You are on page 1of 137

ĐỀ CƯƠNG MÔN LUẬT HIẾN PHÁP

Câu 1. Đối tượng nghiên cứu của khoa học luật Hiến pháp

Là các quy phạm pháp luật, sự hình thành và phát triển các quy phạm, các tri
thức, các quan điểm khoa học về việc tổ chức quyền lực NN thuộc về nhân
dân. Từ đó tìm ra các quy luật phát triển khách quan của ngành luật, loại trừ
những quy phạm lỗi thời, vạch ra khuynh hướng phát triển của tổ chức
quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân.

Câu 2. Khái niệm Hiến Pháp

Hiến pháp là đạo luật cơ bản của một quốc gia, là hệ thống các quy tắc
gốc, cơ bản và quan trọng nhất về giới hạn quyền lực nhà nước, bảo vệ
quyền, tự do của con người; do cơ quan nhà nước cao nhất ban hành; được
soạn thảo, sửa đổi theo một quy trình đặc biệt, ưu thế hơn so với các đạo luật
thường và do đó có giá trị pháp lý cao nhất, được bảo vệ thông qua cơ chế
bảo hiến.

Câu 3. Sự hình thành và phát triển của Hiến Pháp

- Khi mới xuất hiện loài người: giai cấp thống trị đặt ra các quy tắc chủ
quan, tạo thành thể thức tổ chức quyền lực nhà nước – những thể thức
bất thành văn - cơ sở cho việc lạm dụng quyền lực nhà nước, vi phạm
quyền lợi của nhiều người dân. Họ giải thích: quyền lực là “thẩm quyền”
do đấng “ siêu nhiên” tạo ra, như một thứ cảu cải. “Thần dân” không có
quyền gì, phải cam chịu và phục tùng theo như một lẽ tự nhiên.
- Xã hội phát triển, loài người nhận ra việc tổ chức NN không phải thần bí
mà xuất phát từ nhân dân. Các cá nhân không thể sống một cách biệt lập,
cần liên kết thành một cộng đòng dưới sự quản lý của NN. Tuy nhiên
NN – bên cạnh chức năng duy trì, bảo đảm cuộc sống con người – lại là
một chủ thể xâm phạm một cách nguy hiểm đến con người. Do đó phải
có một khế ước giữa những người dân với người đại diện cho nhân dân
quản lý xã hội, gọi là Hiến pháp.
- Bản văn có tính chất Hiến pháp đầu tiên là Đại Hiến chương Anh (1215)
giới hạn quyền lực NN Anh và thừa nhận một số quyền tự do của con
người. Mặc dù vậy, theo nghĩa hiện đại, Hiến pháp thành văn đầu tiên
là Hiến pháp Hoa Kỳ (1787).
- Trong thời kì đầu (cuối TKXVIII đến hết TKXIX), các Hiến pháp chủ
yếu được xây dựng ở Bắc Mĩ và Châu Âu, sau đó lan dần ra một số nước
Châu Á và Châu Mĩ – Latinh. Phải từ sau thập kỉ 1949, số quốc gia trên
thế giới có Hiến pháp tăng mạnh, đặc biệt ở khu vực châu Á và châu
Phi, cùng với thắng lợi của phong trào giành độc lập dân tộc và sự tan rã
của hệ thống thuộc địa của các nước thực dân châu Âu. Hiện nay, không
chỉ các quốc gia mà một số lãnh thổ trên thế giới cũng ban hành Hiến
pháp.
- Trong giai đoạn đầu (còn gọi là Hiến pháp cổ điển) thường có nội dung
hẹp. Kể từ sau 1917, xuất hiện mô hình hiến pháp của các nước xã hội
chủ nghĩa với nội dung rộng hơn nhiều. Xen giữa 2 trường phái này là
một dạnh hiến pháp có nội dung trung hòa.
- Quá trình phát triển bao gồm cả việc sửa đổi hoặc thay thế hiên pháp.
Hầu hết các quốc gia trên thế giới đều đã từng nhiều lần sửa đổi hoặc
thay thế Hiến pháp (VD: HP Mỹ từ 1787 đến nay đã trải qua 27 lần tu
chính)

Câu 4. Phân tích nhận định “Hiến pháp là một bản khế ước xã hội”

- Theo từ điển pháp luật Black, Hiến pháp là “…một hợp đồng giữa
chính quyền và người dân, theo đó quyền cai trị của chính quyền do
ngườ dân giao cho”.
- Sự ra đời của Nhà nước là sản phẩm của một Khế ước (Hợp đồng) được
kí kết giữa những người sống trong trạng thái tự nhiên không có nhà
nước dựa trên cơ sở mỗi người tự nguyện nhường một phần trong số
quyền tự nhiên vốn có của mình giao cho một tổ chức đạcbiệt, đó là nhà
nước.
- Hiến pháp là nền tảng cho việc tổ chức nhà nước và quản lí xã hội. Vì
thế, việc xây dựng Hiến pháp cũng có nghĩa là việc xác định cách thức
các mối quan hệ cơ bản trong xã hội sẽ được giải quyết như thế nào. Do
chủ quyền nhân dân là quyền lực tối cao ở một quốc gia nên về nguyên
tắc chỉ có nhân dân mới có quyền xây dựng hiến pháp. Vấn đề này,
Thomas Paine từng nói: “Hiến pháp không phải là đạo luật của một
chính phủ mà là đạo luật của một dân tộc nhằm cấu thành nên chính
phủ…”. Quá trình xây dựng Hiến pháp tất yếu diễn ra những tranh luận
và thỏa hiệp giữa các cá nhân và nhóm công dân nhằm tìm ra cách thức
tổ chức nhà nước và quản lí xã hội mang lại nhiều lợi ích tốt nhất cho tất
cả mọi chủ thể.
 Có thể nói, Hiến pháp là một khế ước xã hội, mặc dù trên thực tế
điều này không bao giờ chính xác hoàn toàn, bởi rất ít khi tất cả cá
nhân và nhóm trong xã hội ở một quốc gia đều có thể tham gia và có
vai trò, ảnh hưởng thực sự trong quá trình xây dựng Hiến pháp.

Câu 5. Tại sao Hiến pháp là phương thức giới hạn quyền lực Nhà nước?

Bên cạnh việc NN có chức năng phải duy trì và đảm bảo cho cuộc sống của
con người trước những sự xâm phạm của chủ thể khác, thì cũng chính NN
lại là một chủ thể xâm phạm một cách nghiêm trọng đến con người. Vì NN
xét cho cùng cũng chính do con người tạo nên, nên NN cũng mang theo
những bản tính tốt và xấu của con người. Lâm Ngữ Đường – một nhà nghiên
cứu văn hóa Trung Quốc – mạnh dạn cho rằng: nội dung cơ bản của Hiến
pháp là phải có quy định ngăn ngừa bản tính xấu vốn có của người cầm
quyền. Khác với các đạo luật bình thường khác, Hiến pháp phải có những
quy định thể hiện tâm lý của hành vi con người. Bởi vậy, trong Hiến pháp
phải chứa đầy đủ những nội dung giới hạn quyền lực.

Câu 6. Tại sao Hiến Pháp là đạo luật bảo vệ quyền cơ bản của con người?

- Một trong những chức năng cơ bản của hiến pháp là bảo vệ các quyền
con người, quyền công dân. Thông qua HP, người dân xác định những
quyền gì của mình mà nhà nước phải tôn trọng và đảm bảo thực hiện,
cùng những cách thức để bảo đảm thực thi những quyền đó.
- Với tính chất là văn bản pháp lý có hiệu lực tối cao, hiến pháp là bức
tường chắn quan trọng nhấtđể ngăn ngừa những hành vi lạm dụng, xâm
phạm quyền con người , quyền công dân, cũng như là nguồn tham chiếu
đầu tiên mà người dân thường nghĩ đến khi các quyền của mình bị vi
phạm. Hiệu lực bảo vệ quyền con người, quyền công dân của HP còn
được phát huy thông qua hệ thống chế quyền bảo vệ, cụ thể như thông
qua hệ thống tòa án tư pháp, các cơ quan nhân quyền quốc gia, cơ quan
thanh tra Quốc hội hay Tòa án hiến pháp.

Câu 7. Ý nghĩa, tầm quan trọng của Hiến Pháp

1. Đối với một quốc gia


+ Ở mọi QG, HP đều được coi là đạo luật gốc của quốc gia, là nên tảng xay
dựng các đạo luật thông thường khác. Mọi đạo luật thông thường đều nhằm
cụ thể hóa các chế định, quy phạm của HP, và vì vậy, không được trái với
HP.
+ Một bản HP tốt là nền tảng để tạo lập một thể chế chính trị dân chủ và một
nhà nước minh bạch, quản lý xã hội hiệu quả, bảo vệ tốt các quyền lợi của
người dân. Đây là những yếu tố không thể thiếu để một quốc gia ổn định và
phát triển. Sự thịnh vượng hay suy yếu của một quốc gia gắn liền với hiến
pháp.
2. Đối với mỗi người dân
+ Một bản HP tốt giúp tạo lập một nền dân chủ thực sự, trong đó mọi người
dân có thể tự do bày tỏ tư tưởng, ý kiến, quan điểm của mình về các vấn đề
của đất nước và bản thân mình mà không hề sợ hãi bị đàn áp hay trừng phạt.
Đây là tiền đề để phòng chống lạm quền, tham nhũng
+ Một bản HP tốt cũng đồng nghĩa với việc ghi nhận đầy đủ các quyền con
người, quyền công dân phù hợp với các chuẩn mực chung của cộng đồng
quốc tế, cũng như các cơ chế cho phép mọi người dân có thể sử dụng để bảo
vệ các quyền của mình khi bị vi phạm. HP tốt là công cụ pháp lí đầu tiên và
quan trọng để bảo vệ quyền con người, quyền công dân
+ Cuối cùng, bản HP tốt sẽ tạo sự ổn định và phát triển của đất nước, qua đó
giúp người dân thoát khỏi sự đói nghèo

Câu 8. PHÂN LOẠI HIẾN PHÁP

- Phân chia theo hình thức chứa đựng các quy định của Hiến pháp
 Hiến pháp bất thành văn
 Tổng thể các văn bản pháp luật, quy phạm pháp luật được hình
thành theo tập tục, án lệ cảu Tòa án, quy đinh về tổ chức quyền lực
NN.
 KHÔNG được NN tuyên bố hoặc ghi nhận => các quy tắc Hiến
pháp KHÔNG có tính trội so với các đạo luật thường về quy trình
soạn thảo, sửa đổi và giá trị pháp lý.
 Hiến pháp này chỉ được định nghĩa về nội dung mà ko có nghĩa về
hình thức.
 Các nước có Hiến pháp bất thành văn hiện nay là Anh, Niu-di-lân,
I-xraen.
 Hiến pháp thành văn
 Các quy định Hiến pháp được viết thành văn bản nhất định, có thể
bao gồm nhiều văn bản.
 Nhất thiết phải được NN tuyên bố hoặc ghi nhận là đạo luật cơ bản
của quốc gia.
- Phân chia theo tính chất nội dung của các quy định chứa đựng trong
Hiến pháp
 Hiến pháp cổ diển
 Là những Hiến pháp được thông qua từ thế kỷ 18,19 nhưng còn
hiệu lực pháp lý như Hiến pháp Mỹ 1787, Na Uy 1814…
 Đối tượng điều chỉnh: những vấn đề cơ bản về tổ chức quyền lực
NN; quyền, tự do của con người (về chính trị, dân sự); KHÔNG
điều chỉnh kinh tế - văn hóa – xã hội
 Mức độ điều chỉnh: ở tầm vĩ mô, mang tính khái quát cao => bền
vững, tránh sửa đổi thường xuyên.
 Một số Hiến pháp tuy ra đời muộn hơn nhưng cũng được coi là
Hiến pháp cổ điển như Hiến pháp Áo 1920, Thụy Điển 1974
 Hiến pháp hiện đại
 Thông qua sau chiến tranh thế giới thứ I, II
 Chứa đựng nhiều nội dung dân chủ, sự thỏa hiệp giữa các giai cấp
 Bổ sung một số quyền công dân mới (tự do bầu cử, có việc làm,
bình đẳng giới)
 Mở rộng phạm vi và mức độ điều chỉnh => thiếu tính ổn định
 Ví dụ: Hiến pháp Pháp 1946, Nhật Bản 1947, Đức 1949
- Phân chia theo thủ tục thông qua, sửa đổi Hiến pháp
 Hiến pháp nhu tính
 Có thể sửa đổi bởi chính cơ quan lập pháp
 Thủ tục thông qua như các đạo luật thường
 KHÔNG có tính ưu thế, KHÔNG có sự phân biệt đẳng cấp với luật
thường
 Hiến pháp cương tính
 Có ưu thế đặc biệt, phân biệt quyền lập hiến và quyền lập pháp
 Được Quốc hội lập hiến thông qua
 Có khả năng thay đổi và bổ sung sau khi HIến pháp trở nên lạc hậu
- Phân chia theo bản chất của Hiến pháp
 Hiến pháp Tư bản chủ nghĩa
 Trực tiếp hoặc gián tiếp tuyên bố quyền tư hữu tư liệu sản xuất,
quyền sở hữu tư nhân
 Thường nói về 3 cơ quan NN Trung ương: Quốc hội, Chính phủ,
Tòa án theo xu hướng công nhận học thuyết Tam quyền phân lập
 Hiến pháp Xã hội chủ nghĩa
 Phủ nhận “Tam quyền phân lập”, thay bằng tập quyền Xã hội chủ
nghĩa, tất cả quyền lực tập trung vào Quốc Hội. Đang dần chuyển
đổi sang phân quyền bằng việc áp dụng tam quyền phân lập vào
phân công công việc
 Khẳng định vai trò lãnh đạo của Đảng cộng sản
 Đối tượng và mức độ điều chỉnh rộng: Kinh tế, Văn hóa, Xã hội,…

 Sự phân chia có tính tương đối, mang tính mức độ.

Câu 9. PHÂN BIỆT QUYỀN LẬP HIẾN VÀ QUYỀN LẬP PHÁP

Quyền lập hiến Quyền lập pháp


Khái niệm + Là quyền làm Hiến pháp và sửa đổi Là quyền làm luật, sửa đổi luật
hiến pháp
+ Quyền lập hiến nguyên thủy (xây
dựng bản HP đầu tiên hoặc làm một HP
mới) và Quyền lập hiến phái sịnh
(quyền sửa đổi HP hiện hành)
Thuyết tam quyền Thuyết tập - Quốc hội là cơ quan duy nhất
phân lập quyền XHCN có quyền lập pháp. Tuy nhiên
- Nhân dân là Quốc hội là hoạt động lập pháp của Quốc
chủ thể và là chủ thể tiến hội thực chất là kiểm tra, giám
người phân chia hành phân sát sự tương hợp giữa giải
quyền lực công quyền pháp lập pháp của Chính phủ
Chủ thể - Bằng quyền lập lực vì nhân với ý chí của nhân dân, từ đó
hiến, nhân dân dân không thông qua hoặc không. Như
phân chia bình chia quyền lực vật, quyền lập pháp là quyền
đẳng quyển lực đều nhau mà thông qua luật.
cho 3 ngành: trao quyền cho - Quốc hội chỉ tổng hợp, kiểm
Lập pháp, Hành người đại diện tra và đưa ra quyết định của
pháp và Tư tối cao – Quốc mình chứ không làm mọi công
pháp hội đoạn của quy trình lập pháp
 Ngành Lập pháp
KHÔNG có quyền
lập hiến
Sản phẩm Hiến pháp Các đạo luật

Câu 10. QUY TRÌNH LẬP HIẾN (LÀM VÀ SỬA ĐỔI HIẾN PHÁP) VÀ
HIỆU LỰC CỦA HIẾN PHÁP THEO CÁC HIẾN PHÁP NĂM 1946, 1959,
1980, 1992, 2013

1. Quy trình lập hiến


- Đề xuất sửa đổi Hiến pháp
Trong các Hiến pháp Việt Nam, chỉ có duy nhất Hiến pháp 1946 quy
định về quyền yêu cầu sửa đổi Hiến pháp ( Sửa đổi hiến pháp do 2/3
tổng số nghị viên yêu cầu (Điều 70) ).
Các hiến pháp sau này đều không có quy định về sáng quyền sửa đổi
hiến pháp. Thực tế, nhiều chủ thể tham gia vào việc đề xuất sửa đổi hiến
pháp. Đảng Cộng sản tham gia trực tiếp hoặc gián tiếp rong việc đề xuất
chủ trương, nội dung sửa đổi hiến pháp và mang tính quyết định. Đảng
còn đóng vai trò quan trọng trong tất cả các khâu tiếp theocuar quá trình
sửa đổi hiến pháp.
- Quyết định việc sửa đổi Hiến pháp
Sau khi các chủ thể đề xuất việc sửa đổi Hiến pháp, Quốc hội sẽ đưa vấn
đề sửa đổi Hiến pháp ra thảo luận để quyết định việc sửa đổi Hiến pháp.
Theo quy định của các Hiến pháp Việt Nam, việc sửa đổi phải được ít
nhất 2/3 tổng số đại biểu Quốc hội tán thành.
Nghị quyết của Quốc hội về việc sửa đổi Hiến pháp thường rất ngắn gọn,
bao gồm 2 nội dung cơ bản: Thông qua củ trương sửa đổi Hiến pháp;
Thành lập Ủy ban sửa đổi, bổ sung Hiến pháp
- Xây dựng dự thảo
Chủ yếu do cơ quan dự thảo thực hiện, gọi chung là Ủy ban dự thảo, do
Quốc hội thành lập và có nhiệm vụ giúp Quốc hội trong việc xây dựng dự
thảo sửa đổi Hiến pháp.
Ủy ban dự thảo có số lượng khoảng vài chục thành viên. Thông thường ở
Việt Nam, mỗi lần sửa đổi Hiến pháp sẽ chỉ có một Ủy ban dự thảo được
thành lập và được giao chức năng xây dựng dự thảo Hiến pháp. Ủy ban
dự thảo thường thành lập thêm thường trực ủy ban và cơ quan chuyên
môn giúp việc.
- Tham vấn nhân dân
Tham vấn nhân dân là hoạt động trong toàn bộ quy trình sửa đổi Hiến
pháp, nhằm mục đích nâng cao quyền tham gia của nhân dân trong việc
sửa đổi Hiến pháp, trong đó người dân được thông tin về sửa đổi Hiến
pháp, được trao đổi, đóng góp ý kiến thậm chí thamgia quyết định các
vấn đề Hiến pháp.
Ở Việt Nam, việc tham vấn nhân dân chủ yếu được thực hiện trong giai
đoạn lấy ý kiến nhân dân về dự thảo Hiến pháp. Thực tế, các cơ quan
soạn thảo cũng tổ chức tổng kết việc thi hành Hiến pháp, nhưng hoạt
động này chủ yếu được thực hiện trong hệ thống chính trị, mà chưa thực
sự mở rộng trong xã hội. Trong khi đó, tham vấn nhân dân được thực
hiện trong suốt quá trình sửa đổi Hiến pháp của nhiều quốc gia.
- Thảo luận
Khâu quan trọng nhất của việc thảo luận về các nội dung sửa đổi Hiến
pháp là tại phiên họp toàn thể của Quốc hội. Theo quy đinh của Hiến
pháp Việt Nam, Quốc hội có chức năng lập hiến. Như vậy, mô hình lập
hiến của nước ta là trao quyền làm Hiến pháp, sửa đổi Hiến pháp cho
Quốc hội . Chúng ta không trao quyền lập hiến cho một cơ quan lập
hiến đặc biệt như Hội đồng/Quốc hội lập hiến như ở một số quốc gia.
Trong phiên họp toàn thể, Ủy ban dự thảo sẽ trình dự thảo ra trước
Quốc hội. Sau đó các đại biểu Quốc hội sẽ thảo luận về các nội dung
được trình bày cũng như các vấn đề khác có liên quan. Việc thảo luận
tại Quốc hội thường phải được tiến hành ở nhiều kỳ họp, Ủy ban dự
thảo sẽ tiếp thu, chỉnh lý dự thảo theo ý kiến đóng góp của các đại biểu
Quốc hội.
- Thông qua
Quốc hội thực hiện chức năng lập hiến tập trung nhất thông qua quyền
biểu quyết dự thảo Hiến pháp. Tại một phiên họp toàn thể, Quốc hội sẽ
biểu quyết thông qua Dự thảo. Theo quy định của Hiến pháp, việc sửa
đổi Hiến pháp phải được ít nhất 2/3 tổng số đại biểu Quốc hội tán
thành. Diều này thể hiện tính trội của Hiến pháp so với các đạo luật
thông thường.
Trừ quy định của Hiến pháp 1946, các Hiến pháp sau này không quy
định bắt buộc “phúc quyết toàn dân” đối với sửa đổi Hiến pháp.
- Công bố
Các Hiến pháp Việt Nam không quy đinh rõ hình thức công bố Hiến
pháp. Tuy nhiên , Chủ tịch nước có trách nhiệm công bố các Luật, Nghị
quyết của Quốc hội. Điều đó có nghĩa là Chủ tịch nước phải công bố
Hiến pháp sửa đổi hoặc nghị quyết sửa đổi Hiến pháp. Trên thực tế, hầu
hết các Hiến pháp đều được Chủ tịch nước công bố (trừ Hiến pháp 1946;
Sửa đổi, bổ sung Hiến pháp 1980 năm 1988, 1989).
2. Hiệu lực của Hiến pháp
Chỉ Hiến pháp 1980, Hiến pháp 1992 và Hiến pháp 2013 nói về hiệu lực của
Hiến pháp, các Hiến pháp còn lại thì không:
- Hiến pháp 1980 quy định
Điều 146
Hiến pháp nước CHXHCNVN là luật cơ bản của NN, có hiệu lực pháp
lý cao nhất.
Mọi văn bản pháp luật khác phải phù hợp với Hiến pháp.
- Hiến pháp 1992 quy định
Điều 146.
Hiến pháp nước CHXHCNVN là luật cơ bản của NN, có hiệu lực pháp
lý cao nhất.
Mọi văn bản pháp luật khác phải phù hợp với Hiến pháp.
- Hiến pháp 2013 quy định
Điều 119
Hiến pháp là luật cơ bản của nước CHXHCNVN, có hiệu lực pháp lý
cao nhất.
Mọi văn bản pháp luật khác phải phù hợp với Hiến pháp.

Câu 11. HIẾN PHÁP BẤT THÀNH VĂN CỦA ANH QUỐC

Hiến pháp bất thành văn là tổng thể các quy phạm pháp luật, các quy phạm
pháp luật được hình thành theo tập tục truyền thống, các án lệ của Tòa án
quy đinh về tổ chức quyền lực NN, nhưng không được NN tuyên bố hoặc
ghi nhận là luật cơ bản của NN.
Hiến pháp Anh bao gồm tập hợp từ các nguồn cơ bản sau:
1. Các văn bản/văn kiện nền tảng như Bản hiến chương các quyền tự do
MAGNA CHARTA năm 1215, đạo luật về quyền năm 1689, đạo luật
truyền ngôi năm 1702, các đạo luật về Nghị viện từ năm 1922 đến
1949;
2. Các tập quán Hiến pháp (về việc Thủ tướng soạn thảo bài diễn văn cho
vương quyền; lực chịn thủ lĩnh của Đảng/liên minh Đảng cầm quyền
làm Thủ tướng và các quy tắc bất thành văn khác trong tổ chức quyền
lực NN);
3. Các án lệ Hiến pháp hinhg thành trong quá trình xét xử của Tòa án.
Các quy tắc Hiến pháp của Anh Quốc được hình thành dần dần trong một
thời gia dài, đầu tiên là sự thừa nhận của Nhà vua đại diện cho giai cấp quý
tộc lúc bấy giờ trước phong trào đòi quyền của nhân dân, sau đó các thiết
chế dân chủ, pháp quyền như Nghị viện, Tòa án đóng vai trò ngày càng
quan trọng hơn vào việc hình thành các quy tắc hiến định.
Việc NN Anh không có Hiến pháp thành văn được nhiều học giả cho rằng
đó là sự thể hiện quyền lực tối cao của Nghị viện Anh. Ở nước Anh người
ta quan niệm rằng: Hôm nay, Nghị viện thông qua bản hiến văn này, nhưng
ngày mai Nghị viện có thể thayđổi bằng một bản hiến văn khác. Nói như
vậy không có nghĩa là Hiến pháp bất thành văn của nước Anh ít hiệu lực
pháp lý, hay bị Nghị viện thay đổi thường xuyên, bởi vì chính việc vi phạm
các quy định bất thành văn đã ăn sâu vào tiềm thức của người Anh thì lại
càng rất khó. Xuất phát từ nhữn lý do đó, mặc dù không có giá trị về hình
thức, Hiến pháp Anh Quốc có vai trò quan trọng trong việc giới hạn quyền
lực NN cũng như bảo vệ các quyền con người, quyền công dân.

Câu 12. BẢO HIẾN: KHÁI NIỆM, CƠ SỞ, CÁC MÔ HÌNH ĐIỂN HÌNH

1. Khái niệm: Chế độ bảo hiến là chế độ xử lý những hành vi vi phạm Hiến
pháp của công quyền
2. Cơ sở
- Hiến pháp cương tính
 Hiến pháp cương tính được sửa đổi theo những thủ tục đặc biệt (do
có sự phân cấp hiệu lực giữa Hiến pháp và thường luật)
 Hiến pháp nhu tính: KHÔNG đặt ra vấn đề bảo hiến

- Nhân dân là chủ thể của quyền lập hiến, nên quyền lập hiến là quyền
nguyên thủy, nghĩa là quyền lập hiến không bị giới hạn bởi bất cứ luật lệ
nào, khai sinh ra các quyền khác. Do đó Hiến pháp - sản phẩm của
quyền nguyên thủy phải có hiệu lực pháp lý tối cao trong các mối quan
hệ với các văn bản pháp luật khác - sản phẩm của quyền phái sinh. +
Bên cạnh đó, chế độ bảo hiến chỉ tồn tại trên cơ sở các quy định về
quyền công dân trong Hiến pháp. Vì bảo hiến sinh ra là để hạn chế việc
chính quyền xâm phạm quyền công dân, nên nếu Hiến pháp không quy
định quyền công dân thì chế độ bảo hiến không tồn tại.

3. Các mô hình điển hình


Bảo hiến bởi Tài phán Hiến pháp
một cơ quan dân
cử/ chính trị
Chủ thể Nghị viện kiểm Mô hình phi tập Mô hình tập trung
tra tính hợp hiến trung hóa (Mỹ) hóa (Đức)
của văn bản do Tất cả các Thẩm phán Một cơ quan tài phán
mình / cấp dưới của các Tòa án đặc biệt (Tóa án
thông qua thường gồm: Tòa án Hiến pháp) DUY
tối cao, Tòa án địa NHẤT được trao
phương thẩm quyền, độc lập
với Tòa án thường
Thủ tục KHÔNG CÓ
Hạn chế Sự tự kiểm tra
không đảm bảo
tính độc lập,
khách quan
Không có trình
tự, thủ tục phán
xét các văn bản
luật
Ưu điểm - Giải quyết được những hạn chế của mô
hình bên
- Độc lập, công bằng, chuyên nghiệp, hiệu
quả
Mô hình PHI tập Mô hình tập
trung hóa (Mỹ) trung hóa (Đức)

Trường Cụ thể: chỉ khi có 1 vụ Trừu tượng:


hợp áp án/ tranh chấp cụ thể, KHÔNG xuất phát
dụng đương sự có quyền đề từ 1 vụ tranh chấp
nghị kiểm tra tính hợp nào. Tòa Hiến
hiến của 1 văn bản cụ pháp tự phán
thể, khi đố thẩm phán sẽ quyết xem có đạo
kiểm hiến luật nào vi hiến
hay không mà
không cần một vụ
việc cụ thể.
Tuy nhiên, bảo
hiến cụ thể có xu
hướng cấy ghép
vào mô hình này
thành mô hình hỗn
hợp
Thời Sau khi luật có hiệu lực Có thể trước hoặc
gian Tòa án có thể không áp sau khi công bố
dụng đạo luật vi hiến, luật, người có
nhưng không có thẩm thẩm quyền khởi
quyền hủy bỏ xướng vấn đầ
kiểm tra tính hợp
hiến của luật đó.

Hiệu lực Chỉ có giá trị đối với - Có giá trị bắt
phán các bên tham gia vụ buộc chung đối
quyết việc, không có giá trị với mọi đối
của Tòa với chủ thể khác => có tượng
án thể dẫn đến sự không - Có tính chất
thống nhất luật. chung thẩm,
Tuy nhiên trên thực tế KHÔNG được
mô hình này vẫn phát khiếu kiện
huy hiệu quả của nó, - Những văn bản
bảo đảm phán quyết của vi hiến bị hủy
Tòa án vì: phân quyền bỏ
cứng rắn, có truyền - Bảo đảm sự
thống án lệ, Thẩm phan thống nhất giữa
giỏi, có kinh nghiệm các VB luật

Một số mô hình bảo hiến khác


- Tòa án tối cao: thuộc loại mô hình tập trung hóa, Tòa án tối cao là cơ
quan duy nhất được trao thẩm quyền. Ít nước áp dụng : Ireland, Việt
Nam cộng hòa (theo Hiến pháp 1967)
- Hội đồng Hiến pháp: thuộc loại mô hình tập trung hóa, Hội đồng Hiến
pháp như 1 cơ quan chính trị chứ không phải 1 cơ quan tài phán Hiến
pháp thực thụ.
- Mô hình “hỗn hợp”: đây là xu thế chung trên thế giới, có đặc điểm của ít
nhất 2 mô hình khác nhau (rất ít nước áp dụng thuần khiết mô hình tập
trung hóa).

Câu 13.BẢO HIẾN Ở VIỆT NAM

VN chưa có một cơ chế bảo hiến thực sự


Vì:+ Môṭ là, hoạt động bảo hiến ở Việt Nam được thực hiện thông qua hoạt
động giám sát, kiểm tra, tự kiểm tra của các chủ thể để đảm bảo sự đồng bộ,
thống nhất trong hệ thống pháp luật, chưa có cơ chế giám sát hoạt động ban
hành luật của Quốc hội.
+ Hai là, Hiến pháp năm 1992 quy định Quốc hội thông qua hoạt động
giám sát tối cao có quyền bãi bỏ một phần hay toàn bộ văn bản quy phạm
pháp luật của các chủ thể chịu sự giám sát khi có dấu hiệu trái với Hiến
pháp, luật và Nghị quyết của Quốc hội. Quy định này làm cho Quốc hội vừa
là cơ quan lập pháp vừa là cơ quan tư pháp và trên thực tế Quốc hội chưa
phán quyết một văn bản quy phạm pháp luật nào trái Hiến pháp và luật . Rõ
ràng cơ chế bảo vệ Hiến pháp này không hợp lý và không hiệu quả (vừa đá
bóng, vừa thổi còi).
+ Ba là, Ủy ban thường vụ Quốc hội được giao nhiệm vụ giải thích Hiến
pháp , luật và pháp lệnh nhưng thưc ̣ tế ở Việt Nam thời gian qua , viêc ̣ giải
thích hiến pháp chưa được thựchiện.
+ Bốn là, Việt Nam có một Hiến pháp thành văn , nhưng chưa có cơ quan
tài phán Hiến pháp, hoạt động bảo vệ hiến pháp chỉ là hoạt động giám sát
mang tính hành chính , mà không mang tính tài phán.
Có thể nhận thấy rằng, nội dung bảo hiến ở Việt Nam tập trung vào các
văn bản quy phạm pháp luật do các các cơ quan nhà nước ban hành.
Hoạt động bảo hiến ở Việt Nam hiện nay không hiệu lực, hiệu quả, không
có khả năng ngăn chặn hành vi vi hiến.

Câu 14. TƯ TƯỞNG LẬP HIẾN VIỆT NAM TRƯỚC CÁCH MẠNG
THÁNG TÁM
Thời kỳ này có nhiều quan điểm khác nhau trong phương thức xây dựng chế
độ hiến pháp (dựa theo nhiều luồng ảnh hưởng tư tưởng cũng như xuất phát
từ lợi ích chính trị khác nhau). Có thể chia thành 2 trường phái: bảo thủ và
cách mạng.
Trường phái bảo thủ Trường phái Cách mạng
Đại diện Bùi Quang Phan Chu Phan Bội Châu, Huỳnh Thúc
Chiêu, Nguyễn Trinh Kháng, Nguyễn Ái Quốc, …
Trực, Phạm
Quỳnh
Chính Chủ trương xây Phản đối Lật đổ hoàn toàn chế độ quân
thể dựng chế độ quân quân chủ, đề chủ chuyên chế, đồng thời xóa
chủ lập hiến theo xuất xây bỏ ách thống trị của Pháp
mô hình Anh dựng chế độ => Mang tính Cách mạng
Nhật dân chủ tự triệt để: mốn có Hiến pháp,
do theo tư trước hết phải giành độc
tưởng dân lập, sau đó tự nhân dân sẽ
chủ phương thông qua một bản Hiến
Tây pháp
Phương Ôn hòa, chống Ủng hộ sự Đưa ra các yêu sách, báo chí,
thức bạo động, trong hợp tác với đấu tranh chống tư tưởng lập
khuôn khổ thừa Pháp để cải hiến cải lương
nhận chính quyền cách từng
bảo hộ của Pháp bước, “Ỷ
Pháp cầu
tiến bộ”
Tư Đặt ra yêu cầu Ủng hộ áp Hình thành một số khái niệm
tưởng bảo đảm một số dụng học của Hiến pháp như: quyền lực
về Hiến quyền dân chủ: thuyết “phân Nhà nước, chủ quyền nhân
pháp yêu cầu cải cách quyền”, thực dân, dân quyền.
tuyển cử, tự do hiện “Dân “Bảy xin Hiến pháp ban hành,
ngôn luận, có trị”, “Dân Trăm điều phải có thần linh
ngày được tự trị, quyền” pháp quyền” - Yêu sách
ban hành Hiến Nguyễn Ái Quốc gửi Việt
pháp kiều.

Câu 15. ĐẶC ĐIỂM TƯ TƯỞNG LẬP HIẾN HỒ CHÍ MINH

- Tư tưởng lập hiến của Hồ Chí Minh trước hết là: nước phải độc lập,
quốc gia phải có chủ quyền là điều kiện tiên quyết để có Hiến pháp và
Hiến pháp ra đời là để tuyên bố về mặt pháp lý một nhà nước độc lập, có
chủ quyền, là phương tiện để bảo vệ độc lập và chủ quyền của đất nước.
- Hồ Chí Minh là đại diện tiêu biểu cho luồng tư tưởng Cách mạng triệt để
- Hiến pháp và dân chủ là hai yếu tố không tách rời nhau
- Tôn trọng qyền con người và quyền công dân
- Người sáng lập báo “Việt Nam hồn” gửi tới Hội Vạn Quốc bản tố cáo
tội ác TD Pháp, đòi độc lập để có thể “xếp đặt một nền Hiến pháp về
phương diện chính trị, xã hội theo những lý tưởng dân quyền”.
 Quan điểm: muốn có Hiến pháp thì trước hết phải giành độc lập cho dân tộc,
sau đó tự nhân dân sẽ thông qua một bản Hiến pháp cho mình, không cần đến
sự ban hành của TD Pháp.

Câu 16. ĐẶC ĐIỂM VỀ NỘI DUNG VÀ HÌNH THỨC CỦA HIẾN PHÁP
VIỆT NAM SO VỚI HIẾN PHÁP CÁC QUỐC GIA KHÁC TRÊN THẾ
GIỚI

- Hiến pháp Việt Nam thuộc hiến pháp các nước chậm phát triển,
thuộc loại Hiến pháp XHCN với nền tảng là sự phủ nhận học thuyết
phân quyền trong việc tổ chức NN. Thay vào đó, tư tưởng tập quyền
XHCN được áp dụng. Nguyên tắc Đảng lành đạo NN và xã hội là nền
tảng tiếp theo của Hiến pháp nước ta. Các Hiến pháp luôn khẳng định
quyền lực NN xuất phát và thuộc về nhân dân.
- Về hình thức: Hiến pháp Việt Nam là Hiến pháp thành văn, có đối
tượng điều chỉnh rộng không chỉ quy định về chế độ chính trị, mà còn về
các chế độ kinh tế, văn hóa, xã hội, quốc phòng và an ninh. Hiến pháp
có nhiều quy đinh mang tính cương lĩnh trên các mặt khác nhau của đời
sống xã hội. Trong các Hiến pháp Việt Nam, Hiến pháp 1946 được coi
là Hiến pháp có phạm vi điều chỉnh hẹp nhất, nội dung ngắn gọn. Giá
trị áp dụng của Hiến pháp liên quan đến sự hiện diện của cơ chế bảo
hiến của cơ chế bảo hiến nhằm bảo vệ tính tối cao của Hiến pháp. Hai
bản Hiến pháp đầu tiên (1946, 1959) không có điều khoản về tính tối cao
của Hiến pháp. Chỉ đến Hiến pháp 1980, nguyên tắc này mới được hiến
định: Hiến pháp nước CHXHCNVN là luật cơ bản của NN, có hiệu lực
pháp lý cao nhất. Mọi văn bản pháp luật khác phải phù hợp với Hiến
pháp. Tuy nhiên, các hiến pháp đều không quy định cơ quan chuyên
trách/độc lập để phán quyết các hành vi vi hiến của cơ quan NN, kể cả
hành vi lập pháp của Quốc hội. Sự thiếu vắng cơ chế bảo hiến chuyên
trách góp phần dẫn đến tính hình thức (danh nghĩa) của Hiến pháp.

Câu 17. ĐẶC ĐIỂM VÀ GIÁ TRỊ LỊCH SỬ, PHÁP LÝ CỦA HIẾN PHÁP
NĂM 1946

1. Đặc điểm
- HP năm 1946 gắn liền với Tuyên ngôn độc lập
- Là Hiến pháp đầu tiên của nhà nước Việt Nam, có ý nghĩa quan trọng
trong việc chính thức hóa chính quyền mới được hình thành. Hiến pháp
gồm 7 chương, 70 điều
- Về cơ cấu tổ chức nhà nước, HP năm 1946 có những đặc điểm của chính
thể cộng hòa lưỡng tính. Chủ tịch nước không những là nguyên thủ quốc
gia, người đứng đầu nhà nước, mà còn trực tiếp lãnh đạo hành pháp. Bên
cạnh đó, người đứng đầu chính phủ (Thủ tướng) phải do nghị viện nhân
dân (Quốc hội) thành lập và phải chịu trách nhiệm trước Nghị viện.
- Ngoài việc thể hiện mối quan hệ tương đối độc lập giữa Hành pháp và
lập pháp, Hiến pháp năm 1946 còn những điểm rất khác biệt với các bản
HP sau này (các cơ quan tư pháp chỉ gồm hệ thống tòa án được tổ chức
theo các cấp xét xử, mà không phải theo cấp đơn vị hành chính như quy
định về sau; việc tổ chức chính quyền địa phương có xu hướng phân biệt
giữa thành phố, đo thị với các vùng nông thôn; chế độ tư hữu đất đai, đa
nguyên đa đảng….)
2. Giá trị lịch sử, pháp lý
- Hiến pháp 1946 là Hiến pháp đầu tiên, ra đời ngay sau Cách mạng
tháng Tám, có nhiệm vụ củng cố nền độc lập
- Hiến pháp quy định: nhân dân không phân nòi giống, gái trai,… đều là
chủ thể của quyền lực nhà nước; quy định cách thức lần đầu tiên nhân
dân tự tổ chức thành nhà nước.
- Do tình hình chiến tranh, Hiến pháp 1946 chưa được chủ tịch nước công
bố cho toàn dân thực hiện, Nhưng dựa trên sự chỉ đạo của chủ tịch Hồ
Chí Minh, tùy tình hình cụ thể mà tinh thần các quy địnhcủa Hiến pháp
được thực hiện trên thực tế. Theo nhận định của Đảng, Hiến pháp1946
đã hoàn thành sứ mạng của mình.
- Thể hiện tư tưởng lập hiến của Hồ Chí Minh
- Xác lập quyền độc lập, tự do, bình đẳng của dân tộc Việt Nam
- Khẳng định bản chất dân chủ của NN Việt Nam
- Là nền tảng của NN pháp quyền ở Việt Nam
- Đặt ra những nguyên tắc cho việc tổ chức bộ máy NN
- Ghi nhận và đảm bảo các quyền con người.
Câu 18. ĐẶC ĐIỂM VÀ GIÁ TRỊ LỊCH SỬ, PHÁP LÝ CỦA HIẾN PHÁP
1959

1. Đặc điểm
- Là HP xây dựng XHCN
- Là Hiến pháp lần đầu tiên mang nhiều dấu ấn của việc tổ chức NN theo
mô hình XHCN (mô hình Xô –Viết), biểu hiện:
 Dù tên gọi chính thể không thay đổi so với Hiến pháp 1946 (Việt
Nam dân chủ cộng hòa) nhưng nội dung tổ chức bên trong có những
quy định rất khác
 Có thêm chương về chế độ kinh tế
 Bộ máy NN được tổ chức theo nguyên tắc tập quyền và nguyên
tắc trung dân chủ, quyền lực Nhà nước tập trung vào Quốc Hội
 Cơ chế tập trung, bao cấp kế hoạch hóa được thể hiện bằng nhiều
quy định
 Mặc dù các quy định của Hiến pháp vẫn thừa nhận loại hình sở hữu
tư nhân (Điều 16) nhưng loại hình sở hữu này hầu như không có
điều kiện tồn tại trên thực tế.
 Bắt đầu từ đây các bản Hiến pháp manng tính đinh hướng chương trình lãnh
đạo của Đảng cộng sản cho sự phát triển theo con đường XHCN – một NN quá
độ từ chế độ dân chủ nhân dân lên CNXH.
- Đề ra nhiệm vụ củng cố miền Bắc, đưa miền Bắc quá độ lên CNXH và
tiếp tục đấu tranh giải phóng miền Nam
2. Giá trị lịch sử, pháp lý Hiến pháp 1959
Hiến pháp 1959 ra đời phản ánh quá trình chuyển đổi từ nền dân chủ
nhân dân sang nền dân chủ XHCN. Có thể nói rằng bản Hiến pháp này
bắt đầu thể chế hóa con đường đi lên CNXH - Hiến pháp thời kỳ đầu
CNXH.

Câu 19. ĐẶC ĐIỂM VÀ GIÁ TRỊ LỊCH SỬ, PHÁP LÝ CỦA HIẾN PHÁP
1980

1. Đặc điểm
- Là một bản Khải hoàn ca, theo cảm xúc duy ý chí, đưa đất nước tiến
nhanh, tiến mạnh lên CNXH
- Chương thứ nhất, Hiến pháp quy định chế độ chính trị của nước
CHXHCNVN: “NNCHXHCNVN là NN chuyên chính vô sản. Điểm
đặc biệt của chương này là ở chỗ Hiến pháp không những quy đinh bản
chất giai cấp chuyên chính vô sản của NN CHXHCNVN mà còn quy
định rõ vai trò của Đảng Cộng sản Việt Nam “lực lượng duy nhất lãnh
đạo”
- Chương II quy định chế độ kinh tế. Hiến pháp không quy định sở hữu tư
nhân được tồn tại trong xã hội, theo quy định của Hiến pháp 1980, đất
đai được quy định là thuộc “sở hữu toàn dân” (Điều 19) do Nhà nước
thống nhất quản lý (Điều 20), từ đó các hình thức tư hữu hay cộng đồng
về đất đai không được từa nhận
- Hiến pháp năm 1980 là hiến pháp của cơ chế cũ – cơ chế tập trung quan
lieu bao cấp đã đẩy đất nước đến khủng hoảng về kinh tế, xã hội
- Nói chung các nội dung của Hiến pháp năm 1959 và Hiến pháp năm
1980 không có gì khác nhau về cơ bản. Chúng đều thể hiện cơ chế cũ
của chúng ta về CNXH. Đó là những bản Hiến pháp có mong muốn xây
dựng càng nhanh càng tốt các đặc điểm tiêu chí theo cách hiểu cũ của
chúng ta về CNXH.
2. Giá trị lịch sử, pháp lý
Hiến pháp 1980 là Hiến pháp thống nhất đất nước, xây dựng CNXH trên
toàn vẹn đất nước. Có thể nói rằng Hiến pháp 1980 là một bản Hiến
pháp thể hiện một cách đầy đủ nhất những nhận thức cũ của Việt Nam
về dân chủ của CNXH. Đó là một NN chuyên chính vô sản, dưới sự lãnh
đạo của Đảng Cộng sản với chủ trương xây dựng CNXH thành công vào
những năm cuối của thế kỷ 20.

Câu 20. ĐẶC ĐIỂM VÀ GIÁ TRỊ LỊCH SỬ, PHÁP LÝ CỦA HIẾN PHÁP
1992

1. Đặc điểm (Đổi lại tư duy)


Về cơ cấu và số điều khoản của Hiến pháp 1992 không thay đổi so với của
năm 1980, nhưng về mặt nội dung có rất nhiều thay đổi. Đó là những quy
đinh thể hiện nhận thức mới của Việt Nam thời kỳ đổi mới:
- Trước hết, đó là việc Hiến pháp thời mở cửa không quy định rõ bản chất
chuyên chính vô sản của NN CHXHCNVN, bản chất đó được thể hiện
qua quy định “NN của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân”.
- Thứ hai, quyền lực nhà nước tập trung thống nhất vào quốc hội, không
phân chia rõ ràng giữa các quyền hành pháp, lập pháp và tư pháp.
- Thứ ba, từ bỏ những quy đinh thể hiện cơ chế tập trung, kế hoạch, bao
cấp của nhân thức cũ. Đó là việc tách chức năng nguyên thủ quốc gia và
thường trực giữa 2 kỳ họp Quốc hội của Hội đồng NN thành 2 chế định
riêng rẽ là Chủ tịch nước cá nhân và Ủy ban thường vụ Quốc hội.
- Thứ tư, mặc dù là đổi mới toàn diện, nhưng Hiến pháp vẫn phải đảm bảo
sự ổn định chế độ chính trị. Đó là một sự đổi mới chậm chắc về chính
trị, mà nội dung biểu hiện của nó là: Chính thể CHXHCN và vai trò lãnh
đạo của ĐẢng Cộng sản vẫn được giữ nguyên trong các quy định cảu
Hiến pháp 1992.
2. Giá trị lịch sử, pháp lý
Hiến pháp 1992 là Hiến pháp đẩy mạnh công cuộc đổi mới toàn diện đất
nước, củng cố những thành tựu bước đầu trong công cuộc đổi mới kinh tế,
chính trị, văn hóa.
Hiến pháp 1992 là bản Hiến pháp thứ tư của nước ta. Mỗi một bản Hiến
pháp đánh dấu một thời kỳ hay một giai đoạn cách mạng, củng cố về mặt
pháp lý những thắng lợi đã đạt được và bảo đảm phát huy những thắng lợi
đó trong giai đoạn phát triển mới của đất nước.
Được ban hành trong tình hình thế giới đang có những biến động nhanh
chóng, phức tạp, trước sự đổ vỡ của nhiều nước XHCN, trong điều kiện
công cuộc đổi mới, mặc dù đã giành được một số thắng lợi, nhưng còn rất
nhiều khó khăn, Hiến pháp 1992 là biểu hiện sự đồng tâm, nhất trí cao độ
của Đảng và nhân dân ta trong việc tiếp tục con đường xây dựng CNXH.
Hiến pháp 1992 là văn bản có hiệu lực pháp lý cao nhất thể chế hóa đường
lối, chủ trương của Đại hội Đảng Cộng sản Việt Nam lần thứ VII.
Câu 21. ĐẶC ĐIỂM VÀ GIÁ TRỊ LỊCH SỬ, PHÁP LÝ CỦA HIẾN PHÁP
2013

1. Đặc điểm
- Lời nói đầu:cô đọng, súc tích hơn.
- Chế độ chính trị: Tiếp tục khẳng định bản chất và mô hình tổng thể của
chế độ chính trị được xác định trong Cương lĩnh và Hiến pháp 1992;
đồng thời làm rõ hơn một số vấn đề như phương thức nhân dân thực
hiện quyền lực NN bằng hình thức dân chủ trực tiếp, dân chủ đại diện.
Chính sách đối ngoại được sửa đổi, bổ sung cho phù hợp tình hình mới.
- Quyền con người, quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân: Bổ sung
một số quyền mới là kết quả của quá trình đổi mới đất nước, phù hợp
với các điều ước quốc tế về quyền con người mà Việt Nam là thành
viên.
- Kinh tế, xã hội, văn hóa, giáo dục, khoa học, công nghệ và môi trường:
Bổ sung quy định quyền sử dụng đất là quyền tài sản được pháp luật bảo
hộ (điều 58); quy định trách nhiệm của NN trong việc bảo vệ quyền, lợi
ích hợp pháp của người lao động.
- Bảo vệ Tổ quốc: bổ sung việc thực hiện nghĩa vụ quốc tế của lực lượng
vũ trang nhân dân.
- Bộ máy NN: làm rõ hơn nguyên tắc phân công phối hợp, kiểm soát
quyền lực giữa các cơ quan NN; bổ sung một số thiế chế hiến định độc
lập là Hội đồng Hiến pháp, Hội đồng bầu cử quốc gia và Kiểm toán NN.
2. Giá trị lịch sử, pháp lý
Hiến pháp 2013 tiếp tục chỉnh sửa những thành công, thất bại của Hiến pháp
1992; đưa nhân quyền vào và được đẩy lên chương II; làm rõ hơn về việc
kiểm soát quyền lực của bộ máy NN.

Câu 22 :Vị trí, vai trò của Lời nói đầu trong Hiến pháp.Đặc điểm của Lời nói
đầu trong các Hiến pháp năm 1946, 1959, 1980, 1992, 2013.

1, Vị trí, vai trò của Lời nói đầu trong Hiến pháp

a. Vị trí của Lời nói đầu trong Hiến pháp


- Lời nói đầu của một bản Hiến pháp được đặt ở vị trí đầu tiên, là phần đầu tiên,
phần giới thiệu của các bản Hiến pháp, có thể ví như một cánh cửa mở vào một
ngôi nhà Hiến pháp (thầy Vũ Công Giao ).

b, Vai trò của Lời nói đầu trong Hiến pháp

- Lời nói đầu là sự giới thiệu về Hiến pháp.

- Mục đích của lời nói đầu: Thể hiệ tinh thần, tư tưởng của bản Hiến Pháp.

- Lời nói đầu cần khẳng định được chủ thể của việc ban hành và xây dựng Hiến
Pháp là NHÂN DÂN. Đây là điều được thừa nhận rộng rãi và được phản ánh trong
lời nói đầu của HP ở hầu hết các quốc gia trên thế giới hiện nay.

- Lời nói đầu dẫn dắt truyền thống lịch sử dân tộc, tình thế, hướng đi của đất nước ,
tuy nhiên thường ngắn gọn và cô đọng.

→ Lời nói đầu của một bản Hiến pháp phải đảm bảo thực hiện được những điều
kể trên một cách cơ bản, ngắn gọn, súc tích, tập trung vào 2 khía cạnh cơ bản đó
là: Mục đích và chủ thể của Hiến Pháp.

2,Đặc điểm của Lời nói đầu trong các Hiến pháp năm 1946, 1959, 1980, 1992,
2013

- Dung lượng Lời nói đầu của từng bản hiến pháp như sau (tính cả dấu chấm,
phẩy, dấu ngoặc): Hiến pháp 1946: 238 từ; Hiến pháp 1959: 1276 từ; Hiến pháp
1980: 2982 từ, Hiến pháp 1992 (sửa đổi năm 2001): 538 từ. Như vậy, Lời nói đầu
của Hiến pháp 1967 ngắn gọn nhất, tiếp sau là của Hiến pháp 1946; trong khi Lời
nói đầu của Hiến pháp 1980 dài nhất (cũng thuộc về những lời nói đầu hiến pháp
dài nhất trên thế giới), tiếp theo là của Hiến pháp 1959 và Hiến pháp 1992.

+ Sở dĩ Lời nói đầu của các Hiến pháp 1959,1980,1992 dài như vậy là do ảnh
hưởng của phong cách lập hiến XHCN (lời nói đầu, và cả nội dung, của hiến pháp
các nước XHCN thường rất dài).

- Về nội dung:

+ Lời nói đầu của các Hiến pháp 1946 nêu rõ chủ thể của quyền lập hiến

+ Các Hiến pháp 1959,1980,1992 không đề cập đến vấn đề này.


+ Các Hiến pháp 1946 nêu ra những mục đích tổng quát như tự do, dân chủ,
công bằng, bình đẳng, bác ái, nhân quyền và độc lập, đoàn kết, thống nhất dân
tộc… Các Hiến pháp 1959,1980,1992 nhấn mạnh những mục tiêu độc lập dân tộc,
thống nhất đất nước (Hiến pháp 1959), bảo vệ Tổ quốc và xây dựng CNXH.

+ Các Hiến pháp 1946 có phần dẫn dắt ngắn gọn về lịch sử và tình thế của đất
nước, trong khi ở các Hiến pháp 1959,1980,1992 phần này rất dài, nhấn mạnh diễn
biến, những thắng lợi của cách mạng và vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản.
Điều này khiến Hiến pháp mang đậm tính chính trị, trong khi bản chất của nó là
văn bản pháp lý tối cao của nhà nước.

- So với Hiến pháp 1992, Lời nói đầu của Dự thảo Hiến pháp 1992 sửa đổi năm
2013 được rút gọn hơn (hiện còn 448 từ) với các mục tiêu được sửa đổi ít nhiều,
nhưng về cơ bản vẫn theo mô-típ xuyên suốt các Hiến pháp 1959,1980,1992, thể
hiện rõ nhất ở các đoạn dẫn dắt và các mục tiêu.

Có một điểm mới so với Lời nói đầu của Hiến pháp hiện hành 1992, đó là thêm
cụm từ “chủ quyền nhân dân”. Tuy nhiên, cách diễn đạt và vị trí của cụm từ này
không khẳng định rõ ràng nhân dân là chủ thể của quyền lập hiến.

Từ những phân tích trên, có thể thấy cần tiếp tục sửa đổi Lời nói đầu của Dự thảo
Hiến pháp để khẳng định rõ quyền lập hiến của nhân dân. Chỉ nên quy định những
mục tiêu khái quát và quan trọng (dân chủ, nhân quyền, bình đẳng, độc lập, đoàn
kết dân tộc…), không nên nêu dài dòng, trừu như hiện nay. Các đoạn dẫn dắt cũng
cần rút gọn, chỉ nên đề cập đến truyền thống lịch sử và định hướng phát triển
chung của toàn dân tộc. Việc tôn vinh sự nghiệp cách mạng, vai trò của Đảng nên
để trong các văn kiện của Đảng.

Câu 23: Chế độ chính trị theo các Hiến Pháp năm 1946, 1959, 1980, 1992,
2013

* Chế độ chính trị là cách tổ chức chính trị, kinh tế xã hội, luật pháp, hành
chính, có nhiệm vụ điều hành đời sống của quần chúng nhân dân. Có thể nói,
chế độ chính trị như nền tảng của một ngôi nhà và quần chúng nhân dân là
những con người sinh sống trong ngôi nhà đó.

1,Chế độ chính trị theo HP năm 1946


- Về toàn vẹn lãnh thổ

Điều 2: nước VN là một khối Trung Nam Bắc ko thể phân chia

- Về hình thức Nhà nước

Điều 3 khẳng định : Nước Việt Nam là một nước dân chủ cộng hòa (theo chế độ
dân chủ tư sản)

- Về vấn đề “Đảng lãnh đạo”: Đa nguyên đa đảng

- Vấn đề chính sách đoàn kết dân tộc

Điều 1: tất cả quyền trong nước là của nhân dân việt Nam ko phân biệt nòi giống,
gái trai, giàu nghèo, giai cấp, tôn giáo

2, Chế độ chính trị theo HP năm 1959

- Về toàn vẹn lãnh thổ

Điều 1 nói: Đất nước Việt Nam là một khối Bắc Nam thống nhất không thể chia
cắt.

- Về hình thức Nhà nước

Điều 2: Nước Việt Nam dân chủ cộng hoà tuy nhiên khác với HP 1946 là có 1
Đảng lãnh đạo

3, Chế độ chính trị theo HP năm 1980

-Về vấn đề toàn vẹn lãnh thổ

Điều 1: Nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam là một nước độc lập, có chủ
quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ, bao gồm đất liền, vùng trời, vùng biển và
các hải đảo.

3.2, Về hình thức Nhà nước

Điều 2 HP 80 KĐ: Nhà nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam là Nhà nước
chuyên chính vô sản

3.3, Về vấn đề “Đảng lãnh đạo”


Điều 4 quy định: Đảng cộng sản Việt Nam là lực lượng duy nhất lãnh đạo nhà
nước

- Vấn đề chính sách đoàn kết dân tộc

Điều 5: Nhà nước bảo vệ, tăng cường và củng cố khối đại đoàn kết dân tộc,
nghiêm cấm mọi hành vi miệt thị, chia rẽ dân tộc.

Các dân tộc có quyền dùng tiếng nói, chữ viết, giữ gìn và phát huy những phong
tục, tập quán, truyền thống và văn hoá tốt đẹp của mình.

Nhà nước có kế hoạch xoá bỏ từng bước sự chênh lệch giữa các dân tộc về trình độ
phát triển kinh tế và văn hoá.

4, Chế độ chính trị trong HP năm 1992

- Về toàn vẹn lãnh thổ

- Về hình thức Nhà nước

Điều 2: Nhà nước CHXHCNVN là Nhà nước pháp quyền XHCN của nhân dân, do
nhân dân, vì nhân dân

4.3, Về vấn đề “Đảng lãnh đạo”

Điều 4: Đảng cộng sản Việt Namlà lực lượng lãnh đạo Nhà nước và xã hội.

Mọi tổ chức của Đảng hoạt động trong khuôn khổ Hiến pháp và pháp luật.

- Về chính sách đoàn kết dân tộc

5, Chế độ chính trị trong HP năm 2013

- Về toàn vẹn lãnh thổ: tương tự các HP trước

- Về hình thức Nhà nước

Điều 2.1 HP khẳng định :Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa VN là nhà nước
pháp quyền xã hội chủ nghĩa của Nhân dân, do Nhân dân, vì Nhân dân.

- Về vấn đề “Đảng lãnh đạo”

Điều 4: ĐCSVN là lực lượng lãnh đạo NN và xã hội.


- Về chính sách đoàn kết dân tộc: tương tự các bản HP trước

*Nhận xét chung:


1, Về toàn vẹn lãnh thổ

Có thể thấy rằng quy định về việc toàn vẹn lãnh thổ được sử dụng biện pháp liệt
kê, và tiến bộ dần theo thời gian bởi sự đầy đủ của nó.

Năm 1946 cần nói rằng khối Trung Nam Bắc vì thời kỳ đó còn tư tưởng chia 3 kỳ
(Bắc Kỳ, Trung Kỳ, Nam Kỳ), tới năm 1959 nói khối Bắc Nam thống nhất nghĩa là
đã kéo dài từ Bắc vào Nam (đã bao gồm cả miền Trung), năm 1980 thì nêu đầy đủ
hơn bao gồm cả các hải đảo và vùng biển (lúc này đã tranh chấp với Trung Quốc
về Hoàng Sa và Trường Sa), Hiến pháp 1992 thì nội dung tương tự nhưng đưa hải
đảo vào cạnh đất liền để khẳng định tính quan trọng của hải đảo, cuối cùng là HP
năm 2013 nội dung: Nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là một nước độc
lập, có chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ, bao gồm đất liền, hải đảo,
vùng biển và vùng trời.

2, Về hình thức Nhà nước

Cái này có thể nhận định là tùy thuộc vào tình hình của xã hội mà quy định, sự tiến
bộ ở đây chỉ là tương đối bị chi phối bởi hoàn cảnh kinh tế, nên ko có sự tiến bộ
trong lập pháp mà chỉ là sự tiến bộ xã hội.

Tuy nhiên, có thể nhận định là HP 1980 đã có chút độc đoán trong việc khẳng định
nhà nước CHXHCNVN là nhà nước chuyên chính vô sản.
Hiến pháp 46 quy định rất chung chung, tới Hiến pháp 59 thì mới khẳng định
quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân, tới HP 80 thì quyền lực thu hẹp lại thuộc
về giai cấp vô sản, và tới HP 92 sửa đổi thì lại trở về quyền lực thuộc về nhân dân,
Hp năm 2013 cũng kđịnh đc quyền lực NN thuộc về nhân dân, đồng thời có điểm
rất mới : Lần đầu tiên trong lịch sử lập hiến, nguyên tắc “kiểm soát quyền lực”
được ghi nhận trong Hiến pháp, với quy định: “Quyền lực Nhà nước là thống nhất,
có sự phân công, phối hợp, kiểm soát giữa các cơ quan Nhà nước trong việc thực
hiện các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp” (Khoản 3, Điều 2). Đây là nguyên
tắc của Nhà nước pháp quyền để các cơ quan lập pháp, hành pháp, tư pháp thực thi
có hiệu lực, hiệu quả chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của mình theo Hiến pháp và
pháp luật, tránh việc lợi dụng, lạm dụng quyền lực; phòng, chống quan liêu, tham
nhũng, lãng phí; để nhân dân có cơ sở hiến định giám sát quyền lực Nhà nước.

3, Về vấn đề “Đảng lãnh đạo”

Hiến pháp 46 và 59 chưa quy định vì hoàn cảnh lịch sử khi nhà nước chưa là nhà
nước xã hội chủ nghĩa mà chỉ là nhà nước cộng hòa nhân dân thì vẫn chấp nhận đa
đảng, tuy nhiên tới HP 80 và 92 thì đã khẳng định vai trò lãnh đạo của Đảng.

Vai trò của Đảng quy định trong HP 92 đúng đắn hơn khi mà Đảng chỉ là đội ngũ
lãnh đạo, còn theo như quy định trong HP 80 thì rất dễ xảy ra việc nhầm lẫn giữa
chức năng của Đảng và Nhà nước, kèm theo đó là việc quá đề cao Đảng lãnh đạo
một cách không cần thiết.HP năm 2013 bổ sung vào Điều 4 quy định về trách
nhiệm của Đảng phải “gắn bó mật thiết với nhân dân, phục vụ nhân dân, chịu sự
giám sát của nhân dân, chịu trách nhiệm trước nhân dân về những quyết định của
mình”. Sự bổ sung này thể hiện bản chất tiên phong, cách mạng, quy định rõ trách
nhiệm chính trị - pháp lý của Đảng đối với nhân dân.

4, Về chính sách đoàn kết dân tộc

Có thể thấy sự quy định đã rõ ràng hơn qua các bản Hiến pháp, từ một sự quy định
chung chung về quyền quyết định của toàn dân trong HP 46 tới các quy định cụ thể
trong các bản HP sau, tiến bộ dần qua các bản HP.

Điều 5 (HP 2013)

1. Nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là quốc gia thống nhất của các dân
tộc cùng sinh sống trên đất nước Việt Nam.

2. Các dân tộc bình đẳng, đoàn kết, tôn trọng và giúp nhau cùng phát triển; nghiêm
cấm mọi hành vi kỳ thị, chia rẽ dân tộc.

3. Ngôn ngữ quốc gia là tiếng Việt. Các dân tộc có quyền dùng tiếng nói, chữ viết,
giữ gìn bản sắc dân tộc, phát huy phong tục, tập quán, truyền thống và văn hóa tốt
đẹp của mình.

4. Nhà nước thực hiện chính sách phát triển toàn diện và tạo điều kiện để các dân
tộc thiểu số phát huy nội lực, cùng phát triển với đất nước.
Câu 24: Những điểm mới của Hiến pháp năm 2013 về chế độ chính trị

- Về tên gọi: Chế độ chính trị được quy định tại Chương I trên cơ sở sửa đổi tên
Chương I của Hiến pháp năm 1992 ( Nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam –
Chế độ chính trị) và gộp với Chương XI của Hiến pháp năm 1992 ( Quốc kỳ, Quốc
huy, Quốc ca, Thủ đô, ngày Quốc khánh) vì đây là những nội dung gắn liền với
chế độ chính trị của quốc gia.

- Hiến Pháp 2013 đã làm rõ hơn, đầy đủ và sâu sắc hơn một số vấn đề như sau:

+ Thứ nhất, khẳng định nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là một
nước độc lập, có chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ, bao gồm đất liền, hải
đảo, vùng biển và vùng trời ( Điều 1).

+ Thứ hai, tiếp tục thể hiện nhất quán quan điểm “tất cả quyền lực nhà nước
thuộc về Nhân dân mà nền tảng là liên minh giữa giai cấp công nhân với giai cấp
nông dân và đội ngũ trí thức”, bổ sung thêm một điểm mới là “Nước Cộng hòa xã
hội chủ nghĩa Việt Nam do Nhân dân làm chủ” (khoản 2, Điều 2).

Bổ sung và phát triển nguyên tắc “Quyền lực nhà nước là thống nhất, có
sự phân công, phối hợp, kiểm soát giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực
hiện quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp” (khoản 3, Điều 2) theo tinh thần của
Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ( bổ sung
và phát triển năm 2011). Đây là điểm mới quan trọng so với các bản Hiến pháp
trước đây, lần đầu tiên nguyên tắc “kiểm soát quyền lực” được ghi nhận trong
Hiến pháp. Kiểm soát quyền lực là nguyên tắc của Nhà nước pháp quyền để các
cơ quan lập pháp, hành pháp, tư pháp thực thi có hiệu lực, hiệu quả chức năng,
nhiệm vụ, quyền hạn của mình theo Hiến pháp và pháp luật, tránh việc lợi dụng,
lạm dụng quyền lực.

+ Thứ ba, tiếp tục khẳng định tính lịch sử, tính tất yếu khách quan sự lãnh
đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam đối với quá trình cách mạng, xây dựng và bảo
vệ Tổ quốc của nước ta. Đồng thời làm rõ hơn, đầy đủ hơn bản chất, vai trò lãnh
đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam không chỉ là “đội tiên phong của giai cấp công
nhân” mà đồng thời là “đội tiên phong của nhân dân lao động và của dân tộc Việt
Nam” (khoản 1 Điều 4); bổ sung quy định về trách nhiệm của Đảng “phải gắn bó
mật thiết với Nhân dân, chịu sự giám sát của Nhân dân, chịu trách nhiệm trước
Nhân dân về những quyết định của mình” ( khoản 2 Điều 4); tiếp tục khẳng định
không chỉ tổ chức đảng có trách nhiệm mà còn bổ sung quy định trách nhiệm của
đảng viên hoạt động trong khuôn khổ Hiến pháp và pháp luật ( khoản 3 Điều 4).

+ Thứ tư, tiếp tục khẳng định các dân tộc bình đẳng, đoàn kết, tôn trọng và
giúp nhau cùng phát triển, nghiêm cấm mọi hành vi kỳ thị, chia rẽ dân tộc. Ngôn
ngữ quốc gia là Tiếng Việt...Hiến pháp bổ sung điểm mới rất quan trọng là “Nhà
nước thực hiện chính sách phát triển toàn diện và tạo điều kiện để các dân tộc thiểu
số phát huy nội lực, cùng phát triển với đất nước” ( khoản 4 Điều 5) so với Hiến
pháp năm 1992 quy định “Nhà nước thực hiện chính sách phát triển về mọi mặt,
từng bước nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của đồng bào dân tộc thiểu số”.

+ Thứ năm, bổ sung nguyên tắc “Nhân dân thực hiện quyền lực nhà
nước bằng dân chủ trực tiếp” (khoản 1 Điều 6). Đây là lần đầu tiên nguyên tắc
này được ghi nhận trong Hiến pháp. Tiếp tục khẳng định nguyên tắc “phổ thông,
bình đẳng, trực tiếp và bỏ phiếu kín” trong bầu cử đại biểu Quốc hội, Hội đồng
nhân dân; quy định đại biểu Quốc hội, đại biểu Hội đồng nhân dân bị bãi nhiệm
khi không còn xứng đáng với sự tín nhiệm của Nhân dân ( Điều 7).

+ Thứ sáu, tiếp tục khẳng định và thể hiện rõ hơn tư tưởng phát huy sức
mạnh đại đoàn kết dân tộc, coi đại đoàn kết dân tộc là động lực, nguồn sức mạnh
to lớn để xây dựng và phát triển đất nước, được thể hiện ở Lời nói đầu, trong quy
định về Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, bổ sung vai trò của Mặt trận Tổ quốc trong
“tập hợp, phát huy sức mạnh đại đoàn kết dân tộc, thực hiện dân chủ, tăng cường
đồng thuận xã hội, giám sát, phản biện xã hội” (khoản 1 Điều 9); Công đoàn là tổ
chức chính trị - xã hội giai cấp công nhân và người lao động, đại diện cho người
lao động, chăm lo và bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp, chính đáng của người lao
động; tham gia quản lý nhà nước, quản lý kinh tế - xã hội; tham gia kiểm tra, thanh
tra, giám sát hoạt động của các cơ quan nhà nước, tổ chức, đơn vị, doanh nghiệp về
những vấn đề liên quan đến quyền, nghĩa vụ của người lao động; tuyên truyền, vận
động người lao động học tập và nâng cao trình độ, kỹ năng nghề nghiệp, chấp hành
pháp luật, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc ( Điều 10).

Ghi nhận vị trí, vai trò của Hội nông dân, Đoàn thanh niên cộng sản Hồ Chí Minh,
Hội liên hiệp phụ nữ Việt Nam, Hội cựu chiến binh Việt Nam là các tổ chức chính
trị - xã hội đại diện và bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp, chính đáng thành viên, hội
viên của tổ chức mình; cùng với các tổ chức thành viên khác của Mặt trận phối hợp
và thống nhất hành động trong Mặt trận Tổ quốc Việt Nam (khoản 2, Điều 9).

+ Thứ bảy, sửa đổi, bổ sung chính sách đối ngoại của nước ta cho phù hợp
với tình hình mới, khẳng định thực hiện nhất quán đường lối đối ngoại độc lập, tự
chủ, hòa bình, hữu nghị, hợp tác và phát triển; đa phương hóa, đa dạng hóa quan
hệ, chủ động và tích cực hội nhập, hợp tác quốc tế trên cơ sở tôn trọng độc lập, chủ
quyền và toàn vẹn lãnh thổ, không can thiệp vào công việc nội bộ của nhau, bình
đẳng, cùng có lợi; tuân thủ Hiến chương Liên hợp quốc và các điều ước quốc tế mà
Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là thành viên; là bạn, đối tác tin cậy và là
thành viên có trách nhiệm trong cộng đồng quốc tế vì lợi ích quốc gia, dân tộc, góp
phần vào sự nghiệp hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội trên thế
giới (Điều 12).

+ Thứ tám, các nội dung gắn với chế độ chính trị của quốc gia như Quốc kỳ,
Quốc huy, Quốc ca, Thủ đô, ngày Quốc khánh, nội dung cơ bản giữ nguyên như
Hiến pháp năm 1992, được gộp chung thành một điều ( Điều 13).

Câu 25 : Quy định về vai trò của Đảng cộng sản Việt Nam trong các Hiến
pháp năm 1959,1980,1992, 2013.

+ Hiến pháp năm 1959, chưa có một điều riêng hiến định sự lãnh đạo của Đảng
đối với Nhà nước và xã hội. Tuy nhiên, khác với Hiến pháp năm 1946, vai trò của
Đảng đã được khẳng định rõ trong Lời nói đầu. Hiến pháp đã long trọng ghi nhận:
“Từ năm 1930, dưới sự lãnh đạo của đảng Cộng sản Đông Dương, nay là Đảng
Lao động Việt Nam, cách mạng Việt Nam đã tiến lên một giai đoạn mới, Cuộc đấu
tranh bền bỉ đầy gian khổ và hy sinh dũng cảm của nhân dân ta chống ách thống trị
của đế quốc và phong kiến đã giành được thắng lợi vĩ đại. Nguyên tắc tập trung
dân chủ là nguyên tắc hoạt động của Đảng được hiến định trong Hiến pháp 1959:
“Quốc hội, Hội đồng nhân dân các cấp và các cơ quan nhà nước khác đều thực
hành nguyên tắc tập trung dân chủ” (điều 4).

+ Hiến pháp năm 1980 khác với hai bản Hiến pháp trước đó, đến Hiến pháp
năm 1980, vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam đã được hiến định cụ thể
bằng một điều của Hiến pháp.Tuy nhiên bản HP năm 1980 với việc KĐ “duy
nhất” và quá đề cao vai trò của Đảng dễ dẫn đến việc nhầm lẫn giữa chức
năng của Đảng và Nhà nước. Điều 4 viết: “ Đảng Cộng sản Việt Nam, đội tiên
phong và bộ tham mưu chiến đấu của giai cấp công nhân Việt Nam, được vũ trang
bằng học thuyết Mác-Lênin, là lực lượng duy nhất lãnh đạo Nhà nước, lãnh đạo xã
hội, là nhân tố chủ yếu quyết định mọi thắng lợi của cách mạng Việt Nam. Đảng
tồn tại và phấn đấu vì lợi ích của giai cấp công nhân và nhân dân Việt Nam. Các
tổ chức của Đảng hoạt động trong khuôn khổ Hiến pháp”.

+ Hiến pháp năm tiếp tục khẳng định vai trò lãnh đạo của Đảng. Điều 4 Hiến
pháp 1992 đã có những bổ sung quan trọng, đầy đủ, làm rõ và sâu sắc hơn vai trò
lãnh đạo của Đảng đối với nhà nước và xã hội: “Đảng Cộng sản Việt Nam, đội tiên
phong của giai cấp công nhân Việt Nam, đại biểu trung thành quyền lợi của giai
cấp công nhân, nhân dân lao động và của cả dân tộc, theo chủ nghĩa Mác-Lê nin
và tư tưởng Hồ Chí Minh, là lực lượng lãnh đạo Nhà nước và xã hội. Mọi tổ chức
của Đảng hoạt động trong khuôn khổ Hiến pháp và pháp luật”.

+ Điều 4 Hiến pháp năm 2013 nêu rõ: “1. Đảng Cộng sản Việt Nam - Đội tiên
phong của giai cấp công nhân, đồng thời là đội tiên phong của Nhân dân lao động
và của dân tộc Việt Nam, đại biểu trung thành lợi ích của giai cấp công nhân,
Nhân dân lao động và của cả dân tộc, lấy chủ nghĩa Mác – Lê nin và tư tưởng Hồ
Chí Minh làm nền tảng tư tưởng là lực lượng lãnh đạo Nhà nước và xã hội. 2.
Đảng Cộng sản Việt Nam gắn bó mật thiết với Nhân dân, phục vụ Nhân dân, chịu
sự giám sát của Nhân dân, chịu trách nhiệm trước Nhân dân về những quyết định
của mình. 3. Các tổ chức của Đảng và đảng viên Đảng Cộng sản Việt Nam hoạt
động trong khuôn khổ Hiến pháp và pháp luật.". Quy định của Hiến pháp năm
2013 là kế thừa quy định tại điều 4 Hiến pháp 1992, đồng thời bổ sung quy định
làm rõ bản chất của Đảng theo tinh thần mới của Cương lĩnh. Chính do bản chất và
nền tảng tư tưởng đó nên nhân dân mới thừa nhận vai trò lãnh đạo Nhà nước và xã
hội của Đảng và được tiếp tục ghi nhận vào Hiến pháp năm 2013, có thể thấy ĐCS
có vai trò rất lớn và luôn được đề cao trong mọi bản Hiến pháp bắt đầu từ hp
năm 1959.

Câu 26: Chính thể Việt Nam theo Hiến pháp năm 1946, 1959, 1980, 1992 và
2013

●Theo HP năm 1946, chính thể VN là dân chủ cộng hòa, loại hình tổ chức NN
đoạn tuyệt hoàn toàn chế độ truyền ngôi, thế tập, hướng đến việc tranh thủ mọi lực
lượng trong và ngoài nước, chống lại sự phụ thuộc vào đế quốc thực dân, giành
độc lập cho dân tộc.Theo HP này, hình thức NN dân chủ cộng hòa có nhiều dấu
ấn của cộng hòa đại nghị, bởi vì ở đây Quốc hội (Nghị viện) đc quy định là cơ
quan NN cao nhất.Chính phủ đc thành lập dựa trên Quốc hội,chouj trách nhiệm
trước QH và chỉ HĐ khi vẫn đc QH tín nhiệm.Tuy nhiên khác hình thức tổ chức
cộng hòa đại nghị ở chỗ trong cơ cấu TCNN của HP 1946 có chế định nguyên thủ
quốc gia với một quyền năng rất lớn, không khác 1 tổng thống trong chính thể
cộng hòa tổng thống.

●Sang đến HP năm 1959,mặc dù tên gọi của chính thể ko thay đổi, vẫn là dân chủ
cộng hòa nhưng những đặc điểm của cộng hòa tổng thống đã giảm đi.Điều này
được thể hiện bằng việc nguyên thủ Quốc gia (Chủ tịch nước) không còn đồng thời
là người trực tiếp điều hành bộ máy hành pháp, mà nghiêng về chức năng tượng
trưng cho sự bền vững, thống nhất của dân tộc, như của những nguyên thủ QG của
chính thể cộng hòa đại nghị và quân chủ đại nghị.Chủ tịch nước chính thức hóa các
quyết định của QH, ủy ban Thường vụ QH hoặc của Hội đồng chính phủ.

●Chính thể VN theo HP năm 1980 là Cộng hòa XHCN, về cơ bản tổ chức quyền
lực NN so vs mô hình của HP năm 1959 không có thay đổi lớn.Những đặc điểm
của mô hình NNXHCN trước đây chưa thật rõ,thì bây h thể hiện rõ nét.Vs cơ chế
tập thể lãnh đạo, nguyên thủ QG ko phải là một cá nhân mà là do Hội đồng NN, đc
Q hội bầu ra, đảm nhiệm.Hội đồng NN đồng thời là cơ quan thường trực của
QH.Toàn bộ TC và HĐ của NN đặt dưới sự lãnh đạo của Đảng cộng sản VN .Cách
thức tổ chúc NN theo HP năm 1980 thể hiện cơ chế tập trung mà mang nhiều yếu
tố chủ quan, đac làm cho nền kinh tế, XH VN bị kìm hãm.

●HP năm 1992 về cơ bản vẫn là hình thức chính thể cộng hòa XHCN nhưng đã có
những điều chỉnh nhất định về bộ máy NN , chẳng hạn như nguyên thủ QG trở lại
vai trò cá nhân chủ tịch nước,…

●Hiến pháp năm 2013 :về cơ bản tương tự chính thể HP năm 1992 , tuy nhiên Hiến
pháp làm rõ thẩm quyền của Chủ tịch nước trong từng lĩnh vực lập pháp, hành
pháp, tư pháp và làm rõ hơn vai trò của Chủ tịch nước trong thống lĩnh lực lượng
vũ trang; giữ chức Chủ tịch Hội đồng quốc phòng và an ninh, quyết định phong,
thăng, giáng, tước quân hàm cấp tướng, chuẩn đô đốc, phó đô đốc, đô đốc hải
quân; bổ nhiệm, miễn nhiệm, cách chức Tổng tham mưu trưởng, Chủ nhiệm Tổng
cục Chính trị Quân đội nhân dân.
Câu 27 :Nội hàm của nguyên tắc hiến định: “Quyền lực nhà nước là thống
nhất, có sự phân công, phối hợp và kiểm soát giữa các cơ quan trong việc thực
hiện các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp.”

*Nội hàm của khái niệm “Quyền lực nhà nước….”

- Đây là nguyên tắc cốt lõi của HP VN

- Quyền lực NN là thống nhất nghĩa là tập trung vào Quốc hội

- Đã có sự phân công, phân quyền giữa hành pháp, lập pháp và tư pháp

- Trong quá trình tổ chức và hoạt động của các cơ quan, sự phân công, phối hợp,
kiểm soát luôn luôn được đặt trong nguyên tắc thống nhất quyền lực được quy định
trong Hiến pháp năm 2013, do vậy ít nhiều có sự khác biệt nhất định với kiềm chế,
đối trọng của nguyên tắc phân chia quyền lực theo thuyết Tam quyền phân lập của
các học giả tư sản.

- Kiểm soát quyền lực nhà nước được thực hiện đồng thời với nguyên tắc phối hợp
giữa các cơ quan nhà nước (hành pháp, lập pháp, tư pháp) trong việc thực hiện
quyền lực nhà nước

Câu 28: Nguyên tắc phân quyền là gì? Hiến pháp năm 2013 đã thể hiện
nguyên tắc này như thế nào?

* Phân quyền là cách tổ chức nhà nước mà quyền lực nhà nước được phân ra cho
các nhánh khác nhau, độc lập tương đối với nhau. Các nhánh này hợp tác, phối
hợp, giám sát và kiềm chế lẫn nhau trong thực hành quyền lực nhà nước.

Theo thuyết “Tam quyền phân lập” thường phân ra nhánh lập pháp, tư pháp và
hành pháp. Tất cả các nhà nước pháp quyền hiện đại thực chất đều được tổ chức
theo cách này. Đấy là một thành quả của văn minh nhân loại. Cho đến nay, loài
người vẫn chưa nghĩ ra cách hữu hiệu hơn về tổ chức nhà nước.

* Hiến pháp 2013 tuy vẫn khẳng định quyền lực nhà nước là thống nhất, có sự
phân công, phối hợp, nhưng lần đầu tiên có quy định thêm việc kiểm soát giữa
các cơ quan Nhà nước trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp, tư
pháp. Đây được xem là một điểm mới cực kỳ quan trọng trong việc tổ chức quyền
lực Nhà nước, tránh những nhánh quyền lực vượt quá quyền hạn, không thể kiểm
soát. Theo đó: xác định rõ ba bộ phận của quyền lực nhà nước với những thiết chế
thực hiện các quyền đó: Quốc hội được xác định là cơ quan đại biểu cao nhất của
nhân dân, cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất, thực hiện quyền lập hiến, quyền
lập pháp, và giám sát tối cao đối với hoạt động của Nhà nước. Chính phủ là cơ
quan hành chính nhà nước cao nhất, thực hiện quyền hành pháp; Tòa án nhân
dân là cơ quan xét xử, thực hiện quyền tư pháp; Viện kiểm sát nhân dân thực
hành quyền công tố, kiểm sát hoạt động tư pháp; Chính quyền địa phương là chế
định được thay cho các thiết chế HĐND và UBND trong Hiến pháp hiện hành; hai
thiết thế hiến định độc lập mới ra đời là Hội đồng bầu cử quốc gia và Kiểm toán
nhà nước. Hiến pháp năm 2013 cũng đã có những bổ sung quan trọng bảo đảm vị
thế và tính độc lập của hoạt động tư pháp - một yêu cầu không thể thiếu được trong
cơ chế phân công, phối hợp và kiểm soát quyền lực ở nước ta.

Hiến pháp vẫn khẳng định vai trò lãnh đạo Nhà nước và xã hội của Đảng Cộng sản
Việt Nam nhưng bổ sung một quy định rất quan trọng đó là “Đảng gắn bó mật thiết
với Nhân dân, phục vụ Nhân dân, chịu sự giám sát của Nhân dân, chịu trách
nhiệm trước Nhân dân về những quyết định của mình”. Khác với Hiến pháp
trước, từ nay Nhân dân thực hiện quyền lực nhà nước không chỉ bằng dân chủ đại
diện thông qua Quốc hội, HĐND mà còn thông qua các cơ quan khác của Nhà
nước.

Câu 29: Nguyên tắc tập quyền là gì?Nguyên tắc này thể hiện trong các Hiến
pháp Việt Nam như thế nào?

* Nguyên tắc tập quyền là tập trung toàn bộ quyền lực nhà nước vào tay một người
hoặc một cơ quan nào đó.

1, Nguyên tắc tập quyền trong Hiến pháp 1946:

Xét một cách tổng quát, Hiến pháp 1946 đã dành cho Chủ tịch nước một quyền lực
rất lớn nhưng lại không quy trách nhiệm chính trị một cách tương xứng.

Theo các điều khoản ghi trong Hiến pháp, Chủ tịch nước VNDCCH là người chủ
tọa Hội đồng Chính phủ (điều 49, mục d), được quyền chọn Thủ tướng để Nghị
viện biểu quyết (điều 47). Các quyền hạn cụ thể khác được ghi trong điều 49 (thay
mặt cho quốc gia, tổng chỉ huy quân đội, ký sắc lệnh bổ nhiệm Thủ tướng và các
thành viên Nội các, ban bố các đạo luật đã được Nghị viện thông qua, đặc xá, ký
hiệp ước và bổ nhiệm các quan chức ngoại giao, cùng với Ban Thường vụ Nghị
viện quyết định đình chiến hay tuyên chiến khi Nghị viện không họp được,…) cho
thấy Chủ tịch nước vừa là nguyên thủ quốc gia (head of state), vừa là người đứng
đầu Chính phủ (head of government). Điều nghịch lý là Chủ tịch nước lại không
chịu bất kỳ trách nhiệm chính trị nào: “Chủ tịch nước ViệtNam không phải chịu
một trách nhiệm nào, trừ khi phạm tội phản quốc.” (điều 50)

→Nhận xét chung: mặc dù là văn bản lập hiến khá nhất trong số các bản hiến pháp
đã soạn thảo dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, Hiến pháp 1946 đã
không bảo đảm được sự cân bằng giữa các thiết chế chính trị theo đúng nguyên tắc
“tam quyền phân lập”. Cán cân quyền lực nghiêng hẳn về một phía (Chủ tịch
nước) trong khi quyền lực của cơ quan lập pháp (Nghị viện) lại lọt vào tay một
thiểu số (Ban Thường vụ Nghị viện) khiến cho quyền lực của Chủ tịch nước trở
thành gần như tuyệt đối.

2,Nguyên tắc tập quyền của Hiến pháp 1959

Hiến pháp 1959 chuyển Nhà nước ta sang mô hình XHCN kiểu Xô- Viết.Do áp
dụng mạnh mẽ mô hình tập quyền xã hội chủ nghĩa (tuy vẫn còn một vài yếu tố
dân chủ của người dân) nên thiết chế chủ tịch nước đc xây dựng lại phù hợp với
giai đoạn phát triển mới đó, theo đó quốc hội là cơ quan quyền lực cao nhất, thống
nhất các quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp.Điều 43 Chương IV HP năm 1959
quy định : “Quốc hội là cơ quan quyền lực Nhà nước cao nhất của nước Việt Nam
dân chủ cộng hòa” , Điều 44 : “Quốc hội là cơ quan duy nhất có quyền lập pháp
của nước VN dân chủ cộng hòa” .Các cơ quan khác đc Quốc hội lập ra, phân giao
nhiệm vụ , quyền hạn và chịu giám sát trước Quốc hội, Quốc hội đương nhiên nắm
cả quyền nguyên thủ.Ở nước ta, chế định về chủ tịch nước vẫn tồn tại nhưng quyết
định lại cho phù hợp hơn.Chủ tịch nước phát sinh từ Quốc hội, cùng Quốc hội thực
hiện các chức năng nguyên thủ, điều phối các cơ quan nhà nước cao cấp trong bộ
máy Nhà nước.

3, Nguyên tắc tập quyền của HP năm 1980

●Tại HP năm 1980, Chủ tịch nước cá nhân đc thay thế bằng chế định Chủ tịch
nước tập thể dưới hình thức “Hội đồng NN – Cơ quan hoạt động thường xuyên của
Quốc hội là Chủ tịch nước tập thể Nước cộng hòa xã hội chủ nghĩa VN” (Điều 98-
HP năm 1980).Đây là mô hình tổ chức nguyên thủ quốc gia chung của các nhà
nước xã hội chủ nghĩa mà ở đó nguyên tắc tập quyền đc vận dụng triệt để.Với cách
tổ chức này thì các hoạt động của Nhà nước đều trực tiếp thực hiện bởi các cơ quan
quyền lực Nhà nước cao nhất của người dân ,cơ quan quyền lực nhà nước cao
nhất.Bản thân Hội đồng Bộ trưởng (tức Chính phủ) cũng đc tổ chức ,gắn liền với
Quốc hội (Hội đồng bộ trưởng là cơ quan chấp hành và hành chính Nhà nước cao
nhất của cơ quan quyền lực NN cao nhất –Điều 104 HP 1980)

● “Quốc hội có thể tự đặt cho mình những nhiệm vụ quyền hạn mới” “Quốc hội có
thể giao cho Hội đồng Nhà nước và Hội đồng Bộ trưởng những nhiệm vụ, quyền
hạn mới”. Tất cả các quy định đó thể hiện xu hướng tập quyền, tập trung quyền lực
vào Quốc hội. Nhưng đồng thời cũng cần phải nhận thấy rằng tập quyền càng cao
bao nhiêu thì sự phân công lao động quyền lực lại càng không rõ bấy nhiêu trong
bộ máy nhà nước và đi cùng với nó là chế độ trách nhiệm tập thể được đề cao,
trong khi trách nhiệm cá nhân lại không được quy định rõ ràng trong Hiến pháp.

Như vậy, Hiến pháp 1959 như là bước quá độ thể hiện quan điểm tập quyền, tập
trung quyền lực vào Quốc hội, còn đỉnh cao của nó thể hiện ở Hiến pháp 1980.

4, Nguyên tắc tập quyền của HP năm 1992

Hiến pháp 1992 đã kế thừa những tư tưởng tổ chức quyền lực nhà nước trong
những Hiến pháp trước đây. Nhưng, ở khía cạnh phân công chức năng, thẩm quyền
giữa các cơ quan nhà nước, đã thể hiện rõ nét và đầy đủ hơn về tổ chức thực hiện
quyền lực nhà nước như¬ b¬ước chuyển về sự phân công lao động trong bộ máy
nhà nước, nhưng vẫn đảm bảo quyền lực thống nhất thuộc về nhân dân. Điều đó
thể hiện thông qua các quy định của Hiến pháp: “...Tất cả quyền lực nhà nước
thuộc về nhân dân mà nền tảng là liên minh giữa giai cấp công nhân với giai cấp
nông dân và đội ngũ trí thức.”, 1)“Quốc hội là cơ quan đại biểu cao nhất của nhân
dân, cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất của nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa
Việt Nam. Quốc hội là cơ quan duy nhất có quyền lập hiến và lập pháp. Quốc hội
quyết định những chính sách cơ bản về đối nội và đối ngoại, nhiệm vụ kinh tế - xã
hội, quốc phòng, an ninh của đất nước, những nguyên tắc chủ yếu về tổ chức và
hoạt động của bộ máy nhà nước, về quan hệ xã hội và công dân.”, 2) “Chính phủ là
cơ quan chấp hành của Quốc hội, cơ quan hành chính nhà nước cao nhất của nước
Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam...” 3) Các toà án do luật định, là cơ quan xét
xử của nước được thành lập trên cơ sở nhân danh nhà nước, độc lập và chỉ tuân
theo pháp luật khi xét xử các vụ án. Tất cả những vấn đề có tính nguyên tắc đó chi
phối toàn bộ quá trình thiết lập bộ máy nhà nước, đặc biệt là việc xác định thẩm
quyền của các cơ quan nhà nước và quan hệ giữa các cơ quan nhà nước với các cơ
quan quyền lực nhà nước.

Điều đáng lưu ý là Hiến pháp 1992 đã tiếp thu những quy định của Hiến pháp 1959
khi quy định về vị trí chính trị - pháp lý của Chính phủ trong mối tương quan với
Quốc hội và Hiến pháp 1992 bắt đầu đi theo hướng tăng quyền cho Thủ tướng
Chính phủ.Điều 109 Hp năm 1992 quy định : “Chính phủ là cơ quan chấp hành của
Quốc hội, cơ quan hành chính Nhà nước cao nhất của nước Cộng hòa XHCN
VN”.Điều này cho thấy, so với HP năm 1980 thì CP theo Hiến pháp năm 1992 mặc
dù vẫn là cơ quan phát sinh từ Quốc hội, nhưng Quốc hội lập ra và trao cho CP
quyền hành pháp-Trong lĩnh vực này, CP là cơ quan có thẩm quyền cao nhất.Nói
tóm lại , nguyên tắc tập quyền XHCN là nguyên tắc căn bản xuyên suốt bộ máy
NN nước ta.

5, Nguyên tắc tập quyền trong HP năm 2013

Về tổ chức bộ máy Nhà nước, ở chương V Hiến pháp tiếp tục khẳng định Quốc hội
là cơ quan đại biểu cao nhất của nhân dân, cơ quan quyền lực nhà nước cao
nhất của nước CHXHCN Việt Nam nhưng đã không xác định Quốc hội là cơ
quan duy nhất có quyền lập hiến và lập pháp. Đồng thời, trong việc quyết định kế
hoạch phát triển kinh tế - xã hội của đất nước và chính sách quốc gia, Quốc hội chỉ
quyết định mục tiêu, chỉ tiêu, chính sách, nhiệm vụ cơ bản phát triển kinh tế - xã
hội; quyết định chính sách cơ bản về tài chính, tiền tệ.

Đối với thiết chế Chủ tịch nước, Hiến pháp mới có nhiều bổ sung quan trọng về
thẩm quyền của Chủ tịch nước, tương xứng với vị trí là nguyên thủ quốc gia, người
đứng đầu Nhà nước, thay mặt Nhà nước về đối nội, đối ngoại, thống lĩnh các lực
lượng vũ trang, Chủ tịch Hội đồng Quốc phòng và An ninh như quyền quyết định
phong, thăng, giáng, tước quân hàm, chức vụ, chức danh quan trọng trong lực
lượng vũ trang và Tòa án.

Chính phủ được Hiến pháp chỉ rõ không chỉ là cơ quan hành chính nhà nước cao
nhất, cơ quan chấp hành của Quốc hội mà còn là cơ quan thực hiện quyền hành
pháp. Chuyển cho Chính phủ thẩm quyền trình Quốc hội quyết định về tổ chức các
bộ, cơ quan ngang bộ (trước đây là thuộc Thủ tướng Chính phủ)...
Đối với Tòa án nhân dân, Hiến pháp quy định một số nguyên tắc mới trong tổ chức
và hoạt động thực hiện quyền tư pháp của Tòa án như nguyên tắc đảm bảo tranh
tụng trong xét xử; chế độ xét xử sơ thẩm, phúc thẩm...

Đối với Viện Kiểm sát nhân dân, Hiến pháp mới đã đặt vai trò, nhiệm vụ bảo vệ
pháp luật, bảo vệ quyền con người, quyền công dân lền trước rồi mới đến bảo vệ
chế độ XHCN, lợi ích của Nhà nước, quyền, lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân,
coi con người là chủ thể quan trọng, nguồn lực chủ yếu trong xây dựng nhà nước
pháp quyền XHCN Việt Nam.

Một điểm mới hết sức quan trọng là Hiến pháp đã quy định về mô hình tổ chức
chính quyền địa phương đáp ứng yêu cầu phát triển đất nước trong thời kỳ mới.
Đây là điểm mà dư luận đặc biệt quan tâm trong quá trình sửa đổi. Theo đó, Hiến
pháp chỉ quy định một cách khái quát và nguyên tắc về mô hình chính quyền địa
phương (trước đây là HĐND và UBND). Điều này tạo ra hướng mở trong việc tổ
chức quyền lực ở địa phương trên nguyên tắc đảm bảo phân công, phân cấp giữa
Trung ương và địa phương nhưng tạo điều kiện để phát huy tính năng động, sáng
tạo, quyền tự chủ, tự chịu trách nhiệm của chính quyền địa phương.

→Như vậy, HP năm 2013 đã dân chủ hơn so vs các Hp trước ( trừ HP năm
1946)

Câu 30: Những điểm mới của Hiến pháp năm 2013 về chính thể.

●Chính thể VN: Cộng hòa dân chủ nhân dân: Cộng hòa xã hội chủ nghĩa

HP mới đã khẳng định nước Cộng hoà XHCN Việt Nam là Nhà nước pháp quyền
XHCN do Nhân dân làm chủ (khác với trước, chữ Nhân dân được viết hoa). Nhân
dân thực hiện quyền làm chủ của mình bằng nhiều hình thức khác nhau mà trong
đó làm chủ thông qua Nhà nước (bộ máy nhà nước) là một hình thức quan trọng.
Khác với Hiến pháp trước, từ nay Nhân dân thực hiện quyền lực nhà nước không
chỉ bằng dân chủ đại diện thông qua Quốc hội, HĐND mà còn thông qua các cơ
quan khác của Nhà nước.

Để đảm bảo quyền làm chủ của Nhân dân thông qua bộ máy nhà nước, Bộ máy
nhà nước theo HP 2013 đã có nhiều đổi mới để đáp ứng nhiệm vụ này, cụ thể:
Thứ nhất, HP mới đã xác định rõ quyền lập pháp thuộc về Quốc hội, quyền hành
pháp thuộc về Chính phủ, quyền tư pháp thuộc về Toà án. Hiến pháp tuy vẫn
khẳng định quyền lực nhà nước là thống nhất, có sự phân công, phối hợp, nhưng
lần đầu tiên có quy định thêm việc kiểm soát giữa các cơ quan Nhà nước trong việc
thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp( Điều 2 khoản 3 HP 2013). Như
vậy, vị trí của các cơ quan nhà nước trong bộ máy nhà nước đã được xác lập, là cơ
sở pháp lý cho việc quy định nhiệm vụ, quyền hạn, cơ cấu tổ chức của các cơ quan
nhà nước.

Thứ hai, HP mới đã xác định lại nhiệm vụ của toà án nhân dân trong bộ máy nhà
nước. Điều này là rất cần thiết vì nếu như Toà án chỉ bảo vệ pháp chế, bảo vệ chế
độ XHCN như HP trước kia là chưa đủ. Điều 102 HP 2013 quy định Toà án có
nhiệm vụ bảo vệ công lý, bảo vệ quyền con người, quyền công dân trước khi bảo
vệ chế độ xã hội là dân chủ và cần thiết của một Nhà nước pháp quyền. Muốn vậy
thì các nguyên tắc tổ chức và hoạt động của Toà án cũng phải được đổi mới. Lần
đầu tiên trong lịch sử lập hiến Việt Nam, các nguyên tắc xét xử theo thủ tục rút
gọn, xét xử kín trong trường hợp bảo vệ người chưa thành niên hoặc giữ bí mật đời
tư theo yêu cầu chính đáng của đương sự, nguyên tắc tranh tụng trong xét xử đã
được quy định trong HP. Đây là những nguyên tắc thật sự dân chủ trong xét xử mà
đã được quy định trong hệ thống pháp luật của các quốc gia, của một nền tư pháp
dân chủ, hiện đại.

Thứ ba, liên quan đến việc thành lập, giải thể, nhập, chia, điều chỉnh địa giới đơn
vị hành chính, HP 2013 đã bổ sung một quy định rất quan trọng nhằm đảm bảo
quyền giám sát của Nhân dân về nội dung này tại Khoản 2 Điều 110 là “Việc thành
lập, giải thể, nhập, chia, điều chỉnh địa giới đơn vị hành chính phải lấy ý kiến Nhân
dân địa phương và theo trình tự, thủ tục do luật định”.

Thứ tư, HP 2013 đã bổ sung hai thiết chế độc lập trong bộ máy nhà nước, đó là
Hội đồng Bầu cử quốc gia và Kiểm toán Nhà nước. Việc thành lập Hội đồng Bầu
cử quốc gia sẽ đảm bảo tính chuyên nghiệp trong hoạt động bầu cử. Còn đối với
Kiểm toán Nhà nước thì thực tế cơ quan này đã có và đang hoạt động. Tuy nhiên,
pháp luật chưa quy định cụ thể do vậy gây ra nhiều cản trở cho hoạt động của nó
trong thực tế, và như vậy tính pháp chế của nó hầu như bỏ ngỏ.
Thứ năm, bảo vệ HP cũng là một nội dung được quy định trong HP. Tuy nhiên, so
với các bản HP trước đó, vấn đề này được quy định chặt chẽ hơn theo xu hướng
đảm bảo dân chủ. Điều 119 HP 2013 quy định: “... Mọi hành vi vi phạm HP đều
bị xử lý. Quốc hội, các cơ quan của Quốc hội,… và toàn thể Nhân dân có trách
nhiệm bảo vệ HP. Cơ chế bảo vệ HP do luật định”

Như vậy, cho dù phương án thành lập Hội đồng Hiến pháp không được thông qua
nhưng những quy định của HP 2013 về vấn đề này cũng cho thấy phần nào nhận
thức của Đảng và Nhà nước về sự cần thiết phải bảo vệ HP vì bảo vệ HP chính là
bảo vệ chế độ dân chủ đã được quy định trong HP.

Câu 31: Hình thức cấu trúc lãnh thổ Việt Nam theo các Hiến pháp 1946, 1959,
1980, 1992 và 2013.

*Hình thức cấu trúc lãnh thổ :là hình thức mà Nhà nước đc xem xét dưới góc độ
các cấu trúc lãnh thổ hợp thành nhà nước và mối quan hệ giữa các cơ quan NN
trung ương với các cơ quan NN địa phương.

1, Hình thức cấu trúc lãnh thổ Việt Nam theo hp năm 1946 :đơn nhất

Điều 2: HP 46 nói: nước VN là một khối thống nhất Trung Nam Bắc ko thể phân
chia

2, Hình thức cấu trúc lãnh thổ Việt Nam theo hp năm 1959 : đơn nhất

Điều 1 HP 59 nói: Đất nước Việt Nam là một khối Bắc Nam thống nhất không thể
chia cắt.

3, Hình thức cấu trúc lãnh thổ VN theo hp năm 1980 : đơn nhất

Điều 1 HP 80 nói: Nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam là một nước độc lập,
có chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ, bao gồm đất liền, vùng trời, vùng
biển và các hải đảo.

4, Hình thức cấu trúc lãnh thổ VN theo hiến pháp năm 1992 : đơn nhất

Điều 1 HP 92:Nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam là một nước độc lập, có
chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ, bao gồm đất liền, các hải đảo, vùng
biển và vùng trời.
5, Hình thức cấu trúc lãnh thổ Việt Nam theo hp năm 2013 : đơn nhất

Điều 1 HP khẳng định: Nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa VN là một nước độc lập,
có chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ, bao gồm đất liền, hải đảo, vùng
biển và vùng trời.

Câu 32 : Đặc điểm của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam

Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam là Nhà nước của nhân dân,
do nhân dân và vì nhân dân. Đây là đặc điểm rất quan trọng mà nhà nước pháp
quyền tư sản không thể có được. Thực chất đặc điểm này của Nhà nước pháp
quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam nhằm bảo đảm tính giai cấp, tính nhân dân của
Nhà nước ta. Tất cả quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân và do nhân dân định
đoạt, nhân dân quyết định phương thức tổ chức, xây dựng và vận hành của bộ máy
quyền lực nhà nước nhằm đáp ứng ngày càng cao lợi ích của nhân dân và của toàn
bộ dân tộc. Đây còn là sự thể hiện về tính ưu việt của chế độ xã hội chủ nghĩa so
với các chế độ khác.

Trong Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam, quyền lực nhà nước là
thống nhất, có sự phân công và phối hợp giữa các cơ quan chức năng của nhà
nước để thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp. Đây là phương
thức tổ chức và thực hiện quyền lực nhà nước rất mới mẻ, chúng ta phải lấy hiệu
quả thực tiễn để kiểm nghiệm. Về nguyên tắc, chúng ta không thừa nhận học
thuyết "tam quyền phân lập" vì nó máy móc, khô cứng theo kiểu các quyền hoàn
toàn độc lập, không có sự phối hợp, thậm chí đi đến đối lập, hạn chế sức mạnh của
cơ quan lập pháp, hành pháp và tư pháp. Tuy nhiên, chúng ta cũng không thể trở
lại với nguyên tắc tập quyền, tức là tập trung toàn bộ quyền lực cao nhất của nhà
nước lập pháp, hành pháp và tư pháp cho một cá nhân, hoặc một cơ quan tổ chức
nhà nước. Bởi vì, làm như vậy là đi ngược lại lịch sử tiến bộ của nhân loại.

Vấn đề đặt ra yêu cầu chúng ta phải nghiên cứu giải quyết đó là Nhà nước pháp
quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam phải có sự phân công, phân định thẩm quyền cho
rõ ràng, minh bạch để thực hiện có hiệu quả với chất lượng cao ba quyền, tránh
tình trạng chồng chéo, tùy tiện, lạm quyền...

Nhà nước được tổ chức và hoạt động trên cơ sở HP, PL và đảm bảo cho HP và các
đạo luật giữ vị trí tối thượng
Nhà nước tôn trọng và bảo đảm quyền con người, quyền công dân; nâng cao trách
nhiệm pháp lý giữa Nhà nước và công dân, thực hành dân chủ, đồng thời tăng
cường kỷ cương, kỷ luật

Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa VN do một Đảng duy nhất lãnh đạo, có sự
giám sát của nhân dân, sự phản biện xã hội của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và tổ
chức thành viên của Mặt trận.

Câu 33: Phân biệt hai khái niệm quyền con người, quyền công dân

1. Khái niệm Quyền con người

+ Theo định nghĩa của Văn phòng cao ủy Liên Hợp Quốc thì: “Quyền con
người là những bảo đảm pháp lý toàn cầu có tác dụng bảo vệ các cá nhân và các
nhóm chống lại những hành động hoặc sự bỏ mặc làm tổn hại đến nhân phẩm,
những sự được cho phép và sự tự do cơ bản của con người”.

2. Khái niệm Quyền công dân:

+ QCD là những quyền con người được các nhà nước thừa nhận và áp dungjcho
những người có quốc tịch của nước mình.

 Quyền công dân bản chất cũng là Quyền con người nên sự phân biệt giữa hai
khái niệm này thường không cụ thể. Quyền con người rộng hơn quyền công
dân, bao trùm quyền công dân. Trên thực tế, mỗi cá nhân đồng thời là thành
viên của nhân loại và là công dân của một quốc gia nhất định, do đó, đồng thời
là chủ thể của cả QCN và QCD.

Câu 34: Các quyền chính trị theo các Hiến pháp năm 1946, 1959, 1980, 1992
và 2013

● Quyền lực chính trị: Là một một bộ phận của quyền lực trong xã hội gắn với các
chủ thể, khách thể chính trị trong hoạt động và trong quan hệ chính trị.

1,Theo Hiến pháp năm 1946

a, Quyền chính trị của Nhà nước

●Hiến pháp 1946 đã dành cho Chủ tịch nước một quyền lực rất lớn nhưng lại
không quy trách nhiệm chính trị một cách tương xứng.
Theo các điều khoản ghi trong Hiến pháp, Chủ tịch nước VNDCCH là người chủ
tọa Hội đồng Chính phủ (điều 49, mục d), được quyền chọn Thủ tướng để Nghị
viện biểu quyết (điều 47). Các quyền hạn cụ thể khác được ghi trong điều 49 (thay
mặt cho quốc gia, tổng chỉ huy quân đội, ký sắc lệnh bổ nhiệm Thủ tướng và các
thành viên Nội các, ban bố các đạo luật đã được Nghị viện thông qua, đặc xá, ký
hiệp ước và bổ nhiệm các quan chức ngoại giao, cùng với Ban Thường vụ Nghị
viện quyết định đình chiến hay tuyên chiến khi Nghị viện không họp được,…) cho
thấy Chủ tịch nước vừa là nguyên thủ quốc gia (head of state), vừa là người đứng
đầu Chính phủ (head of government). Điều nghịch lý là Chủ tịch nước lại không
chịu bất kỳ trách nhiệm chính trị nào: “Chủ tịch nước ViệtNam không phải chịu
một trách nhiệm nào, trừ khi phạm tội phản quốc.” (điều 50)

●Quyền lực của cơ quan lập pháp (Nghị viện) lại lọt vào tay một thiểu số (Ban
Thường vụ Nghị viện)

b, Quyền chính trị của công dân

Điều thứ 6

Tất cả công dân Việt Nam đều ngang quyền về mọi phương diện: chính trị, kinh tế,
văn hoá.

Điều thứ 7

Tất cả công dân Việt Nam đều bình đẳng trước pháp luật, đều được tham gia chính
quyền và công cuộc kiến quốc tuỳ theo tài năng và đức hạnh của mình.

2,Theo Hiến pháp năm 1959

a, Quyền chính trị của Nhà nước

●Điều 43 Chương IV HP năm 1959 quy định : “Quốc hội là cơ quan quyền lực
Nhà nước cao nhất của nước Việt Nam dân chủ cộng hòa” , Điều 44 : “Quốc hội là
cơ quan duy nhất có quyền lập pháp của nước VN dân chủ cộng hòa” .Các cơ quan
khác đc Quốc hội lập ra, phân giao nhiệm vụ , quyền hạn và chịu giám sát trước
Quốc hội, Quốc hội đương nhiên nắm cả quyền nguyên thủ.Ở nước ta, chế định về
chủ tịch nước vẫn tồn tại nhưng quyết định lại cho phù hợp hơn.Chủ tịch nước phát
sinh từ Quốc hội, cùng Quốc hội thực hiện các chức năng nguyên thủ, điều phối
các cơ quan nhà nước cao cấp trong bộ máy Nhà nước.
b, Quyền chính trị của công dân

Điều 4

Tất cả quyền lực trong nước Việt Nam dân chủ cộng hoà đều thuộc về nhân dân.
Nhân dân sử dụng quyền lực của mình thống qua Quốc hội và Hội đồng nhân dân
các cấp do nhân dân bầu ra và chịu trách nhiệm trước nhân dân.

Quốc hội, Hội đồng nhân dân các cấp và các cơ quan Nhà nước khác đều thực
hành nguyên tắc tập trung dân chủ

Điều 23

Công dân nước Việt Nam dân chủ cộng hoà, không phân biệt dân tộc, nòi giống,
nam nữ, thành phần xã hội, tôn giáo, tín ngưỡng, tình trạng tài sản, trình độ văn
hoá, nghề nghiệp, thời hạn cư trú, từ mưới tám tuổi trở lên đều có quyền bầu cử, từ
hai mốt tuổi trở lên đều có quyền ứng cử, trừ những người mất trí và những người
bị Toà án hoặc pháp luật tước quyền bầu cử và ứng cử.

Công dân đang ở trong quân đội có quyền bầu cử và ứng cử

3,Theo Hiến pháp năm 1980

a,Quyền chính trị của Nhà nước

● Chủ tịch nước cá nhân đc thay thế bằng chế định Chủ tịch nước tập thể dưới hình
thức “Hội đồng NN – Cơ quan hoạt động thường xuyên của Quốc hội là Chủ tịch
nước tập thể Nước cộng hòa xã hội chủ nghĩa VN” (Điều 98- HP năm 1980).Đây
là mô hình tổ chức nguyên thủ quốc gia chung của các nhà nước xã hội chủ nghĩa
mà ở đó nguyên tắc tập quyền đc vận dụng triệt để.Với cách tổ chức này thì các
hoạt động của Nhà nước đều trực tiếp thực hiện bởi các cơ quan quyền lực Nhà
nước cao nhất của người dân ,cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất.Bản thân Hội
đồng Bộ trưởng (tức Chính phủ) cũng đc tổ chức ,gắn liền với Quốc hội (Hội đồng
bộ trưởng là cơ quan chấp hành và hành chính Nhà nước cao nhất của cơ quan
quyền lực NN cao nhất –Điều 104 HP 1980)

● “Quốc hội có thể tự đặt cho mình những nhiệm vụ quyền hạn mới” “Quốc hội có
thể giao cho Hội đồng Nhà nước và Hội đồng Bộ tr¬ưởng những nhiệm vụ, quyền
hạn mới”
b,Quyền chính trị của công dân

Điều 6

Ở nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam, tất cả quyền lực thuộc về nhân dân.

Nhân dân sử dụng quyền lực Nhà nước thông qua Quốc hội và Hội đồng nhân dân
các cấp do nhân dân bầu ra và chịu trách nhiệm trước nhân dân.

Quốc hội và Hội đồng nhân dân các cấp là cơ sở chính trị của hệ thống cơ quan
Nhà nước.

Quốc hội, Hội đồng nhân dân các cấp và các cơ quan khác của Nhà nước đều tổ
chức và hoạt động theo nguyên tắc tập trung dân chủ.

Điều 56

Công dân có quyền tham gia quản lý công việc của Nhà nước và của xã hội.

Điều 57

Công dân không phân biệt dân tộc, nam nữ, thành phần xã hội, tín ngưỡng tôn
giáo, trình độ văn hoá, nghề nghiệp, thời hạn cư trú, từ mười tám tuổi trở lên đều
có quyền bầu cử và từ hai mươi mốt tuổi trở lên đều có thể được bầu vào Quốc hội,
Hội đồng nhân dân các cấp, trừ những người mất trí và những người bị pháp luật
hoặc Toà án nhân dân tước các quyền đó.

4,Quyền chính trị theo Hiến pháp năm 1992 (sửa đổi năm 2001)

a, Quyền chính trị của Nhà nước

● 1)“Quốc hội là cơ quan đại biểu cao nhất của nhân dân, cơ quan quyền lực nhà
nước cao nhất của nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Quốc hội là cơ quan
duy nhất có quyền lập hiến và lập pháp. Quốc hội quyết định những chính sách cơ
bản về đối nội và đối ngoại, nhiệm vụ kinh tế - xã hội, quốc phòng, an ninh của đất
nước, những nguyên tắc chủ yếu về tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước, về
quan hệ xã hội và công dân.”, 2) “Chính phủ là cơ quan chấp hành của Quốc hội,
cơ quan hành chính nhà nước cao nhất của nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt
Nam...” 3) Các toà án do luật định, là cơ quan xét xử của nước được thành lập trên
cơ sở nhân danh nhà nước, độc lập và chỉ tuân theo pháp luật khi xét xử các vụ án.
Tất cả những vấn đề có tính nguyên tắc đó chi phối toàn bộ quá trình thiết lập bộ
máy nhà nước, đặc biệt là việc xác định thẩm quyền của các cơ quan nhà nước và
quan hệ giữa các cơ quan nhà nước với các cơ quan quyền lực nhà nước.

● Điều 109 Hp năm 1992 quy định : “Chính phủ là cơ quan chấp hành của Quốc
hội, cơ quan hành chính Nhà nước cao nhất của nước Cộng hòa XHCN VN”.

b, Quyền chính trị của công dân

Điều 6

Nhân dân sử dụng quyền lực Nhà nước thông qua Quốc hội và Hội đồng nhân dân
là những cơ quan đại diện cho ý chí và nguyện vọng của nhân dân, do nhân dân
bầu ra và chịu trách nhiệm trước nhân dân.

Quốc hội, Hội đồng nhân dân và các cơ quan khác của Nhà nước đều tổ chức và
hoạt động theo nguyên tắc tập trung dân chủ.

Điều 50

Ở nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam, các quyền con người về chính trị,
dân sự, kinh tế, văn hoá và xã hội được tôn trọng, thể hiện ở các quyền công dân và
được quy định trong Hiến pháp và luật.

5,Quyền chính trị theo HP năm 2013

a,Quyền chính trị của Nhà nước

●Chương V Hiến pháp tiếp tục khẳng định Quốc hội là cơ quan đại biểu cao nhất
của nhân dân, cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất của nước CHXHCN Việt Nam
nhưng đã không xác định Quốc hội là cơ quan duy nhất có quyền lập hiến và lập
pháp. Đồng thời, trong việc quyết định kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội của đất
nước và chính sách quốc gia, Quốc hội chỉ quyết định mục tiêu, chỉ tiêu, chính
sách, nhiệm vụ cơ bản phát triển kinh tế - xã hội; quyết định chính sách cơ bản về
tài chính, tiền tệ.

● Chính phủ được Hiến pháp chỉ rõ không chỉ là cơ quan hành chính nhà nước cao
nhất, cơ quan chấp hành của Quốc hội mà còn là cơ quan thực hiện quyền hành
pháp. Chuyển cho Chính phủ thẩm quyền trình Quốc hội quyết định về tổ chức các
bộ, cơ quan ngang bộ (trước đây là thuộc Thủ tướng Chính phủ)...
b,Quyền chính trị của công dân

Điều 6

Nhân dân thực hiện quyền lực nhà nước bằng dân chủ trực tiếp, bằng dân chủ đại
diện thông qua Quốc hội, Hội đồng nhân dân và thông qua các cơ quan khác của
Nhà nước.

Điều 14

1. Ở nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, các quyền con người, quyền công
dân về chính trị, dân sự, kinh tế, văn hóa, xã hội được công nhận, tôn trọng, bảo vệ,
bảo đảm theo Hiến pháp và pháp luật.

Điều 27

Công dân đủ mười tám tuổi trở lên có quyền bầu cử và đủ hai mươi mốt tuổi trở
lên có quyền ứng cử vào Quốc hội, Hội đồng nhân dân. Việc thực hiện các quyền
này do luật định

→Nhận xét chung:Quyền lực chính trị trong tay Nhà nước đã dần đc phân công
qua các bản Hiến pháp và hướng tới nâng cao quyền chính trị cho nhân dân trong
nền dân chủ.

Câu 35: Các quyền dân sự theo các Hiến pháp 1946, 1959, 1980, 1992, 2013

1, Quyền dân sự theo Hiến pháp 1946

Điều thứ 12

Quyền tư hữu tài sản của công dân Việt Nam được bảo đảm.

Điều thứ 10

Công dân Việt Nam có quyền:

Tự do ngôn luận

Tự do xuất bản

Tự do tổ chức và hội họp


Tự do tín ngưỡng

Tự do cư trú, đi lại trong nước và ra nước ngoài.

2,Quyền dân sự theo HP năm 1959

Điều 25

Công dân nước Việt Nam dân chủ cộng hoà có các quyền tự do ngôn luận, báo chí,
hội họp, lập hội và biểu tình. Nhà nước bảo đảm những điều kiện vật chất cần thiết
để công dân được hưởng các quyền đó.

Điều 27

Quyền bất khả xâm phạm về thân thể của công dân nước Việt Nam dân chủ cộng
hoà được bảo đảm. Không ai có thể bị bắt nếu không có sự quyết định của Toà án
nhân dân hoặc sự phê chuẩn của Viện kiểm sát nhân dân.

Điều 30

Công dân nước Việt Nam dân chủ cộng hoà có quyền làm việc. Nhà nước dựa vào
sự phát triển có kế hoạch của nền kinh tế quốc dân, dần dần mở rộng công việc
làm, cải thiện điều kiện lao động và lương bổng, để bảo đảm cho công dân được
hưởng quyền đó.

4,Quyền dân sự theo HP năm 1980

Điều 58

Lao động là quyền, nghĩa vụ và vinh dự hàng đầu của công dân.

Công dân có quyền có việc làm. Người có sức lao động phải lao động theo quy
định của pháp luật.

Nhà nước dựa vào kế hoạch phát triển kinh tế và văn hoá mà tạo thêm việc làm,
sắp xếp công việc căn cứ vào năng lực, nguyện vọng cá nhân và yêu cầu của xã
hội, nâng cao trình độ nghề nghiệp, bồi dưỡng sức lao động, không ngừng cải thiện
điều kiện làm việc của lao động chân tay và lao động trí óc.
Nhà nước quy định và bảo đảm thực hiện các chế độ nhằm đề phòng tai nạn lao
động và bệnh nghề nghiệp.

Điều 62

Công dân có quyền có nhà ở.

Nhà nước mở rộng việc xây dựng nhà ở, đồng thời khuyến khích, giúp đỡ tập thể
và công dân xây dựng nhà ở theo quy hoạch chung, nhằm thực hiện từng bước
quyền đó. Việc phân phối diện tích nhà ở do Nhà nước quản lý phải công bằng,
hợp lý.

Điều 67

Công dân có các quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí, tự do hội họp, tự do lập hội,
tự do biểu tình, phù hợp với lợi ích của chủ nghĩa xã hội và của nhân dân.

Nhà nước tạo điều kiện vật chất cần thiết để công dân sử dụng các quyền đó.

Không ai được lợi dụng các quyền tự do dân chủ để xâm phạm lợi ích của Nhà
nước và của nhân dân.

Điều 69

Công dân có quyền bất khả xâm phạm về thân thể.

Không ai có thể bị bắt, nếu không có quyết định của Toà án nhân dân, quyết định
hoặc phê chuẩn của Viện kiểm sát nhân dân.

Việc bắt và giam giữ người phải theo đúng pháp luật.

Nghiêm cấm mọi hình thức truy bức, nhục hình.

5, Quyền dân sự theo Hiến pháp năm 1992

Điều 55

Lao động là quyền và nghĩa vụ của công dân.

Nhà nước và xã hội có kế hoạch tạo ngày càng nhiều việc làm cho người lao động.

Điều 57
Công dân có quyền tự do kinh doanh theo quy định của pháp luật.

Điều 58

Công dân có quyền sở hữu về thu nhập hợp pháp, của cải để dành, nhà ở, tư liệu
sinh hoạt, tư liệu sản xuất, vốn và tài sản khác trong doanh nghiệp hoặc trong các
tổ chức kinh tế khác; đối với đất được Nhà nước giao sử dụng thì theo quy định tại
Điều 17 và Điều 18.

Nhà nước bảo hộ quyền sở hữu hợp pháp và quyền thừa kế của công dân.

Điều 69

Công dân có quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí; có quyền được thông tin; có
quyền hội họp, lập hội, biểu tình theo quy định của pháp luật.

Điều 71

Công dân có quyền bất khả xâm phạm về thân thể, được pháp luật bảo hộ về tính
mạng, sức khoẻ, danh dự và nhân phẩm.

Không ai bị bắt, nếu không có quyết định của Toà án nhân dân, quyết định hoặc
phê chuẩn của Viện kiểm sát nhân dân, trừ trường hợp phạm tội quả tang. Việc bắt
và giam giữ người phải đúng pháp luật.

Nghiêm cấm mọi hình thức truy bức, nhục hình, xúc phạm danh dự, nhân phẩm
của công dân.

6,Quyền dân sự theo HP năm 2013

Điều 19

Mọi người có quyền sống. Tính mạng con người được pháp luật bảo hộ. Không ai
bị tước đoạt tính mạng trái luật.

Điều 20

1. Mọi người có quyền bất khả xâm phạm về thân thể, được pháp luật bảo hộ về
sức khoẻ, danh dự và nhân phẩm; không bị tra tấn, bạo lực, truy bức, nhục hình
hay bất kỳ hình thức đối xử nào khác xâm phạm thân thể, sức khỏe, xúc phạm danh
dự, nhân phẩm.
2. Không ai bị bắt nếu không có quyết định của Toà án nhân dân, quyết định hoặc
phê chuẩn của Viện kiểm sát nhân dân, trừ trường hợp phạm tội quả tang. Việc bắt,
giam giữ người do luật định.

3. Mọi người có quyền hiến mô, bộ phận cơ thể người và hiến xác theo quy định
của luật. Việc thử nghiệm y học, dược học, khoa học hay bất kỳ hình thức thử
nghiệm nào khác trên cơ thể người phải có sự đồng ý của người được thử nghiệm.

Điều 21

1. Mọi người có quyền bất khả xâm phạm về đời sống riêng tư, bí mật cá nhân và
bí mật gia đình; có quyền bảo vệ danh dự, uy tín của mình.

Thông tin về đời sống riêng tư, bí mật cá nhân, bí mật gia đình được pháp luật bảo
đảm an toàn.

2. Mọi người có quyền bí mật thư tín, điện thoại, điện tín và các hình thức trao đổi
thông tin riêng tư khác.

Không ai được bóc mở, kiểm soát, thu giữ trái luật thư tín, điện thoại, điện tín và
các hình thức trao đổi thông tin riêng tư của người khác.

Điều 22

1. Công dân có quyền có nơi ở hợp pháp.

2. Mọi người có quyền bất khả xâm phạm về chỗ ở. Không ai được tự ý vào chỗ ở
của người khác nếu không được người đó đồng ý.

3. Việc khám xét chỗ ở do luật định.

Điều 31

1. Người bị buộc tội được coi là không có tội cho đến khi được chứng minh theo
trình tự luật định và có bản án kết tội của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật.

2. Người bị buộc tội phải được Tòa án xét xử kịp thời trong thời hạn luật định,
công bằng, công khai. Trường hợp xét xử kín theo quy định của luật thì việc tuyên
án phải được công khai.

3. Không ai bị kết án hai lần vì một tội phạm.


4. Người bị bắt, tạm giữ, tạm giam, khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử có quyền tự
bào chữa, nhờ luật sư hoặc người khác bào chữa.

5. Người bị bắt, tạm giữ, tạm giam, khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử, thi hành án trái
pháp luật có quyền được bồi thường thiệt hại về vật chất, tinh thần và phục hồi
danh dự. Người vi phạm pháp luật trong việc bắt, giam, giữ, khởi tố, điều tra, truy
tố, xét xử, thi hành án gây thiệt hại cho người khác phải bị xử lý theo pháp luật.

Điều 32

1. Mọi người có quyền sở hữu về thu nhập hợp pháp, của cải để dành, nhà ở, tư
liệu sinh hoạt, tư liệu sản xuất, phần vốn góp trong doanh nghiệp hoặc trong các tổ
chức kinh tế khác.

2. Quyền sở hữu tư nhân và quyền thừa kế được pháp luật bảo hộ.

3. Trường hợp thật cần thiết vì lý do quốc phòng, an ninh hoặc vì lợi ích quốc gia,
tình trạng khẩn cấp, phòng chống thiên tai, Nhà nước trưng mua hoặc trưng dụng
có bồi thường tài sản của tổ chức, cá nhân theo giá thị trường.

Câu 36:Các quyền kinh tế, văn hóa, xã hội theo các Hiến pháp năm 1946,
1959, 1980, 1992 và 2013

1,Theo Hiến pháp năm 1946

Điều thứ 6

Tất cả công dân Việt Nam đều ngang quyền về mọi phương diện chính trị, kinh tế,
văn hóa.

Điều thứ 10

Công dân Việt Nam có quyền :

- Tự do ngôn luận.

- Tự do xuất bản.

- Tự do tổ chức và hội họp.

- Tự do tín ngưỡng.
- Tự do cư trú, đi lại trong nước và ra nước ngoài

2,Theo HP năm 1959

Điều 10

Nhà nước lãnh đạo hoạt động kinh tế theo một kế hoạch thống nhất.

Nhà nước dựa vào các cơ quan Nhà nước, tổ chức công đoàn, hợp tác xã và các tổ
chức khác của nhân dân lao động để xây dựng và thực hiện kế hoạch kinh tế.

Điều 11

ở nước Việt Nam dân chủ cộng hoà trong thời kỳ quá độ, các hình thức sở hữu chủ
yếu về tư liệu sản xuất hiện nay là: hình thức sở hữu của Nhà nước tức là của toàn
dân, hình thức sở hữu của hợp tác xã tức là hình thức sở hữu tập thể của nhân dân
lao động, hình thức sở hữu của người lao động riêng lẻ, và hình thức sở hữu của
nhà tư sản dân tộc.

Điều 12

Kinh tế quốc doanh thuộc hình thức sở hữu của toàn dân, giữ vai trò lãnh đạo trong
nền kinh tế quốc dân và được Nhà nước bảo đảm phát triển ưu tiên.

Các hầm mỏ, sông ngòi, và những rừng cây, đất hoang, tài nguyên khác mà pháp
luật quy định là của Nhà nước, đều thuộc sở hữu của toàn dân.

Điều 13

Kinh tế hợp tác xã thuộc hình thức sở hữu tập thể của nhân dân lao động.

Nhà nước đặc biệt khuyến khích, hướng dẫn và giúp đỡ sự phát triển của kinh tế
hợp tác xã.

Điều 25

Công dân nước Việt Nam dân chủ cộng hoà có các quyền tự do ngôn luận, báo chí,
hội họp, lập hội và biểu tình. Nhà nước bảo đảm những điều kiện vật chất cần thiết
để công dân được hưởng các quyền đó.
Điều 26

Công dân nước Việt Nam dân chủ cộng hoà có các quyền tự do tín ngưỡng, theo
hoặc không theo một tôn giáo nào.

Điều 34

Công dân nước Việt Nam dân chủ cộng hoà có quyền tự do nghiên cứu khoa học,
sáng tác văn học, nghệ thuật, và tiến hành các hoạt động văn hoá khác. Nhà nước
khuyến khích và giúp đỡ tính sáng tạo của những công dân theo đuổi sự nghiệp
khoa học, văn học, nghệ thuật và các sự nghiệp văn hoá khác.

3,Theo HP năm 1980

Điều 17

Nhà nước quy định chế độ và thi hành những biện pháp cần thiết bảo đảm cho
nhân dân lao động sử dụng đầy đủ quyền làm chủ tập thể về tư liệu sản xuất và lực
lượng lao động, về sản xuất và phân phối, về khoa học và kỹ thuật, làm cho sự
nghiệp phát triển kinh tế thật sự là sự nghiệp của toàn dân.

Điều 18

Nhà nước tiến hành cách mạng về quan hệ sản xuất, hướng dẫn, sử dụng và cải tạo
các thành phần kinh tế phi xã hội chủ nghĩa, thiết lập và củng cố chế độ sở hữu xã
hội chủ nghĩa về tư liệu sản xuất nhằm thực hiện một nền kinh tế quốc dân chủ yếu
có hai thành phần: thành phần kinh tế quốc doanh thuộc sở hữu toàn dân và thành
phần kinh tế hợp tác xã thuộc sở hữu tập thể của nhân dân lao động.

Kinh tế quốc doanh giữ vai trò chủ đạo trong nền kinh tế quốc dân và được phát
triển ưu tiên.

Điều 21

Nhà nước giữ độc quyền về ngoại thương và mọi quan hệ kinh tế khác với nước
ngoài.

Điều 22
Các cơ sở kinh tế quốc doanh hoạt động theo phương hướng, nhiệm vụ của kế
hoạch Nhà nước; thực hiện chế độ hạch toán kinh tế, chế độ thủ trưởng và chế độ
trách nhiệm cá nhân; bảo đảm việc công nhân, viên chức tham gia quản lý; nâng
cao chất lượng sản phẩm, chất lượng phục vụ và hiệu quả kinh tế; thực hành tiết
kiệm; bảo đảm tích luỹ cho Nhà nước và xí nghiệp; bảo vệ nghiêm ngặt tài sản Nhà
nước; chăm lo cải thiện điều kiện làm việc và đời sống của công nhân, viên chức.

Điều 39

Nhà nước chăm lo việc tăng cường cơ sở vật chất, quy định chế độ và thi hành
những biện pháp cần thiết nhằm bảo đảm quyền làm chủ tập thể của nhân dân lao
động về văn hoá, giáo dục, khoa học, kỹ thuật; phát huy tính tích cực và tính sáng
tạo của nhân dân; làm cho sự nghiệp xây dựng nền văn hoá mới và con người mới
thật sự là của toàn dân và tạo điều kiện để toàn dân được hưởng những thành tựu
tốt đẹp của văn hoá dân tộc và văn hoá thế giới.

Điều 41

Sự nghiệp giáo dục do Nhà nước thống nhất quản lý.

Nhà nước chăm lo phát triển cân đối hệ thống giáo dục: giáo dục mầm non, giáo
dục phổ thông, giáo dục chuyên nghiệp, giáo dục đại học; phát triển các trường dạy
nghề, trường vừa học vừa làm, hệ thống học tại chức; hoàn thành thanh toán nạn
mù chữ, tăng cường công tác bổ túc văn hoá, không ngừng nâng cao trình độ văn
hoá và nghề nghiệp của toàn dân.

Đoàn thanh niên cộng sản Hồ Chí Minh, gia đình và xã hội cùng với nhà trường có
trách nhiệm giáo dục thanh niên, thiếu niên và nhi đồng.

Điều 44

Văn học, nghệ thuật Việt Nam được xây dựng trên lập trường, quan điểm của chủ
nghĩa Mác - Lênin và theo đường lối văn nghệ của Đảng cộng sản Việt Nam.

Các hoạt động văn nghệ chuyên nghiệp và không chuyên nghiệp đều được khuyến
khích phát triển, nhằm giáo dục đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước, giáo
dục đạo đức, tư tưởng, tình cảm cách mạng, nâng cao trình độ thẩm mỹ và thoả
mãn nhu cầu về văn hoá của nhân dân.
Điều 67

Công dân có các quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí, tự do hội họp, tự do lập hội,
tự do biểu tình, phù hợp với lợi ích của chủ nghĩa xã hội và của nhân dân.

Nhà nước tạo điều kiện vật chất cần thiết để công dân sử dụng các quyền đó.

Không ai được lợi dụng các quyền tự do dân chủ để xâm phạm lợi ích của Nhà
nước và của nhân dân.

Điều 68

Công dân có quyền tự do tín ngưỡng, theo hoặc không theo một tôn giáo nào.

Không ai được lợi dụng tôn giáo để làm trái pháp luật và chính sách của Nhà nước.

Điều 72

Công dân có quyền nghiên cứu khoa học, kỹ thuật, sáng tác văn học, nghệ thuật và
tham gia các hoạt động văn hoá khác.

Nhà nước khuyến khích và giúp đỡ công dân theo đuổi sự nghiệp khoa học, kỹ
thuật, văn học, nghệ thuật nhằm phục vụ đời sống, phục vụ công cuộc xây dựng
chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc; bồi dưỡng, phát huy sở trường và năng khiếu
cá nhân.

Quyền lợi của tác giả và của người sáng chế, phát minh được bảo đảm.

4,Theo HP năm 1992

Điều 15

Nhà nước phát triển nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần theo cơ chế thị trường
có sự quản lý của Nhà nước, theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Cơ cấu kinh tế
nhiều thành phần với các hình thức tổ chức sản xuất, kinh doanh đa dạng dựa trên
chế độ sở hữu toàn dân, sở hữu tập thể, sở hữu tư nhân, trong đó sở hữu toàn dân
và sở hữu tập thể là nền tảng.

Điều 18

Nhà nước thống nhất quản lý toàn bộ đất đai theo quy hoạch và pháp luật, bảo đảm
sử dụng đúng mục đích và có hiệu quả.
Nhà nước giao đất cho các tổ chức và cá nhân sử dụng ổn định lâu dài.

Tổ chức và cá nhân có trách nhiệm bảo vệ, bồi bổ, khai thác hợp lý, sử dụng tiết
kiệm đất, được chuyển quyền sử dụng đất được Nhà nước giao theo quy định của
pháp luật.

Điều 24

Nhà nước thống nhất quản lý và mở rộng hoạt động kinh tế đối ngoại, phát triển
các hình thức quan hệ kinh tế với mọi quốc gia, mọi tổ chức quốc tế trên nguyên
tắc tôn trọng độc lập, chủ quyền và cùng có lợi, bảo vệ và thúc đẩy sản xuất trong
nước.

Điều 30

Nhà nước và xã hội bảo tồn, phát triển nền văn hoá Việt Nam: dân tộc, hiện đại,
nhân văn; kế thừa và phát huy những giá trị của nền văn hiến các dân tộc Việt
Nam, tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh; tiếp thu tinh hoa văn hoá nhân
loại; phát huy mọi tài năng sáng tạo trong nhân dân.

Nhà nước thống nhất quản lý sự nghiệp văn hoá. Nghiêm cấm truyền bá tư tưởng
và văn hoá phản động, đồi trụy; bài trừ mê tín, hủ tục.

Điều 32

Văn học, nghệ thuật góp phần bồi dưỡng nhân cách và tâm hồn cao đẹp của người
Việt Nam.

Nhà nước đầu tư phát triển văn hoá, văn học, nghệ thuật, tạo điều kiện để nhân dân
được thưởng thức những tác phẩm văn học, nghệ thuật có giá trị; bảo trợ để phát
triển các tài năng sáng tạo văn hóa, nghệ thuật.

Nhà nước phát triển các hình thức đa dạng của hoạt động văn học, nghệ thuật,
khuyến khích các hoạt động văn học, nghệ thuật quần chúng.

Điều 33

Nhà nước phát triển công tác thông tin, báo chí, phát thanh, truyền hình, điện ảnh,
xuất bản, thư viện và các phương tiện thông tin đại chúng khác. Nghiêm cấm
những hoạt động văn hoá, thông tin làm tổn hại lợi ích quốc gia, phá hoại nhân
cách, đạo đức và lối sống tốt đẹp của người Việt Nam.

Điều 36

Nhà nước thống nhất quản lý hệ thống giáo dục quốc dân về mục tiêu, chương
trình, nội dung, kế hoạch giáo dục, tiêu chuẩn giáo viên, quy chế thi cử và hệ thống
văn bằng.

Nhà nước phát triển cân đối hệ thống giáo dục: giáo dục mầm non, giáo dục phổ
thông, giáo dục nghề nghiêp, giáo dục đại học và sau đại học, phổ cập giáo dục
tiểu học, xoá nạn mù chữ; phát triển các hình thức trường quốc lập, dân lập và các
hình thức giáo dục khác.

Nhà nước ưu tiên đầu tư cho giáo dục, khuyến khích các nguồn đầu tư khác.

Nhà nước thực hiện chính sách ưu tiên bảo đảm phát triển giáo dục ở miền núi, các
vùng dân tộc thiểu số và các vùng đặc biệt khó khăn.

Các đoàn thể nhân dân, trước hết là Đoàn thanh niên cộng sản Hồ Chí Minh, các tổ
chức xã hội, các tổ chức kinh tế, gia đình cùng nhà trường có trách nhiệm giáo dục
thanh niên, thiếu niên và nhi đồng.

Điều 41

Nhà nước và xã hội phát triển nền thể dục, thể thao dân tộc, khoa học và nhân dân.

Nhà nước thống nhất quản lý sự nghiệp phát triển thể dục, thể thao; quy định chế
độ giáo dục thể chất bắt buộc trong trường học; khuyến khích và giúp đỡ phát triển
các hình thức tổ chức thể dục, thể thao tự nguyện của nhân dân, tạo các điều kiện
cần thiết để không ngừng mở rộng các hoạt động thể dục, thể thao quần chúng, chú
trọng hoạt động thể thao chuyên nghiệp, bồi dưỡng các tài năng thể thao.

Điều 57

Công dân có quyền tự do kinh doanh theo quy định của pháp luật.

Điều 58

Công dân có quyền sở hữu về thu nhập hợp pháp, của cải để dành, nhà ở, tư liệu
sinh hoạt, tư liệu sản xuất, vốn và tài sản khác trong doanh nghiệp hoặc trong các
tổ chức kinh tế khác; đối với đất được Nhà nước giao sử dụng thì theo quy định tại
Điều 17 và Điều 18.

Nhà nước bảo hộ quyền sở hữu hợp pháp và quyền thừa kế của công dân.

Điều 60

Công dân có quyền nghiên cứu khoa học, kỹ thuật, phát minh, sáng chế, sáng kiến
cải tiến kỹ thuật, hợp lý hoá sản xuất, sáng tác, phê bình văn học, nghệ thuật và
tham gia các hoạt động văn hoá khác. Nhà nước bảo hộ quyền tác giả, quyền sở
hữu công nghiệp.

Điều 61

Công dân có quyền được hưởng chế độ bảo vệ sức khoẻ.

Nhà nước quy định chế độ viện phí, chế độ miễn, giảm viện phí.

Công dân có nghĩa vụ thực hiện các quy định về vệ sinh phòng bệnh và vệ sinh
công cộng.

Nghiêm cấm sản xuất, vận chuyển, buôn bán, tàng trữ, sử dụng trái phép thuốc
phiện và các chất ma tuý khác. Nhà nước quy định chế độ bắt buộc cai nghiện và
chữa các bệnh xã hội nguy hiểm.

Điều 69

Công dân có quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí; có quyền được thông tin; có
quyền hội họp, lập hội, biểu tình theo quy định của pháp luật.

Điều 70

Công dân có quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo, theo hoặc không theo một tôn giáo
nào. Các tôn giáo đều bình đẳng trước pháp luật.

Những nơi thờ tự của các tín ngưỡng, tôn giáo được pháp luật bảo hộ.

Không ai được xâm phạm tự do tín ngưỡng, tôn giáo hoặc lợi dụng tín ngưỡng, tôn
giáo để làm trái pháp luật và chính sách của Nhà nước.

5, Theo HP năm 2013


Điều 14

1. Ở nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, các quyền con người, quyền công
dân về chính trị, dân sự, kinh tế, văn hóa, xã hội được công nhận, tôn trọng, bảo vệ,
bảo đảm theo Hiến pháp và pháp luật.

Điều 24

1. Mọi người có quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo, theo hoặc không theo một tôn
giáo nào. Các tôn giáo bình đẳng trước pháp luật.

2. Nhà nước tôn trọng và bảo hộ quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo.

3. Không ai được xâm phạm tự do tín ngưỡng, tôn giáo hoặc lợi dụng tín ngưỡng,
tôn giáo để vi phạm pháp luật.

Điều 25

Công dân có quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí, tiếp cận thông tin, hội họp, lập
hội, biểu tình. Việc thực hiện các quyền này do pháp luật quy định.

Điều 33

Mọi người có quyền tự do kinh doanh trong những ngành nghề mà pháp luật không
cấm.

Điều 34

Công dân có quyền được bảo đảm an sinh xã hội.

Điều 38

1. Mọi người có quyền được bảo vệ, chăm sóc sức khỏe, bình đẳng trong việc sử
dụng các dịch vụ y tế và có nghĩa vụ thực hiện các quy định về phòng bệnh, khám
bệnh, chữa bệnh.

2. Nghiêm cấm các hành vi đe dọa cuộc sống, sức khỏe của người khác và cộng
đồng.

Điều 40
Mọi người có quyền nghiên cứu khoa học và công nghệ, sáng tạo văn học, nghệ
thuật và thụ hưởng lợi ích từ các hoạt động đó.

Điều 41

Mọi người có quyền hưởng thụ và tiếp cận các giá trị văn hoá, tham gia vào đời
sống văn hóa, sử dụng các cơ sở văn hóa.

Điều 42

Công dân có quyền xác định dân tộc của mình, sử dụng ngôn ngữ mẹ đẻ, lựa chọn
ngôn ngữ giao tiếp.

Điều 52

Nhà nước xây dựng và hoàn thiện thể chế kinh tế, điều tiết nền kinh tế trên cơ sở
tôn trọng các quy luật thị trường; thực hiện phân công, phân cấp, phân quyền trong
quản lý nhà nước; thúc đẩy liên kết kinh tế vùng, bảo đảm tính thống nhất của nền
kinh tế quốc dân.

Điều 53

Đất đai, tài nguyên nước, tài nguyên khoáng sản, nguồn lợi ở vùng biển, vùng trời,
tài nguyên thiên nhiên khác và các tài sản do Nhà nước đầu tư, quản lý là tài sản
công thuộc sở hữu toàn dân do Nhà nước đại diện chủ sở hữu và thống nhất quản
lý.

Điều 58

1. Nhà nước, xã hội đầu tư phát triển sự nghiệp bảo vệ, chăm sóc sức khỏe của
Nhân dân, thực hiện bảo hiểm y tế toàn dân, có chính sách ưu tiên chăm sóc sức
khoẻ cho đồng bào dân tộc thiểu số, đồng bào ở miền núi, hải đảo và vùng có điều
kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn.

2. Nhà nước, xã hội và gia đình có trách nhiệm bảo vệ, chăm sóc sức khỏe người
mẹ, trẻ em, thực hiện kế hoạch hóa gia đình.

Điều 60

1. Nhà nước, xã hội chăm lo xây dựng và phát triển nền văn hóa Việt Nam tiên
tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, tiếp thu tinh hoa văn hóa nhân loại.
2. Nhà nước, xã hội phát triển văn học, nghệ thuật nhằm đáp ứng nhu cầu tinh thần
đa dạng và lành mạnh của Nhân dân; phát triển các phương tiện thông tin đại
chúng nhằm đáp ứng nhu cầu thông tin của Nhân dân, phục vụ sự nghiệp xây dựng
và bảo vệ Tổ quốc.

3. Nhà nước, xã hội tạo môi trường xây dựng gia đình Việt Nam ấm no, tiến bộ,
hạnh phúc; xây dựng con người Việt Nam có sức khỏe, văn hóa, giàu lòng yêu
nước, có tinh thần đoàn kết, ý thức làm chủ, trách nhiệm công dân.

Điều 61

1. Phát triển giáo dục là quốc sách hàng đầu nhằm nâng cao dân trí, phát triển
nguồn nhân lực, bồi dưỡng nhân tài.

2. Nhà nước ưu tiên đầu tư và thu hút các nguồn đầu tư khác cho giáo dục; chăm lo
giáo dục mầm non; bảo đảm giáo dục tiểu học là bắt buộc, Nhà nước không thu
học phí; từng bước phổ cập giáo dục trung học; phát triển giáo dục đại học, giáo
dục nghề nghiệp; thực hiện chính sách học bổng, học phí hợp lý.

3. Nhà nước ưu tiên phát triển giáo dục ở miền núi, hải đảo, vùng đồng bào dân tộc
thiểu số và vùng có điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn; ưu tiên sử dụng,
phát triển nhân tài; tạo điều kiện để người khuyết tật và người nghèo được học văn
hoá và học nghề.

Điều 62

1. Phát triển khoa học và công nghệ là quốc sách hàng đầu, giữ vai trò then chốt
trong sự nghiệp phát triển kinh tế - xã hội của đất nước.

2. Nhà nước ưu tiên đầu tư và khuyến khích tổ chức, cá nhân đầu tư nghiên cứu,
phát triển, chuyển giao, ứng dụng có hiệu quả thành tựu khoa học và công nghệ;
bảo đảm quyền nghiên cứu khoa học và công nghệ; bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ.

3. Nhà nước tạo điều kiện để mọi người tham gia và được thụ hưởng lợi ích từ các
hoạt động khoa học và công nghệ.

Câu 37: Việc ghi nhận các quyền con người , quyền công dân trong Hiến pháp
VN có gì khác so với trong HP các nước trên thế giới?
●Khái niệm quyền con người trong HPVN năm 1992 đc đồng nhất với quyền công
dân (Điều 50). Việc đồng nhất này là không chính xác vì con người là một khái
niệm rộng hơn công dân.

●Tại nhiều điều khoản quy định rằng công dân có một quyền nhất định, nhưng
phải theo “ quy định” của pháp luật.Chẳng hạn Điều 57 (quyền tự do kinh doanh),
Điều 68 (Quyền tự do đi lại và cư trú), Điều 69 (Quyền tự do ngôn luận, tự do báo
chí, hội họp, lập hội,…) đều có đuôi là “theo quy định của pháp luật”

●Trong Chương V của HP năm 1992, quy định về “quyền và nghĩa vụ của công
dân”, chủ thể của quyền trong hầu hết điều khoản đc xác định là “công dân”.Điều
này không chính xác vì có nhiều quyền đc áp dụng cho cả người nước ngoài có
mặt hợp pháp trên lãnh thổ VN.Tuy nhiên , một số hạn chế này đã đc khắc phục
trong bản HP sửa đổi năm 2013.

Câu 38: Hiến pháp VN và trên thế giới quy định những giới hạn về quyền con
người, quyền công dân như thế nào?

Hiến pháp VN năm 1992 chưa quy định về việc giới hạn quyền con người, quyền
công dân.Tuy nhiên trong bản sửa đổi hp năm 2013 tại khoản 2 Điều 14 nêu rằng
“QCN,QCD chỉ có thể bị giới hạn trong trường hợp cần thiết vì lí do quốc
phòng,an ninh quốc gia, trật tự, an toàn xã hội, đạo đức , sức khỏe của cộng
đồng”.Việc quy định về giới hạn quyền là cần thiết, nhưng đặt quy định này như
một nguyên tắc tổng quát ở ngay điều khoản đầu tiên của chương về QCN lại ko
phù hợp với luật nhân quyền quốc tếĐó là bởi việc giới hạn chỉ có thể áp dụng đối
với một số quyền nhất định, ngoài ra có nhiều QCN (như quyền sống, quyền ko bị
tra tấn, ko bị đối xử vô nhân đạo hay hạ nhục, quyền tự do tư tưởng,…) là các
quyền tuyệt đối, nhà nước ko đc giới hạn trong bất kì hoàn cảnh hay vì bất cứ lí do
gì.Hơn thế, việc hạn chế, nếu áp dụng với các quyền nhất định, ko dc trái với bản
chất của các quyền bị giới hạn,phải đc luật quy định rõ rang và phải là cần thiết
trog một XH dân chủ, với mục đích duy nhất là để thúc đẩy lợi ích chung của cộng
đồng và các quyền , tự do chính đáng của người khác.

HP VN, kể cả bản HP sửa đổi năm 2013 đều ko có quy định về những quyền
không thể hạn chế, giới hạn cũng về những đkiện và phạm vi đc hạn chế, giới hạn
quyền trong bối cảnh khẩn cấp của quốc gia.Đây là những quy định trong hp của
nhiều nước nhằm ngăn ngừa việc lợi dụng những quy định về giới hạn quyền để vi
phạm nhân quyền.Ngoài ra, hp sửa đổi năm 2013 chưa đề cập đến nghĩa vụ của
các cơ quan, viên chức nhà nước trong việc tôn trọng , bảo vệ và bảo đảm QCN ,
QCD cũng như ko quy định về các cơ chế mà người dân có thể sử dụng để khiếu
nại khi bị vi phạm các quyền.

Câu 39: Những điểm mới của chế định về QCN, QCD và nghĩa vụ của công
dân trong HP năm 2013.

Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 2013 đã chế định đầy
đủ các quyền con người, quyền công dân. Trên cơ sở đó, cần thể chế hóa các quyền
hiến định, đồng thời rà soát, sửa đổi các văn bản pháp luật hiện hành để tạo sự
thống nhất trong hệ thống pháp luật Việt Nam.

Chủ thể và nội dung quyền con người, quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân

Một là, Hiến pháp năm 2013 không còn đồng nhất quyền con người với quyền
công dân như ở Điều 50 của Hiến pháp năm 1992, mà đã phân biệt và sử dụng hai
thuật ngữ “mọi người” và “công dân” cho việc chế định các quyền con người và
quyền công dân (Chương II).

Hai là, mở rộng nội hàm chủ thể quyền. Trong các bản hiến pháp trước đây, đặc
biệt là Hiến pháp năm 1992, nội hàm của quyền con người chỉ dừng lại ở khái
niệm chủ thể là “công dân”, chứ không phải là “mọi người”. Trong Hiến pháp năm
2013, các chủ thể quyền được mở rộng, không chỉ là “công dân”, mà còn là “mọi
người”, “tổ chức” hay nhóm xã hội và cộng đồng, đặc biệt là những nhóm dễ bị tổn
thương (trẻ em, thanh niên, người cao tuổi).

Ba là, mở rộng nội dung quyền. Hiến pháp năm 2013 đã nâng tầm chế định quyền
con người, quyền công dân thành một chương. So với hiến pháp của nhiều quốc
gia, Hiến pháp năm 2013 của nước ta thuộc vào những hiến pháp ghi nhận một số
lượng cao về quyền con người.

Bốn là, quy định về hạn chế quyền. Khoản 2, Điều 14 của Hiến pháp năm 2013
quy định: “Quyền con người, quyền công dân chỉ có thể bị hạn chế theo quy định
của luật trong trường hợp cần thiết vì lý do quốc phòng, an ninh quốc gia, trật tự,
an toàn xã hội, đạo đức xã hội, sức khỏe của cộng đồng”. Việc quy định về hạn chế
quyền là cần thiết để bảo đảm quyền con người, quyền công dân được thực hiện
một cách minh bạch, phòng ngừa sự cắt xén hay hạn chế các quyền này một cách
tùy tiện từ phía các cơ quan nhà nước.

Năm là, quy định nghĩa vụ, trách nhiệm của mỗi người, mỗi công dân. So với các
bản hiến pháp trước đây, trong Hiến pháp năm 2013, việc quy định nghĩa vụ, trách
nhiệm của mỗi người, mỗi công dân có nội dung đầy đủ, rõ ràng hơn. Điều 15 của
Hiến pháp năm 2013 khẳng định: “2. Mọi người có nghĩa vụ tôn trọng quyền của
người khác”; “4. Việc thực hiện quyền con người, quyền công dân không được
xâm phạm lợi ích quốc gia, dân tộc, quyền và lợi ích hợp pháp của người khác”.

Thể chế hiến pháp và pháp luật bảo đảm quyền con người, quyền công dân

- Công dân và mọi người được hưởng các quyền con người một cách mặc nhiên và
Nhà nước có nghĩa vụ công nhận, tôn trọng, bảo vệ và bảo đảm (thực hiện) các
quyền con người, quyền công dân theo Hiến pháp và pháp luật. Điều 51 của Hiến
pháp năm 1992 quy định: “Quyền và nghĩa vụ của công dân do Hiến pháp và luật
quy định”. Việc quy định như thế đã gây hiểu nhầm là Hiến pháp và pháp luật (hay
Nhà nước) là những chủ thể sản sinh ra các quyền con người. Cách hiểu như thế
không phù hợp với nhận thức chung về quyền con người trên thế giới. Theo quan
điểm của cộng đồng quốc tế, mọi thành viên của nhân loại khi sinh ra đã mặc nhiên
có tư cách chủ thể của các quyền con người. Các nhà nước chỉ có thể thừa nhận
(bằng hiến pháp và pháp luật) các quyền đó như là những giá trị vốn có của mọi cá
nhân mà nhà nước có nghĩa vụ công nhận, tôn trọng, bảo vệ và thúc đẩy.

Kế thừa Hiến pháp năm 1946 và tinh hoa tư tưởng nhân loại, trong Hiến pháp năm
2013, tại khoản 1, Điều 14 quy định: “Ở nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt
Nam, các quyền con người, quyền công dân về chính trị, dân sự, kinh tế, văn hóa,
xã hội được công nhận, tôn trọng, bảo vệ, bảo đảm theo Hiến pháp và pháp luật”.

- Việc bảo đảm quyền con người, quyền công dân gắn bó mật thiết với việc bảo
đảm chế độ chính trị.Trong Hiến pháp năm 2013, chế định về quyền con người,
quyền công dân được đưa lên Chương II, ngay sau chương chế định về chế độ
chính trị (so với vị trí thứ 5 trong Hiến pháp năm 1992). Đây không chỉ đơn thuần
là kỹ thuật lập hiến, mà còn phản ánh sự thay đổi trong nhận thức lý luận về nhà
nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa. Bằng cách đó, đã đi đến khẳng định: Nhà nước
được lập ra là để bảo vệ và thúc đẩy các quyền con người, quyền công dân; việc
bảo đảm quyền con người, quyền công dân gắn bó mật thiết với việc bảo đảm chế
độ chính trị.

- Thể chế kinh tế, xã hội và văn hóa để bảo đảm quyền con người, quyền công dân.

- Thể chế tư pháp để bảo đảm quyền con người, quyền công dân. Hiến pháp năm
1992 chỉ quy định về cấm truy bức, nhục hình, xúc phạm danh dự, nhân phẩm của
công dân (Điều 71). Đến Hiến pháp năm 2013, ở Điều 20, lần đầu tiên trong lịch
sử hiến pháp nước ta, đã chế định về cấm tra tấn nói riêng và cấm bất kỳ hình thức
bạo lực, truy bức, nhục hình hay bất kỳ hình thức đối xử nào khác xâm phạm thân
thể, sức khỏe, xúc phạm danh dự, nhân phẩm của mọi người. Quy định này cụ thể,
rõ ràng và rộng hơn so với quy định cũ, cả về hành vi bị cấm, cả về chủ thể được
bảo vệ.

- Xác định đầy đủ nghĩa vụ của Nhà nước trong việc bảo đảm quyền con người,
quyền công dân.

- Chế định những công cụ hữu hiệu và quy định việc thiết lập cơ chế bảo vệ Hiến
pháp, trong đó có các quyền con người đã được hiến định. Hiến pháp năm 2013
chế định những công cụ hữu hiệu cho việc bảo đảm quyền con người, quyền công
dân, đó là Hội đồng Bầu cử quốc gia, Kiểm toán Nhà nước, và sửa đổi, bổ sung
chức năng, nhiệm vụ của các cơ quan tư pháp. Khoản 2, Điều 119 khẳng định: “Cơ
chế bảo vệ Hiến pháp do luật định”. Đây là quy định có tính nguyên tắc nhằm thiết
lập cơ chế bảo vệ Hiến pháp, trong đó có các quyền con người đã được hiến định
một cách hiệu quả và ở mức cao nhất .

Câu 40: Mối quan hệ giữa bầu cử và dân chủ

*Ý chí nhân dân là bản chất dân chủ của bầu cử, dân chủ và bầu cử có mối quan hệ
tất yếu, bản chất, không thể tách rời.

Nhân dân thực hiện quyền lực nhà nước trực tiếp hoặc thông qua đại diện của
mình. Trong nhà nước dân chủ, bầu cử được tiến hành để xác định quyền cho
những người đại diện nắm giữ những cương vị chính trị. Một vấn đề quan trọng
của Luật Hiến pháp là việc nhân dân lựa chọn (bằng cách bầu) đại diện của mình
để giữ những chức danh nhà nước ở trung ương và địa phương - cơ sở để cho rằng
nhà nước được nhân dân trao quyền và cũng theo đó mà hệ quả logic tất yếu theo
tư duy dân chủ là nhà nước thực hiện quyền lực chừng nào nhân dân còn tín nhiệm.
Như vậy, bầu cử là phương thức được sử dụng để quyền lực nhà nước thiết
lập ra bởi nhân dân. Vì thế việc phản ánh trung thực ý chí của nhân dân là vấn đề
cốt lõi của mọi cuộc bầu cử.

Có thể cho rằng, đã nói đến bầu cử như là cách thức thành lập các chức danh nhà
nước quan trọng theo ý chí của các thành viên của cộng đồng xã hội thì bầu cử chỉ
có ý nghĩa nếu như nó tự do, công bằng, công khai, mở rộng, khách quan và chính
xác. Những thuộc tính phải có của bầu cử nêu trên có mối quan hệ chặt chẽ và là
cơ sở của nhau, đôi khi giao nhau vì có chung những biểu hiện và suy cho cùng,
cũng là để cho cuộc bầu cử thực sự dân chủ: kết quả của bầu cử là sự thể hiện ý chí
chung của nhân dân, không phải ý chí nhà nước hay bất kỳ tổ chức nào đang tồn
tại, kể cả các tổ chức có vai trò quan trọng trong hệ thống chính trị.

Các yêu cầu cơ bản bảo đảm ý chí nhân dân trong bầu cử đã được nhân loại quan
tâm trong nhiều thập niên và đã được đúc rút, tổng kết. Đó là việc duy trì các
nguyên tắc bầu cử: phổ thông, bình đẳng và bỏ phiếu kín. Điểm 3 Điều 21
Tuyên ngôn thế giới nhân quyền mà Đại hội đồng Liên Hiệp Quốc thông qua năm
1948 đã nêu rõ: “Ý chí của nhân dân phải là cơ sở của quyền lực của nhà nước. Ý
chí này thể hiện qua các cuộc bầu cử định kỳ và chân thực, tổ chức theo nguyên tắc
phổ thông đầu phiếu, bình đẳng và bỏ phiếu kín hoặc bằng những tiến trình bầu cử
tự do tương đương”. Điều 25 Công quốc tế về quyền dân sự - chính trị 1966 khẳng
định lại một lần nữa quan điểm công dân có quyền và cơ hội để “bầu cử và ứng cử
trong các cuộc bầu cử định kỳ chân thực, bằng phổ thông đầu phiếu, bình đẳng và
bỏ phiếu kín nhằm đảm bảo cho cử tri tự do bày tỏ ý nguyện của mình”.

Ý chí nhân dân là vấn đề quan trọng nhất của bầu cử bởi vì chỉ khi bầu cử mang ý
chí nhân dân thì ý nghĩa dân chủ đích thưc của nó mới đạt được.

Thứ nhất, chỉ bằng ý chí nhân dân thể hiện trong bầu cử, chính quyền mới được
hợp pháp hóa. Bầu cử là phương thức hợp pháp hóa chính quyền văn minh tiến bộ
và do đó cũng có tính phổ biến nhất trong thời đại ngày nay. Lịch sử phát triển nhà
nước thế giới đã chứng kiến nhiều cách thức có được chính quyền mà không qua
bầu cử. Sự phát triển của dân chủ xã hội khiến cho các phương thức đa dạng từng
tồn tại trong lịch sử để nắm trong tay quyền lực nhà nước như thừa kế, dùng bạo
lực[1]... đang thay đổi theo hướng chuyển sang bầu cử mà không phải ngược lại.
Rõ ràng là sự tồn tại các nền quân chủ hiện đại qua thiết chế nguyên thủ quốc gia
trong các nước văn minh ngày nay cho dù chỉ mang ý nghĩa tượng trưng, lễ nghi,
hình thức và để duy trì một văn hóa truyền thống song đôi lúc vẫn vấp phải yêu cầu
cải cách thay thế bằng một nền cộng hòa (Úc, Anh...). Chính quyền thành lập do
đảo chính quân sự, bất luận bản chất khác nhau của hiện tượng, thường không
được thừa nhận hay thừa nhận một cách dè dặt bởi các quốc gia và tổ chức quốc tế.
Trong khi đó, sự xuất hiện của một chính quyền mới (cụ thể hơn là những người
đại diện mới) do dân thành lập theo định kỳ, qua một cuộc bầu cử công khai, rộng
rãi và khách quan được coi là việc trao quyền hợp pháp, được đón nhận một cách
tự nhiên trong hoạt động chính trị và trong quan hệ quốc tế.

Thứ hai, đối với công dân, bầu cử là quyền chính trị quan trọng của họ chỉ khi nó
dân chủ và mở rộng (tự do). Bầu cử tự do dân chủ làm tăng tính hiện thực của
quyền tham gia quản lý nhà nước và xã hội (đối với quyền bầu cử bị động), tăng
vai trò thực sự của công dân trong diễn đàn chính trị pháp lý để thành lập nhà nước
(đối với thực hiện quyền bầu cử chủ động)[2].

Thứ ba, tương quan lực lượng chính trị xã hội chỉ được đánh giá đúng, khách quan
nếu bầu cử công khai, không gian lận. Đã gian lận trong bầu cử thì không thể nói
đến ý chí nhân dân. Ở các quốc gia phát triển và trong thể chế chính trị đa nguyên
đa đảng, nếu như ý chí của nhân dân được phản ánh trung thực, kết quả bầu cử là
thước đo của sự phát triển và giá trị của các xu hướng chính trị, phục vụ nhu cầu
thông tin chính trị của mọi cá nhân và tổ chức trong xã hội[3].

Tuy nhiên, cũng thừa nhận rằng, ý chí nhân dân hoàn toàn có thể là sự lựa chọn
không đúng, tức là nhân dân nhầm lẫn trong việc “chọn mặt gửi vàng”, song nhân
dân không thể sai mãi. Nếu nhân dân không đúng trong việc đặt niềm tin của mình
vào những đại diện thì âu đó cũng là bài học về dân trí và nâng cao dân chủ.

Câu 41: Các nguyên tắc bầu cử theo các Hiến pháp năm 1946, 1959, 1980,
1992 và 2013.

Tại Điều 17 - Mục C - Chương 2 Hiến Pháp năm 1946: Chế độ bầu cử là phổ

thông đầu phiếu, bỏ phiếu tự do, trực tiếp và kín.

Điều 5 - Chương I - Hiến Pháp năm 1959 : Việc tuyển cử đại biểu Quốc

hội và đại biểu Hội đồng nhân dân các cấp đều tiến hành theo nguyên tắc phổ
thông, bình đẳng, trực tiếp và bỏ phiếu kín.

Điều 7- Chương 1- Hiến Pháp năm 1980 : Việc bầu cử đại biểu Quốc hội

và đại biểu Hội đồng nhân dân các cấp tiến hành theo nguyên tắc phổ thông,

bình đẳng, trực tiếp và bỏ phiếu kín.

Điều 7 – Chương I – Hiến Pháp năm 1992 : Việc bầu cử đại biểu Quốc hội

và đại biểu Hội đồng nhân dân tiến hành theo nguyên tắc phổ thông, bình đẳng,

trực tiếp và bỏ phiếu kín.

Điều 7-Chương I- Hiến pháp năm 2013: Như HP năm 1992

1. Nguyên tắc phổ thông đầu phiếu:

Là tiêu chuẩn đầu tiên đề đánh giá mức độ dân chủ của bầu cử, cuộc bầu

cử phổ thông,là bầu cử rộng rãi, mọi người đều được đi bầu và có thể được bầu.

Nguyên tắc này đến nay vẫn giữ nguyên ý nghĩa của nó và được ấn định

trong hiến pháp năm 1946,1959,1980,1992,2013. Điều 54 hiến pháp 1992 quy
định:

“Công dân, không phân biệt dân tộc, nam nữ, thành phần xã hội, tín ngưỡng, tôn

giáo, trình độ văn hoá, nghề nghiệp, thời hạn cư trú, đủ mười tám tuổi trở lên

đều có quyền bầu cử và đủ hai mươi mốt tuổi trở lên đều có quyền ứng cử vào

Quốc hội, Hội đồng nhân dân theo quy định của pháp luật”.Điều 27 HP năm 2013
quy định : “ Công dân đủ 18 tuổi trở lên có quyền bầu cử và đủ hai mươi mốt tuổi
trở lên có quyền ứng cử vào Qốc hội, Hội đồng nhân dân.Việc thực hiện các quyền
này do luật định.”

Tuy nhiên tại các nước chế độ tư bản hạn chế , kìm hãm sự tham gia chính trị của
quân đội nên không được bầu cử ,còn nước Việt Nam XHCN “Công dân tại ngũ
cũng có quyền bầu cử và ứng cử.” - Điều 19 - Mục C -

Hiến Pháp năm 1946.


Bên cạnh đó Pháp Luật quy định những người không được thực hiện

quyền bầu cử :

a. Những người bị mất hành vi dân sự .

b. Người đang chấp hành án phạt tù .

c. Người đang bị tạm giam.

d. Người bị tước quyền bầu cử theo bản án , quyết định của Tòa

án.

2. Nguyên tắc bình đẳng :

Nội dung : Cử tri tham gia vào việc bầu cử có quyền và nghĩa vụ như

nhau; các ứng cử viên được giới thiệu ra ứng cử theo tỉ lệ như nhau; kết quả

bầu cử chỉ phụ thuộc vào số phiếu mà cử tri bỏ phiếu cho các ứng cử viên.

Pháp Luật quy định :

Đối với quyền bầu cử: :

- Mỗi cử tri chỉ có một phiếu bầu và chỉ được bầu ở một nơi.

- Gía trị của các lá phiếu là như nhau.

- Cử tri tham gia vào việc bầu cử có quyền và nghĩa vụ như nhau, không

vì địa vị XH mà có quyền không chấp hành các quy định về bầu cử.

- Công dân có đủ điều kiện theo quy định của pháp luật bầu cử có thể

được ghi tên vào danh sách cử tri.

Đối với quyền ứng cử :

- Các ứng cử viên chỉ được lập danh sách ứng cử viên ở một đơn vị bầu

cử, không được tham gia vào Ban bầu cử hoặc tổ bầu cử ở đơn vị mình.

- Mỗi đơn vị bầu cử được bầu ra số lượng đại biểu tỉ lệ thuận với số dân ở
địa phương của mình.

- Các ứng cử viên có khả năng và điều kiện ứng cử là như nhau.

3. Nguyên tắc bầu cử trực tiếp :

Cử tri tín nhiệm người nào thì bỏ phiếu thắng cho người đó làm đại biểu

Quốc Hội hay Hội Đồng Nhân Dân .

Để đảm bảo nguyên tắc này được thực hiện Pháp Luật qui định:

• Ngày bầu cử phải là chủ nhật để cử tri có điều kiện trực tiếp tham bỏ

phiếu.

• Phải thông báo thường xuyên địa điểm bỏ phiếu.

• Cử tri phải tự mình đi bầu , không được nhờ người khác bầu thay

hoặc bầu bằng cách gửi thư.

• Không tín nhiệm ứng cử viên nào thì trực tiếp gạch tên ứng cử viên

đó lên phiếu bầu.

• Tổ bầu cử chỉ phát phiếu cho người có tên trong danh sách cử tri ,

người có thẻ cử tri.

Ý nghĩa : Nguyên tắc này đảm bảo cho người được bầu trực tiếp nhận

quyền lực nhà nước từ nhân dân, đảm bảo tính chịu trách nhiệm của biểu

trước nhân dân.

4. Nguyên tắc bỏ phiếu kín:

Bỏ phiếu kín bảo đảm cho cử tri có thể tự do thể hiện ý chí, quan điểm của

mình trong việc lựa chọn đại biểu mà không phải chịu mọi sự áp đăt, chi phối,

tác động nào.

Nguyên tắc này đòi hỏi:


- Mỗi phòng bỏ phiếu phải có buồng viết phiếu kín.

- Cử tri phải tự mình gạch tên ứng cử viên mà mình không tín nhiệm và tự

mình bỏ phiếu vào hòm phiếu.

- Nếu không viết được thì có thể nhờ người khác viết hộ nhưng phải tự

mình bỏ phiếu vào hòm phiếu.

- Nếu tàn tật không tự bỏ phiếu được thì có thể nhờ người khác bỏ hộ.

- Không bầu thay, bầu hộ.

Nhận xét: Các bản Hiến Pháp nước ta đều quy định bầu cử theo các

nguyên tắc: phổ thông, bình đẳng, trực tiếp, bỏ phiếu kín, trừ Hiến Pháp 1946

quy định “ Chế độ bầu cử và phổ thông đầu phiếu,bỏ phiếu phải tự do, trực tiếp

và kín”.

Câu 42: Quy trình hiệp thương trong bầu cử ở Việt Nam hiện nay.

*Hội nghị hiệp thương là hội nghị giữa Mặt trận Tổ quốc Việt Nam với các tổ chức
thành viên được tiến hành ở trung ương và địa phương để thỏa thuận về cơ cấu,
thành phần và số lượng người của cơ quan, tổ chức, đơn vị được bầu làm đại biểu
Quốc hội, cũng như việc lập danh sách sơ bộ và danh sách chính thức những người
ứng cử đại biểu Quốc hội.

* Muốn có được danh sách ứng cử viên chính thức cho các đơn vị bầu cử niêm yết
để cử tri bỏ phiếu bầu cử, mặt trận tổ quốc Việt Nam phải tổ chức ba hội nghị hiệp
thương cơ bản giữa các tổ chức là thành viên: Hội nghị hiệp thương để phân bổ số
lượng ứng cử viên mà các tổ chức xã hội được giới thiệu, hội nghị hiệp thương sơ
bộ các ứng cử viên để đưa về đơn vị nơi công tác và nơi cư trú lấy ý kiến đóng góp
của Hội nghị cử tri, và cuối cùng là hiệp thương để lập danh sách ứng cử viên để
đưa về các đơn vị bầu cử.

• Các bước hiệp thương:

Luật bầu cử đại biểu Quốc hội quy định rõ quy trình hiệp thương giới thiệu người
ứng cử đại biểu Quốc hội gồm 3 bước như sau:
1. Mặt trận Tổ quốc Việt Nam tổ chức hội nghị hiệp thương lần thứ nhất chậm nhất
là 85 ngày trước ngày bầu cử, để thoả thuận về cơ cấu, thành phần đại biểu Quốc
hội, số lượng người của cơ quan, tổ chức, đơn vị được bầu làm đại biểu Quốc hội,
trên cơ sở dự kiến của Uỷ ban thường vụ Quốc hội.

2. Mặt trận Tổ quốc Việt Nam tổ chức hội nghị hiệp thương lần thứ hai chậm nhất
là 60 ngày trước ngày bầu cử để thoả thuận lập danh sách sơ bộ những người ứng
cử đại biểu Quốc hội và gửi lấy ý kiến cử tri nơi cư trú (đối với người tự ứng cử
đại biểu Quốc hội thì đồng thời gửi lấy ý kiến cử tri nơi người đó công tác hoặc
làm việc (nếu có)), trên cơ sở điều chỉnh lần thứ nhất của Uỷ ban thường vụ Quốc
hội.

3. Mặt trận Tổ quốc Việt Nam tổ chức hội nghị hiệp thương lần thứ ba chậm nhất
là 35 ngày trước ngày bầu cử để lựa chọn, lập danh sách chính thức những người
ứng cử đại biểu Quốc hội, trên cơ sở điều chỉnh lần thứ hai của Uỷ ban thường vụ
Quốc hội và kết quả lấy ý kiến cử tri.

●Nhận xét: Ưu điểm của khâu hiệp thương bầu cử:

Lựa chọn được những người đảm bảo tương đối các tiêu chuẩn về trình độ văn
hóa,đạo đức....Bởi như đã biết, điều kiện để 1 người ứng cử đại biểu quốc hội hoặc
hội đồng nhân dân các cấp theo pháp luật về bầu cử ở nước ta chỉ là: 21 tuổi trở
lên, không phân biệt dân tộc, giới tính, thành phần xã hội...( Điều 54. Hiến pháp
1992). Quy định này góp phần thu hút sự tham gia ứng cử vào các cơ quan trên của
đông đảo người dân nhưng lại quá "lỏng", trong khi đó thủ tục tự ứng cử cũng khá
đơn giản nên thật khó có thể đảm bảo là những ứng cử viên kia "xứng đáng" để
người dân cân nhắc bầu cho họ.

Nhược điểm:

Trong hội nghị hiệp thương, chỉ có đại diện của các cơ quan, tổ chức, do đó không
có ai bảo vệ quyền lợi cho những người tự ứng cử. Chính vì vậy mà họ dễ dàng bị
"gạt" ra khỏi danh sách ứng cử viên chính thức. Do đó, danh sách ứng cử viên
thường ít có tên những người tự ứng cử và vì vậy, không khuyến khích sự cạnh
tranh bình đẳng trong hoạt động bầu cử.

Câu 43. Các tổ chức phụ trách bầu cử ở Việt Nam


+ Hội đồng bầu cử ở trung ương

+ Uỷ ban bầu cử ở tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương;

+ Ban bầu cử ở đơn vị bầu cử;

+ Tổ bầu cử ở khu vực bỏ phiếu.

44. Quy trình tổ chức bầu cử ở Việt Nam hiện nay:

- Ấn định ngày bầu cử

- Thành lập các tổ chức phụ trách bầu cử

- Phân chia các đơn vị BC và số ĐB được bầu

- Lập Danh sách những người ứng cử

- Lập Danh sách cử tri

- Tuyên truyền, vận động bầu cử

- Tiến hành bỏ phiếu

- Kiểm phiếu, xác định kết quả bầu cử

- Giài quyết khiếu nại tố cáo về bầu cử

- Công bố kết quả bầu cử

- Bầu cử lại, bầu cử bổ sung

- Thẩm tra và công nhận tư cách đại biểu

Câu 45. Chính sách đối ngoại theo các Hiến pháp năm 1946, 1959, 1980, 1992,
2013.

* Hiến pháp 1946: Đường lối đối ngoại của một nhà nước non trẻ mang tính
chất khái quát, cô đọng nhưng lại rất rộng mở được ghi nhận bởi Hiến pháp: “Với
tinh thần đoàn kết, phấn đấu sẵn có của toàn dân, dưới một chính thể dân chủ rộng
rãi, nước Việt Nam độc lập và thống nhất tiến bước trên đường vinh quang, hạnh
phúc, cùng nhịp với trào lưu tiến bộ của thế giới và ý nguyện hòa bình của nhân
loại”. (Lời nói đầu của Hiến Pháp 1946)
* Hiến pháp 1959: tăng cường sự đoàn kết nhất trí với các nước xã hội chủ
nghĩa đứng đầu là Liên Xô, tăng cường đoàn kết với nhân dân các nước Á Phi và
nhân dân yêu chuộng hòa bình trên thế giới...

* Hiến pháp năm 1980 : tăng cường tình hữu nghị anh em, tình đoàn kết chiến
đấu và quan hệ hợp tác về mọi mặt với Liên Xô, Lào, Cam-pu-chia và các nước xã
hội chủ nghĩa khác trên cơ sở chủ nghĩa Mác-Lênin và chủ nghĩa quốc tế vô sản;
bảo vệ và phát triển quan hệ hữu nghị với các nước láng giềng, đoàn kết với nhân
dân các nước đang đấu tranh vì độc lập dân tộc và tiến bộ xã hội; thực hiện chính
sách cùng tồn tại hòa bình giữa các nước có chế độ chính trị và xã hội khác nhau
trên cơ sở tôn trọng độc lập, chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ của nhau, không can
thiệp vào công việc nội bộ của nhau, bình đẳng và các bên cùng có lợi; tích cực
ủng hộ và góp phần vào cuộc đấu tranh của nhân dân thế giới chống chủ nghĩa đế
quốc, chủ nghĩa thực dân cũ và mới, chủ nghĩa bá quyền, chủ nghĩa phân biệt
chủng tộc, vì hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ và chủ nghĩa xã hội.

* Hiến pháp 1992: thực hiện chính sách hòa bình, hữu nghị, mở rộng giao lưu và
hợp tác với tất cả các nước trên thế giới, không phân biệt chế độ chính trị và xã hội
khác nhau, trên cơ sở tôn trọng độc lập, chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ của nhau,
không can thiệp vào công việc nội bộ của nhau, bình đẳng và các bên cùng có lợi;
tăng cường tình đoàn kết hữu nghị và quan hệ hợp tác với các nước xã hội chủ
nghĩa và các nước láng giềng; tích cực ủng hộ và góp phần vào cuộc đấu tranh
chung của nhân dân thế giới vì hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội.

* Hiến pháp 2013: Nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam thực hiện nhất
quán đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, hòa bình, hữu nghị, hợp tác và phát triển;
đa phương hóa, đa dạng hóa quan hệ, chủ động và tích cực hội nhập, hợp tác quốc
tế trên cơ sở tôn trọng độc lập, chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ, không can thiệp
vào công việc nội bộ của nhau, bình đẳng, cùng có lợi; tuân thủ Hiến chương Liên
hợp quốc và điều ước quốc tế mà Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là thành
viên; là bạn, đối tác tin cậy và thành viên có trách nhiệm trong cộng đồng quốc tế
vì lợi ích quốc gia, dân tộc, góp phần vào sự nghiệp hòa bình, độc lập dân tộc, dân
chủ và tiến bộ xã hội trên thế giới.

Câu 46. Chế định về chế độ kinh tế:


* HP 1959: (gần với mô hình 1) xác lập một chế độ kinh tế theo chủ nghĩa xã
hội (CNXH), biến nền kinh tế lạc hậu thành một nền kinh tế xã hội chủ nghĩa
(XHCN) với công nghiệp hiện đại và nông nghiệp hiện đại, khoa học và kỹ thuật
tiên tiến (Điều 9). Thời kỳ này, Hiến pháp còn thừa nhận tồn tại 4 loại hình sở hữu
cơ bản về tư liệu sản xuất là sở hữu nhà nước, sở hữu tập thể, sở hữu của người lao
động riêng lẻ và sở hữu của nhà tư sản dân tộc, tức là tư hữu tài sản.

* Hiến pháp 1980: là đặc thù của mô hình 2. Nền kinh tế chủ yếu có hai thành
phần: kinh tế quốc doanh và kinh tế tập thể, với hai hình thức sở hữu tương ứng là
sở hữu toàn dân và sở hữu tập thể. Thực hiện một chế độ quản lý kinh tế theo kế
hoạch tập trung thống nhất kết hợp quản lý theo ngành, theo địa phương và vùng
lãnh thổ. Chính những quan niệm chủ quan về chế độ kinh tế như vậy đã góp phần
không nhỏ tạo nên sự khủng hoảng kinh tế - xã hội những năm cuối cùng của thế
kỷ 20, buộc Việt Nam phải có một công cuộc đổi mới.

* Hiến pháp 1992: chế độ kinh tế được quy định là kinh tế nhiều thành phần
theo định hướng XHCN. Nhận thức mới này rút ra từ bài học của những sai lầm,
nóng vội, duy ý chí trong quá khứ. Hiến pháp đã quy định những nội dung mới về
chế độ kinh tế như chính sách kinh tế, hình thức sở hữu, chế độ lao động sản xuất,
phân phối và tiêu dùng và chế độ quản lý kinh tế. Cái quan trọng nhất của chế độ
kinh tế là quy định sở hữu tư nhân được tồn tại và được Hiến pháp bảo đảm.

* Hiến pháp 2013: tiếp tục kế thừa Hiến pháp năm 1992, đồng thời làm rõ hơn
tính chất, mô hình kinh tế, vai trò quản lý của Nhà nước đối với nền kinh tế thị
trường định hướng XHCN, việc quản lý và sử dụng đất đai, và thể chế hóa quan
điểm phát triển kinh tế phải kết hợp chặt chẽ, hài hòa với phát triển văn hóa, giáo
dục, khoa học và công nghệ, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội, bảo vệ môi
trường

Câu 47. Quy định về xã hội, văn hóa, giáo dục

* Hiến pháp 1946: chỉ định về một quyền của công dân trong lĩnh vực này, đó
là quyền học tập: “ Nền sơ học cưỡng bách và không học phí. Ở các trường sơ học
địa phương, quốc dân thiểu số có quyền học bằng tiếng của mình. Học trò nghèo
được chính phủ giúp. Trường tư được mở tự do và phải dạy theo chương trình nhà
nước”.
* Hiến pháp 1959: đã kế thừa, phát triển và mở rộng các quyền văn hoá giáo
dục công dân bằng những quy định được thể hiện ở điều 33 và 34. Ngoài quy định
về quyền học tập (điều 33) đã được ghi nhận từ hiến pháp 1946, hiến pháp 1959
còn có những quyền mới về văn hoá : quyền tự do nghiên cứu khoa học, quyền
sáng tác văn học. nghệ thuật, và tiến hành các hoạt động văn hoá khác (điều 34).
Nhằm bảo đảm các quyền này, tại điều 34, hiến pháp 1959 còn quy định nhà nước
khuyến khích và giúp đỡ tính sáng tạo của những công dân theo đuổi sự nghiệp
khoa học, văn học, nghệ thuật và các sự nghiệp văn hoá khác. Ngoài ra ở điều 33
về quyền học tập của công dân, hiến pháp 1959 còn bổ sung quy định về nghĩa vụ
trách nhiệm của nhà nước trong việc phát triển các hình thức giáo dục, thực hiện
từng bước chế độ giáo dục bắt buộc, phát triển dần các trường học, cơ quan văn
hoá, phát triển các hình thức giáo dục bổ túc văn hoá, kỹ thuật, nghiệp vụ tại các cơ
quan, xí nghiệp và các tổ chức khác ở thành thị và nông thôn, để bảo đảm cho công
dân được hưởng quyền lợi đó.

* Hiến pháp 1980: Các quyền về văn hoá của công dân trong hiến pháp 1980 đã
giữ nguyên năm quyền mà hiến pháp 1959 đã quy định đó là quyền nghiên cứu
khoa học, kĩ thuật, sáng tác văn học. nghệ thuật và tham gia các hoạt động văn hoá
khác cùng với đó nhà nước vẫn khuyến khích và giúp đỡ công dân theo đuổi sự
nghiệp khoa học- kinh tế, văn học- nghệ thuật (điều 72). Nhưng khác với hiến pháp
1959, hiến pháp 1980 không quy định công dân thực hiện các quyền về văn hoá
một cách “tự do”. Việc ghi nhận này sẽ hạn chế các tư tưởng, loại hình văn hoá,
mục đích nghiên cứu khoa học – kĩ thuật trái pháp luật, chống phá nhà nước Việt
Nam, đảm bảo độc lập chủ quyền của dân tộc và sự phát triển ổn định của xã hội,
“nhằm phục vụ đời sống, phục vụ công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ
tổ quốc, bồi dưỡng, phát huy sở trường và năng khiếu cá nhân” (điều 72). Việc
hiến pháp xác định rõ mục đích của các quyền về văn hoá sẽ góp phần định hướng
cho công dân theo đuổi sự nghiệp văn học- nghệ thuật, khoa học- kinh tế tiến bộ,
đúng pháp luật và đóng góp mang lại lợi ích cho Tổ Quốc. Ngoài ra tại điều 72 của
hiến pháp 1980 còn bổ sung một quy định mới : “Quyền lợi của tác giả và người
sáng chế, phát minh được đảm bảo”. Hiến pháp 1980 tiếp tục xác định quyền học
tập của công dân thông qua điều 60: “Học tập là quyền và nghĩa vụ của công dân.
Nhà nước thực hiện từng bước chế độ giáo dục phổ thông bắt buộc, thực hiện chế
độ học không phải trả tiền và chính sách cấp học bổng, tạo điều kiện thuận lợi cho
công dân học tập”. Ngoài ra, nhà nước đã xác lập chế độ bao cấp về học tập bằng
việc quy định “tiến hành tưng bước chế độ giáo dục phổ thông bắt buộc” . và đề ra
những quy định mới để khuyến khích công dân học tập : “tiến hành chế độ học
không trả tiền và chính sách cấp học bổng”.

* Hiến pháp 1992: kế thừa HP năm 1980

*Hiến pháp 2013:

- Về văn hóa, Hiến pháp quy định mọi người có quyền hưởng thụ và tiếp cận các
giá trị văn hóa, tham gia vào đời sống văn hóa, sử dụng các cơ sở văn hóa (Ðiều
41); đồng thời, tiếp tục khẳng định Nhà nước và xã hội chăm lo xây dựng và phát
triển nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, tiếp thu tinh hoa văn
hóa nhân loại; phát triển văn học, nghệ thuật nhằm đáp ứng nhu cầu tinh thần đa
dạng và lành mạnh của nhân dân; phát triển các phương tiện thông tin đại chúng
nhằm đáp ứng nhu cầu thông tin của nhân dân, phục vụ sự nghiệp xây dựng và bảo
vệ Tổ quốc; tạo môi trường xây dựng gia đình Việt Nam ấm no, tiến bộ, hạnh
phúc; xây dựng con người Việt Nam có sức khỏe, văn hóa, giàu lòng yêu nước, có
tinh thần đoàn kết, ý thức làm chủ, trách nhiệm công dân (Ðiều 60).
Về giáo dục, Hiến pháp quy định công dân có quyền và nghĩa vụ học tập (Ðiều 39)
và tiếp tục khẳng định phát triển giáo dục là quốc sách hàng đầu nhằm nâng cao
dân trí, phát triển nguồn nhân lực, bồi dưỡng nhân tài; đồng thời quy định trách
nhiệm của Nhà nước trong việc ưu tiên đầu tư và thu hút các nguồn đầu tư khác
cho giáo dục; chăm lo giáo dục mầm non; bảo đảm giáo dục tiểu học là bắt buộc,
Nhà nước không thu học phí; từng bước phổ cập giáo dục trung học; phát triển
giáo dục đại học, giáo dục nghề nghiệp; thực hiện chính sách học bổng, học phí
hợp lý; ưu tiên phát triển giáo dục ở miền núi, hải đảo, vùng đồng bào dân tộc thiểu
số và vùng có điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn; ưu tiên sử dụng, phát
triển nhân tài; tạo điều kiện để người khuyết tật và người nghèo được học văn hóa
và học nghề (Ðiều 61).

Câu 48. Chính sách quốc phòng, an ninh theo các Hiến pháp

* Hiến pháp năm 1959: tuy chưa có chương riêng quy định về chính sách bảo
vệ tổ quốc, nhưng cũng đã dành riêng một số điều quy định về nội dung này như:

Điều 8: Lực lượng vũ trang của nước Việt Nam Dân chủ cộng hoà là của nhân dân,
có nhiệm vụ bảo vệ thành quả của cách mạng, bảo vệ độc lập, chủ quyền, lãnh thổ
toàn vẹn và an ninh của Tổ quốc, bảo vệ tự do, hạnh phúc và sự nghiệp lao động
hoà bình của nhân dân.

Điều 42: Bảo vệ Tổ quốc là nghĩa vụ thiêng liêng và cao quý nhất của công dân
nước Việt Nam Dân chủ cộng hoà.Công dân có bổn phận làm nghĩa vụ quân sự để
bảo vệ Tổ quốc.

Bên cạnh đó, Hiến pháp năm 1959 còn có nhiều điều luật quy định về lĩnh vực
quốc phòng, an ninh, như Điều 50, 63, 65, 74, 82.

* Hiến pháp năm 1980: Chế định bảo vệ Tổ quốc được quy định tại Chương IV,
bao gồm 3 điều. Lần đầu tiên trong lịch sử lập hiến Việt Nam, vấn đề này được xây
dựng thành một chương riêng trong Hiến pháp. Chương này xác định đường lối
quốc phòng của Nhà nước (Điều 50), xác định nhiệm vụ của các lực lượng vũ trang
nhân dân (Điều 51) và việc thực hiện chế độ nghĩa vụ quân sự (Điều 52). Ngoài ra,
Hiến pháp năm 1980 còn có một số điều luật khác có quy định nội dung liên quan
đến quốc phòng, an ninh, như các điều 9, 11, 15, 16, 19, 29, 42, 43, 48, 66…

* Hiến pháp năm 1992

Chế định bảo vệ Tổ quốc được quy định tại Chương IV, bao gồm 5 điều. Về cơ
bản, nội dung của Chương này giống như Hiến pháp năm 1980 là xác định đường
lối quốc phòng toàn dân. Tuy nhiên, so với bản Hiến pháp trước, chương quy định
về bảo vệ Tổ quốc của Hiến pháp năm 1992 có số lượng Điều luật tăng lên (02
điều), ngoài ra còn quy định bổ sung thêm về nhiệm vụ xây dựng Công an nhân
dân cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại, dựa vào dân và làm nòng
cốt cho phong trào nhân dân để bảo vệ an ninh quốc gia, trật tự, an toàn xã hội
(Điều 47)…

Ngoài những quy định trên, Hiến pháp năm 1992 còn có một số điều quy định các
nội dung về bảo vệ Tổ quốc, như Điều 13 quy định Tổ quốc Việt Nam là thiêng
liêng, bất khả xâm phạm, mọi hành vi xâm phạm chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ của
Tổ quốc đều bị nghiêm trị theo pháp luật; Điều 77: Bảo vệ Tổ quốc là nghĩa vụ
thiêng liêng, quyền cao quý của công dân, công dân phải làm nghĩa vụ quân sự và
tham gia xây dựng quốc phòng toàn dân…
Những quy định trên của Hiến pháp năm 1992 là căn cứ pháp lý để Nhà nước ban
hành Luật, Pháp lệnh, Nghị định, Thông tư... tạo thành hành lang pháp lý điều
chỉnh các mối quan hệ xã hội trong lĩnh vực quốc phòng, an ninh.

* Hiến pháp 2013: Hiến pháp dành cả Chương IV (từ Điều 64 đến Điều 68) hiến
định các vấn đề bảo vệ Tổ quốc (BVTQ) trong tình hình mới. Trong đó khẳng
định: Nước Cộng hòa XHCN Việt Nam là một nước độc lập, có chủ quyền, thống
nhất và toàn vẹn lãnh thổ, bao gồm: đất liền, biển, đảo, vùng biển và vùng trời.
Mọi hành vi chống lại độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ, chống
lại sự nghiệp xây dựng và BVTQ Việt Nam XHCN đều bị nghiêm trị. Đồng thời,
Hiến pháp xác định nhiệm vụ BVTQ là sự nghiệp của toàn dân, trong đó lực lượng
vũ trang (LLVT) nhân dân giữ vai trò nòng cốt. Vì thế, Nhà nước cần phải củng cố
và tăng cường nền quốc phòng toàn dân và an ninh nhân dân mà nòng cốt là LLVT
nhân dân; phát huy sức mạnh tổng hợp của đất nước để bảo vệ vững chắc Tổ quốc,
góp phần bảo vệ hòa bình ở khu vực và trên thế giới. Trong đó, quy định rõ: các cơ
quan, tổ chức, công dân phải thực hiện đầy đủ nhiệm vụ QP,AN. Hiến pháp xác
định rõ LLVT nhân dân Việt Nam, gồm: Quân đội nhân dân, Công an nhân dân và
Dân quân tự vệ. Lực lượng này phải tuyệt đối trung thành với Tổ quốc, Nhân dân,
với Đảng và Nhà nước; có nhiệm vụ bảo vệ độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn
vẹn lãnh thổ của Tổ quốc; an ninh quốc gia và giữ gìn trật tự, an toàn xã hội; bảo
vệ Nhân dân, Đảng, Nhà nước và chế độ XHCN; cùng toàn dân xây dựng đất nước
và thực hiện nghĩa vụ quốc tế. Nhà nước xây dựng Quân đội nhân dân và Công an
nhân dân cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại (trong đó, Quân đội
nhân dân có lực lượng thường trực hợp lý, lực lượng dự bị động viên hùng hậu),
lực lượng dân quân tự vệ vững mạnh và rộng khắp, làm nòng cốt trong thực hiện
nhiệm vụ QP,AN. Đồng thời, tăng cường phổ biến kiến thức về QP,AN cho toàn
dân để nâng cao ý thức, trách nhiệm BVTQ của nhân dân. Xây dựng, phát triển
đồng bộ ngành công nghiệp quốc phòng, an ninh bảo đảm vũ khí, trang thiết bị kỹ
thuật hiện đại cho LLVT nhân dân,... tăng cường khả năng BVTQ.

Câu 49. Chế độ sở hữu và sở hữu đất đai

* Hiến pháp 1946: Nhà nước thừa nhận mọi loại hình sở hữu, tuyên bố bảo hộ
quyền tư hữu của công dân (Điều 12). Hiến pháp bảo hộ các quyền công dân của
nước Việt Nam dân chủ cộng hoà mà quan trọng hơn cả là quyền sở hữu tài sản và
các quyền tài sản khác để thực hiện khẩu hiệu “Người cày có ruộng”. Nhà nước
thùa nhận quyền sở hữu tư nhân về đất đai, cho phép tự do mua bán, chuyển
nhượng đất đai, tạo điều kiện cho các chủ thể khai thác, sử dụng đất đai có hiệu
quả.

* Hiến pháp 1959: thừa nhận sự tồn tại của bốn hình thức sở hữu chủ yếu về tư
liệu sản xuất, bao gồm sở hữu toàn dân, sở hữu hợp tác xã, sở hữu của những
người lao động riêng lẻ và sở hữu của nhà tư sản dân tộc. Hiến pháp 1959 cũng cho
phép quyền sở hữu tư nhân về đất đai.

* Hiến pháp 1980: xóa bỏ quyền sở hữu tư nhân, thiết lập và củng cố chế độ sở
hữu XHCN và tư liệu sản xuất nhằm thực hiện nền kinh tế chủ yếu có 2 thành phần
kinh tế quốc doanh thuộc sở hữu toàn dân và kinh tế hợp tác xã thuộc sở hữu tập
thể.

Hiến pháp quy định cá nhân, hộ gia đình không có quyền sở hữu về đất đai nhưng
có quyền sử dụng khai thác đất đai, có quyền chuyển nhượng tài sản trên đất. Nếu
trên đất không có tài sản thì không có quyền chuyển nhượng quyền sử dụng đất, kể
cả việc thừa kế quyền sử dụng đất. Trường hợp người được giao đất chết thì quyền
sử dụng đất được chuyển cho người đang trực tiếp sử dụng cùng người đã chết tiếp
tục sử dụng. Thời kỳ này, Nhà nước giao đất cho hợp tác xã và các tập đoàn sản
xuất, cho nên cá nhân, hộ gia đình không có đất để canh tác, vì vậy các giao lưu
dân sự về đất đai bị cấm.

* Hiến pháp 1992: Điều 15 Hiến pháp 1992 quy định: “Nhà nước thực hiện nhất
quán chính sách phát triển nền kinh tế thị trường định hướng XHCN. Cơ cấu kinh
tế nhiều thành phần với các hình thức tổ chức sản xuất, kinh doanh đa dạng dựa
trên chế độ sở hữu toàn dân, sở hữu tập thể, sở hữu tư nhân, trong đó sở hữu toàn
dân và sở hữu tập thể là nền tảng”

Nhà nước đã cho phép cá nhân, hộ gia đình thực hiện các quyền khai thác, sử dụng,
chuyển nhượng, cho thuê, đổi, thừa kế quyền sử dụng đất. Quyền sử dụng đất được
Nhà nước thừa nhận là hàng hoá có giá trị kinh tế đặc biệt quan trọng của cá nhân,
hộ gia đình và các chủ thể khác.

* Hiến pháp năm 2013 thể hiện sự ghi nhận, tôn trọng sự đa dạng hình thức sở
hữu, bảo hộ quyền sở hữu tư nhân về tư liệu sản xuất, các quyền về tài sản và sở
hữu trí tuệ. Tiếp tục kế thừa Hiến pháp năm 1992, HP năm 2013 tiếp tục khẳng
định: “Đất đai, tài nguyên nước, tài nguyên khoáng sản, nguồn lợi ở vùng biển,
vùng trời, tài nguyên thiên nhiên khác và các tài sản do Nhà nước đầu tư, quản lý
là tài sản công thuộc sở hữu toàn dân do Nhà nước đại diện chủ sở hữu và thống
nhất quản lý”. (Điều 53)

Hiến pháp năm 2013 khẳng định: “1. Đất đai là tài nguyên đặc biệt của quốc
gia, nguồn lực quan trọng phát triển đất nước, được quản lý theo pháp luật” (khoản
1 Điều 54), đồng thời, Hiến pháp năm 2013 đã bổ sung quy định: “quyền sử dụng
đất được Nhà nước bảo hộ” (khoản 2 Điều 54) điều đó thể hiện rõ quan điểm nhất
quán của Nhà nước là bảo vệ quyền sử dụng đất của công dân vừa tạo cơ sở pháp
lý vững chắc để phòng chống và xử lý nghiêm minh các trường hợp sai phạm trong
việc thực hiện pháp luật về đất đai.

Khoản 3 Điều 54 Hiến pháp năm 2013 quy định: “3. Nhà nước thu hồi đất do
tổ chức, cá nhân đang sử dụng trong trường hợp thật cần thiết do luật định vì mục
đích quốc phòng, an ninh; phát triển kinh tế - xã hội vì lợi ích quốc gia, công cộng.
Việc thu hồi đất phải công khai, minh bạch và được bồi thường theo quy định của
pháp luật” với mục đích là ngăn ngừa tình trạng thu hồi đất một cách tràn lan, tùy
tiện trong các dự án phát triển kinh tế, xã hội gây bức xúc trong nhân dân, làm phát
sinh khiếu nại, tố cáo kéo dài, phức tạp và gây bất ổn trong xã hội tại các địa
phương hiện nay.

Câu 50. Vị trí pháp lý của Nghị viện/Quốc hội

* Hiến pháp 1946:

+Điều 22 quy định “Nghị viện nhân dân là cơ quan có quyền lực cao nhất của
nước Việt Nam dân chủ cộng hòa”

+ Điều 23, Hiến pháp năm 1946 xác định một cách tổng quát thẩm quyền của
Nghị viện nhân dân: “Nghị viện nhân dân giải quyết mọi vấn đề chung cho toàn
quốc, đặt ra pháp luật, biểu quyết ngân sách, chuẩn y các hiệp ước mà Chính phủ
ký với nước ngoài”.

* Hiến pháp 1959:


+ Thay thế chế định Nghị viện nhân dân bằng chế định Quốc hội “Quốc hội là cơ
quan quyền lực nhà nước cao nhất của nước Việt Nam dân chủ cộng hoà” (Điều
43).

+ Với Hiến pháp năm 1959, việc quy định “Quốc hội là cơ quan duy nhất
có quyền lập pháp” là căn cứ Hiến định quan trọng để thiết lập chế độ điều hành
đất nước bằng các đạo luật. Trên phương diện thẩm quyền, chức năng của Quốc
hội, Hiến pháp năm 1959 đã quy định cụ thể hơn so với quy định của Hiến pháp
năm 1946. Theo Điều 50 của Hiến pháp năm 1959, Quốc hội được xác định là có
17 quyền hạn trong các lĩnh vực khác nhau của đời sống nhà nước, từ việc lập hiến,
lập pháp; tổ chức bộ máy nhà nước; quyết định các vấn đề quan trọng của đất nước
đến giám sát việc thi hành Hiến pháp.

* Hiến pháp 1980, 1992, 2013: vẫn tiếp tục kế thừa đặc điểm quan trọng có
tính bản chất của Quốc hội Việt Nam các năm trước như: tính chất đại biểu tối cao
của nhân dân, tính chất quyền lực nhà nước tối cao, là cơ quan duy nhất lập hiến và
lập pháp; Quốc hội với bốn chức năng: lập hiến và lập pháp, thành lập các cơ quan
tối cao của nhà nước, quyết định các vấn đề quan trọng của quốc gia, thực hiện
quyền giám sát tối cao...

Câu 51. Quyền lập hiến, lập pháp của Nghị viện/Quốc hội

*Hiến pháp năm 1946: thành lập Quốc hội lập hiến để ban hành hiến pháp.
Quốc hội lập hiến do nhân dân bầu ra, trao cho thẩm quyền soạn thảo và thông qua
hiến pháp. Nhiệm vụ của Quốc hội được xác định ngay trong lời nói đầu của Hiến
pháp 1946: “Được quốc dân giao cho trách nhiệm thảo bản Hiến pháp đầu tiên của
nước Việt Nam dân chủ cộng hoà, Quốc hội nhận thấy rằng, Hiến pháp Việt Nam
phải ghi lấy những thành tích vẻ vang của Cách mạng và phải xây dựng trên những
nguyên tắc dưới đây: Đoàn kết toàn dân không phân biệt giống nòi, gái trai, giai
cấp, tôn giáo; đảm bảo các quyền tự do dân chủ; thực hiện chính quyền mạnh mẽ
và sáng suốt của nhân dân”

* Các bản Hiến pháp năm 1959, 1980, 1992 đã lựa chọn phương thức thông
qua Hiến pháp bằng Quốc hội lập pháp. Tuy nhiên, quy định của Điều 82 Hiến
pháp năm 1980, sau đó là tại Điều 83 Hiến pháp năm 1992 (đã được sửa đổi, bổ
sung một số điều năm 2001) trao toàn bộ quyền lập hiến cho một chủ thể duy nhất
- Quốc hội.
* Hiến pháp 2013: quy định QH thực hiện quyền lập hiến (Ðiều 69), so với
Hiến pháp năm 1992, đã bỏ cụm từ "duy nhất", gắn với khả năng thực hiện trưng
cầu ý dân về Hiến pháp trong quy trình sửa đổi Hiến pháp trong tương lai. Theo
đó, Hiến pháp (sửa đổi) - Chương XI về Hiệu lực của Hiến pháp và việc sửa đổi
Hiến pháp, tại khoản 4 Ðiều 120 đã bổ sung quy định: "Hiến pháp được thông qua
khi có ít nhất hai phần ba tổng số đại biểu QH biểu quyết tán thành. Việc trưng cầu
ý dân về Hiến pháp do QH quyết định"; quy định này nhằm thể chế hóa chủ trương
của Ðảng về phát huy dân chủ XHCN; QH với vị trí là cơ quan đại biểu cao nhất
của nhân dân, cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất của nước CHXHCN Việt Nam
được trao thẩm quyền quyết định việc trưng cầu ý dân về Hiến pháp phù hợp với
điều kiện, tình hình thực tiễn cụ thể của đất nước.

Câu 52. Chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của Nghị viện/Quốc hội

* Hiến pháp năm 1946: Thẩm quyền, chức năng của Nghị viện không quy định
một cách chi tiết như các Hiến pháp Việt Nam sau này.Điều 23, Hiến pháp năm
1946 xác định một cách tổng quát thẩm quyền của Nghị viện nhân dân: “Nghị viện
nhân dân giải quyết mọi vấn đề chung cho toàn quốc, đặt ra pháp luật, biểu quyết
ngân sách, chuẩn y các hiệp ước mà Chính phủ ký với nước ngoài”.

* Hiến pháp năm 1959 và Hiến pháp 1980: thẩm quyền, chức năng của Quốc hội
đã quy định cụ thể hơn so với quy định của Hiến pháp năm 1946. Quốc hội được
xác định là có 17 quyền hạn trong các lĩnh vực khác nhau của đời sống nhà nước,
từ việc lập hiến, lập pháp; tổ chức bộ máy nhà nước; quyết định các vấn đề quan
trọng của đất nước đến giám sát việc thi hành Hiến pháp.

* Hiến pháp 1992: Quốc Hội là cơ quan duy nhất lập hiến và lập pháp; Quốc hội
với bốn chức năng: lập hiến và lập pháp, thành lập các cơ quan tối cao của nhà
nước, quyết định các vấn đề quan trọng của quốc gia, thực hiện quyền giám sát tối
cao...

* Hiến pháp 2013: Ngoài kế thừa và phát huy chức năng của Quốc Hội trong HP
1992, Hiến pháp 2013 đã sửa đổi quy định về nhiệm vụ và quyền hạn của Quốc
hội, cụ thể như sau:
+ Hiến pháp 2013 quy định Quốc hội quyết định “mục tiêu, chỉ tiêu, chính sách,
nhiệm vụ cơ bản phát triển kinh tế - xã hội của đất nước” (Khoản 3, Điều 70)..
+ Hiến pháp 2013 quy định Quốc hội “quyết định chính sách cơ bản về tài chính,
tiền tệ quốc gia”, đồng thời bổ sung thẩm quyền của Quốc hội trong việc “quyết
định mức giới hạn an toàn nợ quốc gia, nợ công, nợ chính phủ” (Khoản 4, Điều
70).
+ Bổ sung thẩm quyền của Quốc hội trong việc phê chuẩn đề nghị bổ nhiệm, miễn
nhiệm, cách chức Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao (Khoản 7, Điều 70).
+ Bổ sung thẩm quyền của Quốc hội trong việc giám sát, quy định tổ chức và hoạt
động, quyết định nhân sự đối với Hội đồng bầu cử quốc gia, Kiểm toán nhà nước
và các cơ quan khác do Quốc hội thành lập (Khoản 2, 6, 7, 9, Điều 70).
+ Sửa đổi quy định về thẩm quyền phê chuẩn hoặc bãi bỏ điều ước quốc tế, theo
đó, Quốc hội có thẩm quyền phê chuẩn, quyết định gia nhập hoặc chấm dứt hiệu
lực của các điều ước quốc tế liên quan đến chiến tranh, hòa bình, chủ quyền quốc
gia, tư cách thành viên của Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam tại các tổ chức
quốc tế và khu vực quan trọng, các điều ước quốc tế về quyền con người, quyền và
nghĩa vụ cơ bản của công dân và các điều ước quốc tế khác trái với luật, nghị quyết
của Quốc hội (Khoản 14, Điều 70). + Quy
định trong Hiến pháp thẩm quyền của Quốc hội trong việc thành lập Ủy ban lâm
thời để nghiên cứu, thẩm tra một dự án hoặc điều tra về một vấn đề nhất định (Điều
78) được quy định tại Luật Hoạt động giám sát của Quốc hội và Luật Tổ chức
Quốc hội.

Câu 53+54+55: Cơ cấu, tổ chứ của Nghị Viện/Quốc hội theo các bản Hiến
pháp. Vị trí pháp lý của UB Thường vụ QH; Chức năng của hội đồng dân tộc
và các Ủy ban chuyên môn theo HP 2013

* Hiến pháp 1946: Nghị viện có một ban duy nhất: Ban Thường vụ bao gồm
một Nghị trưởng, 12 Uỷ viên chính thức, 3 Uỷ viên dự khuyết. Ban Thường vụ là
cơ quan thường xuyên của Nghị viện nhân dân với quyền hạn: 1. Biểu quyết những
dự án sắc luật của Chính phủ, những sắc luật đó phải đem trình Nghị viện vào
phiên họp gần nhất để Nghị viện ưng chuẩn hoặc phế bỏ. 2. Triệu tập nghị viện
nghị viện nhân dân.
3. Kiểm soát và phê bình Chính phủ

*Hiến pháp 1959:+ Quốc hội theo Hiến pháp năm 1959 đã được cải cách một
bước. Hiến pháp năm 1959 không thiết lập các chức vụ Chủ tịch Quốc hội, các Phó
Chủ tịch Quốc hội theo kiểu Nghị trưởng, Phó Nghị trưởng như Hiến pháp năm
1946. Cơ quan Thường trực của Quốc hội được xác định là Uỷ ban thường vụ
Quốc hội với thành phần gồm: Chủ tịch, các Phó Chủ tịch, Tổng thư ký và các Uỷ
viên (Điều 51, Hiến pháp năm 1959). Uỷ ban thường vụ Quốc hội so với Ban
Thường trực của Nghị viện nhân dân ở Hiến pháp năm 1946 đã có quyền hạn rộng
rãi hơn. Theo Điều 53, Hiến pháp năm 1959, Uỷ ban thường vụ Quốc hội được
quy định có 18 quyền hạn. Đương nhiên, quyền hạn của Uỷ ban thường vụ Quốc
hội đều xuất phát từ thẩm quyền của Quốc hội, nhưng với tính cách là cơ quan hoạt
động thường xuyên trong khuôn khổ của một Quốc hội không chuyên nghiệp,
không thường xuyên, các quyền hạn của Uỷ ban thường vụ Quốc hội được Hiến
pháp quy định bảo đảm cho Quốc hội thực hiện được các quyền hạn và trách
nhiệm của mình theo sự uỷ quyền của nhân dân. Điều đáng chú ý trong thẩm
quyền của Uỷ ban Thường vụ Quốc hội là quyền ra pháp lệnh. Quyền ra pháp lệnh
với tính cách là một văn bản quy phạm pháp luật đặc thù, cần thiết trong việc thay
thế chế độ sắc lệnh bằng chế độ đạo luật trong điều kiện của một Quốc hội không
chuyên và hoạt động không thường xuyên, trong khuôn khổ một hệ thống pháp luật
còn thiếu rất nhiều đạo luật, kể cả các bộ luật quan trọng của quốc gia.
+ Ngoài Uỷ ban thường vụ Quốc hội với tính cách là cơ quan thường trực Quốc
hội, trong tổ chức bộ máy của Quốc hội còn có các Uỷ ban. Theo Điều 57, Hiến
pháp năm 1959, “Quốc hội thành lập Uỷ ban dự án pháp luật, Uỷ ban kế hoạch
ngân sách, và những Uỷ ban khác mà Quốc hội xét thấy cần thiết để giúp Quốc hội
và Uỷ ban thường vụ Quốc hội”.

* Hiến pháp năm 1980 trong cơ cấu tổ chức của Quốc hội không có sự hiện
diện của Uỷ ban thường vụ Quốc hội như cơ cấu Quốc hội theo Hiến pháp năm
1959. Thay vào đó là sự thiết lập chức vụ Chủ tịch và các Phó Chủ tịch Quốc hội.
- Sự phát triển của tổ chức Quốc hội trong các quy định của Hiến pháp năm 1980
còn được ghi nhận bởi việc bầu ra hai hội đồng quan trọng: Hội đồng Quốc phòng
và Hội đồng Dân tộc. Đây là các cơ quan mới của Quốc hội, thể hiện vai trò ngày
càng tăng của Quốc hội trước các vấn đề lớn của quốc gia, trong đó đặc biệt là vấn
đề quốc phòng và vấn đề dân tộc trong các điều kiện lịch sử cụ thể của Việt Nam.
+ Hội đồng Quốc phòng động viên mọi lực lượng và khả năng của Nhà nước để
bảo vệ Tổ quốc. Trong trường hợp có chiến tranh, Quốc hội hoặc Hội đồng Nhà
nước có thể giao cho Hội đồng Quốc phòng những nhiệm vụ và quyền hạn đặc
biệt...” (Điều 90, Hiến pháp năm 1980).
+ Việc Quốc hội Việt Nam bầu ra Hội đồng dân tộc có ý nghĩa pháp lý- chính trị to
lớn, khẳng định một chính sách dân tộc đúng đắn của Đảng cộng sản Việt Nam,
Nhà nước Việt Nam trong việc chăm lo khối đại đoàn kết các dân tộc Việt Nam,
giúp đỡ và tạo điều kiện cho các dân tộc cùng phát triển, đặc biệt các dân tộc thiểu
số... “Hội đồng Dân tộc nghiên cứu và kiến nghị với Quốc hội và Hội đồng Nhà
nước giám sát việc thi hành chính sách dân tộc” (Điều 90, Hiến pháp năm
1980). -
Các Ban của Quốc hội cũng có bước phát triển mới trong Hiến pháp năm 1980.
Các Ban được thành lập theo quy định của Hiến pháp năm 1980 là các Uỷ ban
Thường trực Quốc hội. Tức là Uỷ ban Thường trực là những cơ quan thuộc Quốc
hội có quy chế hoạt động thường xuyên. Tính chất thường xuyên của các Uỷ ban
Thường trực là điều kiện bảo đảm tính chất liên tục của các hoạt động Quốc hội,
khi bản thân Quốc hội không hoạt động thường xuyên và tư cách đại biểu Quốc hội
không mang tính chất chuyên nghiệp như Nghị sĩ Quốc hội (Nghị viện) tại quốc
gia khác.Về số lượng so với các Ban của Quốc hội trong Hiến pháp năm 1959, các
Uỷ ban đã tăng về số lượng và đặc biệt là thẩm quyền, nhiệm vụ chức năng của các
Uỷ ban Thường trực cũng xác định cụ thể hơn. “Quốc hội thành lập các Uỷ ban
Thường trực của Quốc hội”. Các Uỷ ban Thường trực nghiên cứu, thẩm tra những
dự án luật, dự án pháp lệnh và dự án khác hoặc những báo cáo mà Quốc hội và Hội
đồng Nhà nước giao cho; kiến nghị với Quốc hội và Hội đồng Nhà nước những
vấn đề thuộc phạm vi hoạt động của Uỷ ban; giúp cho Quốc hội và Hội đồng Nhà
nước thực hiện quyền giám sát. Khi xét thấy cần thiết, Quốc hội và Hội đồng Nhà
nước có thể thành lập các Uỷ ban lâm thời để làm những nhiệm vụ nhất định”
(Điều 92, Hiến pháp năm 1980)

* Hiến pháp năm 1992

+ Điều đáng chú ý trong cơ cấu tổ chức của Quốc hội theo Hiến pháp năm 1992 là
việc thiết lập trở lại chế định Uỷ ban thường vụ Quốc hội. Ở đây nhận thấy có sự
kế thừa chế định Uỷ ban thường vụ Quốc hội theo Hiến pháp năm 1959 trên các
mặt: tính chất, vị trí, nhiệm vụ, chức năng. Tuy nhiên, Hiến pháp năm 1992 đã xác
định một cách rõ ràng: “Thành viên Uỷ ban thường vụ Quốc hội không thể đồng
thời là thành viên Chính phủ...” (Điều 90, Hiến pháp năm 1992). Đây là một quy
định không được ghi trong Hiến pháp năm 1959 về Uỷ ban Thường vụ. Điều này
có một ý nghĩa quan trọng trong việc xác định sự phân công, phân nhiệm giữa ba
quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp. Mặc dù sự phân biệt ba quyền quan trọng
này trong cơ cấu quyền lực nhà nước thống nhất còn khá mờ nhạt trong các quy
định Hiến pháp Việt Nam. +
Chức vụ Chủ tịch, Phó Chủ tịch Quốc hội vẫn tiếp tục được duy trì.
+ Hiến pháp năm 1992 không quy định về việc thành lập Hội đồng Quốc phòng,
mà chỉ quy định “Quốc hội bầu ra Hội đồng dân tộc, gồm Chủ tịch, các Phó chủ
tịch và các Uỷ viên” (Điều 94, Hiến pháp năm 1992). + Đối với
các Uỷ ban của Quốc hội, Hiến pháp năm 1992 tiếp tục kế thừa tinh thần của Hiến
pháp năm 1980 về các Uỷ ban. Tuy nhiên, các Uỷ ban theo Hiến pháp năm 1980
được xác định là Uỷ ban Thường trực của Quốc hội (Điều 92, Hiến pháp năm
1980), nhưng đến Hiến pháp năm 1992 tính chất thường trực của Uỷ ban không
được nhắc đến tại Điều 95. Như vậy, theo Hiến pháp năm 1992, các Uỷ ban của
Quốc hội không còn là các cơ quan hoạt động thường xuyên của Quốc hội. Nét
mới trong tổ chức và hoạt động của các Uỷ ban theo Hiến pháp năm 1992 có thể là
ở chỗ, mặc dù các Uỷ ban không còn được xem là có tính chất thường trực của
Quốc hội như tinh thần quy định của Hiến pháp năm 1980 nhưng “mỗi Uỷ ban có
một số thành viên làm việc theo chế độ chuyên trách” (Điều 95, Hiến pháp năm
1992). Việc Hiến pháp năm 1992 quy định chế độ chuyên trách của một số đại biểu
làm việc tại các Uỷ ban của Quốc hội không chỉ thay thế chế độ thường trực của
các Uỷ ban mà còn thể hiện một khả năng chuyên nghiệp hoá hoạt động đại biểu
của một số đại biểu nhất định trong thời gian nhiệm kỳ.

* Hiến pháp 2013: tiếp tục kế thừa Hiến pháp năm 1992 về tổ chức của Quốc
hội, gồm có Ủy ban thường vụ Quốc hội là cơ quan thường trực của Quốc hội, Hội
đồng dân tộc, các Ủy ban của Quốc hội và các vị đại biểu Quốc hội do cử tri trực
tiếp bầu ra.

+Về vị trí, tính chất và tổ chức của Ủy ban thường vụ Quốc hội:

- Tiếp tục giữ quy định về vị trí, tính chất và tổ chức của Ủy ban thường vụ Quốc
hội như Hiến pháp năm 1992 (Điều 73).

Chức năng của Hội đồng dân tộc và các Ủy ban chuyên môn

- Tiếp tục giữ quy định về nhiệm vụ, quyền hạn của Hội đồng dân tộc như Hiến
pháp năm 1992; thay quy định Chính phủ tham khảo ý kiến của Hội đồng dân tộc
trước khi ban hành các quyết định về chính sách dân tộc bằng quy định Chính phải
lấy ý kiến của Hội đồng dân tộc khi ban hành quy định thực hiện chính sách dân
tộc.
- Tiếp tục quy định thẩm quyền thẩm tra, giám sát, kiến nghị của Hội đồng dân tộc,
Ủy ban của Quốc hội như Hiến pháp năm 1992; bỏ quy định về trình Quốc hội, Ủy
ban thường vụ Quốc hội ý k iến về chương trình xây dựng luật, pháp lệnh.

- Tiếp tục kế thừa và bổ sung thẩm quyền yêu cầu thành viên Chính phủ, Chánh án
Tòa án nhân dân tối cao, Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao báo cáo, giải
trình, cung cấp tài liệu cho Hội đồng dân tộc, Ủy ban của Quốc hội; bổ sung chức
danh Tổng Kiểm toán nhà nước và thay chủ thể “viên chức nhà nước hữu quan”
bằng “cá nhân hữu quan” có trách nhiệm báo cáo, giải trình, cung cấp tài liệu cho
Hội đồng, Ủy ban (khoản 1 Điều 77).

Câu 56. Kỳ họp Quốc hội.

Quốc hội họp thường lệ mỗi năm hai kỳ do Uỷ ban thường vụ Quốc hội triệu tập
chậm nhất là ba mươi ngày, trước ngày khai mạc kỳ họp. Kỳ họp thứ nhất của mỗi
khoá Quốc hội do Uỷ ban thường vụ Quốc hội khoá trước triệu tập chậm nhất là
sáu mươi ngày, kể từ ngày bầu cử đại biểu Quốc hội; Chủ tịch Quốc hội khoá trước
khai mạc và chủ toạ kỳ họp thứ nhất cho đến khi Quốc hội bầu Chủ tịch Quốc hội
khoá mới.

Trong trường hợp Chủ tịch nước, Thủ tướng Chính phủ hoặc ít nhất một phần ba
tổng số đại biểu Quốc hội yêu cầu hoặc theo quyết định của mình, Ủy ban thường
vụ Quốc hội triệu tập Quốc hội họp bất thường chậm nhất là 7 ngày, trước ngày
khai mạc kỳ họp.

Quốc hội họp công khai. Trong trường hợp cần thiết, theo đề nghị của Chủ tịch
nước, Uỷ ban thường vụ Quốc hội, Thủ tướng chính phủ hoặc của ít nhất một phần
ba tổng số đại biểu Quốc hội, Quốc hội quyết định họp kín.

Dự kiến chương trình làm việc của kỳ họp được gửi đến đại biểu Quốc hội cùng
với quyết định triệu tập kỳ họp. Các vấn đề trong chương trình kỳ họp Quốc hội
được thảo luận và quyết định tại các phiên họp toàn thể. Trong trường hợp cần
thiết, Quốc hội quyết định thảo luận tại Hội đồng dân tộc, các Uỷ ban của Quốc
hội, các Tổ đại biểu Quốc hội, Đoàn đại biểu Quốc hội.

Thành viên Chính phủ không phải là đại biểu Quốc hội được mời dự các kỳ họp
Quốc hội, có trách nhiệm tham dự các phiên họp toàn thể của Quốc hội khi Quốc
hội xem xét về những vấn đề có liên quan đến ngành, lĩnh vực mà mình phụ trách;
được phát biểu ý kiến về vấn đề thuộc ngành, lĩnh vực mà thành viên đó phụ trách
theo yêu cầu của Quốc hội hoặc được Quốc hội đồng ý theo đề nghị của thành viên
đó.

Đại diện cơ quan nhà nước, tổ chức xã hội, tổ chức kinh tế, lực lượng vũ trang
nhân dân, cơ quan báo chí, công dân và khách quốc tế có thể được mời dự các
phiên họp công khai của Quốc hội.

Câu 57. Quy trình lập pháp của Quốc hội

1. Lập chương trình xây dựng luật, pháp lệnh (chương trình nhiệm kỳ và
chương trình hàng năm):

- Chương trình xây dựng luật, pháp lệnh do Quốc hội quyết định

- Chương trình xây dựng luật, pháp lệnh bao gồm chương trình xây dựng
luật, pháp lệnh nhiệm kỳ Quốc hội và chương trình xây dựng luật, pháp lệnh hàng
năm.

2. Soạn thảo luật, pháp lệnh:

- Dự án pháp lệnh, dự thảo nghị quyết của Uỷ ban thường vụ Quốc hội do
Ban soạn thảo tiến hành soạn thảo

- Ban soạn thảo tuỳ từng trường hợp có thể do Uỷ ban thường vụ Quốc
hội; bộ hoặc cơ quan ngang bộ thuộc Chính phủ; Toà án nhân dân tối cao; Viện
kiểm sát nhân dân tối cao; Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức thành viên
thành lập

3. Thẩm tra dự án Luật, pháp lệnh: Dự án luật, dự thảo nghị quyết của
Quốc hội trước khi trình Uỷ ban thường vụ Quốc hội thảo luận, cho ý kiến phải
được Hội đồng Dân tộc, Uỷ ban hữu quan của Quốc hội thẩm tra

4. Uỷ ban thường vụ Quốc hội xem xét cho ý kiến

- Tuỳ theo tính chất và nội dung của dự án luật, dự thảo nghị quyết của
Quốc hội, Uỷ ban thường vụ Quốc hội có thể xem xét, cho ý kiến một lần hoặc
nhiều lần
- Cơ quan, tổ chức, đại biểu Quốc hội trình dự án luật, dự thảo nghị quyết có trách
nhiệm nghiên cứu, tiếp thu các ý kiến của Uỷ ban thường vụ Quốc hội

5. Thảo luận tiếp thu, chỉnh lý và thông qua dự án luật, dự án pháp lênh:

Quốc hội thảo luận, thông qua dự án luật, dự thảo nghị quyết tại một hoặc hai kỳ
họp Quốc hội

6. Công bố luật, pháp lệnh

Chủ tịch nước ban hành lệnh để công bố luật, nghị quyết của Quốc hội
chậm nhất là 15 ngày kể từ ngày luật, nghị quyết được thông qua

Câu 58. Những điểm mới của Hiến pháp năm 2013 về Quốc hội.

Hiến pháp 2013 đã bổ sung quy định Chính phủ là cơ quan thực hiện quyền
hành pháp, khẳng định vị trí của Chính phủ trong tổ chức bộ máy nhà nước, bảo
đảm tính độc lập tương đối của Chính phủ, tạo cơ sở phát huy hơn nữa tính chủ
động, sáng tạo của Chính phủ trong hoạch định, điều hành chính sách quốc gia và
tổ chức thực thi pháp luật. Có thể nêu một số điểm mới cơ bản trong các quy định
về Chính phủ như sau:

Một là, Hiến pháp 2013 đã sửa đổi, bổ sung và sắp xếp lại nhiệm vụ, quyền
hạn của Chính phủ cho phù hợp với vị trí, chức năng của Chính phủ trên cơ sở kế
thừa các quy định tại Hiến pháp 1992. Hiến pháp 2013 đã bổ sung thẩm quyền của
Chính phủ trong việc đề xuất, xây dựng chính sách trình Quốc hội, Ủy ban thường
vụ Quốc hội quyết định hoặc quyết định theo thẩm quyền để thực hiện nhiệm vụ,
quyền hạn quy định tại Điều 96 (Khoản 2, Điều 96). Ngoài ra, Hiến pháp 2013
cũng phân định rõ thẩm quyền của Chính phủ trong việc tổ chức đàm phán, ký điều
ước quốc tế nhân danh Nhà nước theo ủy quyền của Chủ tịch nước; quyết định việc
ký, gia nhập, phê duyệt hoặc chấm dứt hiệu lực điều ước quốc tế nhân danh Chính
phủ, trừ điều ước quốc tế trình Quốc hội phê chuẩn quy định tại Khoản 14 Điều 70
(Khoản 7, Điều 96).

Thứ hai, Hiến pháp 2013 đã điều chỉnh và cơ cấu lại quy định về nhiệm
vụ và quyền hạn của Thủ tướng Chính phủ để làm rõ hơn thẩm quyền định hướng,
điều hành hoạt động của Chính phủ; bổ sung thẩm quyền quyết định và chỉ đạo
việc đàm phán, chỉ đạo việc ký, gia nhập điều ước quốc tế thuộc nhiệm vụ, quyền
hạn của Chính phủ, tổ chức thực hiện điều ước quốc tế và Cộng hòa xã hội chủ
nghĩa Việt Nam là thành viên (Khoản 5, Điều 98).

Thứ ba, để làm rõ trách nhiệm của Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang
Bộ, Hiến pháp 2013 quy định Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang Bộ “chịu trách
nhiệm cá nhân trước Thủ tướng Chính phủ, Chính phủ và Quốc hội về ngành và
lĩnh vực được phân công phụ trách, cùng các thành viên khác của Chính phủ chịu
trách nhiệm tập thể về hoạt động của Chính phủ” (Khoản 4, Điều 95). Ngoài ra,
nhằm tăng cường trách nhiệm của Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang Bộ, Hiến
pháp bổ sung quy định Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang Bộ “thực hiện chế độ
báo cáo trước Nhân dân thông qua các phương tiện thông tin đại chúng về những
vấn đề quan trọng thuộc thẩm quyền giải quyết của Chính phủ và Thủ tướng Chính
phủ”(Khoản 2, Điều 99).

Câu 59. Vị trí pháp lý của Chính phủ

* Hiến pháp 1946: Theo Điều 43: Cơ quan hành chính cao nhất của toàn quốc
là Chính phủ nước Việt Nam dân chủ cộng hòa. HP 1946 xây dựng Chính phủ theo
mô hình chính phủ tư sản nên không quy định Chinh phủ là cơ quan chấp hành của
Nghị viện.

* Hiến pháp năm 1959: gọi là Hội đồng Chính phủ, “Hội đồng Chính phủ là cơ
quan chấp hành của cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất và là cơ quan hành chính
nhà nước cao nhất của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa” (Điều 71). Theo điều
này thì một mặt Hội đồng Chính phủ là cơ quan chấp hành của Quốc hội mặt khác
là cơ quan hành chính Nhà nước cao nhất của nước ta, đứng đầu hệ thống cơ quan
hành chính nhà nước, đảm nhận một chức năng hoạt động độc lập – hoạt động
hành chính Nhà nước. Từ đây có thể thấy rằng theo Hiến pháp năm 1959 Hội đồng
Chính phủ có tính độc lập tương đối. Hiến pháp năm 1959 thể hiện rõ nguyên tắc
quyền lực Nhà nước tập trung thống nhất vào Quốc hội – cơ quan quyền lực cao
nhất của nhân dân và cũng cho ta thấy rằng Hội đồng Chính phủ được tổ chức hoàn
toàn theo mô hình Chính phủ của các nước xã hội chủ nghĩa khác với Chính phủ
trong Hiến pháp năm 1946 xây dựng theo mô hình tư sản.

* Hiến pháp 1980: gọi là Hội đồng Bộ trưởng, “Hội đồng bộ trưởng là Chính
phủ của nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam, là cơ quan chấp hành và hành
chính cao nhất của cơ quan quyền lực Nhà nước cao nhất ”. (Điều 104) Với quy
định này, tính độc lập tương đối của Chính phủ với Quốc hội không còn nữa. Quy
định này phản ánh quan niệm một thời cho rằng: Quốc hội là cơ quan quyền lực
Nhà nước cao nhất, thống nhất các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp và giám sát
– phải thực sự trở thành “tập thể hành động”. Hội đồng bộ trưởng được tổ chức
theo tinh thần đó là cơ quan chấp hành – hành chính Nhà nước cao nhất của Quốc
hội. Chức năng, nhiệm vụ của nó là thực hiện những hoạt động chấp hành – hành
chính được Quộc hội giao cho.Hội đồng bộ trưởng là Chính phủ, do Quốc hội lập
ra, chịu trách nhiệm và báo cáo công tác trước Quốc hội đồng thời là cơ quan hành
chính Nhà nước cao nhất của nước ta (chứ không phải Quốc hội). Nói cách khác
nhà nước thống nhất ba quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp.

* Hiến pháp năm 1992: được gọi đơn giản là Chính phủ. Điều 109 Hiến pháp
năm 1992 quy định: Chính phủ là cơ quan chấp hành của Quốc hội, cơ quan hành
chính Nhà nước cao nhất của nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Với quy
định này Chính phủ là cơ quan hành chính Nhà nước cao nhất của Nhà nước chứ
không phải của Quốc hội, có thể hoạt động một cách độc lập tương đối trong lĩnh
vực hành chính Nhà nước. Khẳng định Chính phủ là cơ quan chấp hành của Quốc
hội nhưng là cơ quan hành chính nhà nước cao nhất của nước Cộng hòa xã hội chủ
nghĩa Việt Nam nhằm chỉ rõ tính chất của Chính phủ và mối quan hệ giữa Chính
phủ và Quốc hội.

* Hiến pháp năm 2013: kế thừa đồng thời bổ sung để thể hiện một cách toàn
diện tính chất, vị trí, chức năng của Chính phủ. Điều 109 Hiến pháp năm 2013:
“Chính phủ là cơ quan hành chính nhà nước cao nhất của nước Cộng hoà xã hội
chủ nghĩa Việt Nam, thực hiện quyền hành pháp, là cơ quan chấp hành của Quốc
hội”.Như vậy, lần đầu tiên trong lịch sử lập hiến VN, Hiến pháp chính thức khẳng
định Chính phủ là cơ quan thực hiện quyền hành pháp. Đây là cơ sở pháp lý quan
trọng giúp xác định cụ thể, rõ ràng, đầy đủ chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn, vai trò
của Chính phủ trong điều kiện phát triển nền kinh tế thị trường, xây dựng Nhà
nước pháp quyền XHCN Việt Nam.

Câu 60. Cơ cấu tổ chức của Chính phủ

* Hiến pháp 1946: Thành phần Chính phủ gồm: Chủ tịch nước, Phó Chủ tịch
và Nội các. Nội các có Thủ tướng, các Bộ trưởng, Thứ trưởng (có thể có Phó Thủ
tướng). (Điều 44)
* Hiến pháp 1959: Hội đồng Chính phủ gồm: thủ tướng, các Phó Thủ tướng,
các Bộ trưởng, các Chủ nhiệm các Uỷ ban Nhà nước, tổng giám đốc ngân hàng
Nhà nước; tổ chức của Hội đồng Chính phủ do luật định.

* Hiến pháp 1980: Hội đồng Bộ trưởng gồm có: Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng,
Các Phó Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng, Các bộ trưởng và Chủ nhiệm Uỷ ban Nhà
nước.

* Hiến pháp 1992: Chính phủ gồm có Thủ tướng, các Phó Thủ tướng, các Bộ
trưởng và các thành viên khác. Ngoài Thủ tướng, các thành viên khác của Chính
phủ không nhất thiết là đại biểu Quốc hội . (Điều 110)

* Hiến pháp 2013: Tổ chức của Chính phủ gọn nhẹ hơn so với HP 1992: “Chính
phủ gồm Thủ tướng Chính phủ, các Phó Thủ tướng Chính phủ, các Bộ trưởng và
Thủ trưởng cơ quan ngang bộ. Cơ cấu, số lượng thành viên Chính phủ do Quốc hội
quyết định.” (Khoản 1, điều 95). Có thể thấy, Hiến pháp năm 2013 đã bỏ cụm từ
“các thành viên khác” của Hiến pháp 1992, bổ sung quy định “cơ cấu, số lượng
thành viên Chính phủ do Quốc hội quy định” để trên cơ sở đó quy định trong luật
về cơ cấu, số lượng thành viên Chính phủ. Như vậy, Chính phủ mới có cơ cấu gọn
nhẹ, hợp lý và thực hiện đúng chức năng, nhiệm vụ trong thời kỳ mới.

Câu 61. Quyền hành pháp của Chính phủ.

Chủ thể cơ bản của quyề hành pháp là Chính phủ. Cách thức hoạt động của chính
phủ góp phần làm hành pháp thực thi có hiệu quả hơn.

Ngay từ Hiến pháp năm 1946, cơ quan thực hiện chức năng hành pháp được khẳng
định tại Điều 43 là Chính phủ (gồm có Chủ tịch nước, Phó Chủ tịch nước và Nội
các. Nội các có Thủ tướng, các bộ trưởng, thứ trưởng); đến Hiến pháp năm 1959,
chức năng hành pháp của Chính phủ được thể hiện là cơ quan chấp hành của cơ
quan quyền lực nhà nước cao nhất và là cơ quan hành chính cao nhất của nước
Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Theo đó, chế định Chủ tịch nước được tách ra khỏi
thành phần của Chính phủ. Quyền hạn của Hội đồng Chính phủ dành cho hành
pháp (Chính phủ) chứ không phân định cho Chủ tịch nước với tư cách là người
đứng đầu Chính phủ và quyền hành pháp như quy định trong Hiến pháp năm 1946.
Trong Hiến pháp năm 1980, chế định “Hội đồng Bộ trưởng” (đề cao vai trò của tập
thể Chính phủ) được ghi nhận thay cho “Hội đồng Chính phủ” (vai trò của Thủ
tướng và tập thể) trong tương quan đề cao và tập trung quyền lực vào Quốc hội.
Chính phủ chỉ là cơ quan chấp hành và hành chính của Quốc hội. Trong Hiến pháp
năm 1992, chế định Chính phủ được quy định kết hợp chế độ tập thể lãnh đạo với
đề cao vai trò cá nhân người đứng đầu (Thủ tướng). Chính phủ là cơ quan chấp
hành của Quốc hội, cơ quan hành chính nhà nước cao nhất (Điều 109). Chính phủ
là chủ thể chính chi phối toàn bộ hoạt động chấp hành và điều hành của quản lý
nhà nước. Với HP 2013, lần đầu tiên Hiến pháp chính thức khẳng định tính chất, vị
trí của Chính phủ là cơ quan thực hiện quyền hành pháp; nhấn mạnh và đề cao hơn
tính chất, vị trí Chính phủ là cơ quan hành chính Nhà nước cao nhất của nước
Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Quy định rõ hơn nhiệm vụ, quyền hạn của
Chính phủ trong việc tổ chức thi hành Hiến pháp và pháp luật (khoản 1). Bên cạnh
quyền trình dự án luật, Hiến pháp năm 2013 đã bổ sung quyền ban hành văn bản
pháp quy của Chính phủ như một nhiệm vụ, quyền hạn độc lập để thực hiện chức
năng hành pháp (Điều 100).

Câu 62. Thẩm quyền của Chính phủ

* Hiến pháp 1946:

- Với vị trí, tính chất là cơ quan hành chính cao nhất của nhà nước, việc thi
hành các đạo luật và quyết nghị của Nghị viện là chức năng, nhiệm vụ cơ bản,
hàng đầu của

Chính phủ; đồng thời với vị trí là cơ quan hành chính nhà nước cao nhất, Chính
phủ xây dựng

và trình trước Nghị viện các dự án luật, sắc luật; lập dự án ngân sách hằng năm.

- Bãi bỏ mệnh lệnh và nghị quyết của cơ quan cấp dưới

- Bổ nhiệm hoặc cách chức các nhân viên trong các cơ quan hành chính hoặc
chuyên môn => Hiến pháp tạo cho Chính phủ những quyền khá độc lập với
Quốc hội; thực chất Chính phủ là cơ quan thực hiện quyền hành

pháp, mặc dù thuật ngữ hành pháp chưa được sử dụng trong Hiến pháp.

* Hiến pháp 1959: Điều 74 Hiến pháp liệt kê những quyền hạn của Chính phủ
khá cụ thể, gồm 3 nhóm quyền hạn: Trình dự án luật, dự án pháp lệnh và các dự án
khác ra trước Quốc hội và Ủy ban Thường vụ Quốc hội; lãnh đạo hệ thống hành
chính nhà nước; đình chỉ, bãi bỏ văn bản của cơ quan nhà nước cấp dưới… Tuy
vậy, Hiến pháp lại không quy định chức năng căn bản nhất của Hội đồng Chính
phủ là thi hành luật, nghị quyết của Quốc hội như Hiến pháp 1946 đã quy định.

=> Chính phủ lệ thuộc dần vào QH bởi quy định “Hội đồng Chính phủ là cơ quan
chấp hành của Quốc hội”.

* Hiến pháp 1980: Ở những nét cơ bản giống như Hiến pháp năm 1959, Điều
107 Hiến pháp năm 1980 đã liệt kê nhiệm vụ, quyền hạn của Chính phủ. Trong đó
nhấn mạnh đến nhiệm vụ, quyền hạn của Hội đồng Bộ Trưởng là: Thi hành Hiến
pháp, luật (tương tự như Hiến pháp năm 1946).

* Hiến pháp 1992: Điều 112, Chính phủ có những quyền hạn và nhiệm vụ cơ
bản sau: lãnh đạo công tác của các Bộ, các cơ quan ngang Bộ và các cơ quan thuộc
Chính phủ, Uỷ ban nhân dân các cấp; hướng dẫn, kiểm tra Hội đồng nhân dân thực
hiện các văn bảncuar các cơ quan Nhà nước cấp trên; tạo điều kiện để Hội đồng
nhân dân thực hiện nhiệm vụ và quyền hạn theo luật định; đào tạo, bồi dưỡng, sắp
xếp và sử dụng đội ngũ vuên chức Nhà nước; trình dự án luật, pháp lệnh và các dự
án khác trước Quốc hội và Ủy ban thường vụ Quốc hội; thống nhất quản lý việc
xây dựng, phát triển nền kinh tế quốc dân; thực hiện chính sách tài chính, tiền tệ
quốc gia; quản lý và bảo đảm sử dụng có hiệu quả tài sản thuộc sử hữu toàn dân;
quyết định việc điều chỉnh địa giới các đơn vị hành chính dưới cấp tỉnh, thành phố
trực thuộc trung ương….

* Hiến pháp 2013: So các HP trước, Hiến pháp 2013 đã sửa đổi, bổ sung nhiệm
vụ, quyền hạn của Chính phủ theo hướng khái quát, hợp lý hơn, phù hợp với vị trí
hành pháp của Chính phủ (Điều 96),

- Khẳng định vai trò hoạch định chính sách của Chính phủ, Hiến pháp quy định
nhiệm vụ, quyền hạn của Chính phủ "đề xuất, xây dựng chính sách trình Quốc hội,
Ủy ban Thường vụ Quốc hội quyết định hoặc quyết định theo thẩm quyền để thực
hiện nhiệm vụ, quyền hạn quy định tại Điều này..." (khoản 2 Điều 96).

- Khẳng định vai trò quản lý, điều hành vĩ mô của Chính phủ, Hiến pháp đã làm
rõ hơn nhiệm vụ, quyền hạn của Chính phủ trong việc tổ chức thi hành Hiến pháp
và pháp luật (khoản 1); thi hành các biện pháp cần thiết khác để bảo vệ Tổ quốc,
bảo đảm tính mạng, tài sản của nhân dân (khoản 3); bổ sung quy định trình Quốc
hội quyết định thành lập, giải thể, nhập, chia, điều chỉnh địa giới hành chính đối
với đơn vị hành chính - kinh tế đặc biệt (khoản 4);.

- Bên cạnh quyền trình dự án luật, HP (sửa đổi) đã bổ sung quyền ban hành văn
bản pháp luật của Chính phủ như một nhiệm vụ, quyền hạn độc lập của chức năng
hành pháp tại Điều 100: "Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ, Bộ trưởng, Thủ trưởng
cơ quan ngang bộ ban hành văn bản pháp luật để thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn
của mình, kiểm tra việc thi hành các văn bản đó và xử lý các văn bản trái pháp luật
theo quy định của luật".

- Trong mối quan hệ với Quốc hội: Hiến pháp (sửa đổi) đã bỏ quy định về thẩm
quyền của Quốc hội quyết định chương trình xây dựng luật, pháp lệnh, tạo điều
kiện cho Chính phủ và các chủ thể khác chủ động, linh hoạt trong việc đề xuất xây
dựng luật, pháp lệnh; phân định rõ hơn phạm vi chính sách và các vấn đề quan
trọng do Quốc hội quyết định (trong một số lĩnh vực Quốc hội chỉ quyết định các
chính sách cơ bản). Chính phủ có quyền ban hành các chính sách, biện pháp cụ thể
để quản lý, điều hành; phân định rõ và phù hợp hơn nhiệm vụ, quyền hạn của Quốc
hội, Chủ tịch nước, Chính phủ và Thủ tướng Chính phủ trong việc đàm phán, ký
kết, gia nhập điều ước quốc tế... Theo đó, Chính phủ có thẩm quyền "Tổ chức đàm
phán, ký điều ước quốc tế nhân danh Nhà nước theo ủy quyền của Chủ tịch nước;
quyết định việc ký, gia nhập, phê duyệt hoặc chấm dứt hiệu lực điều ước quốc tế
nhân danh Chính phủ, trừ điều ước quốc tế trình Quốc hội phê chuẩn quy định tại
khoản 14 Điều 70" (khoản 7 Điều 96).

Câu 63. Thẩm quyền của Thủ tướng Chính phủ

Hiến pháp năm 2013 đã kế thừa quy định Hiến pháp năm 1992, đồng thời khẳng
định rõ hơn vai trò, trách nhiệm của Thủ tướng với tư cách là người đứng đầu
Chính phủ, đồng thời là một thiết chế độc lập có quyền hạn và nhiệm vụ riêng và
đứng đầu hệ thống hành chính nhà nước.

Hiến pháp sắp xếp, cơ cấu lại nhiệm vụ, quyền hạn của Thủ tướng Chính phủ một
cách khoa học và hợp lý hơn, bảo đảm tương thích với nhiệm vụ, quyền hạn của
Chính phủ.
Hiến pháp đã phân biệt và quy định rõ 2 loại nhiệm vụ, quyền hạn của Thủ tướng:
nhiệm vụ, quyền hạn với tư cách là người đứng đầu Chính phủ và nhiệm vụ, quyền
hạn với tư cách là một thiết chế độc lập tương đối.

Điều này được thể hiện rõ nét khi chúng ta so sánh một số nhiệm vụ, quyền hạn
của Thủ tướng Chính phủ trong hai bản Hiến pháp. Cụ thể:

- Hiến pháp đã làm rõ hơn thẩm quyền của Thủ tướng Chính phủ trong việc lãnh
đạo, điều hành Chính phủ và hệ thống hành chính Nhà nước.

Đ114 Hiến pháp năm 1992: “1- Lãnh đạo công tác của Chính phủ, các thành viên
Chính phủ, Uỷ ban nhân dân các cấp; chủ toạ các phiên họp của Chính phủ;”

Quy định trên được sửa đổi, bổ sung lại tại Điều 98 Hiến pháp năm 2013:

“1. Lãnh đạo công tác của Chính phủ; lãnh đạo việc xây dựng chính sách và tổ
chức thi hành pháp luật;

2. Lãnh đạo và chịu trách nhiệm về hoạt động của hệ thống hành chính nhà nước từ
trung ương đến địa phương, bảo đảm tính thống nhất và thông suốt của nền hành
chính quốc gia;”

- Hiến pháp đã bổ sung thẩm quyền của Thủ tướng Chính phủ trong việc “quyết
định và chỉ đạo việc đàm phán, chỉ đạo việc ký, gia nhập điều ước quốc tế thuộc
nhiệm vụ, quyền hạn của Chính phủ; tổ chức thực hiện điều ước quốc tế mà Cộng
hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam là thành viên;” (khoản 5 Điều 98).

- Hiến pháp quy định đầy đủ hơn nhiệm vụ báo cáo công tác của Thủ tướng Chính
phủ.

Theo Khoản 6 Điều 114 Hiến pháp năm 1992, Thủ tướng Chính phủ phải “Thực
hiện chế độ báo cáo trước nhân dân qua các phương tiện thông tin đại chúng về
những vấn đề quan trọng mà Chính phủ phải giải quyết”.

Khoản 6 Điều 98 Hiến pháp năm 2013 sửa lại là: “Thực hiện chế độ báo cáo trước
Nhân dân thông qua các phương tiện thông tin đại chúng về những vấn đề quan
trọng thuộc thẩm quyền giải quyết của Chính phủ và Thủ tướng Chính phủ.“
Câu 64. Vị trí pháp lý của Bộ trưởng.

- Điều 99 Hiến pháp 2013 quy định rõ:

1. Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang bộ là thành viên Chính phủ và là người
đứng đầu bộ, cơ quan ngang bộ, lãnh đạo công tác của bộ, cơ quan ngang bộ;
chịu trách nhiệm quản lý nhà nước về ngành, lĩnh vực được phân công; tổ chức thi
hành và theo dõi việc thi hành pháp luật liên quan đến ngành, lĩnh vực trong phạm
vi toàn quốc.

2. Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang bộ báo cáo công tác trước Chính phủ, Thủ
tướng Chính phủ; thực hiện chế độ báo cáo trước Nhân dân về những vấn đề quan
trọng thuộc trách nhiệm quản lý.

Câu 65. Quyền lập quy của Chính phủ

- Quyền lập quy của Chính phủ được hiểu theo nghĩa hẹp và nghĩa rộng.

+ Ở nghĩa hẹp, quyền lập quy của Chính phủ là thẩm quyền của tập thể Chính
phủ ban hành QPPL (quy phạm pháp luật) dưới luật hoặc liên tịch với cơ quan
trung ương của tổ chức chính trị - xã hội để ban hành QPPL liên tịch trên cơ sở và
để thi hành luật, nghị quyết của Quốc hội, pháp lệnh, nghị quyết của UBTVQH,
lệnh, quyết định của Chủ tịch nước, điều ước quốc tế mà nước ta đã ký kết hoặc gia
nhập theo hình thức văn bản, thủ tục và trình tự do pháp luật quy định.

+ Ở nghĩa rộng, quyền lập quy của Chính phủ là thẩm quyền của tập thể Chính
phủ, Thủ tướng Chính phủ, Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang Bộ ban
hành QPPL dưới luật và thẩm quyền của tập thể Chính phủ liên tịch với cơ quan
trung ương của tổ chức chính trị - xã hội, của Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan
ngang Bộ liên tịch với Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan khác của Nhà nước để ban
hành QPPL liên tịch trên cơ sở và để thi hành luật, nghị quyết của Quốc hội, pháp
lệnh, nghị quyết của UBTVQH, lệnh, quyết định của Chủ tịch nước, điều ước quốc
tế mà nước ta đã ký kết hoặc gia nhập và văn bản pháp luật của cơ quan nhà nước
cấp trên theo hình thức văn bản, thủ tục và trình tự do pháp luật quy định.

Quyền lập quy của Chính phủ là một trong những thẩm quyền quan trọng của cơ
quan chấp hành của Quốc hội, cơ quan hành chính nhà nước cao nhất ở nước ta.
Quyền lập quy của Chính phủ có 08 đặc điểm như sau:
+ Thứ nhất, Chính phủ chỉ thực hiện quyền lập quy khi được cơ quan lập pháp
hoặc cơ quan nhà nước cấp trên cho phép;

+ Thứ hai, quyền lập quy của Chính phủ là một dạng quyền lực nhà nước. Vì xuất
phát từ quyền lực nhà nước nên các QPPL do Chính phủ ban hành có hiệu lực đối
với mọi tổ chức, cá nhân thuộc phạm vi điều chỉnh và đối tượng áp dụng

+ Thứ ba, các QPPL do Chính phủ ban hành có tính chất dưới luật; tức là, các
QPPL này có hiệu lực pháp lý thấp hơn và không được trái với QPPL do Quốc hội,
UBTVQH hoặc cơ quan nhà nước cấp trên ban hành. Tính ''dưới luật'' của các
QPPL do Chính phủ ban hành được hiểu là dưới QPPL của Hiến pháp, bộ luật,
luật, nghị quyết của Quốc hội, pháp lệnh, nghị quyết của UBTVQH;

+ Thứ tư, các chủ thể khác nhau của Chính phủ (tập thể Chính phủ, Thủ tướng
Chính phủ, các Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang Bộ) có thẩm quyền ban hành
QPPL có thứ bậc và hiệu lực pháp lý khác nhau, được thể hiện ở các văn bản có
tên gọi khác nhau, theo các thủ tục xây dựng, ban hành khác nhau và QPPL dưới
luật có giá trị pháp lý cao hơn thì có thủ tục xây dựng, ban hành phức tạp hơn, chặt
chẽ hơn;

+ Thứ năm, quyền lập quy của Chính phủ là quyền ban hành QPPL mới, sửa đổi,
bổ sung, bãi bỏ, thay thế, hủy bỏ, đình chỉ việc thi hành QPPL hiện hành để điều
chỉnh hành vi của cá nhân và tổ chức;

+ Thứ sáu, quyền lập quy của Chính phủ mang tính định hướng cho hành vi của cá
nhân, tổ chức; tức là, các QPPL do quyền lập quy của Chính phủban hành xác định
phương hướng, mục tiêu, tiêu chí, chuẩn mực, tiêu chuẩn, khuôn mẫu cho hành vi
của cá nhân và tổ chức trong xã hội;

+ Thứ bảy, quyền lập quy của Chính phủ mang tính khoa học;

+ Thứ tám, quyền lập quy của Chính phủ mang tính dân chủ, nhân đạo sâu sắc.

Bên cạnh việc là chủ thể chủ yếu trình, đề xuất các dự án luật, Chính phủ còn là
cơ quan ban hành nhiều văn bản chứa định quy phạm pháp luật nhất. Trên cơ sở
các luật do Quốc hội ban hành, Chính phủ ban hành các văn bản quy phạm pháp
luật trong hoạt động quản lí Nhà nước. Đây là quyền Hành chính cao nhất của
Chính Phủ - Quyền lập quy
=> Chính phủ có vị trí, vai trò rất quan trọng trong công tác lập pháp. Trong
khi đó, quyền lập pháp của Quốc hội chỉ biểu hiện chủ yếu ở việc thông qua
các dự án luật.

Câu 66. Quyền trình dự án luật của Chính phủ

Khoản 2 Điều 96 Hiến Pháp 2013 quy định quyền hạn của Chính Phủ:

“Đề xuất, xây dựng chính sách trình Quốc hội, Ủy ban Thường vụ Quốc hội quyết
định hoặc quyết định theo thẩm quyền để thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn quy định
theo điều này; trình dự án luật, dự án ngân sách Nhà nước và các dự án khác
trước Quốc hội; trình dự án pháp lệnh trước Ủy ban Thường vụ Quốc hội;”

- Một trong những nhiệm vụ quan trọng của Chính phủ hiện nay là Chính phủ phải
có trách nhiệm hoạch định ra chính sách cho quốc gia. Đây là một trong những đặc
điểm khác biệt của hành chính nhà nước tối cao với hành chính nhà nước khác.
Cùng là một phần của quản lý nhà nước, nhưng hành chính nhà nước tối cao thì
phải tập trung vào việc tìm ra đường lối, chính sách thông qua hoạt động
trình dự án luật trước Quốc hội và ban hành các văn bản pháp quy.

+ Chính phủ khởi thảo phần lớn các dự án luật, tức thực hiện sáng quyền lập
pháp. Theo Hiến pháp Việt Nam, Chính phủ là một loại chủ thể có quyền trình dự
án luật. Trong hoạt động hành pháp, Chính phủ thấy được những lỗ hổng, bất cập
của pháp luật, nên thực tế, đa số các đạo luật do Quốc hội thông qua là do Chính
phủ trình lên.

Câu 67. Những điểm mới của Hiến pháp năm 2013 về Chính phủ.

1. Làm rõ vị trí pháp lý, chức năng của Chính phủ

Vị trí, chức năng của Chính phủ đã được quy định trong Điều 109 Hiến pháp năm
1992 ( sửa đổi, bổ sung năm 2001). Theo đó: “Chính phủ là cơ quan chấp hành của
Quốc hội, cơ quan hành chính Nhà nước cao nhất của nước Cộng hoà xã hội chủ
nghĩa Việt Nam”.

Điều 109 Hiến pháp năm 2013: “Chính phủ là cơ quan hành chính nhà nước cao
nhất của nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam, thực hiện quyền hành
pháp, là cơ quan chấp hành của Quốc hội”.
Như vậy, lần đầu tiên trong lịch sử lập hiến VN, Hiến pháp chính thức khẳng định
Chính phủ là cơ quan thực hiện quyền hành pháp. Đây là cơ sở pháp lý quan trọng
giúp xác định cụ thể, rõ ràng, đầy đủ chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn, vai trò của
Chính phủ trong điều kiện phát triển nền kinh tế thị trường, xây dựng Nhà nước
pháp quyền XHCN Việt Nam.

2. Nhiệm vụ, quyền hạn được thiết kế lại

So với Hiến pháp năm 1992, nhiệm vụ, quyền hạn của Chính phủ trong Hiến pháp
hiện hành có những điểm mới cơ bản sau:

- Hiến pháp quy định cụ thể các loại văn bản QPPL mà Chính phủ tổ chức thi
hành. Khoản 1 Điều 96 Hiến pháp năm 2013: “Tổ chức thi hành Hiến pháp và các
VBQPPL của Quốc hội, Ủy ban thường vụ Quốc hội, Chủ tịch nước;”

- Hiến pháp bổ sung thêm một số nhiệm vụ, quyền hạn của Chính phủ trong việc
“thi hành các biện pháp cần thiết khác để bảo vệ Tổ quốc, bảo đảm tính mạng, tài
sản của Nhân dân;” (khoản 3 Điều 96), “đề xuất, xây dựng chính sách trình Quốc
hội, Ủy ban thường vụ Quốc hội quyết định hoặc quyết định theo thẩm quyền để
thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn…” (khoản 2 Điều 96). Thẩm quyền này thể hiện rõ
vai trò của Chính phủ trong việc thực hiện chức năng hành pháp - chức năng hoạch
định và thực hiện chính sách.

- Hiến pháp đã chuyển thẩm quyền quyết định thành lập, giải thể, nhập, chia, điều
chỉnh địa giới đơn vị hành chính dưới cấp tỉnh sang thẩm quyền của Ủy ban
Thường vụ Quốc hội.

- Hiến pháp đã thay đổi cách thức quy định về hình thức ban hành văn bản quy
phạm pháp luật của Chính phủ.

3. Tổ chức của Chính phủ gọn nhẹ hơn

Điều 110 Hiến pháp năm 1992: “Chính phủ gồm có Thủ tướng, các Phó Thủ
tướng, các Bộ trưởng và các thành viên khác. Ngoài Thủ tướng, các thành viên
khác của Chính phủ không nhất thiết là đại biểu Quốc hội”.

Quy định trên được sửa lại tại Điều 95 Hiến pháp năm 2013:
“1. Chính phủ gồm Thủ tướng Chính phủ, các Phó Thủ tướng Chính phủ, các Bộ
trưởng và Thủ trưởng cơ quan ngang bộ.

Cơ cấu, số lượng thành viên Chính phủ do Quốc hội quyết định.”

Như vậy, Chính phủ mới có cơ cấu gọn nhẹ, hợp lý và thực hiện đúng chức năng,
nhiệm vụ trong thời kỳ mới.

4. Đề cao chế định Thủ tướng Chính phủ.

Hiến pháp năm 2013 đã kế thừa quy định Hiến pháp năm 1992, đồng thời khẳng
định rõ hơn vị trí, vai trò, trách nhiệm của Thủ tướng với tư cách là người đứng
đầu Chính phủ, đồng thời là một thiết chế độc lập có quyền hạn và nhiệm vụ riêng
và đứng đầu hệ thống hành chính nhà nước.

+ Vị trí pháp lý, vai trò được xác định rõ

Lần đầu tiên Hiến pháp khẳng định: “Thủ tướng Chính phủ là người đứng đầu
Chính phủ”(Khoản 2 Điều 95 Hiến pháp năm 2013).

+ Nhiệm vụ, quyền hạn tăng cường hơn

+ Chế độ chịu trách nhiệm rõ hơn, toàn diện hơn

“Thủ tướng Chính phủ…, chịu trách nhiệm trước Quốc hội về hoạt động của
Chính phủ và những nhiệm vụ được giao; báo cáo công tác của Chính phủ, Thủ
tướng Chính phủ trước Quốc hội, Ủy ban thường vụ Quốc hội, Chủ tịch nước”
(Khoản 2 Điều 95 Hiến pháp năm 2013).

5. Tăng cường trách nhiệm cá nhân của Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan
ngang bộ

Hiến pháp mới có một số sửa đổi, bổ sung nhằm tăng cường vai trò, trách nhiệm cá
nhân của Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang bộ; thể hiện rõ hơn vị trí, nhiệm
vụ, trách nhiệm của Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang bộ với tư cách vừa là
thành viên Chính phủ, đồng thời là một thiết chế có trách nhiệm quản lý Nhà nước
đối với ngành, lĩnh vực trong phạm vi cả nước.

6. Nâng cao tính dân chủ pháp quyền


Câu 68. Địa vị pháp lý của Chủ tịch nước theo các Hiến pháp năm 1946,
1959, 1980, 1992, 2013

1. HIẾN PHÁP 1946

+ Chủ tịch nước là thành viên Chính Phủ được quy định tại Điều 44:

“Chính phủ gồm có Chủ tịch nước Việt Nam dân chủ cộng hoà, Phó chủ tịch và
Nội các”

+ Chủ tịch nước do Nghị viện bầu với nhiệm kì 5 năm

+ Vị trí của Chủ tịch nước theo Hiến Pháp 1946 có nhiều đặc điểm của Tổng thống
trong Chính thể Cộng hòa lưỡng tính của Pháp năm 1959, trong đó Nguyên thủ
Quốc gia vừa là người đứng đầu nhà nước, vừa là người đứng đầu hành pháp quốc
gia.

+ Điểm khác biệt giữa HP 1946 với HP 1959 đó là Chủ tịch nước do “nghị viện”
bầu ra chứ không phải “do dân” trực tiếp bầu ra ==> Thể hiện tư duy phân quyền
và tư duy nhân quyền.

2. HIẾN PHÁP NĂM 1959

+ Chế định Chủ tịch nước được hiến định là Nguyên thủ quốc gia, thực hiện chức
năng đại diện về đối nội, đối ngoại.

+ Điều 62: Chủ tịch nước Việt Nam dân chủ cộng hoà do Quốc hội nước Việt
Nam dân chủ cộng hoà bầu ra. Công dân nước Việt Nam dân chủ cộng hoà từ ba
mươi lăm tuổi trở lên có quyền ứng cử Chủ tịch nước Việt Nam dân chủ cộng hoà.
Nhiệm kỳ của Chủ tịch nước Việt Nam dân chủ cộng hoà theo nhiệm kỳ của Quốc
hội. (Ảnh hưởng của mô hình nhà nước XHCN).

3. HIẾN PHÁP NĂM 1980

+ Xác định chế độ Chủ tịch nước tập thể theo như mô hình Chính thể Cộng hòa xã
hội chủ nghĩa Liên Xô và Đông Âu.

+ Hội đồng Nhà nước – cơ quan cao nhất hoạt động thường xuyên của Quốc hội là
Chủ tịch tập thể của Nhà nước Cộng hòa XHCH Việt Nam.

4. HIẾN PHÁP NĂM 1992


+ Thiết chế Chủ tịch nước được thiết lập trở lại và hoàn chỉnh hơn

+ Điều 101: Chủ tịch nước là người đứng đầu Nhà nước, thay mặt nước Cộng hoà
xã hội chủ nghĩa Việt Nam về đối nội và đối ngoại.

=> Sự hiện diện trở lại thiết chế Chủ tịch nước cá nhân góp phần tăng cường tính
phân công, phối hợp giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện quyền lực nhà
nước trong thời kì đổi mới

5. HIẾN PHÁP NĂM 2013

Vị trí pháp lý của Chủ tịch nước tương tự HP năm 1992

Câu 69. Thẩm quyền của Chủ tịch nước theo các Hiến pháp năm 1946, 1959,
1980, 1992, 2013.

1. HIẾN PHÁP NĂM 1946

+ Việc trao quyền hành pháp cho Chủ tịch nước có vai trò quan trọng trong bối
cảnh cách mạng cần thiết phải có một người có đủ uy tín và quyền lực để điều
hành đất nước khi vừa giành chính quyền

+ Thẩm quyền của Chủ tịch nước:

Điều thứ 49

Quyền hạn của Chủ tịch nước Việt Nam dân chủ cộng hoà:

a) Thay mặt cho nước.

b) Giữ quyền Tổng chỉ huy quân đội toàn quốc, chỉ định hoặc cách chức các tướng
soái trong lục quân, hải quân, không quân.

c) Ký sắc lệnh bổ nhiệm Thủ tướng, nhân viên Nội các và nhân viên cao cấp thuộc
các cơ quan Chính phủ.

d) Chủ toạ Hội đồng Chính phủ.

đ) Ban bố các đạo luật đã được Nghị viện quyết nghị.

e) Thưởng huy chương và các bằng cấp danh dự.


g) Đặc xá.

h) Ký hiệp ước với các nước.

i) Phái đại biểu Việt Nam đến nước ngoài và tiếp nhận đại biểu ngoại giao của các
nước.

k) Tuyên chiến hay đình chiến theo như Điều 38 đã định.

Điều thứ 50

Chủ tịch nước Việt Nam không phải chịu một trách nhiệm nào, trừ khi phạm tội
phản quốc.

2. HIẾN PHÁP NĂM 1959

+ Các quyền hạn của Chủ tịch nước chủ yếu mang tính đại diện hình thức cho hoạt
động đối nội, đối ngoại của Nhà nước: Chủ tịch nước không còn là người đứng đầu
và lãnh đạo hành pháp; thực hiện các quyền danh nghĩa trong việc lựa chọn các
thành viên Chính phủ; Chủ tịch nước không có quyền phủ quyết luật của Quốc hội.

+ Thẩm quyền của Chủ tịch nước được quy định trong Điều 66, 67

=> Những thẩm quyền này không còn được ghi nhận trong các Hiến pháp sau này
của Việt Nam. Chủ tịch nước có vai trò quan trọng trong việc điều phối các hoạt
động của các cơ quan Nhà nước.

3. HIẾN PHÁP NĂM 1980

- Hội đồng nhà nước – Chủ tịch tập thể của Nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa
Việt Nam

+ Thuận lợi: Các vấn đề thuộc quyền hạn của Nguyên thủ quốc gia được thảo luận
tập thể và quyết định theo đa số thường là chắc chắn và tránh được những thiếu sót
chủ quan; bộ máy nhà nước gọn nhẹ hơn.

+ Hạn chế: Mọi vấn đề đều bàn bạc tập thể, quyết định theo số đông nên thường
chậm chạp, không phân định rõ hoạt động tập thể của cơ quan thường trực Quốc
hôi và chức trách cá nhân trong việc thực hiện các hoạt động, nhất là các hoạt động
đại diện Nhà nước.
+ Điều 100

Hội đồng Nhà nước có những nhiệm vụ và quyền hạn sau đây:

1- Tuyên bố và chủ trì việc bầu cử đại biểu Quốc hội.

2- Triệu tập các kỳ họp của Quốc hội.

3- Công bố luật.

4- Ra Pháp lệnh.

5- Giải thích Hiến pháp, luật và pháp lệnh.

6- Quyết định việc trưng cầu ý kiến nhân dân.

7- Giám sát công tác của Hội đồng bộ trưởng, của Toà án nhân dân tối cao và của
Viện trưởng Viện Kiểm sát nhân dân tối cao.

8- Đình chỉ việc thi hành và sửa đổi hoặc bãi bỏ những Nghị quyết, Nghị định,
Quyết định của Hội đồng Bộ trưởng trái với Hiến pháp, Luật và Pháp lệnh.

9- Giám sát và hướng dẫn hoạt động của Hội đồng nhân dân các cấp, nhằm phát
huy chức năng cơ quan đại biểu nhân dân của Hội đồng nhân dân.

10- Sửa đổi hoặc bãi bỏ những nghị quyết không thích đáng của các Hội đồng nhân
dân tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương và cấp tương đương; giải tán các Hội
đồng nói trên trong trường hợp các Hội đồng đó làm thiệt hại nghiêm trọng đến
quyền lợi của nhân dân.

11- Trong thời gian Quốc hội không họp, quyết định việc thành lập hoặc bãi bỏ các
bộ, các Uỷ ban Nhà nước.

12- Trong thời gian Quốc hội không họp, cử và bãi miễn các Phó Chủ tịch Hội
đồng Bộ trưởng, các Bộ trưởng, các Chủ nhiệm Uỷ ban Nhà nước.

13- Cử và bãi miễn các Phó Chánh án, Thẩm phán và Hội thẩm nhân dân của Toà
án nhân dân tối cao; cử và bãi miễn các Phó Viện trưởng và kiểm sát viên Viện
Kiểm sát nhân dân tối cao.

14- Bổ nhiệm, bãi miễn và triệu hồi các đại diện toàn quyền ngoại giao của nước
Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam ở nước ngoài và ở các tổ chức quốc tế.
15- Tiếp nhận các đại diện toàn quyền ngoại giao của nước ngoài.

16- Phê chuẩn hoặc bãi bỏ những hiệp ước quốc tế, trừ trường hợp xét thấy cần
trình Quốc hội quyết định.

17- Quy định hàm và cấp quân sự, ngoại giao và những hàm và cấp khác.

18- Quy định và quyết định việc tặng thưởng huân chương, huy chương và danh
hiệu vinh dự Nhà nước.

19- Quyết định đặc xá.

20- Trong thời gian Quốc hội không họp, tuyên bố tình trạng chiến tranh khi nước
nhà bị xâm lược.

21- Quyết định việc tổng động viên hoặc động viên cục bộ, việc giới nghiêm trong
toàn quốc hoặc từng địa phương.

Những quyết định của Hội đồng Nhà nước nói ở các điểm 11, 12 và 20 phải trình
Quốc hội phê chuẩn trong kỳ họp gần nhất của Quốc hội.

Quốc hội có thể giao cho Hội đồng Nhà nước những nhiệm vụ và quyền hạn khác,
khi xét thấy cần thiết.

3. HIẾN PHÁP NĂM 1992

Chế định Chủ tịch nước được thiết lập lại, các thẩm quyền của Chủ tịch nước được
quy định tại các Điều 103, 105, 106

Tuy nhiên, trong các lĩnh vực tham gia, Chủ tịch nước chỉ thực hiện các
quyền một cách độc lập liên quan đến các lĩnh vực mang tính chất lễ nghi, thủ tục
và biểu tượng (trao tặng các danh hiệu; đứng đầu nhà nước đặc xá, ân xá; bổ nhiệm
đại sư; phê chuẩn, ban hành luật; tổng chỉ huy lực lượng vũ trang; ban bố tình trạng
khẩn cấp…), mà không được trao các quyền quan trọng (phủ quết luật, giải tán
Chính phủ; khiển trách, yêu cầu và triệu tập Chính phủ, quyết định bầu cử trước
thời hạn…)

4. HIẾN PHÁP NĂM 2013

Quyền của Chủ tịch nước được chia thành 2 nhóm sau:
NHÓM 1: Các nhiệm vụ, quyền hạn liên quan đến chức năng đại diện, thay
mặt Nhà nước về đối nội, đối ngoại.

+ Cử đại sứ đặc mệnh toàn quyền của Việt Nam; tiếp nhận đại sứ đặc mệnh toàn
quyền của nước ngoài; quyết định cho nhập, thôi , tước quốc tịch; Tiến hành đàm
phán, kí kết điều ước quốc tế; công bố quyết định đại xá và ra quyết định đặc xá;
Thống lĩnh các lực lượng vũ trang nhân dân và giữ chức Chủ tịch Hội đồng QP –
AN;

NHÓM 2: Các nhiệm vụ, quyền hạn liên quan đến việc phối hợp các thiết chế
quyền lực nhà nước trong các lĩnh vực lập pháp, hành pháp, tư pháp

+ Trong lĩnh vực lập pháp:Trình dự án luật trước Quốc hội; Công bố HP, luật và
pháp lệnh…

+ Trong lĩnh vực hành pháp: Chủ tịch nước tham gia thành lập CP, Thủ tướng
chính phủ.

+ Trong lĩnh vực tư pháp và giám sát: Chủ tịch nước giới thiệu để QH bầu Chánh
án Tòa án nhân dân Tối cao, Viện trưởng VKS ND Tối cao….

Câu 70: Những điểm mới của Hiến pháp 2013 về Chủ tịch nước.

Đối với chế định Chủ tịch nước, Hiến pháp mới quy định từ Điều 86 đến Điều
93, trong đó có nhiều bổ sung quan trọng về thẩm quyền của Chủ tịch nước, tương
xứng với vị trí là nguyên thủ quốc gia, người đứng đầu Nhà nước, thay mặt Nhà
nước về đối nội, đối ngoại, thống lĩnh các lực lượng vũ trang, Chủ tịch Hội đồng
Quốc phòng và An ninh như quyền quyết định phong, thăng, giáng, tước quân
hàm, chức vụ, chức danh quan trọng trong lực lượng vũ trang và Tòa án. Cụ thể
có các điểm mới sau:

Điều 86: “Chủ tịch nước là người đứng đầu Nhà nước, thay mặt nước Cộng hoà xã
hội chủ nghĩa Việt Nam về đối nội và đối ngoại”.

Điều 87: “Chủ tịch nước do Quốc hội bầu trong số các đại biểu Quốc hội.

Chủ tịch nước chịu trách nhiệm và báo cáo công tác trước Quốc hội.
Nhiệm kỳ của Chủ tịch nước theo nhiệm kỳ của Quốc hội. Khi Quốc hội hết nhiệm
kỳ, Chủ tịch nước tiếp tục làm nhiệm vụ cho đến khi Quốc hội khoá mới bầu ra
Chủ tịch nước”.

Điều 88: Chủ tịch nước có 6 nhiệm vụ và quyền hạn, trong đó khoản 3 của Điều
này quy định như sau: Chủ tịch nước “Đề nghị Quốc hội bầu, miễn nhiệm, bãi
nhiệm Chánh án Toà án nhân dân tối cao, Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối
cao; căn cứ vào nghị quyết của Quốc hội bổ nhiệm, miễn nhiệm, cách chức Thẩm
phán Tòa án nhân dân tối cao; bổ nhiệm, miễn nhiệm, cách chức Phó Chánh án
Tòa án nhân dân tối cao, Thẩm phán các Tòa án khác, Phó Viện trưởng, Kiểm sát
viên Viện kiểm sát nhân dân tối cao; quyết định đặc xá; căn cứ vào nghị quyết của
Quốc hội công bố quyết định đại xá;”

 Hiến pháp 2013 đã sắp xếp, làm rõ hơn nhiệm vụ, quyền hạn của Chủ tịch
nước trong mối quan hệ với cơ quan lập pháp, hành pháp, tư pháp. Quyền
của Chủ tịch nước được mở rộng và cụ thể hơn về việc phong hàm, phong
cấp sĩ quan cấp cao; quyền bãi bỏ văn bản của Chính phủ, Thủ tướng Chính
phủ...

Câu 71. Vị trí pháp lý của Tòa án theo các Hiến pháp năm 1946, 1959, 1980,
1992, 2013

- Trong khi các nước phát triển, khái niệm “tư pháp” chỉ được dùng cho hoạt
động xét xử của tòa án thì ở Việt Nam, “tư pháp” dùng để chỉ hoạt động của các
cơ quan Tòa án, Viện Kiểm sát, điều tra, luật sư và thi hành án, trong đó Tòa
án và Viện Kiểm sát giữ vai trò trung tâm.

Trong hệ thống tư pháp, Tòa án giữ một vị trí đặc biệt. Bằng hoạt động của
mình, Tòa án có vai trò cực kì quan trọng trong việc giữ gìn, đảm bảo công lý, bảo
vệ pháp luật và quyền lợi của công dân – một trong những nhiệm vụ quan trọng
bậc nhất của một quốc gia.

Để thực hiện vai trò quan trọng này, Tòa án là cơ quan duy nhất được Hiến
pháp giao cho chức năng xét xử các vụ việc tranh chấp trong các hoạt động xã hội
dựa trên cơ sở của pháp luật, được quy định tại Điều 97 (HP 1959); Điều 128 (HP
1980); Điều 127 (HP 1992)

1. Hiến pháp năm 1946


Chưa có chế định về tòa án nhân dân, chủ yếu nêu về cơ quan tư pháp

Điều thứ 63

Cơ quan tư pháp của nước Việt Nam dân chủ cộng hoà gồm có:

a) Toà án tối cao.

b) Các toà án phúc thẩm.

c) Các toà án đệ nhị cấp và sơ cấp.

2. Hiến pháp năm 1959

Toà án nhân dân tối cao nước Việt Nam dân chủ cộng hoà, các Toà án nhân dân
địa phương, các Toà án quân sự là những cơ quan xét xử của nước Việt Nam dân
chủ cộng hoà. (Điều 97)

3. Hiến pháp năm 1980

Điều 128

Toà án nhân dân tối cao, các Toà án nhân dân địa phương, các Toà án quân sự là
những cơ quan xét xử của nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam.

Trong tình hình đặc biệt hoặc trong trường hợp cần xét xử những vụ án đặc biệt,
Quốc hội hoặc Hội đồng Nhà nước có thể quyết định thành lập Toà án đặc biệt.

Ở cơ sở, thành lập các tổ chức thích hợp của nhân dân để giải quyết những việc vi
phạm pháp luật và tranh chấp nhỏ trong nhân dân, theo quy định của pháp luật.

Điều 129

Chế độ bầu cử thẩm phán được thực hiện ở Toà án nhân dân các cấp.

Nhiệm kỳ của Chánh án, Phó Chánh án và thẩm phán Toà án nhân dân các cấp
theo nhiệm kỳ của cơ quan bầu ra mình.

4. Hiến pháp năm 1992

Điều 127
Toà án nhân dân tối cao, các Toà án nhân dân địa phương, các Toà án quân sự và
các Toà án khác do luật định là những cơ quan xét xử của nước Cộng hoà xã hội
chủ nghĩa Việt Nam.

Trong tình hình đặc biệt, Quốc hội có thể quyết định thành lập Toà án đặc biệt.

Ở cơ sở, thành lập các tổ chức thích hợp của nhân dân để giải quyết những việc vi
phạm pháp luật và tranh chấp nhỏ trong nhân dân theo quy định của pháp luật.

Điều 128

Nhiệm kỳ của Chánh án Toà án nhân dân tối cao theo nhiệm kỳ của Quốc hội.

Chế độ bổ nhiệm, miễn nhiệm, cách chức và nhiệm kỳ của Thẩm phán, chế độ bầu
cử và nhiệm kỳ của Hội thẩm nhân dân ở Toà án nhân dân các cấp do luật định.

5. HIẾN PHÁP NĂM 2013

Điều 102

1. Tòa án nhân dân là cơ quan xét xử của nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt
Nam, thực hiện quyền tư pháp.

2. Tòa án nhân dân gồm Tòa án nhân dân tối cao và các Tòa án khác do luật định.

3. Tòa án nhân dân có nhiệm vụ bảo vệ công lý, bảo vệ quyền con người, quyền
công dân, bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa, bảo vệ lợi ích của Nhà nước, quyền và
lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân.

Câu 72. Quyền tư pháp của Tòa án.

- Quyền tư pháp thuộc về Tòa án (Tòa án nhân dân Tối cao và Tòa án nhân dân
các cấp). Sự khẳng định này thể hiện sự công nhận nguyên tắc phân công quyền
lực giữa quyền tư pháp với các quyền lập pháp và hành pháp.

- Ngoài ra, Hiến pháp cũng nêu rõ quyền tư pháp là quyền của Tòa án chứ không
phải quyền của bất kỳ cơ quan nào khác như Viện Kiểm sát, công an và các cơ
quan thi hành án.
- Hiến pháp ghi nhận một chương riêng về “Tòa án nhân dân”. Điều khoản về tư
pháp được quy định như sau: Khoản 1 Điều 102 HP 2013 “Tòa án là cơ quan xét
xử của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, thực hiện quyền tư pháp”.

Tòa án cần phải bảo vệ các quyền con người trước sự xâm phạm của ngành lập
pháp và hành pháp Tòa án cần duy trì sự độc lập của ngành tư pháp trước sự can
thiệp của các quyền lực khác; Sự độc lập tư pháp là yếu tố cơ bản nhất giúp cho
nhành này có khả năng bảo vệ công lý, an ninh cho con người.

Câu 73. Hệ thống tổ chức Tòa án theo các Hiến pháp năm 1946, 1959, 1980,
1992, 2013.

1. Hiến pháp năm 1946

- Cơ quan tư pháp của nước Việt Nam dân chủ cộng hoà gồm có:

+ Toà án tối cao.

+ Các toà án phúc thẩm.

+ Các toà án đệ nhị cấp và sơ cấp.

2. Hiến pháp năm 1959, năm 1980

+ Tòa án nhân dân Tối cao

+ Các Tòa án nhân dân địa phương

+ CácTòa án quân sự

3. Hiến pháp năm 1992

+ Tòa án nhân dân Tối cao

+ Các Tòa án nhân dân địa phương

+ CácTòa án quân sự

+ Các Tòa án khác do luật định

5. Hiến pháp năm 2013


Câu 74. Tòa án nhân dân tối cao

Hiến pháp năm 2013 quy định:

Điều 104

1. Tòa án nhân dân tối cao là cơ quan xét xử cao nhất của nước Cộng hoà xã hội
chủ nghĩa Việt Nam.

2. Tòa án nhân dân tối cao giám đốc việc xét xử của các Tòa án khác, trừ trường
hợp do luật định.

3. Tòa án nhân dân tối cao thực hiện việc tổng kết thực tiễn xét xử, bảo đảm áp
dụng thống nhất pháp luật trong xét xử.

TÒA ÁN NHÂN DÂN TỐI CAO


1.Tòa án nhân dân tối cao là cơ quan xét xử cao nhất của Nước Cộng hòa xã hội
chủ nghĩa Việt Nam

2. Thành phần của Tòa án nhân dân Tối cao bao gồm: Chánh án, các Phó Tránh án,
các Thẩm phán và Thư kí tòa án

3. Cơ cấu tổ chức của Tòa án nhân dân Tối cao bao gồm:

a. Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân Tối cao

b. Tòa án quân sự trung ương, Tòa Hình sự, Tòa Dân sự, Tài Kinh tế, Tòa Lao
động, Tòa Hành chính và các Tòa phúc thẩm Tòa án nhân dân Tối cao; trong
trường hợp cần thiết, Ủy ban Thường vụ Quốc hội quyết định thành lập các tòa
chuyên trách theo đề nghị của Tránh án Tòa án nhân dân Tối cao;

c. Bộ máy giúp việc.

4. Nhiệm kỳ của Tòa án nhân dân Tối cao theo nhiệm kỳ của Quốc hội. Chánh án
Tòa án nhân dân Tối cao do Quốc hội bầu theo sự giới thiệu của Chủ tịch nước.
Các Phó Cránh án và Thẩm phán Tòa án nhân dân Tối cao do chủ tịch nước bổ
nhiệm, miễn nhiệm, cách chức theo sự giới thiệu của Chánh án Tòa án nhân dân
Tối cao.

5. Sự hướng dẫn của Tòa án nhân dân Tối cao chủ yếu là hướng dẫn chung bằng
văn bản. Nếu có vướng mắc, khó khăn thì tòa án nhân dân Tối cao tự hướng dẫn về
phương hướng và cách thức giải quyết các vấn đề vướng mắc đó để Tòa án cấp
dưới tự giải quyết. Ngoài nhiệm vụ hướng dẫn tòa án cấp dưới đường lối xét xử và
áp dụng luật thống nhất, Tòa án tối cao còn giám đốc việc xét xử các tòa án đó,
tổng kết kinh nghiệm xét xử và thi hành án trong toàn ngành đó.

6. Để thực hiện quyền hạn một cách hiệu quả, Tòa án Nhân dân Tối cao được tổ
chức bao gồm Hội đồng thẩm phán và các Tòa chuyên trách.

Câu 75. Nguyên tắc độc lập xét xử.

- Đây là một nguyên tắc quan trọng bậc nhất trong hệ thống tư pháp. Nguyên tắc
này đòi hỏi phải đảm bảo hoạt động xét xử độc lập, không bị can thiệp bởi bất kì tổ
chức, cá nhân nào (kể cả các cơ quan nhà nước, tổ chức Đảng).
- Sự độc lập của tư pháp trong mối quan hệ với lập pháp và hành pháp là một
trong những đảm bảo quan trọng trong việc bảo đảm quyền bình đẳng, quyền tự
nhiên của con người, nhất là trong việc chống lại tham nhũng, lợi dụng quyền lực
của những nhà cầm quyền. Sự độc lập tư pháp là yếu tố cơ bản nhất giúp cho
ngành này có khả năng bảo vệ công lý, an ninh của con người.

- Sự độc lập của tư pháp là thành trì cuối cùng của nguyên tắc giới hạn quyền
lực Nhà nước. Nguyên tắc độc lập tư pháp theo quy định của pháp luật Việt Nam
được hiểu là sự đảm bảo độc lập trong hoạt đọng xét xử. Tuy nhiên, sự độc lập tư
pháp không chỉ dừng lại ở khâu xét xử. Không thể có độc lập xét xử nếu không có
sự độc lập trong tổ chức tòa án cũng như các đảm bảo khác trong quy trình tố tụng.

Câu 76. Những điểm mới của Hiến pháp năm 2013 về Tòa Án

1. Tòa án thực hiện quyền tư pháp

Tại Khoản 1 Điều 102 Hiến pháp năm 2013 quy định: “Tòa án nhân dân là cơ quan
xét xử của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, thực hiện quyền tư pháp”.

So với Hiến pháp năm 1992 thì ngoài chức năng xét xử thì Tòa án nhân dân còn
thực hiện quyền tư pháp là nhằm phân định quyền lực nhà nước theo hướng Tòa án
nhân dân là cơ quan thực hiện quyền tư pháp, Chính phủ là cơ quan thực hiện
quyền hành pháp, Quốc hội là cơ quan thực hiện quyền lập hiến, lập pháp. Đây là
cơ sở pháp lý để giao cho Tòa án nhân dân có thẩm quyền giải quyết những loại vụ
việc liên quyền con người, quyền của công dân, mà những loại việc đó hiện nay là
các cơ quan hành chính đang thực hiện…

2. Cơ cấu của Tòa án nhân dân

Khoản 2 Điều 102 Hiến pháp năm 2013 quy định “Tòa án nhân dân gồm Tòa án
nhân dân tối cao và các Tòa án khác do Luật định” cho phù hợp với chủ trương cải
cách tư pháp theo Nghị quyết 49 của Bộ Chính trị là xác định tổ chức hệ thống Tòa
án theo cấp xét xử không phụ thuộc vào địa giới hành chính mà để Luật Tổ chức
Tòa án nhân dân quy định, làm cơ sở cho việc tiếp tục đổi mới hoạt động tư pháp,
phù hợp với yêu cầu của Nhà nước pháp quyền.

3. Nhiệm vụ của Tòa án nhân dân


Bổ sung Khoản 3 Điều 102 Hiến pháp năm 2013 quy định về nhiệm vụ của Tòa án
nhân dân là bảo vệ công lý, bảo vệ quyền con người, quyền công dân, bảo vệ chế
độ xã hội chủ nghĩa, bảo vệ lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của tổ
chức, cá nhân đã thể hiện rõ nét về nhiệm vụ của Tòa án, đảm bảo thực hiện đúng
chức năng, nhiệm vụ Tòa án.

Hiến pháp năm 2013 không quy định về việc thành lập các tổ chức thích hợp ở cơ
sở để giải quyết các tranh chấp nhỏ trong nhân dân như Điều 127 Hiến pháp năm
1992 mà để luật quy định.

4. Nguyên tắc hoạt động cơ bản của TAND

Đồng thời, Hiến pháp năm 2013 cũng đã sắp xếp và bổ sung một số nội dung quan
trọng tại Điều 103, cụ thể như: “Việc xét xử sơ thẩm của Tòa án nhân dân có Hội
thẩm tham gia, trừ trường hợp xét xử theo thủ tục rút gọn; Thẩm phán, Hội thẩm
xét xử độc lập và chỉ tuân theo pháp luật; nghiêm cấm cơ quan, tổ chức, cá nhân
can thiệp vào việc xét xử của Thẩm phán, Hội thẩm; Tòa án nhân dân xét xử công
khai.

Trong trường hợp đặc biệt cần giữ bí mật nhà nước, thuần phong, mỹ tục của dân
tộc, bảo vệ người chưa thành niên hoặc giữ bí mật đời tư theo yêu cầu chính đáng
của đương sự, Tòa án nhân dân có thể xét xử kín; Tòa án nhân dân xét xử tập thể
và quyết định theo đa số, trừ trường hợp xét xử theo thủ tục rút gọn; nguyên tắc
tranh tụng trong xét xử được bảo đảm; chế độ xét xử sơ thẩm, phúc thẩm được bảo
đảm; quyền bào chữa của bị can, bị cáo, quyền bảo vệ lợi ích hợp pháp của đương
sự được bảo đảm”.

=> Đây là các nguyên tắc hoạt động cơ bản Tòa án nhân dân nhằm đảm bảo nâng
cao chất lượng, hiệu quả của công tác xét xử của Tòa án nhân dân, đảm bảo chất
lượng xét xử của Tòa án tránh tình trạng xảy ra oan sai, gây thiệt hại cho các bên
đương sự trong quá trình xét xử của Tòa án.

Câu 77. Vị trí pháp lý của Viện kiểm sát theo các Hiến pháp năm 1959, 1980,
1992, 2013.

Trong hệ thống các cơ quan nhà nước xã hội chủ nghĩa, Viện kiểm sát là một
loại cơ quan đạc biệt có vị trí, vai trò quan trọng. hệ thống Viện Kiểm sát được tổ
chức tuừ trung ương cho đến các quận, huyện, thị xã, thành phố thuộc tỉnh.
Theo quy định của Pháp luật VN, VKS được xếp vào hệ thống cơ quan tư pháp

1. Hiến pháp năm 1946

Chưa có mô hình VKS trong cơ quan tư pháp

2. Hiến pháp năm 1959

VIỆN KIỂM SÁT NHÂN DÂN

Điều 105

Viện kiểm sát nhân dân tối cao nước Việt Nam dân chủ cộng hoà kiểm sát việc
tuân theo pháp luật của các cơ quan thuộc Hội đồng Chính phủ, cơ quan Nhà nước
địa phương, các nhân viên cơ quan Nhà nước và công dân.

Các Viện kiểm sát nhân dân địa phương và Viện kiểm sát quân sự có quyền kiểm
sát trong phạm vi do luật định.

Điều 106

Nhiệm kỳ của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao là năm năm.

Tổ chức của các Viện kiểm sát nhân dân do luật định.

3. Hiến pháp năm 1980

Điều 138

Viện Kiểm sát nhân dân tối cao nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam kiểm
sát việc tuân theo pháp luật của các bộ và cơ quan khác thuộc Hội đồng Bộ trưởng,
các cơ quan chính quyền địa phương, tổ chức xã hội và đơn vị vũ trang nhân dân,
các nhân viên Nhà nước và công dân, thực hành quyền công tố, bảo đảm cho pháp
luật được chấp hành nghiêm chỉnh và thống nhất.

Các Viện Kiểm sát nhân dân địa phương, các Viện Kiểm sát quân sự kiểm sát việc
tuân theo pháp luật, thực hành quyền công tố trong phạm vi trách nhiệm của mình.

Điều 139

Nhiệm kỳ của Viện trưởng Viện Kiểm sát nhân dân tối cao theo nhiệm kỳ của
Quốc hội.
4. Hiến pháp năm 1992

Điều 137

Viện kiểm sát nhân dân tối cao kiểm sát việc tuân theo pháp luật của các Bộ, các
cơ quan ngang Bộ, các cơ quan khác thuộc Chính phủ, các cơ quan chính quyền
địa phương, tổ chức kinh tế, tổ chức xã hội, đơn vị vũ trang nhân dân và công dân,
thực hành quyền công tố, bảo đảm cho pháp luật được chấp hành nghiêm chỉnh và
thống nhất.

Các Viện kiểm sát nhân dân địa phương, các Viện kiểm sát quân sự kiểm sát việc
tuân theo pháp luật, thực hành quyền công tố trong phạm vi trách nhiệm do luật
định.

5. Hiến pháp năm 2013

Điều 107

1. Viện kiểm sát nhân dân thực hành quyền công tố, kiểm sát hoạt động tư pháp.

2. Viện kiểm sát nhân dân gồm Viện kiểm sát nhân dân tối cao và các Viện kiểm
sát khác do luật định.

3. Viện kiểm sát nhân dân có nhiệm vụ bảo vệ pháp luật, bảo vệ quyền con người,
quyền công dân, bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa, bảo vệ lợi ích của Nhà nước,
quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân, góp phần bảo đảm pháp luật được
chấp hành nghiêm chỉnh và thống nhất.

=> Hiến pháp năm 2013 kế thừa và khẳng định chức năng, nhiệm vụ, quyền
hạn của Viện kiểm sát là thực hành quyền công tố và kiểm sát hoạt động tư
pháp như Hiến pháp năm 1992. Đồng thời thể chế hóa yêu cầu về đổi mới hệ
thống tổ chức Viện kiểm sát để phù hợp với mô hình Tòa án nhân dân theo chủ
trương cải cách tư pháp, cụ thể: “Viện kiểm sát nhân dân gồm Viện kiểm sát
nhân dân tối cao và các Viện kiểm sát khác do luật định”.
Đồng thời quy định rõ trách nhiệm của Viện kiểm sát tại khoản 3 Điều 107, cụ thể:
“Viện kiểm sát nhân dân có nhiệm vụ bảo vệ pháp luật, bảo vệ quyền con người,
quyền công dân, bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa, bảo vệ lợi ích của Nhà nước,
quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân, góp phần bảo đảm pháp luật
được chấp hành nghiêm chỉnh và thống nhất”. Bên cạnh đó, đã bổ sung và quy
đinh rõ hơn nguyên tắc tại Khoản 2 Điều 109: “Khi thực hành quyền công tố và
kiểm sát hoạt động tư pháp, Kiểm sát viên tuân theo pháp luật và chịu sự chỉ đạo
của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân, nhằm đảm bảo tính độc lập, khách quan,
đúng pháp luật trong việc thực hiện quyền công tố và kiểm sát hoạt động tư pháp
của Kiểm sát viên,

Câu 78. Quyền công tố của Viện kiểm sát.

+ Chức năng công tố của Viện Kiểm sát chỉ mới được ghi nhận từ Hiến pháp năm
1980 đến nay, nhưng khi đó chức năng này được đặt sau chức năng kiểm sát
chung. Hay nói cách khác, công tố (buộc tội) là chức năng đi kèm, phái sinh từ
chức năng kiểm sát chung.

+ Hiến pháp 1980 quy định:

Điều 138

Viện Kiểm sát nhân dân tối cao nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam […]
thực hành quyền công tố, bảo đảm cho pháp luật được chấp hành nghiêm chỉnh và
thống nhất.

Các Viện Kiểm sát nhân dân địa phương, các Viện Kiểm sát quân sự kiểm sát việc
tuân theo pháp luật, thực hành quyền công tố trong phạm vi trách nhiệm của mình.

+ Tuy nhiên sau đó, Hiến pháp 1992 và hiến pháp 2013 đã cắt bỏ phần lớn chức
năng Kiểm sát chung của Viện Kiểm sát, chỉ còn giữ chức năng kiểm sát tư pháp
và công tố. Theo quy định của HP mới, chức năng CÔNG TỐ lại trở thành chức
năng chính và chức năng kiểm sát tư pháp (phần còn lại của Kiểm sát chung) lại là
chức năng phụ.

+ Khi thực hành quyền công tố trong giai đoạn điều tra, Viện kiểm sát có nhiệm
vụ, quyền hạn:
- Khởi tố vụ án hình sự, khởi tố bị can; yêu cầu Cơ quan điều tra khởi tố hoặc thay
đổi quyết định khởi tố vụ án hình sự, khởi tố bị can;

- Đề ra yêu cầu điều tra và yêu cầu Cơ quan điều tra tiến hành điều tra; khi xét thấy
cần thiết, trực tiếp tiến hành một số hoạt động điều tra theo quy định của pháp luật;

- Yêu cầu Thủ trưởng Cơ quan điều tra thay đổi Điều tra viên theo quy định của
pháp luật; nếu hành vi của Điều tra viên có dấu hiệu tội phạm thì khởi tố về hình
sự;

- Quyết định áp dụng, thay đổi hoặc huỷ bỏ biện pháp bắt, tạm giữ, tạm giam và
các biện pháp ngăn chặn khác; quyết định phê chuẩn, quyết định không phê chuẩn
các quyết định của Cơ quan điều tra theo quy định của pháp luật. Trường hợp
không phê chuẩn thì trong quyết định không phê chuẩn phải nêu rõ lý do;

- Huỷ bỏ các quyết định không có căn cứ và trái pháp luật của Cơ quan điều tra;
yêu cầu Cơ quan điều tra truy nã bị can;

- Quyết định việc truy tố bị can; quyết định đình chỉ hoặc tạm đình chỉ vụ án.

Câu 79.Vị trí pháp lý của Hội đồng nhân dân theo các Hiến pháp năm 1959,
1980, 1992, 2013.

1. Hiến pháp năm 1946

Do điều kiện chiến tranh thời bấy giờ mà nhiều nơi không thành lập được Hội
đồng nhân dân

2. Hiến pháp năm 1959

Theo HP 1959, ở tất cả các đơn vị hành chính đều thành lập Hội đồng nhân dân.
Lần đầu tiên Hội đồng nhân dân được xác định là cơ quan quyền lực Nhà nước ở
địa phương và được kế thừa ở những HP sau này.

Điều 79

Các đơn vị hành chính kể trên đều thành lập Hội đồng nhân dân và Uỷ ban hành
chính.

Các thành phố có thể chia thành khu phố có Hội đồng nhân dân và Uỷ ban hành
chính theo quyết định của Hội đồng Chính phủ.
Điều 80

Hội đồng nhân dân các cấp là cơ quan quyền lực Nhà nước ở địa phương.

Hội đồng nhân dân các cấp do nhân dân địa phương bầu ra và chịu trách nhiệm
trước nhân dân địa phương.

Điều 81

Nhiệm kỳ của mỗi khoá Hội đồng nhân dân tỉnh, khu tự trị, thành phố trực thuộc
trung ương là ba năm.

Nhiệm kỳ của mỗi khoá Hội đồng nhân dân huyện, thành phố, thị xã, xã, thị trấn,
khu phố là hai năm.

Nhiệm kỳ của mỗi khoá Hội đồng nhân dân các cấp trong khu vực tự trị do luật
định.

Thể lệ tuyển cử và số đại biểu của Hội đồng nhân dân các cấp do luật định.

3. Hiến pháp năm 1980

Hội đồng nhân dân vẫn được giữ nguyên và được quy định khá đầy đủ

Điều 114

Hội đồng nhân dân là cơ quan quyền lực Nhà nước ở địa phương, do nhân dân địa
phương bầu ra, chịu trách nhiệm trước nhân dân địa phương và chính quyền cấp
trên.

Hội đồng nhân dân quyết định và thực hiện các biện pháp nhằm xây dựng địa
phương về mọi mặt, bảo đảm phát triển kinh tế và văn hoá, nâng cao đời sống của
nhân dân địa phương và hoàn thành nhiệm vụ cấp trên giao cho.

Trong hoạt động của mình, Hội đồng nhân dân dựa vào sự cộng tác chặt chẽ của
Mặt trận, các đoàn thể nhân dân và sự tham gia rộng rãi của công dân.

4. Hiến pháp năm 1992, Hiến pháp 2013

Hội đồng nhân dân là hình thức tổ chức chính quyền địa phương kiểu mới. Nó
không phải là cơ quan đại diện, tư vấn bên cạnh cơ quan hành chính hay là “cơ
quan tự quản” như trong các chính quyền địa phương kiểu phong kiến trước đây và
tư bản hiện nay mà là cơ quan đại diện quyền lực nhà nước của nhân dân trên địa
bàn lãnh thổ - được coi là một bộ phận quyền lực hợp thành quyền lực nhà
nước chung của toàn quốc

Điều 113 ( Hiến pháp năm 2013)

1. Hội đồng nhân dân là cơ quan quyền lực nhà nước ở địa phương, đại diện cho ý
chí, nguyện vọng và quyền làm chủ của Nhân dân, do Nhân dân địa phương bầu
ra, chịu trách nhiệm trước Nhân dân địa phương và cơ quan nhà nước cấp trên.

2. Hội đồng nhân dân quyết định các vấn đề của địa phương do luật định; giám sát
việc tuân theo Hiến pháp và pháp luật ở địa phương và việc thực hiện nghị quyết
của Hội đồng nhân dân.

Câu 80. Vị trí pháp lý của Ủy ban hành chính/Ủy ban nhân dân theo các Hiến
pháp năm 1946, 1959, 1980, 1992, 2013.

1. Hiến pháp năm 1946

Điều 58

Hội đồng nhân dân tỉnh, thành phố, thị xã hay xã cử ra Uỷ ban hành chính.

Ở bộ và huyện, chỉ có Uỷ ban hành chính. Uỷ ban hành chính bộ do Hội đồng các
tỉnh và thành phố bầu ra. Uỷ ban hành chính huyện do Hội đồng các xã bầu ra.

Điều thứ 59

Uỷ ban hành chính có trách nhiệm:

a) Thi hành các mệnh lệnh của cấp trên.

b) Thi hành các nghị quyết của Hội đồng nhân dân địa phương mình sau khi được
cấp trên chuẩn y.

c) Chỉ huy công việc hành chính trong địa phương.

=> Do tình hình chính trị thời bấy giờ, nhiều nơi không thành lập được HĐND
mà vẫn chỉ có một mình UBHC tồn tại cho đến mãi sau này.

2. Hiến pháp năm 1959


Ở tất cả các đơn vị hành chính đều có UBHC

UBHC các cấp là cơ quan chấp hành của Hội đồng nhân dân địa phương

Điều 87

Uỷ ban hành chính các cấp là cơ quan chấp hành của Hội đồng nhân dân địa
phương, là cơ quan hành chính của Nhà nước ở địa phương.

Điều 88

Uỷ ban hành chính gồm có Chủ tịch, một hoặc nhiều Phó Chủ tịch, uỷ viên thư ký
và các uỷ viên.

Nhiệm kỳ của Uỷ ban hành chính theo nhiệm kỳ của Hội đồng nhân dân đã bầu ra
mình.

Khi Hội đồng nhân dân hết nhiệm kỳ hoặc bị giải tán, Uỷ ban hành chính tiếp tục
làm nhiệm vụ cho đến khi Hội đồng nhân dân mới bầu ra Uỷ ban hành chính mới.

Tổ chức của Uỷ ban hành chính các cấp do luật định.

3. Hiến pháp 1980

Ủy ban Hành chính được đổi tên thành Ủy ban nhân dân

Điều 121

Uỷ ban nhân dân là cơ quan chấp hành của Hội đồng nhân dân, là cơ quan hành
chính Nhà nước ở địa phương.

Uỷ ban nhân dân chịu trách nhiệm và báo cáo công tác trước Hội đồng nhân dân
cùng cấp và trước Uỷ ban nhân dân cấp trên trực tiếp; Uỷ ban nhân dân tỉnh,
thành phố trực thuộc Trung ương và cấp tương đương chịu trách nhiệm và báo cáo
công tác trước Hội đồng nhân dân cùng cấp và trước Hội đồng Bộ trưởng.

Mỗi thành viên Uỷ ban nhân dân chịu trách nhiệm cá nhân về phần công tác của
mình trước Hội đồng nhân dân, Uỷ ban nhân dân, và cùng với các thành viên khác
chịu trách nhiệm tập thể về hoạt động của Uỷ ban nhân dân trước Hội đồng nhân
dân.

Điều 122
Uỷ ban nhân dân gồm có Chủ tịch, một hoặc nhiều Phó Chủ tịch, uỷ viên thư ký và
các uỷ viên khác.

4. Hiến pháp 1992

Điều 123

Uỷ ban nhân dân do Hội đồng nhân dân bầu là cơ quan chấp hành của Hội đồng
nhân dân, cơ quan hành chính Nhà nước ở địa phương, chịu trách nhiệm chấp
hành Hiến pháp, luật, các văn bản của các cơ quan Nhà nước cấp trên và nghị
quyết của Hội đồng nhân dân

5. Hiến pháp năm 2013

Điều 114

1. Uỷ ban nhân dân ở cấp chính quyền địa phương do Hội đồng nhân dân cùng
cấp bầu là cơ quan chấp hành của Hội đồng nhân dân, cơ quan hành chính nhà
nước ở địa phương, chịu trách nhiệm trước Hội đồng nhân dân và cơ quan hành
chính nhà nước cấp trên.

2. Uỷ ban nhân dân tổ chức việc thi hành Hiến pháp và pháp luật ở địa phương; tổ
chức thực hiện nghị quyết của Hội đồng nhân dân và thực hiện các nhiệm vụ do cơ
quan nhà nước cấp trên giao.

Câu 81. Mối quan hệ giữa Hội đồng nhân dân và Ủy ban nhân dân.

1. Khái niệm, cách thức thành lập

+ Hội đồng nhân dân: là cơ quan quyền lực nhà nước ở địa phương, đại diện cho ý
chí, nguyện vọng và quyền làm chủ của Nhân dân, do Nhân dân địa phương bầu ra,
chịu trách nhiệm trước Nhân dân địa phương và cơ quan nhà nước cấp trên.( Điều
113 Hiến pháp 2013).

HĐND do dân bầu, miễn nhiệm, bãi nhiệm theo nguyên tắc phổ thông, bình
đẳng, trực tiếp và bỏ phiếu kín

+ Uỷ ban nhân dân ở cấp chính quyền địa phương do Hội đồng nhân dân cùng cấp
bầu là cơ quan chấp hành của Hội đồng nhân dân, cơ quan hành chính nhà nước ở
địa phương, chịu trách nhiệm trước Hội đồng nhân dân và cơ quan hành chính nhà
nước cấp trên. (Điều 114 Hiến pháp 2013)

UBND: do Hội đồng nhân dân bầu

2. Trong cách thức tổ chức

+ Hội đồng nhân dân là cơ quan quyền lực nhà nước ở địa phương ,đại diện cho ý
chí , nguyện vọng và quyền làm chủ của nhân dân địa phương ,hội đồng nhân dân
được coi là một bộ phân hợp thành quyền lực nhà nước chung từ trung ương đến
địa phương cùng với ủy ban nhân dân.

+ Ủy ban nhân dân là một cơ quan hành chính nhà nước ở địa phương ,đồng thời là
một cơ cấu thuộc hội đồng nhân dân với nhiệm vụ chính là “ chấp hành” Hội đồng
nhân dân đồng thời được giao thực hiện các nhiệm vụ quản lý hành chính nhà nước
ở địa phương.

=> Vậy cả hai cơ quan này đều thuộc cơ cấu chính quyền địa phương thống nhất,
cùng có chức năng quản lý địa phương theo quy định của pháp luật, tuy nhiên hiện
tại giữa ủy ban nhân dân và hội đồng nhân dân vẫn còn sự phân định bởi : Ủy ban
nhân dân là cơ quan trực thuộc hai chiều vừa trực thuộc hội đồng nhân dân, vừa
trực thuộc cơ quan hành chính nhà nước cấp trên(ủy ban nhân dân cấp trên ). Nên
Ủy ban nhân dân có tính độc lập tương đối không lệ thuộc hoàn toàn vào Hội đồng
nhân dân. Hội đồng nhân dân và Ủy ban nhân dân được tổ chức và hoạt động theo
nguyên tắc tập trung dân chủ thực hiện nhiệm vụ và quyền hạn của mình theo hiến
pháp, Luật và các văn bản của cơ nhà nước cấp trên.

3. Trong hoạt động

Chính vì mối quan hệ đặc biệt của hội đồng nhân dân và ủy ban nhân dân trong
cách thức thành lập nên hoạt động của hai cơ quan này cũng có mối quan hệ mật
thiết với nhau, thể hiện như sau:

-Hội đồng nhân dân có quyền giám sát đối với hoạt động của ủy ban nhân dân
cùng cấp;

Ủy ban nhân dân chịu trách nhiệm và báo cáo công tác trước hội đồng nhân dân
cùng cấp và trước cơ quan hành chính nhà nước cấp trên trực tiếp.
Ủy ban nhân dân còn có trách nhiệm cung cấp tài liệu liên quan đến hoạt động
giám sát khi hội đồng nhân dân có yêu cầu ( theo điều 81 luật tổ chức nhân dân và
ủy ban nhân dân)

- Ủy ban nhân dân còn phối hợp với thường trực hội đồng nhân dân và các ban của
hội đồng nhân dân cùng cấp chuẩn bị nội dung báo cáo trước các kì họp để hội
đồng nhân dân xem xét , quyết định.

-Hội đồng nhân dân có quyền bỏ phiếu tín nhiệm đối với các thành viên trong ủy
ban nhân dân. (theo khoản 5 điều 58 luật tổ chức hội đồng nhân dân và ủy ban
nhân năm 2003)

-Khi quyết định những vấn đề thuộc nhiệm vụ quyền hạn của mình hội đồng nhân
dân ra nghị quyết và giám sát việc thực hiện nghị quyết đó của ủy ban nhân dân.
Trong phạm vi quyền hạn do pháp luật quy định, ủy ban nhân dân ra quyết định chỉ
thị và tổ chức thực hiện kiểm tra việc thi hành các văn bản đó. Các văn bản của ủy
ban nhân dân ban hành không được trái với nghị quyết của hội đồng nhân dân cùng
cấp và các văn bản của cơ quan nhà nước cấp trên các quyết định của ủy ban nhân
dân mà không thích đáng thì hội đồng nhân dân có quyền sửa đổi hoặc bãi bỏ.

-Trong hoạt động của mình, Hội đồng nhân dân và Ủy ban nhân dân phối hợp chặt
chẽ với Mặt trận tổ quốc VIỆT NAM và các tổ chức thành viên của mặt trận, các tổ
chức xã hội khác chăm lo và bảo vệ lợi ích của nhân dân vận động nhân dân tham
gia vào việc quản lý nhà nước.

-Nhiêm kì của Ủy ban nhân dân theo nhiệm kì của Hội đồng nhân dân cùng cấp (5
năm)

-Trong nhiệm kì hoạt động của Hội đồng nhân dân được bảo đảm bằng hiệu quả
của các kì họp hội đồng nhân dân, hiệu quả hoạt động của thường trực hội đồng
nhân dân các ban của hội đồng nhân dân, các đại biểu của hội đồng nhân dân còn
hiệu quả hoạt động của ủy ban nhân dân được bảo đảm bằng hiệu quả hoạt động
của tập thể ủy ban nhân dân , chủ tịch ủy ban nhân dân các thành viên khác của ủy
ban nhân dân và các cơ quan chuyên môn thuộc ủy ban nhân dân

Câu 84. Những điểm mới của Hiến pháp 2013 về chính quyền địa phương.

1. Về tên gọi của Chương


Việc quy định về "Chính quyền địa phương" trong Hiến pháp năm 2013 là phù hợp
với thực tiễn hoạt động của hai cơ quan này, bởi vì mặc dù là hai cơ quan có vị trí
và tính chất khác nhau, nhưng được tổ chức và hoạt động trên cùng một địa bàn,
một cấp hành chính. Do đó, hai cơ quan này có mối quan hệ chặt chẽ về mặt tổ
chức, chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn. Việc thay đổi về tên gọi “Chính quyền địa
phương” theo Hiến pháp hiện hành đặt ra yêu cầu phải đổi mới thực sự về mô hình
tổ chức cũng như chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của chính quyền địa phương
theo hướng: Bảo đảm sự gắn kết chặt chẽ hơn giữa Hội đồng nhân dân và Ủy ban
nhân dân; tạo không gian tự chủ, tự chịu trách nhiệm cao hơn cho chính quyền địa
phương; khẳng định rõ nét hơn vị trí của chính quyền địa phương trong hệ thống
hành chính thống nhất của đất nước.

2. Về đơn vị hành chính

Khoản 1 Điều 110 Hiến pháp năm 2013 quy định: "Nước chia thành tỉnh, thành
phố trực thuộc trung ương; tỉnh chia thành huyện, thị xã và thành phố thuộc tỉnh;
thành phố trực thuộc trung ương chia thành quận, huyện, thị xã và đơn vị hành
chính tương đương; huyện chia thành xã, thị trấn; thị xã và thành phố thuộc tỉnh
chia thành phường và xã; quận chia thành phường. Đơn vị hành chính - kinh tế đặc
biệt do Quốc hội thành lập ".

So với Hiến pháp năm 1992, Hiến pháp năm 2013 đã sử dụng thuật ngữ “đơn vị
hành chính tương đương” với quận, huyện, thị xã trong thành phố trực thuộc Trung
ương. Đây là ý tưởng mới trên cơ sở tiếp thu ý kiến của đông đảo đại biểu Quốc
hội và nhân dân. Điều này mở ra khả năng cho việc thành lập các đơn vị hành
chính mới, đồng thời tăng khả năng dự báo và tính ổn định của Hiến pháp trong
việc đáp ứng nhu cầu khách quan của quá trình phát triển kinh tế - xã hội ở nước ta

Mặt khác, một điểm mới theo quy định tại Điều 110 Hiến pháp năm 2013 là việc
bổ sung quy định về “đơn vị hành chính - kinh tế đặc biệt do Quốc hội thành lập”.
Đây là quy định được bổ sung trên cơ sở ý kiến đề xuất của các đại biểu Quốc hội,
các cơ quan, tổ chức và các địa phương, nhằm đáp ứng yêu cầu thiết lập các đơn vị
hành chính - kinh tế đặc biệt đang đặt ra ở một số địa phương và trong tương lai có
thể hình thành như huyện đảo Phú Quốc tỉnh Kiên Giang hay huyện Vân Đồn tỉnh
Quảng Ninh...
Khoản 2 Điều 110 Hiến pháp năm 2013 quy định: “Việc thành lập, giải thể, nhập,
chia, điều chỉnh địa giới đơn vị hành chính phải lấy ý kiến nhân dân địa phương và
theo trình tự, thủ tục do luật định”. Có thể nói, việc hiến định về thẩm quyền, tiêu
chí, điều kiện, thủ tục thành lập mới, sáp nhập, điều chỉnh địa giới đơn vị hành
chính của Hiến pháp năm 2013 góp phần bảo đảm tính ổn định của các đơn vị hành
chính hiện nay. Quy định này cũng nhằm bảo đảm thực hiện quyền dân chủ trực
tiếp của nhân dân quy định tại Điều 6 Hiến pháp năm 2013, đồng thời, đặt ra
nhiệm vụ cho Chính phủ cần sớm nghiên cứu và soạn thảo các quy định ở tầm luật
để trình Quốc hội ban hành về trình tự, thủ tục thành lập, giải thể, nhập, chia, điều
chỉnh địa giới đơn vị hành chính, trong đó nhất thiết phải có việc lấy ý kiến nhân
dân địa phương.

3. Về tổ chức và nhiệm vụ, quyền hạn của chính quyền địa phương:

“Chính quyền địa phương được tổ chức ở các đơn vị hành chính của nước Cộng
hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Cấp chính quyền địa phương gồm có Hội đồng
nhân dân và Ủy ban nhân dân được tổ chức phù hợp với đặc điểm nông thôn, đô
thị, hải đảo, đơn vị hành chính - kinh tế đặc biệt do luật định” (Điều 111).

Về cơ bản, các nội dung về nhiệm vụ, quyền hạn của chính quyền địa phương theo
Hiến pháp năm 2013 được kế thừa các quy định của Hiến pháp năm 1992 nhưng có
sự sắp xếp, bố trí phù hợp hơn, theo đó: Chính quyền địa phương tổ chức và bảo
đảm việc thi hành Hiến pháp và pháp luật tại địa phương; quyết định các vấn đề
của địa phương do luật định; chịu sự kiểm tra, giám sát của cơ quan nhà nước cấp
trên. Nhiệm vụ, quyền hạn của chính quyền địa phương được xác định trên cơ sở
phân định thẩm quyền giữa các cơ quan nhà nước ở trung ương và địa phương và
của mỗi cấp chính quyền địa phương. Trong trường hợp cần thiết, chính quyền địa
phương được giao thực hiện một số nhiệm vụ của cơ quan nhà nước cấp trên với
các điều kiện bảo đảm thực hiện nhiệm vụ đó (Điều 112)

Câu 85. Các thiết chế hiến định mới được thành lập trong Hiến pháp năm
2013.

Hiến pháp năm 2013 đã bổ sung một số thiết chế chuyên biệt như Hội đồng Bầu cử
quốc gia, Kiểm toán Nhà nước.
1. Về Hội đồng Bầu cử quốc gia:

+ Theo quy định tại Điều 117, Hiến pháp năm 2013, Hội đồng Bầu cử quốc gia là
cơ quan do QH thành lập, có nhiệm vụ tổ chức bầu cử ĐBQH, chỉ đạo và hướng
dẫn công tác bầu cử đại biểu HĐND các cấp. Hội đồng Bầu cử quốc gia gồm có
Chủ tịch, các Phó chủ tịch và các Ủy viên. Theo quy định tại khoản 7, Điều 70
Hiến pháp năm 2013, Chủ tịch Hội đồng Bầu cử quốc gia do QH bầu, miễn nhiệm,
bãi nhiệm; các Phó chủ tịch và những thành viên khác của Hội đồng Bầu cử quốc
gia do QH phê chuẩn.

+ Việc thành lập Hội đồng Bầu cử quốc gia như quy định của Hiến pháp nhằm
khắc phục những hạn chế của công tác bầu cử hiện nay: một là, thành viên của Hội
đồng Bầu cử phần đông cũng là người ứng cử; hai là, QH, HĐND vừa được bầu lại
biểu quyết xác nhận tư cách đại biểu của chính mình; ba là, thiếu tính chuyên
nghiệp trong hoạt động và vì thế, thiếu một cơ quan chuyên trách chăm lo công tác
bầu cử trong cả nhiệm kỳ, chẳng hạn việc bảo đảm quyền có người đại diện của cử
tri ở mỗi đơn vị bầu cử khi đơn vị đó khuyết đại biểu...

+ Về tổ chức, nhiệm vụ, quyền hạn cụ thể của Hội đồng Bầu cử quốc gia, theo quy
định của khoản 3, Điều 117 Hiến pháp năm 2013 là do luật định. Như vậy, căn cứ
vào quy định tại Điều 117 và các quy định có liên quan khác trong Hiến pháp năm
2013, các cơ quan hữu quan tới đây cần tổ chức nghiên cứu để xây dựng và trình
QH thông qua luật về tổ chức Hội đồng Bầu cử quốc gia. Đây là một công việc rất
quan trọng và cũng không đơn giản, bởi vì, trước hết Hội đồng Bầu cử quốc gia là
một thiết chế mới, chưa tồn tại ở nước ta. Bên cạnh đó, phải vượt qua được những
thói quen, cách nghĩ, cách làm đã tồn tại nhiều năm qua mới có thể trình ra QH
một dự luật theo đúng tinh thần của Hiến pháp và phù hợp với thực tiễn của nước
ta.

2. Về Kiểm toán Nhà nước:

Theo quy định tại Điều 118 Hiến pháp năm 2013 thì Kiểm toán Nhà nước là cơ
quan do QH thành lập, hoạt động độc lập và chỉ tuân theo pháp luật, thực hiện
kiểm toán việc quản lý, sử dụng tài chính, tài sản công. Tổng Kiểm toán Nhà nước
là người đứng đầu Kiểm toán Nhà nước do QH bầu. Nhiệm kỳ của Tổng Kiểm
toán Nhà nước do luật định. Tổng Kiểm toán Nhà nước chịu trách nhiệm và báo
cáo kết quả kiểm toán, báo cáo công tác trước QH; trong thời gian QH không họp,
chịu trách nhiệm và báo cáo công tác trước UBTVQH. Tổ chức, nhiệm vụ quyền
hạn cụ thể của Kiểm toán Nhà nước do luật định. Khoản 7, Điều 70 Hiến pháp
2013 quy định: Tổng Kiểm toán Nhà nước do QH bầu, miễn nhiệm, bãi nhiệm.

Với các quy định này, sau hàng chục năm được tổ chức và hoạt động theo luật, địa
vị pháp lý và vai trò của Kiểm toán Nhà nước đã được xác lập trong Hiến pháp,
đạo luật cơ bản của nhà nước. Với việc xác định Kiểm toán Nhà nước do QH thành
lập, hoạt động độc lập, chỉ tuân theo pháp luật, chúng ta đã chính thức hiến định về
mô hình cơ quan kiểm toán, về vị trí độc lập của Kiểm toán Nhà nước theo những
giá trị phổ quát của thế giới về vị trí, vai trò của cơ quan kiểm toán tối cao được thể
hiện trong Tuyên bố Lima, Tuyên bố Mexico của INTOSAI, Nghị quyết A/66/209
của Liên Hợp Quốc và phù hợp với điều kiện nước ta. Đồng thời, các quy định nêu
trên cũng thể hiện nhất quán quan điểm xây dựng và phát triển Kiểm toán Nhà
nước thực sự trở thành công cụ quan trọng và đủ mạnh của Nhà nước để kiểm toán
các nguồn thu và khoản chi ngân sách thông qua các bản quyết toán ngân sách và
kiểm soát, theo dõi hoạt động tài chính công, cụ thể là kiểm tra, đánh giá hiệu quả
kinh tế, tính chính xác, công bằng của việc điều hành ngân sách và tính bền vững
của nền tài chính quốc gia, góp phần quan trọng vào việc hỗ trợ các hoạt động
giám sát, kiểm tra, kiểm kê, kiểm soát việc huy động, phân phối, quản lý và sử
dụng nguồn lực tài chính và tài sản công.

Câu 82: Mối quan hệ giữa chính quyền địa phương với các cơ quan nhà
nước ở trung ương.

- Được xác định như là sự khác nhau về cấp độ độc lập, cũng như là sự phụ thuộc
lẫn nhau và được xác định bởi quyền lực thực tế (đặc biệt là về tài chính) và các
phương tiện cưỡng chế.

- Chính phủ có thể tác động đến chính sách pháp luật, và bằng cách này hay cách
khác, có thể điều chỉnh hay định hướng hoạt động của cơ quan địa phương.

- Các hội đồng địa phương, về phần mình, có những vị thế độc lập, có nguồn lực
tài chính riêng và thẩm quyền được pháp luật quy định.

Vì vậy không chỉ các cơ quan địa phương phụ thuộc vào trung ương (từ góc độ hỗ
trợ chung, trợ cấp tài chính, điều chỉnh luật pháp...) mà chính phủ trung ương cũng
phụ thuộc ở mức độ nhất định vào chính quyền địa phương khi thực thi các đường
lối chính trị và kinh tế tại địa phương.

Câu 83. Hãy bình luận về chính sách thí điểm không tổ chức hội đồng nhân
dân huyện, quận, phường ở một số địa phương hiện nay.

NGHỊ QUYẾT: Về thực hiện thí điểm không tổ chức hội đồng nhân dân huyện,
quận, phường .Nghị quyết này có hiệu lực thi hành từ ngày 01 tháng 4 năm 2009.

Nghị quyết này đã được Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam khóa
XII, kỳ họp thứ 4 thông qua ngày 15 tháng 11 năm 2008.

- Việc thực hiện thí điểm không tổ chức Hội đồng Nhân dân huyện, quận, phường,
kết quả thu được rất khả quan, đáp ứng yêu cầu cải cách hành chính.

1. Không tổ chức Hội đồng Nhân dân huyện, quận, phường là học tập và làm
theo tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng chính quyền dân chủ nhân dân. về mặt
bản chất là chuyển từ hình thức dân chủ đại diện sang hình thức dân chủ trực tiếp.

2. Không tổ chức Hội đồng Nhân dân huyện, quận, phường để tổ chức hợp lý
chính quyền địa phương đáp ứng yêu cầu cải cách hành chính.

3. Không tổ chức Hội đồng Nhân dân ở huyện, quận, phường tuyệt nhiên
không làm mất đi quyền đại diện, quyền dân chủ của nhân dân.

4. Không tổ chức Hội đồng Nhân dân huyện, quận, phường vẫn bảo đảm việc
giám sát hoạt động của các cơ quan nhà nước trên địa bàn.

5. Không tổ chức Hội đồng Nhân dân huyện, quận, phường đáp ứng yêu cầu
xây dựng nền kinh tế thị trường.

6. Không tổ chức Hội đồng Nhân dân huyện, quận, phường sẽ tinh giản bộ
máy, biên chế, giảm các chi phí cho hoạt động của chính quyền địa phương.

7. Kết quả thực hiện thí điểm không tổ chức Hội đồng Nhân dân huyện, quận,
phường thời gian qua khẳng định chủ trương của Đảng và Nhà nước ta hoàn toàn
đúng.

- Tuy nhiên, việc thực hiện thí điểm không tổ chức HĐND quận, huyện cũng gặp
nhiều vấn đề và hạn chế:
+ Vấn đề thứ nhất, Giám sát là một chức năng theo luật định, tức là Hội đồng nhân
dân (HĐND) có trách nhiệm và quyền hạn được đảm bảo bởi những phương thức
hoạt động và công cụ đặc thù, hiệu quả hoạt động giám sát thể hiện vị thế của
HĐND và đại biểu HĐND trong việc thực hiện chức, năng nhiệm vụ của mình.
Hoạt động giám sát của HĐND là nhằm đánh giá hiệu quả, năng lực chỉ đạo, điều
hành và hoạt động của chính quyền địa phương trong việc thực hiện nghị quyết của
HĐND và chấp hành các quy định của pháp luật của các cơ quan nhà nước, tổ chức
kinh tế - xã hội, đơn vị vũ trang và của công dân. Tuy nhiên, thực tế hiện nay hiệu
lực và hiệu quả giám sát của HĐND còn thấp

Có nhiều nguyên nhân tác động trực tiếp đến hiệu lực và hiệu quả hoạt động giám
sát của HĐND tỉnh trong thời gian qua như: cơ chế chính sách, pháp luật; cơ cấu tổ
chức, bộ máy và điều kiện phương tiện hoạt động; nhận thức về vai trò, vị trí,
nhiệm vụ quyền hạn của HĐND... Đặc biệt, việc bỏ HĐND huyện đã ảnh hưởng
không nhỏ đến hoạt động giám sát của HĐND tỉnh.

Với việc bỏ HĐND huyện quyền giám sát UBND, TAND, VKSND huyện, quận
được giao cho HĐND cấp trên chứ không phải HĐND cấp dưới như Sắc lệnh số
63 của Chủ tịch nước quy định trước đây. Nghị quyết giao HĐND tỉnh, thành phố
thực hiện quyền giám sát này nhưng không có hướng dẫn cụ thể, do đó đã nảy sinh
những bất cập và khó khăn trong hoạt động giám sát của HĐND tỉnh. Về mặt
nguyên tắc, khi Nghị quyết 725 giao quyền giám sát thì HĐND cấp tỉnh được sử
dụng mọi công cụ giám sát theo quy định để giám sát UBND, TAND, VKSND
huyện, quận. Tuy nhiên, cần nghiên cứu làm rõ hơn tính hợp lý của các quy định
này.

+ Vấn đề thứ hai, đối với việc xem xét báo cáo công tác, theo quy định tại Điều 52
Quy chế hoạt động của HĐND, tại kỳ họp cuối năm, HĐND cấp tỉnh sẽ phải xem
xét báo cáo công tác của UBND, TAND, VKSND cấp tỉnh và huyện. Như vậy, với
một địa phương như tỉnh Quảng Trị có 7 huyện thực hiện thí điểm (trừ 01 thành
phố, 01 thị xã và 01 huyện đảo Cồn Cỏ), thì số lượng đối tượng trình báo cáo công
tác cao hơn nhiều so với trước. Nếu HĐND thực hiện giám sát theo đúng quy trình
quy định thì sẽ phải xem xét báo cáo của từng đối tượng; việc này sẽ làm thời gian
kỳ họp HĐND kéo dài thêm từ 2 đến 5 ngày tùy theo địa phương.
+ Vấn đề thứ ba, về xem xét việc chất vấn và trả lời chất vấn, xem xét văn bản quy
phạm pháp luật và xem xét báo cáo của đoàn giám sát, Nghị quyết 725 trao cho
HĐND cấp tỉnh quyền giám sát UBND, TAND, VKSND quận, huyện. Nếu HĐND
sử dụng công cụ giám sát là xem xét việc chất vấn và trả lời chất vấn thì đối tượng
bị chất vấn sẽ tăng một cách đột biến. Nếu không tổ chức thí điểm thì HĐND cấp
tỉnh có quyền chất vấn “Chủ tịch HĐND, Chủ tịch và các thành viên khác của
UBND, Chánh án TAND, Viện trưởng VKSND và Thủ trưởng cơ quan chuyên
môn thuộc UBND cùng cấp”, với số lượng khoảng 25 người. Khi thực hiện thí
điểm, HĐND tỉnh có quyền chất vấn với cả thành viên UBND, Chánh án TAND,
Viện trưởng VKSND huyện, quận;

Việc xem xét văn bản quy phạm pháp luật do UBND huyện ban hành giao cho
HĐND giám sát, với số lượng đại biểu HĐND cấp tỉnh hoạt động chuyên trách
không nhiều, nay lại phải kiêm thêm giám sát văn bản quy phạm pháp luật của
UBND huyện, quận, vì vậy, cũng tạo nên sự “quá tải”.

Sau một thời gian thí điểm bỏ HĐND huyện ở nhiều địa phương, nếu nhìn nhận
đánh giá một cách khách quan từ góc độ pháp lý, góc độ chức năng hay góc độ
thực tiễn thì việc bỏ HĐND huyện là gánh nặng đối với hoạt động của HĐND tỉnh
nói chung và hoạt động giám sát nói riêng. Khi có HĐND quận, huyện thì việc
kiểm tra, giám sát, lắng nghe ý kiến phản ánh của người dân được tiến hành khá
kịp thời. Nhưng khi không có HĐND quận, huyện nữa thì HĐND tỉnh chưa đủ thời
gian, con người để " với xuống" cơ sở mà chủ yếu nghe qua báo cáo. Và vì thế,
chắc chắn một hệ quả của nó là hiệu quả hoạt động giám sát của HĐND không
cao. Lẽ ra, việc chỉ đạo của cấp trên nên đặt vấn đề là: Nâng cao hiệu quả hoạt
động của HĐND các cấp hơn là, thực hiện thí điểm bỏ HĐND huyện.

Ngay từ những ngày đầu lập nước Hiến pháp đã xác định nguyên tắc tổ chức chính
quyền địa phương trong đó có HĐND. Việc thí điểm không tổ chức HĐND huyện,
quận, phường chưa đưa đến kết quả chính thức mặt khác, xét về chính quyền địa
phương thì HĐND cũng vẫn tồn tại ở cấp tỉnh, thị xã, thành phố trực thuộc tỉnh và
xã, thị trấn. Hiến pháp mới được thông qua và có hiệu lực từ ngày 01.01.2014 đã
tiếp tục khẳng định vai trò, vị trí quan trọng của HĐND trong mỗi cấp chính quyền
địa phương.
=> Vì vậy, khi thực hiện thí điểm không tổ chức Hội đồng nhân dân huyện,
quận, phường, cơ hội và điều kiện để người dân thực hiện quyền dân chủ của
mình thông qua đại biểu và cơ quan dân cử bị hạn chế hơn so với trước đây.

You might also like