác, luật pháp của Nhà nước pháp quyền tư sản chỉ bảo vệ lợi ích
của giai cấp tư sản và gạt ra ngoài lề quyền lợi của người lao động – những người bị áp
bức bóc lột.
Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam dựa trên cơ sở kinh tế là chế độ công
hữu về tư liệu sản xuất và mang bản chất giai cấp công nhân, nhà nước là công cụ duy trì
quyền lực của đa số nhân dân lao động, thực hiện dân chủ với nhân dân và chuyên chính
đối với kẻ thù xã hội chủ nghĩa. Trong khi đó, nhà nước pháp quyền tư sản dựa trên cơ sở
kinh tế là chế độ tư hữu về tư liệu sản xuất và mang bản chất là giai cấp tư sản, nhà nước
là công cụ bạo lực của giai cấp thống trị, và đó là những người giàu chiếm thiểu số trong
xã hội – giai cấp tư sản
Bên cạnh sự khác nhau về giai cấp. Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa công nhận
các quy phạm pháp luật khi nó được xác lập và thông qua theo một trình tự và thủ tục
nhất định; trong khi đó, Nhà nước pháp quyền tư sản thường coi “án lệ” hoặc “tập quán”
như một loại quy phạm pháp luật “bất thành văn
5. Nhà nước cần làm gì để nhân dân thực hiện dân chủ và phát huy quyền làm chủ của
mình một cách thiết thực?
Xây dựng hoàn thiện chính sách pháp luật, cơ chế thực thi dân chủ cơ sở
Tích cực tuyên truyền, phổ biến pháp luật cho nhân dân
Nâng cao dân trí, phát triển văn hóa dân chủ
Xây dựng hệ thống chính trị cơ sở vững mạnh
6. Hãy nêu 1 số trường hợp thể hiện tinh thần thượng tôn pháp luật ?
Tòa án nhân dân xét xử công khai nhiều vụ án hình sự liên quan đến các hành vi vi
phạm về lâm luật; vận chuyển, mua, bán, tàng trữ trái phép chất ma túy; trật tự xã hội
Chấp hành nghiêm chỉnh những quy định từ các cơ quan đến những nơi mà ta đi
qua, hay chỉ bằng 1 việc nhỏ đó là dừng xe đúng vạch, không gây rối trật tự an toàn giao
thông, điều khiển xe đúng phần đường lề đường được quy định
Người dân chấp hành các quy định của pháp luật về triển khai các
biện pháp phòng, chống dịch Covid- 19  về thực hiện nguyên tắc 5K
7. Nhắc tới tinh thần thượng tôn pháp luật thì ta không thể bỏ qua ngày lễ kỷ niệm Pháp
Luật Việt Nam (9/11) và thông qua đó ta cũng thấy “Thượng tôn pháp luật - Nền tảng
xây dựng Chính phủ liêm chính, kiến tạo, hành động phục vụ người dân và doanh
nghiệp" Từ đó hãy cho biết một số giải pháp để tinh thần “thượng tôn pháp luật” của
Ngày pháp luật Việt Nam được thực hiện thực chất, thường xuyên, liên tục?
Để thực hiện được điều đó, chúng ta đòi hỏi cần phải có sự vào cuộc của cả hệ
thống chính trị, của từng cơ quan, tổ chức và mỗi người dân mới có thể tạo lập được một
phong trào xã hội rộng lớn, biến Ngày pháp luật thực sự trở thành ngày hội của toàn
Đảng, toàn dân và toàn quân ta, góp phần xây dựng một Chính phủ “liêm chính, kiến tạo,
phát triển” thì cần tập trung thực hiện một số định hướng sau:
+ Thứ nhất, để hình thành được tinh thần thượng tôn pháp luật, trước hết đó là sự
thượng tôn của pháp luật đối với các cơ quan nhà nước, các cán bộ đại diện cho các cơ
quan nhà nước thực hiện quyền lực công. Không chỉ người dân phải tuân thủ pháp luật,
mà các cán bộ, công chức nhà nước phải triệt để tuân thủ pháp luật. Đây cũng chính là
tinh thần cốt lõi của Nhà nước pháp quyền. Khi cơ quan Nhà nước, cán bộ Nhà nước triệt
để tuân thủ pháp luật, thì quyền và lợi ích hợp pháp của người dân mới được đảm
bảo và việc tuân thủ pháp luật của người dân mới thực sự có ý nghĩa.
+ Thứ hai, để có được tinh thần “Thượng tôn pháp luật” đòi hỏi thời gian và sự nỗ lực
của tất cả các ngành, các cấp lãnh đạo và người dân. Điều cần làm trước tiên là xây dựng
và hoàn thiện một hệ thống pháp luật đồng bộ, hoàn chỉnh về tổ chức, hoạt động của bộ
máy nhà nước, công vụ, công chức, các quy trình, thủ tục cho các giao dịch giữa người
dân, doanh nghiệp và các cơ quan Nhà nước; tiếp theo đó là cần giáo dục, quán triệt, nâng
cao ý thức thượng tôn pháp luật cho đội ngũ cán bộ, công chức và người dân; cuối cùng
là cần có một cơ chế giám sát đủ mạnh để xử lý một cách hiệu quả các vi
phạm pháp luật của đội ngũ cán bộ, công chức, đặc biệt khi các vi phạm đó ảnh hưởng
trực tiếp tới người dân và doanh nghiệp.
+ Thứ ba, các cơ quan Chính phủ phải luôn xác định lấy Nhân dân và doanh nghiệp làm
đối tượng phục vụ, sử dụng công cụ pháp luật với những cơ chế chính sách phù hợp để
tạo mọi điều kiện thuận lợi cho người dân phát huy quyền con người, quyền công dân
theo quy định của Hiến pháp, phát huy dân chủ, đảm bảo quyền làm chủ của Nhân dân,
phát huy năng lực sáng tạo của mọi cá nhân, doanh nghiệp, tổ chức để phát triển sản xuất
kinh doanh phát triển đất nước.
+ Thứ tư, đối với ngành Tư pháp, trong bối cảnh các bộ, ngành, địa phương đang tập
trung đẩy mạnh các giải pháp, cùng thực hiện quyết tâm của Chính phủ chuyển hướng
mạnh mẽ từ mệnh lệnh hành chính sang kiến tạo phát triển, phục vụ người dân và doanh
nghiệp, Bộ, ngành Tư pháp cũng đang phấn đấu nỗ lực tham mưu hiệu quả hơn nữa cho
Chính phủ, các địa phương trong các lĩnh vực thuộc phạm vi quản lý được phân công.
Trong đó, tập trung triển khai đề xuất, tham mưu xây dựng, hoàn thiện thể chế, tạo điều
kiện thuận lợi cho phát triển đất nước, đặc biệt chú trọng rà soát, đề xuất hoàn thiện thể
chế liên quan đến đầu tư kinh doanh, các chính sách hỗ trợ khởi nghiệp, đổi mới sáng tạo,
góp phần tháo gỡ khó khăn, tạo môi trường thuận lợi cho hoạt động sản xuất kinh doanh
8. “Tiếp tục xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam
của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân do Đảng lãnh đạo là nhiệm vụ trọng tâm của
đổi mới hệ thống chính trị”, là quan điểm được Đại hội XIII của Đảng khẳng định.
Nhà nước xã hội chủ nghĩa là nhà nước của giai cấp công nhân – giai cấp có sứ mệnh:
xóa bỏ chế độ người bóc lột người, giải phóng giai cấp công nhân, nhân dân lao động và
nhân loại khỏi mọi áp bức, bóc lột, nghèo nàn lạc hậu, xây dựng xã hội Cộng sản chủ
nghĩa văn minh, “Thực hiện sự nghiệp giải phóng thế giới ấy - đó là sứ mệnh lịch sử của
giai cấp vô sản hiện đại”. Để hoàn thành sứ mệnh đó, giai cấp công nhân phải thông qua
đội tiền phong của mình là Đảng Cộng sản để lãnh đạo nhân dân tiến hành cách mạng vô
sản thủ tiêu giai cấp tư sản, thiết lập chuyên chính vô sản, cải tạo xã hội cũ, xây dựng xã
hội mới.Để hoàn thành sứ mệnh đó, giai cấp công nhân phải thông qua đội tiền phong của
mình là Đảng Cộng sản để lãnh đạo nhân dân tiến hành cách mạng vô sản thủ tiêu giai
cấp tư sản, thiết lập chuyên chính vô sản, cải tạo xã hội cũ, xây dựng xã hội mới. Đến giai
đoạn mà lao động trở thành nhu cầu cống hiến cao nhất, mọi cá nhân đều bình đẳng, được
phát triển toàn diện “làm theo năng lực, hưởng theo nhu cầu”, nhà nước hết vai trò, sẽ tự
tiêu vong. Như vậy, mục tiêu và lợi ích căn bản của giai cấp công nhân phù hợp với
nguyện vọng, lợi ích của nhân dân lao động.

You might also like