You are on page 1of 113

1

. CHƯƠNG 1: 22 BÀI TẠP CHÍ

1. Bài viết: “Tư duy về nhà nước và pháp luật trong thời đại ngày nay”, Đào Trí Úc,
Tạp chí Nhà nước và Pháp luật, số 7/2017

1. Tư duy về quản trị quốc gia


1.1. Những thách thức mới của quản trị quốc gia
Trên phạm vi toàn cầu, đâu đâu cũng luôn tồn tại những hiện tượng nan giải và mâu thuẫn
trong quá trình phát triển xã hội, mà biểu hiện tập trung nhất là yêu cầu về tăng trưởng
kinh tế và công bằng xã hội, sự hạn chế của những công cụ điều tiết và quản lý truyền
thống. Đó là sự mâu thuẫn giữa hiệu quả thấp của hoạt động sản xuất, kinh doanh và nhu
cầu mở rộng các chương trình kinh tế - xã hội chung của quốc gia. Người ta thường khắc
phục tình hình bằng chính sách tăng thuế nhưng nó lại dẫn đến hậu quả làm suy giảm các
đòn bẩy tích tụ tư bản và kích thích đầu tư vào các hoạt động sản xuất, kinh doanh, làm
yếu đi tinh thần khởi nghiệp, ảnh hưởng lớn đến chất lượng cuộc sống, phát triển con
người. Cách thứ hai là chính sách cắt giảm chi tiêu, cắt giảm đầu tư cho những chương
trình và mục tiêu quốc gia nhưng cũng chỉ là giải pháp có tính chất tình thế và hiệu quả
nhất thời. Thách thức thứ hai ở tầm vĩ mô là vấn đề quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế và
giải quyết các vấn đề xã hội. Ngoài ra, toàn cầu hóa tuy được coi là đặc trưng chủ đạo của
thế kỷ XXI nhưng cũng có hai mặt của nó. Xung đột văn hóa và lối sống hay sự phá vỡ
thế độc tôn của các thiết chế nhà nước trong việc lý giải các vấn đề về kinh tế, chính trị,
văn hóa, xã hội nảy sinh của công nghệ thông tin cũng là những thách thức mới cho hệ
thống quản trị quốc gia.
1.2. Những yếu tố mới trong nhận thức về chức năng của nhà nước
Trong số các chức năng của nhà nước, khi xét từ khía cạnh quản lý xã hội, nhiệm vụ
đảm bảo sự ổn định và đồng thuận trong xã hội, ngăn ngừa và giải quyết các mâu thuẫn
xã hội được coi là một trong những chức năng quan trọng nhất của nhà nước trong thời
đại hiện nay. Về mặt pháp lý, hiến pháp và hệ thống pháp luật công bằng, hiệu quả là sự
bảo đảm tốt nhất và toàn diện nhất cho một chính sách đồng thuận xã hội. Ngoài ra, Nhà
nước có trách nhiệm phát triển hệ thống trợ giúp pháp lý và khuyến khích luật sư đóng
góp chuyên môn, thời gian và trí tuệ để mọi người dân đều có quyền hy vọng vào khả
năng của mình. tiếp cận công lý. Hơn nữa, trong lĩnh vực hoạt động hành chính, sứ mệnh
của nhà nước là đảm bảo cân bằng lợi ích, duy trì công lý và bảo vệ quyền con người
cũng phải được thể hiện trong việc đảm bảo quan hệ công bằng công bằng. Việc bổ
nhiệm các cá nhân vào tất cả các chức vụ và chức vụ trong cơ quan hành pháp phải được
công khai và mọi người đều có thể tiếp cận được.
2. Tư duy về pháp luật và phát triển hệ thống pháp luật
2.1. Những yếu tố mới trong nhận thức về pháp luật
Trong lịch sử các học thuyết pháp lý, trường phái luật thực định (coi Nhà nước là cái
có trước, pháp luật là cái phái sinh từ Nhà nước) không chú trọng nhiều khía cạnh xã hội
của pháp luật mà chủ yếu nhấn mạnh đến tính hình thức, kỹ thuật của các quy phạm pháp
luật. Trong vài thập niên gần đây, chủ nghĩa thực chứng pháp lý mới ở các nước phát triển
đã chủ trương “mềm hóa” sự cứng nhắc của chủ nghĩa thực chứng cổ điển, xích lại gần
hơn với lý thuyết pháp luật tự nhiên với đề xuất hai điều kiện: sự hạn chế và tự hạn chế
của Nhà nước, mở rộng quan niệm Nhà nước như một thực thể xã hội trong chức năng
kiến tạo luật của nó. Đây có thể được coi là điểm nổi bật nhất trong tư duy pháp lý mới,
nhưng vẫn nằm trong khuôn khổ của chủ nghĩa thực chứng pháp lý. Trong khi đó, trường
phái pháp luật tự nhiên là biểu hiện tự nhiên của cuộc sống, cụ thể hơn là pháp luật không
do con người nghĩ ra mà xuất phát từ lẽ công bằng và hợp lý của tự nhiên, của hành vi
con người. Ngày nay, học thuyết và quan niệm pháp luật tự nhiên đã chuyển sang một
hình thức mới có sự giao thoa giữa cái được coi là pháp luật với quyền tự nhiên của chủ
thể. Sự phát triển của các hệ thống pháp luật hiện đại trên thế giới đã làm thay đổi một
cách căn bản nhận thức về các nguồn của pháp luật theo hướng đa dạng hóa và linh hoạt
hơn, kịp thời hơn trước đòi hỏi của cuộc sống, một định hướng nhận thức mới về phát
triển pháp luật sẽ liên quan đến hiện tượng quốc tế hóa pháp luật trong bối cảnh toàn cầu
hóa và khu vực hóa.
2.2. Định hướng mới phát triển hệ thống pháp luật
Từ nhận thức mới về đặc trưng chủ yếu của pháp luật, tư tưởng về sự công bằng và
công lý đã được coi là tư tưởng pháp luật nền tảng và thiên chức của Tòa án là đưa những
tư tưởng đó vào cuộc sống thông qua hoạt động xét xử. Cần phải thấy rằng, sự tương tác
của các hệ thống pháp luật đang diễn ra một cách đa chiều, đa phương diện, liên quan đến
tất cả các yếu tố của mỗi hệ thống pháp luật quốc gia: Từ nguồn của pháp luật cho đến
các hoạt động thực hiện, áp dụng pháp luật và ý thức, văn hóa pháp luật. Trong vấn đề
bảo đảm và bảo vệ công lý, cần nhìn nhận hai mặt của một vấn đề: Một mặt, trong các
quy định pháp luật do các cơ quan nhà nước có thẩm quyền ban hành luôn tiềm ẩn khả
năng điều chỉnh thiếu cu thê, chồng chéo, mâu thuẫn, thiếu rõ ràng trong những tình
huống nhất định. Mặt khác, các quan hệ, tranh chấp mới phát sinh ngày càng nhiều. Từ
đó, vai trò thực tế của Tòa án trong việc khắc phục những khiếm khuyết cố hữu của hệ
thống pháp luật trong quá trình áp dụng pháp luật là hiển nhiên và việc áp dụng án lệ của
Tòa án sẽ bổ khuyết kịp thời những lỗ hổng pháp luật này để bảo đảm và bảo vệ kịp thời,
tốt hơn quyền và lợi ích chính đáng của người dân.
Vì vậy, nghiên cứu các xu hướng phát triển của pháp luật cho phép nhận thức sâu
sắc hơn, đầy đủ hơn về vật chất pháp luật, đặc biệt nhận thức về nó ở trạng thái động,
cung cấp những hiểu biết cần thiết cho việc nhận thức, xây dựng và thực hiện chính sách
phát triển pháp luật nhằm hiện đại hóa hệ thống pháp luật ở phạm vi toàn cầu, khu vực,
quốc gia.
2. Bài viết: “Góp phần nhận thức về quyền lực nhà nước”, Nguyễn Minh Đoan,
Tạp chí Luật học, số 1/2001

Quyền lực được xem là khả năng của cá nhân hay tổ chức có thể buộc cá nhân hay
tổ chức khác phải phục tùng ý chí của mình. Nó sinh ra từ nhu cầu quản lý xã hội thể hiện
trong các mối quan hệ chỉ huy - lệ thuộc hoặc mệnh lệnh - phục tùng. Quyền lực thể hiện
trong sự lệ thuộc giữa chủ thể có quyền và chủ thể dưới quyền. Trong đó, cưỡng chế vừa
là yếu tố của nội dung quyền lực vừa là phương pháp mang tính quyết định để thực hiện
quyền lực có sự kết hợp chặt chẽ với phương pháp thuyết phục. Trong xã hội có thể tồn
tại rất nhiều loại quyền lực khác nhau và một chủ thể cũng có thể nằm trong nhiều loại
quyền lực. Quyền lực còn có quan hệ mật thiết với quản lý nhằm đảm bảo sự thống nhất
của cá nhân trong việc thực hiện các công việc chung.

Bản chất quyền lực nhà nước bao gồm tính xã hội và tính giai cấp, tác giả đã phân
tích rõ sự hình thành và biểu hiện của hai bản chất này. Mỗi nhà nước khác nhau có cơ
chế phân quyền khác nhau dẫn đến tình trạng mâu thuẫn giữa các nhánh quyền lực đòi hỏi
cách giải quyết thích đáng. Đối với các nước xã hội chủ nghĩa cần tổ chức bộ máy nhà
nước theo nguyên tắc tập trung thống nhất trên cơ sở phân công và phối hợp thực hiện
quyền lực giữa các cơ quan nhà nước một cách hợp lý.
Theo quy định của Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, tất cả
quyền lực nhà nước đều thuộc về nhân dân mà nền tảng là liên minh giai cấp công nhân,
giai cấp nông dân và tầng lớp trí thức. Nhân dân ủy quyền cho Quốc hội, vì thế các cơ
quan khác đều phải báo cáo công tác trước Quốc hội, nhân dân thông qua Quốc hội để thể
hiện quyền làm chủ của mình đối với đất nước. Để đảm bảo sự quản lý toàn diện, thống
nhất các mặt của đời sống xã hội cần thành lập các hệ thống từ trung ương đến địa
phương kết hợp theo ngành và theo lãnh thổ. Các cơ quan nhà nước ở địa phương thay
mặt cho nhân dân thực hiện quyền lực đồng thời đại diện cho ý chí, nguyện vọng và
quyền làm chủ của nhân dân ở địa phương.

Một số nhà khoa học cho rằng quyền lực nhà nước gồm lập pháp, hành pháp, tư
pháp là những quyền không thể phân chia. Tuy nhiên, tác giả đã trình bày những lý do từ
đó cho thấy chỉ có thể nói chủ quyền (quyền lực) nhân dân thì không thể phân chia nhưng
quyền lực mà các cơ quan nhà nước mang và thực hiện (quyền lực nhà nước) thì có thể
phân chia được theo lãnh thổ trung ương và địa phương hoặc giữa các cơ quan nhà nước
theo chiều ngang.

Như trên đã khẳng định quyền lực nhà nước ta là tập trung thống nhất, không phân
chia nhưng trong quá trình thực hiện quyền lực nhà nước thì phải có sự phân công, phối
hợp với nhau. Ngày nay, trong sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước chúng ta
cần hoàn thiện hơn nữa bộ máy nhà nước, khi đó ta cần tập trung vào những vấn đề sau:
Đẩy mạnh công tác nghiên cứu khoa học về tổ chức và thực hiện quyền lực nhà nước; Cải
tiến công tác bầu cử; Hoàn thiện pháp luật về tổ chức bộ máy nhà nước.

Quyền lực nhà nước là một lĩnh vực vô cùng phức tạp, đòi hỏi chúng ta cần phải
nghiên cứu và làm rõ các khía cạnh của nó để đạt được sự thống nhất về nhận thức là hết
sức cần thiết.
Quan điểm của tác giả so với kiến thức Lý luận Nhà nước và Pháp luật:
● Điểm giống:
- Quyền lực nhà nước là sức mạnh tối cao, liên quan chặt chẽ đến chủ quyền của quốc
gia và được thể hiện qua các cơ chế pháp luật.
- Để tránh bị lạm dụng và tập trung quá nhiều vào một người, cần có sự phân bổ công
bằng của quyền lực nhà nước. Điều này đã dẫn đến việc phân chia thành ba quyền lập
pháp, hành pháp và tư pháp theo lý thuyết phân chia quyền lực.
- Mặc dù quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân, nhưng nó được tập trung ở cơ quan
đại diện cao nhất để đảm bảo tính hiệu quả trong việc tổ chức và thực hiện.

● Điểm khác:
- Tác giả Nguyễn Minh Đoan cho rằng bản chất của quyền lực nhà nước gồm tính giai
cấp, tính xã hội; còn ở môn Lí luận, phần đặc trưng nhà nước, nhà nước thiết lập quyền
lực công cộng đặc biệt tách rời khỏi xã hội và áp đặt với toàn bộ xã hội, quyền lực mang
tính giai cấp

3. Bài viết: “Quyền lực nhà nước và việc sửa đổi bổ sung một số điều của Hiến
pháp năm 1992”, Nguyễn Văn Năm, Tạp chí Luật học, số 4/2001
Quyền lực nhà nước là một vấn đề vô cùng phức tạp của chính trị học và khoa học
pháp lý – đây là chủ đề được tác giả khai thác để trình bày hiểu biết của mình và đề xuất
một số kiến nghị về bổ sung, sửa đổi Hiến pháp 1992.
Quyền lực nhà nước là khả năng của nhà nước buộc cá nhân, tổ chức phải phục tùng.
Quyền lực luôn tồn tại trong những mối liên hệ xác định. Sự phục tùng nhà nước của
người dân không chỉ xuất phát từ nhà nước mà còn xuất phát từ sự sợ hãi, kém hiểu biết
của người dân.
Mối quan hệ giữa nhà nước và nhân dân không phải một chiều mà là hai chiều đặc
biệt trong xã hội chủ nghĩa. Nhân dân phục tùng mệnh lệnh của nhà nước nhưng nhà
nước cũng phải đáp ứng yêu cầu của người dân. Ở chiều ngược lại này, quyền lực được
hiểu là quyền lực của nhân dân, là sức mạnh vật chất, sức mạnh bạo lực của nhân dân,
sức mạnh của dư luận xã hội buộc nhà nước, các tổ chức khác của nhân dân hay mỗi
thành viên của cộng đồng phải phục tùng. Quyền lực này không phải lúc nào cũng được
thực thi mà chỉ đối với những vấn đề quan trọng nhất của xã hội, còn lại thì giao cho
những chủ thể khác. Tất cả quyền lực nhà nước nói chung từ vũ khí, quân đội,… đều do
nhân dân làm ra, nhà nước chỉ là tổ chức thay mặt nhân dân quản lí nhà nước và xã hội.
Do vậy, ý chí của nhà nước phải phù hợp với ý chí của nhân dân tức là nhà nước
không thể đưa ra ý chí của mình một cách tùy tiện mà phải kiểm tra xem ý chí đó có phụ
hợp nhân dân hay không. Đó cũng là cơ hội để nhân dân kiểm soát nhà nước và thể hiện
ý chí của mình. Nhà nước còn mang bản chất giai cấp, đó là khi nhà nước sử dụng
quyền lực của mình cho toàn bộ xã hội hay chỉ đối với một bộ phận nhỏ người dân.
1. Điểm giống và khác nhau giữa tác giả Nguyễn Minh Đoan và Nguyễn Văn Năm
● Điểm giống:
- Cả hai tác giả đều thống nhất rằng: quyền lực nhà nước là khả năng của nhà nước có
thể buộc các cá nhân, tổ chức trong xã hội phải phục tùng.
- Quyền lực nhà nước đều xuất phát từ nhân dân.
- Quyền lực nhà nước: lập pháp, hành pháp, tư pháp.
● Điểm khác:
- Tác giả Nguyễn Minh Đoan cho rằng chủ thể của quyền lực nhà nước chính là nhà
nước còn đối tượng của quyền lực là các cá nhân, tổ chức. Còn Nguyễn Văn Năm thì
quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân, do nhân dân làm ra.
- Theo Nguyễn Minh Đoan, quyền lực nhà nước và quyền lực của nhân dân là hai khái
niệm đồng nhất với nhau. Còn Nguyễn Văn Năm khẳng định đây là hai khái niệm
hoàn toàn khác biệt. Quyền lực nhà nước, tác giả khẳng định quyền lực nhà nước
xuất phát từ nhân dân, do nhân dân tạo ra chứ không phải cái vốn có của nhà nước.
2. Quan điểm của tác giả so với kiến thức Lý luận Nhà nước và Pháp luật:
● Điểm giống:
- Khái niệm nhà nước: Nhà nước là một tổ chức đặc biệt của quyền lực chính trị,
chuyên làm nhiệm vụ cưỡng chế và thực hiện các chức năng quản lý đặc biệt nhằm
duy trì trật tự xã hội, thực hiện mục đích bảo vệ địa vị của giai cấp thống trị. Chính vì
thế, quyền lực nhà nước là khả năng của nhà nước có thể buộc các cá nhân, tổ chức
trong xã hội phải phục tùng, tuân theo.
- Khẳng định bản chất của nhà nước: tính giai cấp và tính xã hội.
- Khẳng định cần có sự “phân công quyền lực” giữa các cơ quan nhà nước
● Điểm khác
Tác giả khẳng định quyền lực nhà nước hay quyền lực nói chung không thể phân chia
được.
- Tác giả đưa ra một số vấn đề cũng nên được trao đổi khi liên hệ với Việt Nam
3. Quan điểm cá nhân về quyền lực nhà nước
Sau khi đọc bài viết, em đã hiểu rõ hơn là sức mạnh của nhà nước phụ thuộc vào sự
ủng hộ của nhân dân, và tình trạng xã hội là tiêu chí để nhà nước thực hiện vai trò và
nhiệm vụ của mình. Để đảm bảo quyền lợi và tự do của con người và công dân được
thực thi một cách hiệu quả, quyền lực nhà nước cần có sự ảnh hưởng phù hợp, không
được lạm dụng để cướp đi sự tự do và dân chủ của nhân dân. Quyền lực cần được thống
nhất nhưng cũng cần được phân chia một cách hợp lý trong từng lĩnh vực, và phải có sự
hợp tác mượt mà trong quá trình thực hiện.

4. Bài viết: “Bàn về tính thống nhất của quyền lực nhà nước và sự phân công, phối
hợp trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp”, Lê Minh
Tâm, Tạp chí Luật học, số 5/2003
1. Quyền lực
Quyền lực là khả năng được bảo đảm bằng sức mạnh để thực hiện những hành vi
hoặc buộc người khác phải thực hiện những hành vi nhất định theo ý chí của người có
quyền hoặc được trao quyền lực. Quyền lực là khái niệm vừa có tính khái quát lại vừa
có tính cụ thể, và mức độ khái quát và cụ thể đó được biểu hiện tùy thuộc vào yếu tố
khách quan và chủ quan, tạo ra sự ẩn hiện linh hoạt của quyền lực. Có nhiều loại quyền
lực: quyền lực luân lí, quyền lực kinh tế, quyền lực tư tưởng, quyền lực chính trị,…Mỗi
loại có nguồn gốc, cơ sở và được bảo đảm bằng sức mạnh với các thiết chế khác nhau.
Trong quá trình vận động và phát triển, sự tương tác và thâm nhập lẫn nhau giữa các
loại quyền lực và giữa các biến dạng của mỗi loại quyền lực ngày càng gia tăng khiến
cho sự phân định chúng trở nên phức tạp hơn. Trong tình hình đó, đòi hỏi phải có cách
tiếp cận toàn diện, hệ thống khi giải quyết những vấn đề liên quan đến quyền lực.
2. Quyền lực nhà nước
Quyền lực nhà nước là một dạng đặc biệt của quyền lực chính trị thể hiện ở tính
công khai, thống nhất, bao trùm toàn xã hội, quyền lực nhà nước có đủ sức mạnh để
kiểm soát và ràng buộc các chủ thể theo nghĩa rộng nhất phải phục tùng. Quyền lực nhà
nước có năm đặc điểm cơ bản: Thứ nhất, quyền lực nhà nước chỉ xuất hiện khi xã hội đã
phát triển đến trình độ nhất định dẫn đến sự ra đời của Nhà nước. Thứ hai, cơ sở tồn tại
của quyền lực nhà nước bao gồm nhiều yếu tố: được sự thừa nhận rộng rãi về mặt xã
hội; được hợp pháp hóa dưới các hình thức pháp lý được bảo đảm bằng sức mạnh của
bộ máy nhà nước và các tiềm năng kinh tế hợp pháp. Thứ ba, phạm vi tác động của
quyền lực nhà nước rất rộng lớn về thời gian, không gian và đối tượng. Thứ tư, quyền
lực nhà nước có tính thống nhất cao nhất đồng thời cũng có tính thứ bậc phức tạp nhất.
Thứ năm, quyền lực nhà nước được biểu hiện công khai với danh nghĩa chủ quyền nhân
dân, chủ quyền quốc gia và được thừa nhận về mặt quốc tế.
Tóm lại, quyền lực nhà nước chứa nhiều yếu tố của các loại quyền lực khác nhau,
biểu hiện dưới nhiều hình thức phong phú, đa dạng và được hợp pháp hóa bằng các hình
thức pháp lý.

3.
4.
5. Tính thống nhất của quyền lực nhà nước
Thống nhất là một trong những thuộc tính cơ bản của quyền lực nhà nước. Quyền
lực nhà nước là sức mạnh của quyền lực nhân dân đã được hợp pháp hóa dưới các hình
thức pháp lý và được trao cho bộ máy nhà nước và các chủ thể xác định của bộ máy đó
dưới hình thức ủy quyền. Do đó, xét về bản chất và cội nguồn xã hội thì quyền lực nhà
nước là một chỉnh thể thống nhất, không thể chia cắt thành các bộ phận biệt lập. Có thể
nói, tính thống nhất của quyền lực nhà nước là vấn đề có tính nguyên tắc và đảm bảo
tính thống nhất của quyền lực là yêu cầu có tính khách quan. Tính thống nhất của quyền
lực nhà nước hoàn toàn không phải là sự tập trung quyền lực. Tính thống nhất là thuộc
tính thể hiện bản chất của quyền lực còn tập trung quyền lực hay phân tán quyền lực là
phương thức, cơ chế tổ chức và thực thi nội dung của quyền lực.

4. Sự phân định tương đối của quyền lực nhà nước


Sự phân định tương đối của quyền lực nhà nước xuất hiện chậm hơn tính thống
nhất, có nhiều biến dạng và luôn chịu tác động của nhiều yếu tố khác nhau. Sau đó tác
giả giải thích cụ thể từng giai đoạn phát triển của quyền lực.

Nhu cầu về sự phân định quyền lực nhà nước cũng xuất phát từ chính nhà nước.
Tình hình đòi hỏi phải có sự tổ chức lao động quyền lực một cách khoa học và sự
phân định quyền lực một cách tương đối sẽ góp phần làm cho cơ chế quản lí nhà
nước được dễ dàng và kiểm soát hiệu quả hơn.

Hiện nay, thuyết phân lập quyền lực gồm ba bộ phận gồm: lập pháp, hành pháp,
tư pháp được thừa nhận và sử dụng rộng rãi trên thế giới. Tuy nhiên, với mỗi nước sẽ
có cách áp dụng khác nhau vì thế cần phải xem xét sự phân định quyền lực một cách
đầy đủ hơn theo quan điểm kết hợp các yếu tố truyền thống và hiện đại.

5. Sự giới hạn, tương tác giữa các quyền lập pháp, hành pháp tư pháp và sự cần
thiết phải có sự phân công phối hợp trong việc thực hiện các quyền
Quyền lập pháp là quyền tạo ra luật pháp. Đây là quyền lực cao nhất vì luật pháp là
tiêu chuẩn pháp lý cần thiết để tổ chức, thực thi và kiểm soát quyền lực của nhà nước và
bảo đảm tự do dân chủ cho công dân. Quyền lập pháp được giao cho Quốc hội, cơ quan
đại diện cao nhất được bầu chọn bởi nhân dân. Quốc hội là cơ quan cao nhất của quyền
lực nhà nước và không có giới hạn trên mọi lĩnh vực, nhưng vẫn có những giới hạn cụ
thể. Quyền lập pháp bị giới hạn bởi các nguyên tắc pháp luật và tính tối cao của chủ
quyền nhân dân, và luôn cần sự phối hợp với hành pháp và tư pháp trong thực hiện
quyền lực của mình.
Quyền hành pháp là quyền thi hành pháp luật và được giao cho cơ quan hành chính
nhà nước. Tuy nhiên, quyền này bị giới hạn bởi các quy định pháp luật do cơ quan lập
pháp đề ra. Cơ quan hành chính nhà nước có quyền lực rộng lớn và phải tổ chức một
cách thống nhất, thông suốt và trên toàn lãnh thổ. Nhiệm vụ của quyền hành pháp là
quản lý và điều hành các chức năng của nhà nước, phù hợp với hiến pháp và luật. Để
làm được điều này, cơ quan hành pháp cần có đủ năng lực và thẩm quyền để giải quyết
các vấn đề thuộc phạm vi quản lý và điều hành một cách hiệu quả và nhanh chóng.
Quyền tư pháp là quyền tài phán và được giao cho tòa án. Tuy nhiên, thực tế đã chỉ
ra rằng các nguyên tắc pháp luật đối với cơ quan lập pháp thường chỉ là lý tưởng và
không khả thi. Do đó, cần mở rộng khái niệm về quyền tư pháp và khuyến khích sử
dụng án lệ như một nguồn bổ sung của pháp luật. Tòa án có quyền phán xử về tính hợp
hiến của các đạo luật và tính hợp pháp của các văn bản và hành vi của cơ quan hành
pháp. Vì vậy, nguyên tắc tư pháp độc lập không còn có ý nghĩa toàn vẹn và cần có sự
kiểm soát về tính hợp pháp của các cơ quan tư pháp."
Tóm lại, tác giả khẳng định các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp là những bộ
phận quyền lực nhà nước vừa có tính độc lập nhất định vừa tác động qua lại lẫn nhau. Vì
vậy cần xây dựng cơ sở khoa học cho việc tìm ra mức độ hợp lý trong việc phân công và
phối hợp thực hiện trên cơ sở xác định rõ tính chất, đặc điểm... của mỗi loại quyền lực.

Quan điểm của tác giả so với kiến thức Lý luận Nhà nước và Pháp luật:
Quan điểm của tác giả về kiến thức LLNNPL có nhiều điểm tương đồng. Tác
giả khẳng định rằng quyền lực của nhà nước trong xã hội được áp đặt một cách bao
trùm và có tính chất ép buộc đối với tất cả thành viên trong xã hội. Ông cũng nhấn
mạnh rằng Nhà nước có quyền lực chính trị đặc biệt, thể hiện qua việc áp đặt các
quyết định lên các cá nhân và tổ chức trong xã hội. Tác giả cũng cho rằng sự thống
nhất giữa các tổ chức trong hệ thống chính trị là cần thiết, và việc hoạt động của từng
thành phần và toàn bộ hệ thống chính trị phải tuân theo luật pháp của nhà nước. Thay
vì sử dụng thuật ngữ "nguyên tắc phân quyền", ông đề xuất cách gọi khác là "sự phân
định tương đối của quyền lực nhà nước". Điều này cho thấy ông đang tìm cách xây
dựng một cơ sở khoa học để phân công và phối hợp thực hiện các loại quyền lực một
cách hợp lý và hiệu quả nhất, bao gồm cả quyền lực nhà nước. Tác giả cũng nhấn
mạnh rằng việc tập trung quyền lực nhà nước vào một người hay một cơ quan nào đó
có thể dẫn đến sự độc tài và tha hóa, do đó cần có sự phân định và phân công quyền
lực một cách hợp lý. Một điểm khác biệt nữa là tác giả cho rằng Quốc hội là cơ quan
quyền lực nhà nước cao nhất, nhưng không tự mình thực hiện toàn bộ quyền lực nhà
nước. Thay vào đó, Quốc hội giao cho Chính phủ thực hiện quyền hành pháp và Tòa
án thực hiện quyền tư pháp. Điều này cho thấy tác giả coi Quốc hội là cơ quan quan
trọng trong hệ thống chính trị, nhưng không phải là cơ quan duy nhất có quyền lực
nhà nước.

Quan điểm của bản thân


Sau khi đọc bài viết và suy nghĩ kỹ, em nhận ra rằng quyền lực của nhà nước đóng
vai trò cực kỳ quan trọng trong mọi xã hội. Quyền lực này được coi là cao nhất và
chủ thể của nó luôn là nhân dân, cùng với Quốc hội và các cơ quan nhà nước cao cấp,
là những công cụ để nhân dân thực hiện quyền lực của mình. Tuy nhiên, quyền lực
nhà nước cũng có tính thống nhất và đồng thời có sự phân định tương đối. Đặc biệt,
giữa các bộ phận lập pháp và hành pháp, cần có sự tương tác với nhau. Từ đó, ta có
thể thấy rằng việc phân chia quyền lực nhà nước là một vấn đề cần được tiếp tục
nghiên cứu và đưa ra những chính sách phù hợp hơn trong tương lai.

5. Bài viết: “Nguyên tắc quyền lực nhà nước là thống nhất có sự phân công, phối
hợp giữa các cơ quan trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp và tư
pháp”, Nguyễn Minh Đoan, Tạp chí Nhà nước và Pháp luật, số 5/2007.

1. Quyền lực nhà nước là thống nhất:

Quyền lực nhà nước là một dạng quyền lực xã hội mang tính ý chí, gắn liền với
chủ quyền quốc gia. Quyền lực nhà nước xuất phát từ nhân dân và nhà nước nhận quyền
từ nhân dân. Sự thống nhất của quyền lực nhà nước không chỉ do đó bắt nguồn từ nhân
dân mà còn gửi bản thân nhà nước thì cũng luôn là một chỉnh thể thống nhất hành động
vì những mục tiêu nhất định.

Quyền lực nhà nước sinh ra trong quá trình phân công lao động xã hội và nó có
một bộ phận chuyên môn thực hiện chức năng quản lý nhà nước và xã hội. Sự chuyên
môn hóa trong việc thực hiện các công việc nhà nước được xem là sự phân công lao
động quyền lực nhà nước. Sự phân công này được thực hiện về cả chiều ngang (cùng
cấp) và chiều dọc (các cấp). Nhưng dù có chia bao nhiêu đi nữa thì nó vẫn đảm bảo sự
thống nhất trong cơ chế nắm giữ và thực hiện quyền lực nhà nước.

Quốc hội và Hội đồng nhân dân do nhân dân bầu ra, chịu sự giám sát của nhân dân.
Vì thế các cơ quan nhà nước khác đều phải báo cáo công tác trước Quốc hội và Hội
đồng nhân dân để tránh hiện tượng xung đột trong quá trình quản lý nhà nước. Ngoài ra,
để đảm bảo tính thống nhất theo lãnh thổ, nhà nước ta còn thành lập nhiều cơ quan
quyền lực nhà nước phân bổ từ trung ương đến địa phương.
Trong quá trình thực hiện chức năng của mình, các cơ quan cũng có sự phân công,
phối hợp với nhau. Như thế sẽ đảm bảo không có sự phân quyền, tập trung cục bộ, quan
liêu,…

2. Sự phân công thực hiện quyền lực nhà nước

Xét về chức năng thì quyền lực nhà nước thường liên quan đến ba hoạt động:
xây dựng pháp luật, công bố và tổ chức thực hiện pháp luật, xét xử để giải quyết những
tranh chấp và xử lí những vi phạm pháp luật. Quyền lực nhà nước gồm ít nhất 3 lĩnh
vực: lập pháp, hành pháp, tư pháp,… ngoài ra còn có quyền nguyên thủ quốc gia, quyền
giám sát, quyền quân đội.

Phân công quyền lực nhà nước là giao cho từng nhóm các cơ quan nhà nước
thực hiện một quyền lực nào đó có tính chất chuyên nghiệp nhằm nâng cao năng suất lao
động trong hoạt động quản lý nhà nước. Sự phân công quyền lực còn hạn chế sự độc
đoán, chuyên quyền, lạm dụng quyền lực, góp phần kiềm chế quyền lực, đặc biệt là
quyền hành pháp vì nó ảnh hưởng đến quyền tự do, dân chủ, lợi ích của các tổ chức và
cá nhân trong xã hội.

Sự phân công quyền lực nhà nước luôn diễn ra theo nhiều chiều khác nhau.
Nhân dân là chủ thể của quyền lực nhà nước, còn ở tầm vi mô hay giữa các cơ quan
quyền lực nhà nước cùng thực hiện thì theo cơ chế cùng phối hợp, hiệp thương để cùng
phân công.

3. Sự phối hợp thực hiện quyền lực nhà nước:


Nhà nước là một chỉnh thể thống nhất, thực hiện quyền lực nhà nước thống
nhất. Do đó, trong hoạt động của tất cả các cơ quan nhà nước đòi hỏi phải có sự phối
hợp chặt chẽ giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện quyền lực nhà nước. Sự
phối hợp giữa các cơ quan nhà nước là để bảo đảm thực hiện chức năng, nhiệm vụ, mục
tiêu chung của cả bộ máy nhà nước. Các cơ quan nhà nước cùng tham gia thực hiện giải
quyết một vấn đề, nếu có sự phối hợp với nhau sẽ dễ dàng thực hiện được nhiệm vụ của
mỗi cơ quan cũng như nhiệm vụ chung của bộ máy nhà nước.
Sự phối hợp giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện quyền lực nhà
nước có tác dụng chế ước kiểm soát lẫn nhau giữa các cơ quan nhà nước để tránh nguy
cơ lạm dụng quyền lực. Đồng thời, sự phối hợp còn có tác dụng hạn chế hoặc tránh
được sự xung đột quyền lực.
Sự phối hợp còn ra tạo ra sự hiểu biết, đồng cảm lẫn nhau giữa các cơ quan nhà
nước trong việc thực hiện quyền lực nhà nước, hạn chế những sai sót, khiếm khuyết
trong hoạt động của mỗi cơ quan nhà nước.
Sự phối hợp trong cùng một hệ thống các cơ quan nhà nước để thực hiện cùng
một quyền lực chính là việc thực thi nhiệm vụ quyền hạn trách nhiệm của mỗi cơ quan.
Kết luận
Lý luận và thực tiễn được khẳng định rằng nguyên tắc quyền lực nhà nước là
thống nhất, có sự phân công phối hợp giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện
các quyền lập pháp hành pháp và tư pháp vô cùng cần thiết và quan trọng để nâng cao
hiệu lực, hiệu quả hoạt động của bộ máy nhà nước. Để thực hiện tốt nguyên tắc này đòi
hỏi chúng ta phải nhanh chóng “Xây dựng cơ chế vận hành của Nhà nước pháp quyền
xã hội chủ nghĩa bảo đảm nguyên tắc tất cả quyền lực nhà nước đều thuộc về nhân dân,
quyền lực nhà nước là thống nhất, có sự phân công phối hợp giữa các cơ quan trong việc
thực hiện quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp”. Đẩy nhanh công cuộc xây dựng nhà
nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa trên tất cả các mặt, trong đó cần tập trung làm tốt
những công việc sau:
Về hệ thống thể chế, chức năng, nhiệm vụ, hoàn thiện các quy định pháp luật liên
quan đến sự phân công phối hợp giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện các
quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp.
Về tổ chức bộ máy, tiếp tục cải cách bộ máy nhà nước, từng cơ quan nhà nước
theo hướng tổ chức hoạt động của nhà nước pháp quyền thực sự của nhân dân, do nhân
dân, vì nhân dân.
Về cán bộ, công chức, nâng cao hơn nữa phẩm chất, chất lượng và năng lực của
đội ngũ cán bộ công chức nhà nước.
Về phương thức hoạt động, đổi mới phương thức hoạt động của các cơ quan nhà
nước, thực hiện đầy đủ nguyên tắc công khai, minh bạch, dân chủ và phục vụ nhân dân.

Sự giống và khác nhau của tác giả Lê Minh Tâm và Nguyễn Minh Đoan
Điểm giống:

+ Đều khẳng định là quyền lực nhà nước là thống nhất, có sự phân công, phối hợp
trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp.

+ Các cơ quan nhà nước có sự phân công, phối hợp trong việc thực hiện quyền lực
nhà nước.

Điểm khác:

Quyền Lê Minh Tâm Nguyễn Minh Đoan


lực NN

Khái Là một dạng đặc biệt của Là một dạng quyền lực xã
niệm quyền lực chính trị, là sức mạnh hội mang tính ý chí, gắn liền
của quyền lực nhân dân được với chủ quyền quốc gia. Nó
hợp pháp hoá dưới các hình xuất phát từ nhân dân, nhà
thức pháp lý và được trao cho nước nhận quyền từ nhân dân-
bộ máy nhà nước với các chủ một khối thống nhất tạo nên
thể xác định của bộ máy đó một khả năng thống nhất vô
dưới hình thức uỷ quyền. cùng to lớn trong đời sống xã
hội.

Nguồn Chỉ xuất hiện khi xã hội đã phát Sinh ra trong quá trình phân
gốc triển đến trình độ nhất định dẫn công lao động xã hội và nó có
đến sự ra đời của nhà nước. một bộ phận chuyên môn thực
hiện chức năng quản lý nhà
nước và xã hội.

2. Quan điểm của tác giả so với kiến thức Lý luận Nhà nước và Pháp luật
- Giống nhau:
+ Khẳng định sự thống nhất của quyền lực nhà nước
+ Sự phân công nhà nước được thực hiện theo chiều dọc và chiều ngang
+ Khẳng định quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân mà nền tảng là liên minh giai cấp
công nhân với giai cấp nông nhân và đội ngũ trí thức.
+ Khẳng định Quốc hội là cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất nhưng Quốc hội không
tự mình thực hiện toàn bộ quyền lực nhà nước mà Quốc hội giao cho Chính phủ thực
hiện quyền hành pháp và Tòa án thực hiện quyền tư pháp.
+ Khẳng định rằng cần có sự phân định và phân công quyền lực một cách hợp lý nhằm
tránh sự độc đoán, chuyên quyền và lạm dụng quyền lực trong bộ máy nhà nước cũng
như sự ôm đồm bao biện, chồng chéo chức năng, nhiệm vụ giữa các cơ quan nhà nước.
+ Sự phân công quyền lực cũng có thể dẫn đến các tình trạng như đùn đẩy trách nhiệm,
chạy chọt để có được công việc tốt,...
+ Khẳng định cần phải có sự phối hợp chặt chẽ giữa các cơ quan nhà nước trong việc
thực hiện quyền lực nhà nước.
- Khác nhau:
+ Tác giả đề cập đến các chủ thể làm nhiệm vụ phân công quyền lực nhà nước
+ Tác giả đưa ra các biện pháp nhằm thực hiện tốt nguyên tắc quyền lực nhà nước thống
nhất, có sự phân công, phối hợp giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện các
quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp.

3. Quan điểm bản thân:;


Từ bài viết của tác giả và các kiến thức đã được giảng dạy về quyền lực nhà nước, em
nhận thấy rằng việc hiểu rõ nguyên tắc quyền lực nhà nước là vô cùng quan trọng và cần
thiết. Không chỉ cần có sự thống nhất mà sự phân công, phối hợp quyền lực nhà nước
giữa các cơ quan nhà nước cũng là một nguyên tắc giữ vai trò chính yếu. Và để quyền
lực nhà nước được thực hiện một cách hiệu quả, hợp lý nhất, nhà nước cần đẩy nhanh
công cuộc xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa trên tất cả các mặt. Đó là
một quá trình đòi hỏi sự nghiên cứu và đầu tư kỹ lưỡng để có thể thực hiện được trong
tương lai.

6. Bài viết: Góp phần đổi mới nhận thức về chức năng của nhà nước” , Lê Thu
Hằng, Tạp chí Luật học, số 1/2002

Trong bài viết này, tác giả trình bày một số nhận thức của mình về chức năng của
nhà nước nói chung, chức năng của Nhà nước ta trong giai đoạn 2002.
Chức năng của nhà nước là một trong những vấn đề cơ bản của lí luận nhà nước
và pháp luật gắn với những phạm trù như bản chất, nhiệm vụ, các hình thức và
phương pháp hoạt động của nhà nước. Nhà nước tồn tại và phát triển thông qua
những mối liên hệ biện chứng của nó tác động vào giới tự nhiên, thế giới vật chất, các
quan hệ xã hội và thế giới tinh thần của con người. Quan niệm này tuy có phần đúng
nhưng chưa đủ vì nhà nước tồn tại còn phản ánh vai trò, vị trí của nhà nước đối với
xã hội-xuất phát điểm đồng thời là mục tiêu hoạt động của nhà nước. Quan điểm thứ
hai xuất phát từ bản chất nhà nước: tính giai cấp và tính xã hội và mối liên hệ giữa
bản chất và chức năng của nhà nước, tuy nhiên, chưa phản ánh được sự đặc thù để
phân biệt nhà nước với các khai niệm khác.

Quan điểm thứ ba xác định chức năng nhà nước là thể hiện vai trò nhà nước đối
với xã hội, bà cho rằng cần nhận thức khái niệm nhà nước qua ba góc độ: chức năng
nhà nước là cái xã hội cần nhà nước và nhà nước cần phải làm; là cái mà nhà nước có
thể làm được; là cái nhà nước được làm. Quan điểm này tuy mới nhưng tác giả chưa
đưa ra định nghĩa. Ngoài ra còn có nhiều quan điểm khác về chức năng của nhà nước
như: là quá trình nhà nước tác động lên xã hội; là nhiệm vụ, phương pháp, cách thức,
hình thức hoạt động của nhà nước đến môi trường xung quanh. Nhìn chung, tất cả
quan điểm này đều xuất phát từ chủ nghĩa duy vật biện chứng, chủ nghĩa duy vật lịch
sử của triết học Mác-Lenin.

Ngày nay, để xác định đầy đủ chức năng của nhà nước cần làm sáng tỏ các luận
điểm:

1. Chức năng của nhà nước gắn liền với điều kiện xuất hiện và bản chất của nhà
nước:

Theo học thuyết Mác-Lênin, nhà nước chỉ xuất hiện và tồn tại trong những giai
đoạn nhất định của lịch sử xã hội loài người với những điều kiện kinh tế - xã hội nhất
định. Sự ra đời của Nhà nước là tất yếu lịch sử nhằm đáp ứng nhu cầu được quản lý
của chính xã hội và duy trì trật tự xã hội theo ý chí và lợi ích của giai cấp nắm trong
tay những tư liệu sản xuất chủ yếu. Điều kiện xuất hiện của nhà nước quy định nhà
nước phải có những chức năng nhất định, đó là chức năng chuyên chính giai cấp và
chức năng xã hội. Chức năng của nhà nước về bản chất của nhà nước có mối liên hệ
khách quan. Chức năng của nhà nước được xác định từ bản chất nhà nước và ngược
lại bản chất nhà nước được thể hiện thông qua các chức năng của nhà nước - được cụ
thể hóa và thể hiện trong nhiều mặt hoạt động của nhà nước.

Bản chất của nhà nước là tổng hợp những mặt, những yếu tố, những quá trình tạo
nên hiện tượng nhà nước, là những thuộc tính hữu cơ bên trong của nhà nước, còn chức
năng của nhà nước là hệ thống các mối liên hệ tương đối bền vững giữa các yếu tố của
nó. Khi bản chất của nhà nước thay đổi thì chức năng của nhà nước cũng thay đổi cho
phù hợp với bản chất nhà nước mới. Các chức năng nhà nước và nội dung của nó luôn
có sự vận động, biến đổi làm xuất hiện những chức năng mới hoặc mất đi những chức
năng nào đó hoặc có những chức năng của nhà nước tồn tại qua nhiều chế độ xã hội
khác nhau nhưng nội dung và phương pháp thực hiện chúng lại rất khác nhau tùy thuộc
vào điều kiện hoàn cảnh lịch sử cụ thể, vào bản chất của nhà nước đó.
Chức năng của nhà nước phản ánh đầy đủ hai tính chất cơ bản của bản chất nhà
nước là tính giai cấp và tính xã hội. Xuất phát từ bản chất giai cấp, nhà nước là tổ chức
chính trị của giai cấp thống trị về kinh tế và vì các giai cấp có quyền lợi đối nghịch nhau
nên chức năng của nhà nước trước tiên được hình thành nhằm để bảo vệ quyền lợi của
giai cấp thống trị. Xuất phát từ bản chất xã hội, bất kỳ nhà nước nào cũng thực hiện hoạt
động với tư cách là người đại diện chính thức cho quyền lợi của toàn xã hội nên có
những chức năng của nhà nước phát sinh từ bản chất tự nhiên của mọi xã hội, từ nhu cầu
của chính xã hội nhằm duy trì và bảo vệ những điều kiện tồn tại và phát triển của xã hội.
Vì vậy chức năng của nhà nước có tính giai cấp và tính xã hội.
Từ nhận thức về nguồn gốc, bản chất và vị trí, vai trò của nhà nước, chúng ta có
thể khẳng định rằng nhà nước xuất hiện để thực hiện sứ mệnh của thiết chế quản lý xã
hội với hai nhiệm vụ cơ bản là duy trì sự thống trị giai cấp và duy trì sự tồn tại và phát
triển của toàn xã hội. Một mặt, nhà nước là công cụ đảm bảo duy trì, củng cố sự thống
trị của giai cấp, lực lượng nhất định trong xã hội, mặt khác, nhà nước là công cụ tác
động, điều tiết các quan hệ xã hội tổ chức đời sống cộng đồng, giải quyết những nhu cầu
phát triển của toàn xã hội, giữ cho xã hội vận động, phát triển theo trật tự nhất định phù
hợp với ý chí của giai cấp cầm quyền. Như vậy, những điều kiện kinh tế, xã hội quyết
định sự ra đời và tồn tại của nhà nước, bản chất, vai trò của nhà nước có liên quan mật
thiết đến phạm trù quan trọng trong lý luận về nhà nước là chức năng của nhà nước.
2. Tương quan giữa tính giai cấp và tính xã hội của chức năng nhà nước lệ thuộc
vào điều kiện lịch sử trong các nhà nước khác nhau
Tính giai cấp và tính xã hội trong chức năng của Nhà nước luôn tồn tại cách
khách quan, không phụ thuộc vào sự nhận thức của con người. Tương quan giữa hai tính
chất trong chức năng của nhà nước phụ thuộc vào sự tương quan lực lượng xã hội sự
xung đột lợi ích giai cấp thể hiện trên các lĩnh vực kinh tế, xã hội và chính trị trong điều
kiện xã hội mà nhà nước đã tồn tại.
Trong mối quan hệ với nhà nước, cơ sở kinh tế giữ vai trò quyết định. Nhà nước
thực hiện các chức năng của mình là để giải quyết các vấn đề lợi ích mà trước hết là lợi
ích kinh tế. Như vậy, suy đến cùng, quan hệ sở hữu cơ bản nền tảng trong chế độ xã hội
có ý nghĩa quyết định đến chức năng của nhà nước nên việc bảo vệ chế độ sở hữu phản
ánh rõ nét mối tương quan giữa hai tính chất trong chức năng của nhà nước.
Giai cấp và cơ cấu giai cấp phản ánh mối quan hệ đa dạng và lợi ích của các giai cấp,
tầng lớp trong xã hội. Lợi ích chiếm vị trí quan trọng trong hoạt động của con người và
là động lực của sự phát triển xã hội. Chức năng của Nhà nước thể hiện sự can thiệp, điều
tiết của Nhà nước đối với các lĩnh vực của đời sống xã hội, suy đến cùng là nhằm giải
quyết mối quan hệ lợi ích của con người nên chỉ có thể thực hiện một cách đúng đắn và
hiệu quả trên cơ sở nắm vững những đặc thù của cơ cấu giai cấp, mối quan hệ đa dạng
giữa các giai tầng, các bộ phận dân cư trong xã hội.
Cơ cấu giai cấp và sự thay đổi cơ cấu giai cấp trong các chế độ xã hội cũng như
sự vận động phát triển và thay đổi vị trí vai trò trong từng chế độ xã hội là một trong
những nhân tố quyết định đến chức năng của nhà nước. Vì vậy, chức năng của nhà nước
và cơ sở xã hội có sự thống nhất biện chứng.
3. Chức năng của nhà nước trong mối quan hệ với quyền lực nhà nước và trình độ
dân chủ:
Quyền lực nhà nước và chức năng nhà nước tồn tại dưới điều tất yếu trong xã hội
có giai cấp và nhà nước. Chức năng nhà nước là một trong nhiều hình thức thể hiện
quyền lực nhà nước. Chức năng nhà nước là các phương diện hoạt động chủ yếu của nhà
nước nhằm thực thi quyền lực nhà nước, gắn với cơ cấu quyền lực nhà nước. Quyền lực
nhà nước là vấn đề then chốt để xác định chức năng nhà nước. Mối quan hệ giữa chức
năng của nhà nước và quyền lực nhà nước là mối quan hệ giữa nội dung và hình thức,
các bộ phận quyền lực nhà nước và yêu cầu thực thi các bộ phận quyền lực đó chi phối
đến sự hình thành, đến nội dung và phương thức thực hiện các chức năng nhà nước. Ở
nước ta, quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân nên các chức năng nhà nước là phương
thức thực hiện quyền lực nhân dân, phục vụ nhân dân.
Một trong những yếu tố góp phần quyết định đến chức năng nhà nước là trình độ
dân chủ của xã hội mà nhà nước đó tồn tại. Trong chế độ dân chủ, nhà nước với tính
cách là một tổ chức công quyền, thực hiện công quản, đóng vai vai trò là người tổ chức
các quá trình xã hội theo hướng dân chủ trên cơ sở tuân theo các quy luật vận động
khách quan của xã hội. Nếu dân chủ được đảm bảo từ các chức năng kinh tế, xã hội của
nhà nước được thực hiện rõ nét. Nếu ngược lại, các chức năng đó sẽ mờ nhạt hơn chức
năng chuyên chính giai cấp.
Từ những phân tích trên, có thể hiểu chức năng nhà nước là phương diện hoạt
động cơ bản của nhà nước được xác định từ bản chất nhà nước, do cơ sở kinh tế và kết
cấu giai cấp quyết định, nhằm phát động có định hướng lên các lĩnh vực của đời sống xã
hội và thực hiện các nhiệm vụ đặt ra trước nhà nước.
Quan điểm của tác giả so với kiến thức LLNNPL
- Điểm chung:
+ Khẳng định các quan điểm về chức năng nhà nước đều chứa đựng các lý giải khách
quan xuất phát từ nhận thức trên cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa duy vật biện
chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử Mác-Lênin và nguồn gốc, bản chất, vị trí, vai trò của
nhà nước trong xã hội quá trình lịch sử phát triển của nhà nước.
+ Khẳng định mỗi chức năng cụ thể của nhà nước là sự thống nhất giữa nội dung, hình
thức và phương pháp thực hiện quyền lực nhà nước ở những mặt hoạt động của nhà
nước.
+ Chức năng của nhà nước được xác định từ bản chất nhà nước và ngược lại bản chất
nhà nước được thể hiện thông qua các chức năng của nhà nước - được cụ thể hóa và thể
hiện trong nhiều mặt hoạt động của nhà nước.
+ Khi bản chất của nhà nước thay đổi thì chức năng của nhà nước cũng thay đổi cho phù
hợp với bản chất nhà nước mới.
+ Chức năng của nhà nước phản ánh đầy đủ hai tính chất cơ bản của bản chất nhà nước
là tính giai cấp và tính xã hội.
+ Tính giai cấp và tính xã hội trong chức năng của Nhà nước luôn tồn tại cách khách
quan, không phụ thuộc vào sự nhận thức của con người.
+ Trong mối quan hệ với nhà nước, cơ sở kinh tế giữ vai trò quyết định.
+ Khẳng định mối quan hệ biện chứng giữa cơ cấu xã hội và chức năng Nhà nước.
- Điểm khác
+ Tác giả khẳng định mối quan quan hệ giữa chức năng và bản chất Nhà nước có tính
khách quan.
+ Tác giả đã đi sâu vào nghiên cứu chức năng của nhà nước trong mối quan hệ với
quyền lực nhà nước và trình độ dân chủ
Quan điểm của bản thân:
Sau khi đọc bài viết trên của của tác giả Lê Thu Hằng, em nhận thấy rằng Nhà nước
đóng một vai trò hết sức quan trọng trong mọi xã hội. Chức năng của Nhà nước luôn đi
liền với bản chất, nguồn gốc, vai trò, vị trí trí của Nhà nước. Ngoài ra, tính xã hội và
tính giai cấp của nhà nước phụ thuộc vào lực lượng sản xuất xã hội cũng như tình hình
kinh tế, chính trị, xã hội mà nhà nước đó tồn tại. Chức năng của nhà nước dù là một vấn
đề quan trọng và cần được thảo luận, phổ biến rộng rãi nhưng nhận thức về chức năng
nhà nước vẫn chưa quá phổ biến với đại chúng. Vì vậy, công dân cần có những nhận
thức mới về chức năng của Nhà nước để từ đó, góp phần xây dựng một nhà nước có thể
phát huy hết vai trò để phục vụ cho nhân dân, vì nhân dân.
SO SÁNH QUAN ĐIỂM CỦA CÁC TÁC GIẢ
(Bài 2,3,4,5)

2 3 4 5

Giống - Đều nói về khái niệm quyền lực nhà nước và nguồn gốc của nó. Cả hai đều khẳng
nhau định mối quan hệ mệnh lệnh - phục tùng trong quan hệ quyền lực.
- Trong bối cảnh xã hội dân chủ, quyền lực được xác định là mệnh lệnh tối cao của
nhân dân và cơ chế ủy quyền được đề cập.
- Nhắc đến vấn đề tập trung quyền lực vào một chủ thể sẽ gây ra những hậu quả
như độc tài, lạm dụng quyền lực, gia tăng quyền lực. Đồng thời để lại những hậu
quả như độc tài, lạm dụng quyền lực, gia tăng quyền lực. được nhắc đến. Đồng thời,
chúng tôi cũng đề cập đến nhiều bất cập khác như phân cấp, tập trung quan liêu.
- Tham khảo lý thuyết phân chia quyền lực: Nhà nước được chia thành ba nhánh
quyền lực: lập pháp, hành pháp và tư pháp.
- Khẳng định sự thống nhất quyền lực nhà nước, phân công nhiệm vụ và phối hợp
giữa các cơ quan nhà nước trong việc
thực hiện các quyền trong thuyết tam quyền.
- Khẳng định Quốc hội là cơ quan đại diện cao nhất của
nhân dân.

Khác - Từ khái niệm quyền -Đề cập đến sự tuân - Sự chuyển đổi - Nêu ba hoạt
nhau lực đến quyền lực nhà phục không chỉ phụ từ các loại động cơ bản được
nước. thuộc vào khả năng quyền khác coi là trong
- Khẳng định quyền của nhà nước mà còn nhau dẫn đến khuôn khổ hoạt
lực nhà nước mang phụ thuộc vào bản quyền lực nhà động của quyền
tính giai cấp và luôn thân các đối tượng. nước. lực nhà nước. Tổ
thuộc về giai cấp - Đề cập đến mối chức ban hành và
thống trị. quan hệ giữa nhà - khẳng định thi hành luật ->
- Liên quan đến tổ nước với các cá quyền lực nhà Quyền lực nhà
chức bộ máy nhà nước nhân, tổ chức trong nước chỉ xuất nước bao gồm ít
ở nước Cộng hòa xã xã hội. hiện khi xã hội nhất ba loại
hội chủ nghĩa Việt - Đặt mối quan hệ đã phát triển quyền: lập pháp,
Nam, quyền lực thuộc này trong xã hội xã đến một trình hành pháp và tư
về nhân dân nhưng hội chủ nghĩa và bảo độ nhất định và pháp.
nhân dân chuyển giao đảm mối quan hệ này cơ sở tồn tại - Tìm hiểu sâu
quyền lực thông qua không mang tính đơn của nó bao gồm hơn về sự phân
cơ cấu quyền lực cho phương. Nhà nước là nhiều yếu tố, chia quyền lực
Quốc hội và Hội đồng một tổ chức thực thi trình độ khác nhà nước thông
nhân dân các cấp. quyền lực thay mặt nhau. qua định nghĩa,
Khẳng định Quốc hội người dân. đặc điểm, cơ chế,
là cơ quan quyền lực - Đề cập đến sự - Về ranh giới, hiệu quả, ý nghĩa
tối cao của quốc gia. thống nhất thực chất có ý kiến cho và một số hạn chế
- Đặt ra vấn đề hoàn trong ý chí quốc gia rằng ranh giới của nó.
thiện bộ máy nhà nước để đảm bảo việc thực thẩm quyền cần - Tìm hiểu thêm
Cộng hòa xã hội chủ thi quyền lực. Khi được xem xét về sự phối hợp
nghĩa Việt Nam trong nói đến sở hữu nô lệ một cách toàn quyền lực nhà
thời kỳ công nghiệp và các quốc gia diện hơn. nước, chức năng,
hóa, hiện đại hóa. phong kiến, quyền tác dụng, tầm
- Tiếp tục giải quyết lực tập trung vào nhà - Đề cập đến sự quan trọng và
vấn đề vận dụng lý vua. - Thông tin về tương tác giữa một số hạn chế
thuyết quyền lực vào sửa đổi, bổ sung ba nhánh của của nó.
thực tiễn tổ chức và Hiến pháp Việt Nam chính phủ: lập - Tóm tắt các giải
thực thi quyền lực. năm 1992. Đặc biệt, pháp, hành pháp thực hiện tốt
nó đề cập đến sự cần pháp và tư nhiệm vụ phân
thiết phải sửa đổi, bổ pháp. công, phối hợp
sung Điều 2 Hiến - Đề cập đến giữa các cơ quan
pháp 1992 để luật những hạn chế. Chính phủ trong
này phù hợp với cơ Trước tiên, thực thi quyền
chế công nhận. chúng tôi phác lực.
thảo các khái
niệm, cách thể
hiện, đặc điểm
và vai trò của
ba loại quyền
này, sau đó
thảo luận về
ranh giới của
chúng.
- Tóm tắt các
giải pháp phân
bổ, phối hợp
thực hiện có
hiệu quả từng
loại quyền lực
nói riêng và
quyền lực nhà
nước nói
chung.

7. 7.Bài viết: “Về vai trò và chức năng của nhà nước”, Nguyễn Thị Hồi, Tạp chí
Nhà nước và Pháp luật, số 11/2004.
Bài viết trong tạp chí số 11/2004 có tiêu đề "Về vai trò và chức năng của nhà nước" của
Nguyễn Thị Hồi. Nội dung chính của bài viết xoay quanh sự phát triển và cải cách của
bộ máy nhà nước, đặc biệt sau công cuộc đổi mới ở Việt Nam, cũng như vai trò và chức
năng của nhà nước trong sự phát triển kinh tế xã hội.
Dước góc nhìn của tác giả, bài viết phân tích vai trò của nhà nước trong xã hội, từ những
thời kỳ đầu của lịch sử đến hiện tại. Trong quá khứ, nhà nước đảm nhận vai trò là công
cụ trấn áp, phục vụ cho mục tiêu thống trị của các giai cấp thống lĩnh. Tuy nhiên, theo
dòng chảy của lịch sử, nhà nước không ngừng thay đổi và phát triển để đáp ứng nhu cầu
ngày càng cao của xã hội.
Trong kỷ nguyên của kinh tế thị trường, nhà nước không chỉ giữ vai trò cung cấp hàng
hóa công cộng mà còn chủ động can thiệp vào quá trình phát triển kinh tế. Qua việc hỗ
trợ và thúc đẩy các ngành công nghiệp quan trọng, nhà nước đã trở thành động lực
không thể thiếu trong quá trình phát triển kinh tế của đất nước.
Những sự kiện lịch sử như Cách mạng tháng Mười Nga, cuộc Đại suy thoái kinh tế
những năm 1930, và sự sụp đổ của các đế chế sau Chiến tranh thế giới thứ hai đã làm
thay đổi đáng kể vai trò của nhà nước. Từ chức năng trấn áp ban đầu, nhà nước dần
chuyển mình thành cơ quan tổ chức, điều hành và quản lý xã hội. Sự thay đổi này không
chỉ phản ánh sự phát triển của nhà nước mà còn cho thấy sự linh hoạt và khả năng thích
ứng của nó trước các thách thức lịch sử. Bên cạnh đó, bài viết còn đề cập đến mối quan
hệ giữa chức năng và nhiệm vụ của nhà nước, và cách thức mà nhà nước có thể tác động
tích cực hoặc tiêu cực đến xã hội thông qua các chính sách và hoạt động của mình.
Như vậy, tác giả Nguyễn Thị Hồi nhấn mạnh rằng, trong bối cảnh đổi mới ở Việt Nam,
nhà nước cần phải không ngừng cải cách để tăng cường hiệu quả và nâng cao vai trò xã
hội của mình. Sự cải cách này không chỉ là yêu cầu khách quan trong quá trình phát
triển kinh tế - xã hội mà còn là điều kiện tiên quyết để nhà nước có thể thực hiện các
chức năng và nhiệm vụ của mình một cách hiệu quả nhất. Qua đó, ta có thể thấy rằng
nhà nước luôn đóng một vai trò quan trọng trong lịch sử phát triển của xã hội. Từ chức
năng ban đầu đến vai trò hiện đại, nhà nước không chỉ là công cụ điều hành mà còn là
nguồn lực quan trọng, góp phần định hình và thúc đẩy sự phát triển của đất nước.
Quan điểm của tác giả bài viết về từng chủ đề có điểm gì giống và khác so với kiến
thức học trong môn Lý luận về nhà nước và pháp luật.

Trong bài viết mang tính phân tích sâu sắc "Về vai trò và chức năng của nhà nước",
Nguyễn Thị Hồi đã đưa ra cái nhìn tổng quan và chi tiết về vai trò của nhà nước trong
việc tổ chức và quản lý xã hội. Tác giả nhấn mạnh đến sự thay đổi của nhà nước qua các
giai đoạn lịch sử, từ chế độ chiếm hữu nô lệ, phong kiến, chủ nghĩa tư bản, đến xã hội
chủ nghĩa. Điểm đặc biệt ở đây là tác giả đã thể hiện sự nhận thức rõ ràng về vai trò
kinh tế của nhà nước, nhấn mạnh đến sự can thiệp của nhà nước trong nền kinh tế và xã
hội một cách tích cực và quyết đoán.
So sánh với những kiến thức được học trong môn học Lý luận về nhà nước và pháp luật,
em nhận thấy một sự tương đồng cơ bản trong việc nhận thức về vai trò quan trọng của
nhà nước trong xã hội. Cả hai đều thừa nhận vai trò của nhà nước trong việc tổ chức,
quản lý, và cung cấp dịch vụ công cộng. Tuy nhiên, sự khác biệt chính nằm ở cách tiếp
cận và nhấn mạnh các khía cạnh khác nhau của nhà nước. Trong khi Nguyễn Thị Hồi
tập trung nhiều hơn vào sự can thiệp của nhà nước trong kinh tế và xã hội, các lý luận
học thuật thường cung cấp một quan điểm cân nhắc hơn, xem xét vai trò của nhà nước
trong một bối cảnh rộng lớn và đa dạng hơn, bao gồm cả khía cạnh quốc phòng và an
ninh.
Quan điểm cá nhân em về vấn đề này

Theo em, nhà nước đóng một vai trò không thể thiếu trong việc định hình và phát triển
xã hội cũng như kinh tế. Tuy nhiên, sự can thiệp của nhà nước cần phải được thực hiện
một cách cân nhắc và linh hoạt, phù hợp với điều kiện cụ thể và nhu cầu của mỗi quốc
gia. Nhà nước không chỉ nên là một người điều tiết, mà còn phải là một người hỗ trợ
tích cực, đặc biệt trong lĩnh vực giáo dục, y tế, và phát triển cơ sở hạ tầng. Tôi cũng cho
rằng cải cách nhà nước là một nhiệm vụ quan trọng và cần thiết, đặc biệt trong bối cảnh
toàn cầu hóa và sự phát triển nhanh chóng của công nghệ. Nhà nước cần phải không
ngừng nỗ lực để cải thiện hiệu quả quản lý, tăng cường minh bạch và trách nhiệm giải
trình, đồng thời đảm bảo rằng dịch vụ công được cung cấp một cách chất lượng và công
bằng.
8. Bài viết: “Chức năng của nhà nước trước tác động của xu thế toàn cầu hóa”
Nguyễn Đình An, Tạp chí Triết học (10), 2013
Trong thế giới hiện đại, toàn cầu hóa không chỉ định hình lại cấu trúc kinh tế và xã hội
mà còn tác động sâu rộng đến chức năng và hoạt động của nhà nước. Nguyễn Đình An,
trong tác phẩm của mình, đã khám phá và phân tích mối quan hệ phức tạp giữa nhà
nước và xu thế toàn cầu hóa, làm nổi bật sự cần thiết của việc thích ứng và cải tổ trong
chính sách và quản lý nhà nước.
Bài viết giải thích các chức năng của nhà nước từ góc độ mácxít, nhấn mạnh vào vai trò
của nhà nước trong việc thực hiện các nhiệm vụ xã hội, chính trị, kinh tế, quốc phòng,
sinh thái và các chức năng khác. Các chức năng này được thực hiện thông qua các
phương pháp tổ chức và pháp lý, phụ thuộc vào tính chất của nhà nước.
Nội dung chính của các chức năng này được quy định bởi những vấn đề cần giải quyết
khi nhà nước thực hiện chúng, với mỗi chức năng đều có mục đích và ý nghĩa riêng.
Đồng thời, bài viết cũng đề cập đến sự tác động của toàn cầu hóa đối với chức năng của
nhà nước, nhấn mạnh rằng toàn cầu hóa không làm mất đi ý nghĩa của các lợi ích quốc
gia, mặc dù chúng trở nên phức tạp hơn. Cuối cùng, tác giả nhấn mạnh rằng mỗi nhà
nước vẫn duy trì chủ quyền và lợi ích quốc gia trong bối cảnh toàn cầu hóa.
Quan điểm của tác giả bài viết về từng chủ đề có điểm gì giống và khác so kiến
thức đã được học trong môn Lý luận về nhà nước và pháp luật.

Điểm giống Nhau: Cả hai đều nhấn mạnh sự quan trọng của chức năng nhà nước trong
việc duy trì trật tự xã hội, bảo vệ quyền lợi công dân và phát triển kinh tế - xã hội. Đồng
thời, cả hai cũng đề cập đến sự cần thiết của việc thích ứng và đổi mới trong hoạt động
của nhà nước để đáp ứng yêu cầu của thời đại cũng như thừa nhận rằng nhà nước có
trách nhiệm đối với việc phát triển và bảo vệ quyền con người.
Điểm khác Nhau:
Bài viết "Chức Năng Của Nhà Nước Trước Tác Động Của Xu Thế Toàn Cầu Hóa" có
xu hướng nhấn mạnh mạnh mẽ hơn về tác động của toàn cầu hóa đối với chức năng và
hoạt động của nhà nước, trong khi môn học Lý luận về nhà nước và pháp luật lại chú
trọng hơn vào lý luận cơ bản về nhà nước và pháp luật.
Trong bài viết, có sự tập trung vào các vấn đề cụ thể như quản lý môi trường, bảo vệ
quyền con người trong bối cảnh toàn cầu, trong khi giáo trình có thể không đi sâu vào
những chi tiết này. Bên cạnh đó, bài viết cũng đề cập đến sự thay đổi trong cách thức
hoạt động của nhà nước do ảnh hưởng của xu hướng toàn cầu hóa, điều này có thể
không được đề cập rõ ràng trong giáo trình.
Quan điểm của em về vấn đề này

Theo quan điểm của cá nhân em, Nhà nước cần linh hoạt trong việc thích ứng với các
thách thức và cơ hội mà toàn cầu hóa mang lại. Điều này bao gồm việc cập nhật và điều
chỉnh chính sách, pháp luật để phản ánh những thay đổi trong môi trường kinh tế và xã
hội toàn cầu. Đồng thời, ta cũng cần tăng cường vai trò của nhà nước trong việc bảo vệ
quyền lợi cốt lõi của công dân và duy trì an ninh, trật tự xã hội, đồng thời cân nhắc lợi
ích quốc gia với trách nhiệm toàn cầu.Bên cạnh đó, Nhà nước cũng cần phải chú trọng
vào việc hợp tác quốc tế và khu vực, nhằm giải quyết các vấn đề chung như biến đổi khí
hậu, tội phạm xuyên quốc gia và bảo vệ môi trường.
9.Bài viết: “Thế giới đang biến đổi và tư duy mới về ‘bàn tay nhà nước’, Nguyễn
Minh Phong, Tạp chí Nghiên cứu lập pháp, số 2, 3 (139, 140) tháng 1/2009)
Thế giới ngày nay đang chứng kiến một loạt các biến đổi đáng chú ý trong cả kinh tế lẫn
chính trị. Những sự kiện lịch sử chưa từng có tiền lệ, như sự sụp đổ của hệ thống kinh tế
kế hoạch tập trung ở Liên Xô và cơn bão khủng hoảng tài chính tại Mỹ, đã gây ra những
sóng gió mạnh mẽ, thách thức mọi quy chuẩn và đòi hỏi một tư duy mới về vai trò của
"bàn tay nhà nước". Nhìn vào sự biến đổi này, chúng ta nhận ra tầm quan trọng của việc
điều tiết thị trường và cần phải nắm bắt sự linh hoạt, tinh tế để phản ứng một cách hiệu
quả trước những thách thức phức tạp đang đối diện.
Trong bài viết “Thế giới đang biến đổi và tư duy mới về “bàn tay nhà nước” Tác giả
Nguyễn Minh Phong đã phân tích sâu sắc về sự biến đổi to lớn trong thế giới đương đại
và vai trò ngày càng tăng của “bàn tay nhà nước” trong việc điều tiết thể chế thị trường.
Bài viết này tập trung vào ba khía cạnh chính: những xu hướng biến đổi toàn cầu trong
thập kỷ cuối cùng của thế kỷ XX và đầu thế kỷ XXI, sự ảnh hưởng rộng rãi của tư duy
mới về “bàn tay nhà nước” ở mọi lĩnh vực của đời sống kinh tế-xã hội, và thực tiễn ứng
dụng của Việt Nam về “bàn tay nhà nước”.
Bài viết mở đầu bằng việc chỉ ra hai sự kiện lịch sử đáng chú ý: sụp đổ nhanh chóng của
hệ thống kinh tế kế hoạch tập trung theo mô hình Xô Viết và khủng hoảng tài chính
mạnh mẽ tại Mỹ, tạo ra những biến đổi quan trọng và tín hiệu cho một thế giới mới đang
hình thành. Việc này yêu cầu sự thích ứng linh hoạt và tư duy sáng tạo về vai trò của
“bàn tay nhà nước” trên cả quốc gia và toàn cầu.
Tác giả đã xác định ba xu hướng chính của sự biến đổi toàn cầu: tăng cường đối thoại và
hợp tác cùng với cạnh tranh, tái cấu trúc đa dạng hóa và đa cực hóa, cùng với việc rút
ngắn chu kỳ kinh tế. Bức tranh toàn cảnh của thế giới tương lai được mô tả như một bức
tranh đa dạng, với quốc tế hóa và các định chế khu vực định hình chính sách và hướng
phát triển mỗi quốc gia, trong khi văn hóa-xã hội đặc trưng tạo nên tính riêng biệt trong
phát triển.
Bên cạnh, tác giả cũng nêu rõ về tư duy mới về “bàn tay nhà nước”, nhấn mạnh việc sử
dụng cả hai “bàn tay”: Nhà nước và Thị trường một cách cân nhắc và không thiên vị
một phía. Quá trình quốc tế hóa và toàn cầu hóa được đề xuất là cần thiết và phải tích
cực, trong khi vai trò của nhà nước trong đầu tư trực tiếp giảm đi và được tập trung vào
việc đối phó với khủng hoảng và tác động tiêu cực. Việc tìm ra sự cân bằng giữa vai trò
của nhà nước và thị trường được đặt ra là yêu cầu cấp bách.
Đồng thời, tác giả cũng phân tích sự ảnh hưởng của tư duy mới này đối với Việt Nam,
nhấn mạnh việc quốc gia này đã và đang hài hòa thích ứng với xu hướng toàn cầu, tuy
vẫn còn những thiếu sót cần được cải thiện. Tác giả đề xuất một số hướng đi cụ thể như
cải thiện cơ sở lý luận và thực tiễn, tôn trọng các quy luật và quy trình quản lý, tăng
cường dự báo và thông tin, và đảm bảo sự cân nhắc giữa phát triển kinh tế và quan tâm
đến văn hóa và môi trường.
Nhìn chung, những điều chỉ ra trong bài viết này chỉ là một phần nhỏ của cuộc thách
thức rộng lớn đang đối diện trên toàn cầu. Thế giới đang bước vào một thời kỳ biến đổi
mạnh mẽ, đòi hỏi chúng ta phải sẵn sàng nắm bắt và thích ứng với những thay đổi nhanh
chóng. Chỉ có những người có khả năng định hình và thích nghi một cách linh hoạt với
sự biến đổi của nền kinh tế mới, mới có thể vượt qua được thách thức và chiến thắng
trong thời đại đầy khó khăn này.
Trên tất cả, bài viết này là một cái nhìn sâu sắc và toàn diện về sự biến đổi toàn cầu và
vai trò ngày càng quan trọng của "bàn tay nhà nước" trong việc hướng dẫn và điều tiết
thị trường. Chúng ta cần tiếp tục nghiên cứu và thảo luận để hiểu rõ hơn về những thay
đổi này và cách thức thích ứng với chúng để đạt được sự phát triển bền vững và hài hòa
cho mỗi quốc gia.
Quan điểm của tác giả bài viết về từng chủ đề có điểm gì giống và khác so với kiến
thức đã được học trong môn Lý luận về nhà nước và pháp luật.

Điểm giống nhau:


Vai Trò của Nhà Nước: Cả quan điểm của Nguyễn Minh Phong và lý thuyết trong Lý
luận về nhà nước và pháp luật đều nhấn mạnh vai trò trung tâm của nhà nước trong quản
lý kinh tế và xã hội. Trong cả hai trường hợp, nhà nước được xem là động lực quan
trọng trong việc điều chỉnh và hướng dẫn sự phát triển của xã hội.
Sự Can Thiệp của Nhà Nước: Cả trong bài viết và trong lý thuyết, có sự nhấn mạnh về
tầm quan trọng của sự can thiệp của nhà nước để đảm bảo ổn định kinh tế và xã hội, đặc
biệt trong bối cảnh biến động kinh tế toàn cầu.
Điểm khác nhau:
Độ Sâu của Phân Tích: Nguyễn Minh Phong cung cấp một cái nhìn sâu sắc và cụ thể về
cách nhà nước phản ứng với những thách thức cụ thể của toàn cầu hóa và biến động
kinh tế quốc tế. Trong khi đó, môn học Lý luận về nhà nước và pháp luật thường tập
trung vào nguyên tắc và khái niệm cơ bản, không đi sâu vào các tình huống cụ thể hoặc
trường hợp thực tế.
Cách Tiếp Cận và Ứng Dụng: Trong khi Nguyễn Minh Phong tập trung vào việc đánh
giá và phản ánh tình hình thực tế, đưa ra quan điểm phân tích dựa trên sự kiện và dữ liệu
cụ thể, lý thuyết học thuật thường hướng đến việc xây dựng một khung lý thuyết chung,
ít đi vào các ví dụ cụ thể hoặc tình huống đặc thù.
Ứng Phó với Toàn Cầu Hóa: Bài viết của Nguyễn Minh Phong thể hiện sự nhấn mạnh
mạnh mẽ vào việc ứng phó với các thách thức của toàn cầu hóa, trong khi lý thuyết học
thuật thường không tập trung mạnh mẽ vào vấn đề này, mà chủ yếu đề cập đến vai trò lý
thuyết và nguyên tắc chung của nhà nước.
Thực Tiễn và Lý Thuyết: Nguyễn Minh Phong cung cấp cái nhìn thực tiễn, dựa trên
kinh nghiệm và quan sát, trong khi môn học trên trường thường chỉ tập trung vào việc
xây dựng và giải thích các khái niệm, không nhất thiết phản ánh trực tiếp vào thực tiễn.
Tóm lại, mặc dù cả hai đều nhấn mạnh vai trò quan trọng của nhà nước trong việc điều
chỉnh và hướng dẫn xã hội và kinh tế, nhưng cách tiếp cận và chiều sâu phân tích có sự
khác biệt rõ rệt. Nguyễn Minh Phong cung cấp một cái nhìn thực tế và chi tiết hơn,
trong khi Lý luận về nhà nước và pháp luật tcung cấp một khung cảnh lý thuyết và
nguyên tắc chung hơn.
Quan điểm cá nhân về vấn đề này

Nhà nước Việt Nam hiện nay đã có những bước phát triển đáng kể trong việc thực hiện
chức năng kinh tế. Chính quyền đã khéo léo kết hợp các hình thức và phương pháp để
quản lý và điều tiết kinh tế, từ việc thực thi pháp luật đến tham gia trực tiếp vào các hoạt
động kinh tế. Điều này đã tạo điều kiện cho mọi doanh nghiệp phát triển và đóng góp
vào nền kinh tế quốc gia.
Tuy nhiên, vẫn còn nhiều bất cập cần được giải quyết. Chất lượng phát triển kinh tế - xã
hội còn kém, không đồng đều và không kết hợp tăng trưởng kinh tế với tiến bộ xã hội.
Môi trường ô nhiễm và việc khai thác lãng phí nguồn lực đất nước là những vấn đề cấp
bách. Hệ thống hạ tầng kinh tế còn hạn chế, không đáp ứng đầy đủ cho yêu cầu phát
triển.
Trong lĩnh vực đối ngoại, việc hấp thụ vốn đầu tư nước ngoài và xuất khẩu cần được cải
thiện để tăng nguồn lực và mở rộng thị trường. Nhà nước cần thực hiện các biện pháp cụ
thể để cải thiện những hạn chế này, như hoàn thiện hệ thống pháp luật kinh tế, tạo điều
kiện cho kinh tế thị trường phát triển và coi trọng việc dự báo, thông tin, phản biện
chính sách trong quản lý nhà nước. Điều này giúp nhà nước có thêm cơ hội chủ động và
nâng cao hiệu quả thực tiễn.
Tóm lại, theo quan điểm cá nhân của em, nhà nước cần đảm bảo sự gắn kết hài hòa giữa
lợi ích cá nhân, nhà nước và xã hội trong quá trình phát triển kinh tế. Việc phát triển
kinh tế đủ mạnh sẽ giúp đất nước mạnh mẽ. Do đó, chức năng kinh tế của nhà nước cần
được tập trung và hoàn thiện để đáp ứng được các thách thức của thời đại mới và đem
lại lợi ích cho dân tộc.
Chỉ ra sự giống và khác nhau giữa các tác giả trong cách hiểu về cùng một chủ đề
(7,8,9)
Sự giống nhau:
Tất cả đều nhận thức rằng nhà nước có vai trò quan trọng trong việc điều tiết thị trường
và xã hội. Cả ba nhấn mạnh sự cần thiết của nhà nước trong việc điều tiết kinh tế.Sự
giống nhau ở nhận thức về:
Vai trò điều tiết của nhà nước: Cả ba tác giả đều nhận thức rằng nhà nước có vai trò
quan trọng trong việc điều tiết thị trường và xã hội, mặc dù mỗi người có cách tiếp cận
khác nhau về cách thức và phạm vi của sự điều tiết này.
Ảnh hưởng của toàn cầu hóa: Tất cả đều thừa nhận ảnh hưởng của toàn cầu hóa lên chức
năng và hoạt động của nhà nước, mặc dù mức độ tập trung vào khía cạnh này và nhận
thức về ảnh hưởng cụ thể có thể khác nhau.
Sự thay đổi của nhà nước: Mỗi tác giả đều nhấn mạnh sự thay đổi của vai trò và chức
năng nhà nước qua thời gian, phản ánh sự thích ứng với các thách thức kinh tế, xã hội và
toàn cầu.
Sự khác nhau:
Tiêu chí Bài viết: “Về vai trò “Chức năng của nhà “Thế giới đang biến
và chức năng của nhà nước trước tác động đổi và tư duy mới về
nước”, Nguyễn Thị của xu thế toàn cầu ‘bàn tay nhà nước’,
Hồi hóa”, Nguyễn Đình An Nguyễn Minh Phong
Quan điểm Nhà nước đóng vai Nhà nước là công cụ Nhà nước thích ứng
chung về vai trò quan trọng trong thống trị chính trị của với thách thức toàn
trò nhà nước việc điều tiết thị giai cấp, thực hiện chức cầu, kiểm soát nền
trường, cung cấp lợi năng xã hội mà giai cấp kinh tế, phản ứng linh
ích phúc lợi, và quốc thống trị buộc phải hoạt với biến động
hữu hóa ngành công làm. kinh tế toàn cầu.
nghiệp chiến lược.
Vai trò trong Nhấn mạnh vai trò Xem nhà nước như một Tập trung vào sự linh
điều tiết kinh điều tiết kinh tế và hỗ cơ chế điều tiết kinh tế hoạt và thích ứng của
tế trợ thị trường. thông qua tổ chức và nhà nước trong điều
pháp lý. tiết kinh tế toàn cầu.
Chính sách Không đi sâu vào Phân biệt rõ ràng giữa Nhấn mạnh vai trò
đối nội và đối chính sách đối nội và chức năng đối nội và của nhà nước trong
ngoại đối ngoại. chức năng đối ngoại việc tham khảo và
của nhà nước. phối hợp chính sách
quốc tế.
Quan điểm về Không tập trung vào Đánh giá toàn cầu hóa Coi toàn cầu hóa như
toàn cầu hóa toàn cầu hóa. là một xu thế không thể một yếu tố quan trọng
đảo ngược, đòi hỏi sự trong việc điều chỉnh
hợp tác quốc tế. chính sách nhà nước.
Chính sách xã Nhấn mạnh vai trò Nêu bật vai trò của nhà Tập trung vào vai trò
hội và phúc của nhà nước trong nước trong việc đảm của nhà nước trong
lợi cung cấp lợi ích phúc bảo quyền con người việc đảm bảo an ninh
lợi xã hội. và sự tự do cá nhân. xã hội và môi trường
sống chất lượng cao.
Chính sách Không đề cập cụ thể Nói đến ảnh hưởng của Xem xét chính sách
kinh tế đến chính sách kinh toàn cầu hóa đối với kinh tế trong bối cảnh
tế. chức năng kinh tế của biến đổi toàn cầu.
nhà nước.
Nhận thức về Nhấn mạnh sự thay Phân tích sự thay đổi Tập trung vào sự
sự thay đổi đổi vai trò của nhà chức năng nhà nước thích ứng của nhà
của nhà nước nước qua thời gian. trong bối cảnh toàn cầu nước với những thách
hóa. thức toàn cầu.

10:“Quan niệm về pháp luật, một vài suy nghĩ”, Hoàng Thị Kim Quế , Tạp chí Nhà
nước và Pháp luật, số 6/2006

Từ xưa đến nay, việc đặt ra, bàn luận về khái niệm pháp luật, pháp luật là gì, các
quan niệm, cách tiếp cận khác nhau về pháp luật hay cảm nhận, đánh giá và thực hành
pháp luật trong cuộc sống luôn mang tính vừa hiện đại, vừa quen thuộc. Thực chất, khái
niệm chỉ mang tính tương đối vì khi mà thời cuộc thay đổi thì chính những khái niệm ấy
cũng đồng loạt có sự đổi thay. Khi mà các quan hệ xã hội, quan hệ pháp luật đã liên thông
quốc gia thì các quy tắc luật lệ cũng phải thay đổi cho phù hợp, “phải sửa mình để tồn tại”.
Pháp luật là một hiện tượng xã hội phức tạp với nhiều biểu hiện khác nhau. Suốt
chiều dài lịch sử, không một ai có thể đưa ra một khái niệm chính xác định nghĩa về pháp
luật. Nhìn chung, đây là một câu hỏi lớn buộc con người phải trả lời thông qua sự kết hợp
của tư duy và thực tiễn.
Về mối quan hệ tương quan với đạo đức, pháp luật được xác định: pháp luật có giá
trị đạo đức, pháp luật là hiện tượng đạo đức. Về phương diện công bằng và tự do, pháp
luật là đại lượng của công bằng và tự do. Từ góc độ chức năng, pháp luật được xác định là
công cụ, phương thức giải quyết tranh chấp. Về mối quan hệ với nhà nước, pháp luật là
phương tiện giới hạn nhà nước, là công cụ quản lý xã hội. Từ đó ta thấy được rằng pháp
luật có thể được nhận thức từ nhiều góc độ khác nhau.
Mỗi trường phái pháp luật đều có những ưu và hạn chế nhất định xét trên nhiều
phương diện. Vì vậy, ta cần kết hợp tính năng ưu việt của các trường phái và loại trừ
những điểm hạn chế. Nói tóm lại, khó có thể đưa ra một định nghĩa tổng hợp đáp ứng đầy
đủ các yêu cầu đảm bảo tính thống nhất của pháp luật; do đó, chỉ có thể thừa nhận sự tích
hợp tương đối giữa các quan niệm pháp luật khác nhau.
Mỗi trường phái pháp luật đều có những ưu và hạn chế nhất định xét trên nhiều
phương diện. Vì vậy, ta cần kết hợp tính năng ưu việt của các trường phái và loại trừ
những điểm hạn chế. Nói tóm lại, khó có thể đưa ra một định nghĩa tổng hợp đáp ứng
đầy đủ các yêu cầu đảm bảo tính thống nhất của pháp luật; do đó, chỉ có thể thừa nhận
sự tích hợp tương đối giữa các quan niệm pháp luật khác nhau.
Pháp luật được hiểu, sử dụng ở cả nghĩa khách quan lẫn chủ quan. Pháp luật khách
quan là các quy phạm pháp luật được áp dụng cho tất cả mọi người. Theo nghĩa chủ
quan, pháp luật được hiểu là sự tự do, khả năng lựa chọn hành vi sao cho phù hợp theo
quy định của pháp luật khách quan. Quan niệm vật chất về pháp luật tức pháp luật thực
định là hệ thống các quy phạm được ban hành và tồn tại chính thức trong xã hội; tùy
thuộc vào quan điểm, đặc trưng văn hoá riêng của mỗi quốc gia, dân tộc trong từng thời
kỳ lịch sử mà việc đánh giá vị trí, vai trò và giá trị của các hiện tượng pháp luật là rất
khác nhau.
Về cơ bản, pháp luật được định nghĩa một cách truyền thống: là hệ thống các quy
phạm pháp luật do nhà nước đặt ra hay thừa nhận thể hiện ý chí nhà nước của giai cấp
thống trị xã hội, có tính bắt buộc chung, được nhà nước đảm bảo thực hiện nhằm điều
chỉnh các quan hệ xã hội theo đường lối của nhà nước. Theo quan điểm của tác giả, định
nghĩa này vẫn đúng, tuy nhiên chưa được đầy đủ và phù hợp với đặc điểm của xã hội lúc
bấy giờ. Trước hết, tác giả đã đưa ra các cách để xác định định nghĩa pháp luật bao gồm:
thuộc tính tiêu biểu nhất, chức năng và mục đích tồn tại của pháp luật. Nhìn chung, định
nghĩa truyền thống trên mới chỉ đề cập đến pháp luật thực định, do vậy, một đặc thù vô
cùng nổi bật trong công tác nghiên cứu, áp dụng, giảng dạy và học tập luật của chúng ta
là nặng về phân tích quy phạm pháp luật.
Theo quan điểm của tác giả, bất kỳ một định nghĩa nào của pháp luật đều mang
tính tương đối vì nó bao gồm các thuộc tính cơ bản nhất của pháp luật. Ngày nay, pháp
luật không chỉ thể hiện ở phương diện giai cấp, mà còn từ phương diện nhân loại nữa.
Do vậy, pháp luật thực định phải phù hợp với lý trí, với các giá trị nhân đạo, dân chủ,
công bằng. Tác giả cho rằng: “Bản chất pháp luật là một thể thống nhất bao gồm hai
phương diện cấu thành: phương diện giai cấp và phương diện xã hội”. Từ phương diện
thứ hai, pháp luật là công cụ điều chỉnh chung của xã hội, đáp ứng các nhu cầu, lợi
ích… của xã hội.
Dù dưới quan điểm tiếp cận nào, pháp luật cũng được hiểu là hệ thống của trật tự
xã hội. Và hiện tại, định nghĩa pháp luật chủ yếu vẫn là về pháp luật thực định: chỉ rõ
tính chất, chức năng, vai trò, thuộc, tính, giá trị của pháp luật. Theo tác giả: “Pháp luật là
hệ thống các quy tắc xử sự có tính bắt buộc chung do nhà nước đặt ra hoặc thừa nhận,
được xác định chặt chẽ về hình thức thể hiện ý chí nhà nước của giai cấp thống trị trên
cơ sở ghi nhận các nhu cầu, các lợi ích của toàn xã hội, được nhà nước đảm bảo thực
hiện nhằm điều chỉnh các quan hệ xã hội vì sự trật tự, ổn định, phát triển bền vững của
xã hội; bảo đảm và bảo vệ các quyền con người”. Theo đó, mỗi cách tiếp cận pháp luật
đều có tính hợp lý nhất định những nhìn chung, pháp luật vẫn là công cụ để thiết lập trật
tự xã hội có hiệu lực bắt buộc và được kiểm soát, đảm bảo thực hiện bởi quyền lực nhà
nước. Ngoài ra, điều cốt lõi đặt ra cho quan niệm về pháp luật đó chính là hệ thống các
quy phạm pháp luật do nhà nước ban hành hay thừa nhận trên cơ sở ghi nhận các nhu
cầu, lợi ích của toàn xã hội.
1. Cho biết quan niệm về pháp luật của tác giả bài viết có điểm gì giống và khác so
với kiến thức môn Lý luận nhà nước và pháp luật
Điểm giống:
- Pháp luật có thể được nhận thức từ rất nhiều góc độ, cách thức khác nhau và bởi các
chủ thể khác nhau.
- Pháp luật là cái phản ánh cái đang tồn tại, cái có sẵn hay pháp luật là cái cần phải có.
- Trình bày về bản chất, quan niệm về pháp luật có tầm quan trọng đặc biệt trong số
phận phạm trù cơ bản của luật pháp.
- Định nghĩa về pháp luật như là hệ thống các quy tắc xử sự chung do nhà nước đặt ra
hay thừa nhận.
- Mỗi định nghĩa pháp luật mang tính chính thức, phù hợp với tình hình hiện nay.
- Pháp luật tồn tại và phát triển trên cả ba lĩnh vực: hệ thống các quy phạm pháp luật, tư
tưởng pháp luật, ý thức pháp luật và văn hóa pháp luật, thực tiễn pháp luật.
- Bản chất của pháp luật gồm hai phương diện cấu thành: phương diện giai cấp và
phương diện xã hội.
- Pháp luật bảo đảm thực hiện để điều chỉnh các quan hệ xã hội nhằm thiết lập trật tự xã
hội.
Điểm khác:
- Pháp luật thể hiện ý chí của nhà nước.
- Nhà nước có thể dùng biện pháp cưỡng chế để đảm bảo cho pháp luật được thực hiện.
- Được thể hiện dưới những hình thức nhất định: pháp luật tập quán, pháp luật án lệ, văn
bản quy phạm pháp luật.
- Là những quy phạm cụ thể, hiện hữu, xác định, thể hiện rõ ràng, chúng được ban hành
để điều chỉnh các quan hệ xã hội trong một phạm vi xác định.
- Là phương tiện để công dân thực hiện bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình

11.Bài viết:“Một số suy nghĩ về mối quan hệ giữa pháp luật và đạo đức trong hệ
thống điều chỉnh xã hội”,Hoàng Thị Kim Quế, Tạp chí Nhà nước và Pháp luật
số 7/1999
Bài viết “Một số suy nghĩ về mối quan hệ giữa pháp luật và đạo đức trong hệ thống điều
chỉnh xã hội” của tác giả Hoàng Thị Kim Quế đã cho thấy được mối quan hệ giữa pháp luật và
đạo đức ở nhiều khía cạnh khác nhau. Bên cạnh đó, mối quan hệ này được xem là một trong
những nghiên cứu cơ bản của khoa học pháp lý bởi lẽ như Đảng ta đã khẳng định “Quản lý xã
hội bằng pháp luật, đồng thời coi trọng giáo dục, nâng cao đạo đức”.
Vấn đề đầu tiên được tác giả đề cập đến chính là vị trí, vai trò của pháp luật và đạo đức trong
hệ thống các quy phạm điều chỉnh xã hội. Quan điểm đánh giá tổng thể và có hệ thống về pháp
luật là quan điểm mà theo đó phải đặt pháp luật trong mối tương quan với các quy phạm xã hội
khác. Trong hệ thống các quy phạm điều chỉnh xã hội, pháp luật và đạo đức giữ vị trí trung tâm,
có vai trò quan trọng nhất. Phạm vi điều chỉnh của pháp luật và đạo đức luôn bao quát tất cả các
lĩnh vực quan hệ xã hội. Những hoạt động, hành vi hằng ngày của mỗi cá nhân thường chịu sự
điều chỉnh của pháp luật và đạo đức.
Đạo đức được thể hiện trong tất cả quy phạm xã hội và tuỳ vào những điều kiện khác nhau
mà có mức độ khác nhau. Nói một cách phổ quát nhất thì đạo đức chính là tổng thề những
nguyên tắc, quan niệm, chuẩn mực xã hội về điều thiện, điều ác, về danh dự, lương tâm, lẽ công
bằng, vinh, nhục… Đạo đức luôn luôn gắn gắn với con người, với xã hội loài người. Ở đâu có
con người thì ở đấy sẽ xuất hiện quan hệ đạo đức, đạo đức. Vai trò của những yếu tố đạo đức tỉ
lệ thuận với sự phát triển của xã hội loài người. Hơn thế, mọi hành vi con người không những
đều phải được đánh giá từ tiêu chí đạo đức mà bên cạnh đó còn có sự điều chỉnh, bổ sung từ
pháp luật. Pháp luật luôn sẵn sàng hỗ trợ và bảo vệ các lợi ích mà các quy phạm xã hội khác điều
chỉnh, tuy nhiên pháp luật không thể điều chỉnh mọi quy phạm xã hội, môi quy phạm xã hội đều
có những ưu điểm và nhược điểm nên pháp luật khó có thể tác động đến các quan hệ tư tưởng và
tình cảm.
Thứ hai là sự thống nhất giữa pháp luật và đạo đức. Pháp luật và đạo đức đều có chức năng
chung là điều chỉnh hành vi của con người và các mối quan hẹ xã hội. Cả hai luôn hướng tới sự
công bằng, cái đúng, cái thiện, luôn bảo vệ con người và đều vì thiết lập nên những trật tự tốt
đẹp xây dựng xã hội, loại bỏ đi những thứ tiêu cực, cản trở sự phát triển của con người và xã hội.
Giúp mỗi cá nhân hình thành nên những suy nghĩ, nhận thức hành động đúng đắn, phân biệt
trắng đen. Đồng thời, đạo đức chính là cơ sở giúp xây dựng và áp dụng pháp luật, những quan
niệm về lẽ sống, hạnh phúc, lương tâm, công bằng hay nhân đạo góp phần quan trọng trong việc
xét xử, đưa ra quyết định của các cơ quan có thẩm quyền. Ngoài ra, thái độ, sự đánh giá, sự cảm
nhận, cách xử lý đối với hành vi của con người còn thể hiện sự thống nhất giữa đạo đức và pháp
luật.
Tiếp theo là sự khác biệt giữa pháp luật và đạo đức. Pháp luật và đạo đức tuy có quan hệ mật
thiết nhưng chúng không loại trừ nhau, không thể thay thế lẫn nhau. Về phạm vi điều chỉnh, có
những lĩnh vực quan hệ xã hội mà pháp luật không thuộc phạm vi điều chỉnh của đạo đức và
không phải bất kỳ vi phạm đạo đức nào cũng vi phạm pháp luật, phạm vi điều chỉnh của đạo đức
rộng hơn. Đạo đức thuộc yếu tố tinh thần không thể tách khỏi bản thân con người, còn pháp luật
chủ yếu điều chỉnh những mối quan hệ xã hội quan trọng, liên quan mật thiết đến sự tồn vong,
trật tự, an ninh của một quốc gia. Về hỉnh thức và mức độ thể hiện, pháp luật có mức độ thể hiện
cụ thể và chi tiết hơn so với đạo đức, pháp luật được thể hiện trong các văn bản giấy trắng mực
đen, đề cập trực tiếp đến mối quan hệ. Đạo đức thể hiện đa dạng và phổ quát hơn, thường tồn tại
chủ yếu dưới dạng bất thành văn, ca dao, tục ngữ, phong tục,…Bên cạnh đó, đạo đức thường đề
cập nhiều đến bổn phận hơn là quyền. Pháp luật sẽ điều chình hành vi con người theo quy định
của pháp luật, còn đạo đức sẽ điều chỉnh dựa trên cảm xúc, quan niệm, chuẩn mực. Về phương
pháp đảm bảo thực hiện, đạo đức thực hiện dựa vào những yếu tố kích thích nội tâm bên trong
con người. Ngược lại, pháp luật thực hiện bằng các hoạt động tổ chức, thuyết phục và cưỡng chế
Nhà nước, sự tự giác của con người trên nhận thức.
Cuối cùng là sự tác động qua lại giữa đạo đức và pháp luật, sự tác động biện chứng này được
thể hiện ở vai trò của pháp luật đối với đạo đức và ngược lại. Pháp luật được xây dựng, ban hành
nhất định phải dựa trên cơ sở đạo đức, phải lấy đạo đức làm gốc và phải phù hợp với đạo đức .
Pháp luật vừa bảo vệ và phát huy những nguyên tắc, chuẩn mực của đạo đức nhưng cũng vừa
hạn chế, loại bỏ những quan điểm đạo đức tiêu cực, lỗi thời, cổ hủ. Đạo đức là cơ sở, là môi
trường thuận lợi để tiếp thu, cảm nhận và thực hiện pháp luật. Pháp luật phải phù hợp với đạo
đức, không trái với đạo đức và đạo đức là phương tiện hỗ trợ, bổ sung cho pháp luật.
Tóm lại, mối quan hệ giữa đạo đức và pháp luật luôn gắn bó mật thiết với nhau, cả hai đều
luôn hỗ trợ, bổ sung cho nhau. Muốn quản lý tốt xã hội thì phải có sự kết hợp giữa pháp luật và
đạo đức.
1. Điểm giống và khác nhau trong quan điểm của tác giả Hoàng Thị Kim Quế
về mối quan hệ giữa đạo đức và pháp luật so với cách hiểu về những vấn đề tương
tự mà em đã được học trong môn học Lý luận chung về nhà nước và pháp luật.
- Điểm giống: đều cho rằng mối quan hệ giữa pháp luật và đạo đức là một mối
quan hệ mật thiết, bổ sung, hỗ trợ lẫn nhau, vừa thống nhất, vừa mâu thuẫn. Đạo đức là
cơ sở để xây dựng và ban hành pháp luật, ngược lại pháp luật giúp củng cố, bảo vệ, phát
huy những giá trị đạo đức tốt đẹp và loại bỏ những giá trị đạo đức cổ hủ, lỗi thời.
- Điểm khác: Tác giả không đề cập tới sự khác biệt chủ thể ban hành đạo đức và
pháp luật.
12. Bài viết: “Nhận thức về mối quan hệ giữa pháp luật với đạo đức”, Nguyễn Văn
Năm, Tạp chí Luật học, số 4/2006.
Để điều chỉnh hành vi con người có rất nhiều công cụ khác nhau, trong đó nổi bật nhất là
pháp luật và đạo đức.
Đạo đức là một khái niệm mang những ý nghĩa như nói lên những phẩm chất tốt đẹp của con
người, hay cũng có thể được hiểu là nhân cách, đức hạnh, phẩm hạnh. Những phẩm chất tốt đẹp
ấy được hình thành nên sau quá trình tu dưỡng, rèn luyện theo chuẩn mực đạo đức xã hội.
Pháp luật là tập hợp các quy định và quy tắc được nhà nước thiết lập hoặc công nhận để thể
hiện quan điểm và quan niệm của nhà nước, đồng thời đảm bảo việc thực thi chúng.

Pháp luật và đạo đức là hai khái niệm không thể tách rời, chúng vừa có sự thống
nhất .vừa có sự khác biệt và hai khái niệm này luôn có sự tác động qua lại, ảnh hưởng
lẫn nhau.

Những đặc điểm giống nhau giữa pháp luật và đạo đức:

- Đều giữ vai trò quan trọng đảm bảo cho xã hộ tồn tại và phát triển trong ổn
định, trật tự

- Đều mang tính quy phạm phổ biến, là những khuôn mẫu, chuẩn mực cho hành
vi con người

- Luôn có sự phù hợp ở mức độ nhất định

- Đều thuộc phạm trù xã hội, phản ánh tồn tại xã hội trong những giai đoạn phát
triển nhất định của lịch sử

- Trong xã hội có giai cấp, pháp luật và đạo đức vừa mang tính giai cấp vừa
mang tính xã hội.
Những điểm khác nhau giữa pháp luật và đạo đức:

Pháp luật Đạo đức

Con đường hình - Thông qua hoạt động - Tự phát trong đời sống chung
thành xây dựng nhà nước của cộng đồng
Hình thức thể hiện - Thành văn và không - Không thành văn: tục ngữ, ca
thành văn dao, phong tục, tập quán…
- Phổ biến dưới hình thức - Thành văn: các kinh, sách tôn
văn bản quy phạm pháp giáo, chính trị, văn học,….
luật - Đa dạng

Tính xác định về - Chặt chẽ - Không chặt chẽ


hình thức - Xác định được chủ thể - Mang tính khái quát
trong các điều kiện, hoàn - Không nêu ra các biện pháp
cảnh chế tài
- Nêu rõ hậu quả sẽ phải
gánh chịu

Phạm vi điều chỉnh - Chỉ điều chỉnh những - Rộng hơn pháp luật
quan hệ xã hội bị chi phối - Tất cả quan hệ xã hội mà chủ
bởi ý chí, lí trí, những thể của nó là những người có ý
quan hệ xã hội có tầm chí, lí trí, tình cảm,
quan trọng nhất định đối
với đời sống xã hội

Cách thức điều - Xác định quyền, nghĩa - Xác định những nghĩa vụ, bổn
chỉnh vụ cho chủ thể phận cho chủ thể

Cơ chế điều chỉnh - Do nhà nước tiến hành - Do nhiều chủ thể khác nhau
tiến hành

Biện pháp đảm bảo - Biện pháp nhà nước: - Yếu tố kích thích nội tâm của
thực hiện cưỡng chế, con người.

Sự tác động qua lại giữa pháp luật và đạo đức


- Sự tác động của pháp luật lên đạo đức:
+ Pháp luật ghi nhận những quan niệm, chuẩn mực đạo đức mà trước hết là giai
cấp thống trị
+ Pháp luật loại trừ những quan điểm, đạo đức lạc hậu, trái với giai cấp thống trị
+ Pháp luật góp phần ngăn chặn sự thoái hóa, xuống cấp của đạo đức, những
hành vi trái với thuần phong mĩ tục.
- Sự tác động của đạo đức lên pháp luật:
+ Đạo đức tác động đến việc hình thành các quan điểm, hệ thống pháp luật: nhà
nước thể chế hóa các quan điểm, tập quán thành pháp luật, tập quán pháp. Ảnh hưởng
mạnh mẽ nhất chính là đạo đức của giai cấp thống trị, giai cấp khác vẫn có nhưng ảnh
hưởng hạn chế.
+ Đạo đức tác động đến việc thực hiện pháp luật của các chủ thể: mỗi người đều
có đạo đức cá nhân khác nhau, do đó tùy vào mỗi người mà việc áp dụng pháp luật có
nghiêm chỉnh và đúng đắn không.

1. So sánh quan điểm về mối quan hệ giữa pháp luật và đạo đức trong bài
11,12.
Điểm giống
- Cả hai tác giả đều đề cập đến điểm giống, khác và sự tác động qua lại lẫn nhau giữa
pháp luật và đạo đức. Cả hai tác giả đều có chung quan điểm là pháp luật và đạo đức là
hai quy phạm có vị trí và vai trò quan trọng nhất đối với các quan hệ xã hội.
+ Sự thống nhất: pháp luật và đạo đức đều thuộc kiến trúc thượng tầng, có phạm vi
điều chỉnh rộng, bao quát tất cả các quan hệ xã hội
+ Sự khác biệt: cả hai tác giả đều cho rằng pháp luật và đạo đức có hình thức biểu
hiện khác nhau. Đạo đức đề cập đến bổn phận nhiều hơn quyền, đạo đức không tồn tại
hoặc ít tồn tại các biện pháp chế tài. Về phương pháp thực hiện, đạo đức nhờ vào yếu tố
kích thích từ nội tâm con người và dư luận xã hội. Pháp luật được đảm bảo thực hiện
bằng các biện pháp nhà nước.
+ Sự tác động qua lại: cả hai tác giả đều nhận định pháp luật được xây dựng trên
cơ sở đạo đức. Pháp luật vừa là công cụ vừa là phương tiện phát huy, bảo vệ, củng cố
các giá trị đạo đức có ích, tích cực và loại bỏ đi các giá trị đạo đức tiêu cực, lỗi thời, cổ
hủ, phản tiến bộ. Pháp luật và đạo đức có mối quan hệ tác động qua lại hỗ trợ, bổ sung
lẫn nhau.
Điểm khác
Tiêu chí Bài viết của tác giả Hoàng Thị Bài viết của tác giả Nguyễn
Kim Quế Văn Năm
Hình thức - Thành văn - Thành văn và bất thành văn
biểu hiện
của pháp
luật
Phạm vi - Đạo đức điều chỉnh các quan - Đạo đức điều chỉnh tất cả các
điều chỉnh hệ xã hội trực tiếp thể hiện tính quan hệ xã hội mà chủ thể là
chất hành vi của con người, con người có ý chí, lí trí, tình
những hành vi có thể đánh giá cảm.
từ phương diện, theo quan điểm
đạo đức.
Sự tác - Làm rõ hơn vai trò của đạo
động qua đức đối với pháp luật
lại giữa
pháp luật
và đạo đức

13. Bài viết: Pháp luật và đạo đức xã hội, Nguyễn Thị Ngọc Mai, Tạp chí Khoa học
pháp lý, số 4 (116), 2018
1. Khái quát chung về pháp luật và đạo đức xã hội.
Pháp luật là một hệ thống các quy tắc ứng xử bắt buộc chung được nhà nước thiết lập
hoặc thừa nhận. Nó thể hiện ý chí của giai cấp thống trị và nhằm mục đích điều chỉnh
các quan hệ xã hội nhằm mục đích duy trì trật tự và ổn định xã hội. Pháp luật là công cụ
quan trọng để quản lý xã hội nhưng nó không phải là công cụ duy nhất để điều chỉnh
mọi quan hệ xã hội. Các chuẩn mực khác, bao gồm cả đạo đức, cũng đóng một vai trò
quan trọng trong việc hướng dẫn hành vi của con người và các mối quan hệ trong cộng
đồng. Đạo đức, là những tiêu chuẩn và nguyên tắc được dư luận công nhận, có ảnh
hưởng chủ yếu đến việc hình thành hành vi của con người trong các mối tương tác với
xã hội.
2. Những điểm giống nhau cơ bản giữa pháp luật và đạo đức.
Luật pháp và đạo đức có những điểm tương đồng như các công cụ và tiêu chuẩn điều
chỉnh xã hội đối với hành vi cá nhân và tổ chức. Cả hai đều dựa trên bối cảnh kinh tế xã
hội nơi chúng xuất hiện. Ngoài ra, trong nhiều trường hợp, cả luật pháp và đạo đức đều
phục vụ lợi ích của giai cấp thống trị và toàn xã hội. Thường có sự chồng chéo giữa luật
pháp và đạo đức, trong đó nhà nước công nhận và đưa các quy tắc đạo đức vào luật khi
chúng phù hợp với nhu cầu xã hội. Phạm vi điều chỉnh của pháp luật và đạo đức thường
gắn liền với nhau trong nhiều trường hợp.

3. Những điểm khác nhau cơ bản giữa pháp luật và đạo đức xã hội.
Về nguồn gốc: Đạo đức được hình thành một cách tự phát trong đời sống xã hội của các
cá nhân và được xã hội tự nguyện tuân theo. Mặt khác, luật pháp ra đời cùng với sự ra
đời của nhà nước và sự phát triển của xã hội đến một trình độ nhất định.
Về hình thức thể hiện: Những quy tắc đạo đức thường bất thành văn và được truyền qua
nhiều thế hệ, trong khi luật pháp do nhà nước ban hành lại có hình thức nhất định và
thay đổi tùy theo từng thời kỳ lịch sử, từng bang khác nhau.
Về phạm vi tác động: Đạo đức có phạm vi tác động rộng hơn so với pháp luật vì nó ảnh
hưởng đến nhiều hành vi ứng xử của con người ngoài quy định của pháp luật.
Về cơ chế áp dụng và điều chỉnh: Pháp luật quy định quyền và nghĩa vụ cụ thể của các
chủ thể tham gia quan hệ pháp luật, trong khi các quy tắc đạo đức chủ yếu điều chỉnh
nghĩa vụ. Cơ chế điều chỉnh pháp luật có sự tham gia của nhiều yếu tố và cá nhân nên
phức tạp. Các chuẩn mực đạo đức dựa trên sự tự nhận thức và điều chỉnh hành vi của cá
nhân.
Về biện pháp bảo đảm thực hiện: Các quy định pháp luật được nhà nước bảo đảm thông
qua các biện pháp như tuyên truyền, giáo dục, cưỡng chế của nhà nước. Mặt khác, các
chuẩn mực đạo đức dựa vào các biện pháp xã hội để thực hiện và thường thiếu các biện
pháp trừng phạt chính thức.
Nhìn chung, mặc dù luật pháp và đạo đức có một số điểm tương đồng trong vai trò là
công cụ điều chỉnh xã hội nhưng chúng khác nhau về nguồn gốc, hình thức thể hiện,
phạm vi tác động, khả năng áp dụng và cơ chế điều chỉnh cũng như các biện pháp bảo
đảm thực hiện.
4. Mối quan hệ giữa pháp luật và đạo đức xã hội.
Thứ nhất, pháp luật thường dựa trên đạo đức xã hội. Khi các tiêu chuẩn pháp lý phù hợp
với các giá trị đạo đức của xã hội, chúng sẽ có nhiều khả năng được chấp nhận, thực
hiện và duy trì hơn. Đạo đức xã hội và các giá trị mà mỗi cá nhân nắm giữ tạo thành nền
tảng vững chắc giúp duy trì trật tự và ổn định xã hội.
Thứ hai, luật pháp thường xuyên lồng ghép các chuẩn mực đạo đức vào khuôn khổ của
nó. Nhà nước lựa chọn chuẩn mực đạo đức nào phù hợp với lợi ích của giai cấp thống trị
và nhu cầu phát triển xã hội. Bằng cách này, luật pháp có thể bảo vệ và củng cố những
quan điểm và tư tưởng đạo đức tích cực của dân tộc.
Thứ ba, luật pháp có thể góp phần hình thành những quan điểm và chuẩn mực đạo đức
mới. Khi luật pháp được thiết lập để duy trì trật tự và phát huy các giá trị đạo đức, chúng
có thể định hình và ảnh hưởng đến hành vi xã hội. Trong nhiều trường hợp, có sự thống
nhất giữa luật pháp và các chuẩn mực đạo đức về phạm vi và mục đích của quy định.
Điều này có nghĩa là việc tuân thủ các tiêu chuẩn đạo đức thường đi đôi với việc tuân
thủ pháp luật.

5. Một số kiến nghị nhằm nâng cao hiệu quả điều chỉnh các quan hệ xã hội của
pháp luật và đạo đức
Điều quan trọng là phải hiểu vai trò của pháp luật và đạo đức trong xã hội. Luật pháp
cung cấp khuôn khổ chính thức cho quy định và giải quyết tranh chấp, trong khi đạo đức
hướng dẫn hành vi cá nhân và xã hội. Để thúc đẩy một xã hội công bằng và đạo đức, cần
phát triển và hoàn thiện hệ thống pháp luật, thiết lập các chuẩn mực đạo đức phù hợp và
nâng cao nhận thức cá nhân. Hơn nữa, việc thúc đẩy phổ biến pháp luật và giáo dục đạo
đức là rất quan trọng trong việc nâng cao kiến thức pháp luật và thúc đẩy một nền tảng
đạo đức mạnh mẽ trong cộng đồng.

Điểm giống nhau về kiến thức lý luận


- Khái niệm pháp luật: Pháp luật là một hệ thống các quy tắc ứng xử bắt buộc chung
được nhà nước thiết lập hoặc thừa nhận. Nó thể hiện ý chí của giai cấp thống trị và
nhằm mục đích điều chỉnh các quan hệ xã hội nhằm mục đích duy trì trật tự và ổn định
xã hội. Pháp luật là công cụ quan trọng để quản lý xã hội nhưng nó không phải là công
cụ duy nhất để điều chỉnh mọi quan hệ xã hội. Các chuẩn mực khác, bao gồm cả đạo
đức, cũng đóng một vai trò quan trọng trong việc hướng dẫn hành vi của con người và
các mối quan hệ trong cộng đồng.
- Những điểm giống nhau cơ bản giữa pháp luật và đạo đức: là công cụ điều chỉnh hành
vi của mỗi cá nhân và xã hội.
- Những điểm khác nhau cơ bản giữa pháp luật và đạo đức:
● Nguồn gốc ra đời.
● Hình thức thể hiện.
● Phạm vi tác động.
● Cơ chế áp dụng và điều chỉnh.
● Biện pháp bảo đảm thực hiện.
- Mối quan hệ giữa pháp luật và đạo đức:
● Pháp luật thường dựa trên đạo đức xã hội.
● Luật pháp và đạo đức thường lồng ghép vào nhau.
● Luật pháp có thể góp phần hình thành những quan điểm và chuẩn mực đạo đức mới.
Điểm khác nhau về kiến thức lý luận
- Chỉ ra những kiến nghị nhằm làm cân bằng giữa pháp luật và đạo đức.

14. Bài viết: “Tập tục và pháp luật”, Nguyễn Minh Đoan, Tạp chí Nghiên cứu lập
pháp, số 12/2003
Các thuật ngữ tiếng Việt như "tập quán", "phong tục", "luật tục" và "tập tục" mô tả
những hành vi lặp đi lặp lại tạo nên thói quen được xã hội công nhận và tuân theo. "Tập
quán" chỉ ra thói quen của cá nhân hoặc cộng đồng theo thời gian, với tính bắt buộc
thấp. "Phong tục" biểu hiện truyền thống xã hội có ý nghĩa sâu sắc, nghiêm ngặt và có
thể thực hiện thông qua các hình phạt nghiêm trọng. "Luật tục" đề cập đến các quy ước
gần giống như luật pháp nhưng không phải là luật pháp thực sự, có tính bắt buộc và
được thực hiện bởi cộng đồng. "Tập tục" là một thuật ngữ tổng quát, đại diện cho cả thói
quen và truyền thống. Nó nhấn mạnh tính hoán đổi giữa truyền thống và thói quen, đặc
biệt là sự phát triển của chúng.
Khái niệm "hương ước" biểu thị các quy ước và quy tắc làng xã về nhiều khía cạnh của
cuộc sống cộng đồng. Nó bao gồm các quy định về sản xuất, bảo vệ môi trường, tổ chức
xã hội, an ninh, thờ cúng, giáo dục và nghĩa vụ nhà nước, thường đi kèm với thưởng
phạt đa dạng. Theo thời gian, tập tục đã đóng một vai trò quan trọng trong cuộc sống
cộng đồng, làm chuẩn mực cho hành vi con người. Tuy nhiên, với sự phát triển của xã
hội và sự can thiệp ngày càng nhiều từ nhà nước, vai trò của tập tục đã thu hẹp lại và tự
do trong việc thiết lập chúng giảm bớt. Sự xuất hiện lại của "hương ước" mới trong nền
đương đại Việt Nam, dưới sự lãnh đạo của Đảng và Nhà nước, đóng góp vào việc khôi
phục và thúc đẩy những tập tục tích cực, đặc biệt là ở những khu vực nơi ảnh hưởng của
pháp luật còn hạn chế. Trong những khu vực này, tập tục tiếp tục quy định mối quan hệ
xã hội, đặc biệt là trong các lĩnh vực như tranh chấp tài sản, giải quyết nợ, hôn nhân và
gia đình.

"Tập tục" bao gồm các quy ước toàn diện quản lý nhiều khía cạnh của cuộc sống xã hội,
tập trung vào các quy tắc, quy định và kỳ vọng về hành vi. Những thực hành này, bắt
nguồn từ đời sống cộng đồng, bao gồm các vấn đề dân sự, quyền sở hữu đất đai, thừa
kế, điều kiện hôn nhân và hành vi xã hội. Việc thực hiện những thực hành này liên quan
đến các biện pháp như hậu quả về mặt kinh tế và danh dự, với các hình thức phạt thường
là gia súc. Những lãnh đạo cộng đồng được tôn trọng thường tổ chức và thực hiện
những thực hành quen thuộc này, đồng thời đặc biệt được sự ủng hộ rộng rãi. Mặc dù
những thực hành này nhằm mục đích tốt đẹp, một số cộng đồng vẫn giữ những tập tục
tiến bộ. Tập tục được coi là công cụ điều chỉnh trong tự quản lý cộng đồng, đôi khi làm
trở ngại cho việc thực hiện pháp luật của nhà nước. Tập tục được phổ biến thông qua
các lễ hội và hoạt động giải quyết tranh chấp và được xem là những tiêu chuẩn thiêng
liêng. Trong việc giải quyết tranh chấp, tập tục thường là lựa chọn đầu tiên, và việc tuân
thủ của chúng không chỉ giới hạn cho những cá nhân liên quan mà còn bao gồm trách
nhiệm của gia đình và cộng đồng, được gọi là "trách nhiệm liên đới."
Một số người hiểu lầm khi quá đánh giá vai trò của luật pháp được ban hành một cách tỷ
mỉ và công bằng trong việc duy trì trật tự xã hội, coi thấp vai trò của tập tục và các công
cụ điều chỉnh khác. Họ không nhận ra rằng tập tục, được coi là "luật dân gian" hoặc
"luật tự nhiên," tồn tại trước hệ thống pháp luật và đóng vai trò quan trọng trong việc
điều chỉnh các mối quan hệ xã hội. Mặc dù pháp luật thay thế một số khía cạnh của tập
tục, nhưng không hoàn toàn thay thế chúng trong việc điều chỉnh các quan hệ xã hội.
Pháp luật, mặc dù được một số người coi là vô song, nhưng không được chấp nhận một
cách toàn diện và không thể giải quyết mọi vấn đề. Trong thực tế, có những trường hợp
người đại diện chính quyền đã giải quyết theo pháp luật nhưng nhân dân không đồng
tình. Họ đưa ra giải pháp kết hợp giữa pháp luật và tập tục để có kết quả nhanh chóng và
các bên dễ chấp nhận. Do đó, được đề xuất sự kết hợp hài hoà giữa cả hai hệ thống pháp
luật và tập tục, đặc biệt là đối với các dân tộc ít người nơi tập tục có ảnh hưởng đáng kể
đến lối sống của họ. Mối quan hệ giữa tập tục và pháp luật thể hiện trên ba khía cạnh là
xây dựng pháp luật, thực hiện pháp luật và hoạt động xét xử.

Theo quan điểm của chúng tôi, Nhà nước nên thực hiện việc thu thập và bảo tồn có hệ
thống những tập tục quan trọng và có giá trị đang tồn tại trên khắp cả nước. Điều này
bao gồm việc lựa chọn và bảo tồn những tập tục có ích, loại bỏ những tập tục có hại và
khuyến khích phát triển những tập tục mới phù hợp với đời sống và bản sắc văn hoá dân
tộc trong thời đại mới. Quá trình thu thập có thể diễn ra trên nhiều quy mô khác nhau, từ
cấp khu vực đến cấp tỉnh. Việc tổng hợp những tập tục này giúp cho việc áp dụng chúng
bởi cơ quan xét xử trở nên thuận tiện mỗi khi cần giải quyết một vụ án cụ thể. Chú trọng
vào việc xây dựng những hương ước mới là rất quan trọng, đảm bảo rằng những tập tục
mới này dần dần trở thành văn bản "luật của cộng đồng", hỗ trợ tích cực cho công tác
quản lý của nhà nước thông qua pháp luật. Đề xuất rằng những tập tục tích cực và
truyền thống văn hoá, nếu được coi là phù hợp, nên được đưa vào hương ước thay vì chỉ
giới hạn trong các quy định pháp luật cụ thể. Tăng cường vị thế của những người đứng
đầu cộng đồng liên quan đến việc áp dụng cả nguyên tắc pháp luật và tập tục để giải
quyết nhiều vấn đề trong cộng đồng là rất quan trọng. Những người này, như các cụ
làng hay trưởng thôn, cần có uy tín, hiểu biết về tập tục địa phương, đạo đức cao, hiểu
biết về chính sách Đảng và pháp luật của Nhà nước, cũng như khả năng giải quyết tranh
chấp và xung đột một cách công bằng, đồng thời khuyến khích và tập trung nhân dân địa
phương thực hiện những hoạt động của cộng đồng phù hợp với chính sách Đảng và
pháp luật.
Điểm giống nhau về kiến thức lý luận:
- Khái niệm tập quán và tập quán pháp: "Tập quán" chỉ ra thói quen của cá nhân hoặc
cộng đồng theo thời gian, với tính bắt buộc thấp. "Phong tục" biểu hiện truyền thống xã
hội có ý nghĩa sâu sắc, nghiêm ngặt và có thể thực hiện thông qua các hình phạt nghiêm
trọng. "Luật tục" đề cập đến các quy ước gần giống như luật pháp nhưng không phải là
luật pháp thực sự, có tính bắt buộc và được thực hiện bởi cộng đồng. "Tập tục" là một
thuật ngữ tổng quát, đại diện cho cả thói quen và truyền thống.
Điểm khác nhau về kiến thức lý luận:
- Chỉ rõ hơn về những khái niệm, nguồn gốc xuất hiện và nội dung cơ bản của “tập tục”
như “hương ước”: Khái niệm "hương ước" biểu thị các quy ước và quy tắc làng xã về
nhiều khía cạnh của cuộc sống cộng đồng. Nó bao gồm các quy định về sản xuất, bảo vệ
môi trường, tổ chức xã hội, an ninh, thờ cúng, giáo dục và nghĩa vụ nhà nước, thường đi
kèm với thưởng phạt đa dạng. Sự xuất hiện lại của "hương ước" mới trong nền đương
đại Việt Nam, dưới sự lãnh đạo của Đảng và Nhà nước, đóng góp vào việc khôi phục và
thúc đẩy những tập tục tích cực, đặc biệt là ở những khu vực nơi ảnh hưởng của pháp
luật còn hạn chế.
- Những biện pháp Nhà nước thực hiện để phát huy và bảo tồn những tập tục quan trọng
như:
● Lựa chọn và bảo tồn những tập tục có ích, loại bỏ những tập tục có hại và khuyến khích
phát triển những tập tục mới phù hợp với đời sống và bản sắc văn hoá dân tộc trong thời
đại mới.
● Đề xuất rằng những tập tục tích cực và truyền thống văn hoá, nếu được coi là phù hợp,
nên được đưa vào hương ước thay vì chỉ giới hạn trong các quy định pháp luật cụ thể.

15. Lê Vương Long trong bài viết: “Pháp luật và tập quán trong điều chỉnh quan hệ
xã hội”, Tạp chí Luật học, số 2/2001
Trong quá trình nghiên cứu về pháp luật, thạc sĩ Lê Vương Long đã nhận thấy một
số yếu tố quan trọng để đảm bảo tính hợp pháp, hợp lí của pháp luật thì cần xét đến mối
quan hệ hữu cơ với hiện tượng xã hội. Gồm có mối quan hệ và tập quán.
Tập quán được xem như một “loại pháp luật”. Vì tập quán được dựa trên các hoạt
động sống hằng ngày của loài người, hình thành dựa trên thói quen và dần trở thành một
“quy luật ngầm” được mọi người tuân theo. Tập quán được chia thành nhiều loại, tùy
thuộc vào các cấp độ khác nhau như cá nhân, tập thể (làng, xóm, tôn giáo,..) hoặc xã hội
có ý nghĩa khác nhau. Tập quán cá nhân và tập quán xã hội không có nghĩa phải thống
nhất mà đôi khi lại có sự khác nhau về nội dung, mục đích, giá trị của sự điều chỉnh.
Tập quán mang tính quy phạm thể hiện qua việc đảm bảo hành vi của cá nhân hoặc cộng
đồng vận hành trong trật tự nhất định và tính phổ biến qua việc bắt buộc chung với
nhiều người, chi phối lối sống thậm chí là các hoạt động xã hội của từng cá nhân.
Pháp luật và tập quán trong đời sống xã hội có giai cấp là các công cụ điều chỉnh xã
hội, đảm bảo quyền lợi cho giai cấp cầm quyền. Xét về phạm vi của tính phổ biến, pháp
luật rộng hơn tập quán và đồng thời cũng linh hoạt hơn. Tập quán vẫn còn mang tính
bảo thủ tồn tại dưới dạng truyền miệng, không cụ thể về nội dung dẫn đến quá trình áp
dụng cứng nhắc và thụ động.
Với nền văn minh lúa nước, lối sống quần cư đã chứng minh rằng tập quán là một
trong những yếu tố góp phần tạo nên nền văn hóa nước nhà trong lịch sử. Tập quán đã
góp phần thúc đẩy việc xác lập các hành vi hợp pháp trong giai đoạn hiện nay. Song, nó
vẫn có thể là yếu tố cản trở quá trình đó. Pháp luật và tập quán có thể “chung sống” với
nhau trong các khả năng, trạng thái của quá trình điều chỉnh xã hội:
Một là, tập quán được nhà nước thừa nhận và trở thành quy phạm pháp luật. Lúc
này, tập quán sẽ được gọi là tập quán pháp khi đáp ứng đủ các điều kiện (phải hữu ích,
được sử dụng rộng rãi trong đời sống, phù hợp với truyền thống dân tộc, điều kiện kinh
tế xã hội hiện tại và những thủ tục cần thiết trong xây dựng pháp luật). Thực tế, việc
thừa nhận tập quán pháp vẫn chưa được thực thi ở nước ta.
Hai là, các tập quán tốt đẹp phù hợp với truyền thống dân tộc được bảo vệ bởi nhà
nước. Bằng cách xây dựng môi trường pháp lý cho sự phát triển thuận lợi trong đời sống
xã hội của các tập quán này.
Ba là, tập quán sử dụng để giải quyết các vụ việc trong trường hợp pháp luật không
quy định (xem Điều 14 BLDS). Tập quán được áp dụng ở đây mang tính cá biệt, độc lập
cho mỗi trường hợp.
Khái quát lại, trong mỗi lĩnh vực trong xã hội đều thấy được mức độ gắn bó giữa
pháp luật và tập quán có sự khác nhau ở một vài điểm. Và khả năng tương hợp giữa tập
quán pháp và pháp luật cao hơn so với các tập quán khác. Để có thể trình bày rõ quan
điểm này phải phân tích một số quy định liên quan trong Bộ luật dân sự nước ta tại một
số điều (Điều 4, Điều 14, khoản 2 Điều 135, khoản 5 Điều 408, Điều 250, khoản 4 Điều
629). Dẫu vậy, vẫn có trường hợp tương khắc xảy ra. Nguyên do là những tập tục (gọi
tắt của tập quán và phong tục) đã trở thành hủ tục ảnh hưởng đến lối sống mới của cộng
đồng tại khoản 1 Điều 749 BLDS. Nhìn chung, sự tương hợp hay tương khắc giữa pháp
luật và tập quán pháp trong điều chỉnh quan hệ xã hội có thể xảy ra trên các góc độ:
pháp luật quốc gia và tập quán dân tộc, pháp luật quốc gia và tập quán quốc tế…Vấn đề
này thể hiện tại điều 828 BLDS, khoản 4 Điều 827 BLDS; chỉ thị số 24-CT/TTG; Nghị
quyết số 03-NQ/TƯ
Suy cho cùng, việc áp dụng tập quán trong pháp luật vẫn còn cần rất nhiều sự quan
tâm, trao đổi và thống nhất về một số quy định. Sự tương hợp giữa pháp luật và tập quán
chỉ có thể đem lại hiệu quả nếu chúng ta sử dụng tập quán pháp là một công cụ bổ sung,
đảm bảo quyền và lợi ích của công dân. Đây cũng là vấn đề có ý nghĩa trong thực tế về
việc gìn giữ truyền thống và phát huy tính đặc thù văn hóa pháp lý trong bản sắc văn
hóa dân tộc.
Điểm giống nhau về kiến thức lý luận:
- Khái niệm, vai trò, nội dung cơ bản tập quán và tập quán pháp: Tập quán có vai trò
duy trì trật tự, điều tiết hành vi mặc dù có những hạn chế nhất định so với pháp luật.
Phong tục tập quán thường mang tính tự phát, cục bộ và khó thay đổi. Chúng tồn tại
thông qua truyền miệng hoặc những khuôn mẫu hành vi cứng nhắc và thiếu nội dung cụ
thể.

Điểm khác nhau về kiến thức lý luận:


- Chỉ ra những vấn đề cần giải quyết liên quan đến việc áp dụng phong tục tập quán.

- Đề xuất biện pháp khắc phục khó khăn, hạn chế trong việc áp dụng tập tục vào giải
quyết các vụ án dân sự.
 Xây dựng hương ước làng, dòng họ, chuẩn hóa các quy ước của làng, luật tục
 Cần triển khai các giải pháp tổng thể để bảo tồn và phát triển các giá trị văn hóa phi vật
thể: việc thành lập các tổ chức làng, xã văn hóa, nỗ lực xóa đói giảm nghèo, đấu tranh
chống phong tục tiêu cực.

16. Bài viết: “Về khái niệm nguồn của pháp luật”, Nguyễn Thị Hồi, Tạp chí Luật
học, số 2/2008;
Việc nghiên cứu nguồn của pháp luật có ý nghĩa lí luận và thực tiễn to lớn bởi vì xác
định đầy đủ, chinh xác và sử dụng đung đắn các loại nguồn của pháp luật sẽ góp phần
tích cực vào công cuộc hoan thiện hệ thống pháp luật và nâng cao hiệu quả của nó. Vấn
đề nguồn của pháp luật đã được đề cập trong nhiều công trình nghiên cứu về pháp luật
của các tác giả trong và ngoài nước với các tên gọi khác nhau như nguồn của pháp luật
hoặc hình thức của pháp luật. Điểm qua công trinh nghiên cứu trong và ngoài nước,
chúng ta sẽ thấy rõ điều đó.
Theo từ điển Black Law Dictionary thì nguồn của pháp luật là điểm khởi nguồn của
pháp luật. Theo nghĩa này nguồn của pháp luật gồm các đạo luật, án lệ, tập quán, quan
điểm chuyên gia, đạo đức, công bằng. Ở phạm vi nghiên cứu pháp lí, thuật ngữ ‘nguồn
của pháp luật’ nói tới ba khái niệm; một là nguồn gốc của các khái niệm; hai là nói tới
cơ quan, tổ chức chính phủ đã tạo ra những quy định pháp luật; ba là các quy định đã
được công bố rõ ràng. Như vậy, theo Từ điển này thì nguồn của pháp luật là khái niệm
rộng, có thể được hiểu theo nhiều nghĩa khác nhau và có thể được xem xét dưới nhiều
góc độ khác nhau. Theo nghĩa hẹp, nguồn của pháp luật là khái niệm dùng để chỉ tất cả
những nơi có đựng các quy định mà các thẩm phán có thể dựa vào đó để giải quyết vụ
án. Theo nghĩa rộng, nói đến nguồn của pháp luật là nói đến nguồn gốc của các khái
niệm, các tư tưởng pháp lí; nói đến các chủ thể có thẩm quyền ban hanh pháp luật; nói
đến nơi chứa đựng các quy định của pháp luật nói chung và các quy định về hiệu lực của
các đạo luật và các quyết định của tòa án; nói đến điểm khởi nguồn của pháp luật hoặc
sự phân tích pháp lí…Một số học giả Pháp cho rằng trong thực tế, pháp luật có hai
nguồn là nguồn nội dung – nguồn quan trọng nhất vì là nguồn cơ bản nhất, giúp lí giải
các câu hỏi tại sao lại ban hanh quy phạm này, ấn định thời hạn, trật tự ưu tiên này; và
nguồn hình thức. Trong cuốn ‘Nhập môn luật học’, Jean- Claude Ricci viết: “Đó là căn
nguyên của pháp luật: các động cơ chinh trị, kinh tế, xã hội, tôn giáo, văn hóa, đạo đức,
v.v..”. Nguồn hình thức được Michel Virally định nghĩa là các cách thức và văn bản nơi
các quy phạm có thể tồn tại về mặt pháp lí và phát huy hiệu lực (gồm nguồn hình thức
được thiết lập và các nguồn hình thức tự nhiên).
Theo nguyên tắc chỉ có nguồn được thiết lập là nguồn mới là nguồn pháp luật, có
hiệu lực nhờ vào hình thức trình bày. Những nguồn này được gọi là nguồn hình thức.
Do được thiết lập nên có tính chất tương đối bất biến, tạo ra những thiếu hụt, lỗ hổng
nghiêm trọng không lường được trước, gây khó phù hợp với sự thay đổi, phát triển
không ngừng của thực tế, nhanh chóng khiến các quy phạm trở nên lỗi thời hoặc mất
hiệu lực tại một thời điểm nào đó. Còn có tình trạng một số các quy phạm tự thân tối
nghĩa hoặc tối nghĩa khi đem đối chiếu với các quy phạm khác; một số quy phạm được
ban hành ở thời điểm khác nhau hoặc dựa trên những lí luận đối lập nhau, hoặc theo
đuổi những mục đích khác nhau sẽ ít nhiều có mâu thuẫn với nhau. Để giải quyết các
vấn đề trên và các vấn đề trong thực tiễn, người ta đã thừa nhận các nguồn có hình thức
tự nhiên. Cũng có vấn đề nảy ra vì nguồn gốc của loại nguồn này, có thể gọi là: tập quán
và các nguyên tắc chung về pháp luật đúc kết từ những công trinh nghiên cứu lí luận và
được thừa nhận như chúng vốn có. Các loại nguồn luật trong pháp luật quốc gia có
nhiều loại và được xếp theo thứ bậc.
Hans Kelsen – học giả người Đức cho rằng nguồn của pháp luật là khái niệm không
rõ ràng. Những quy phạm chung của hiến pháp và những quy phạm khác được ban hành
phù hợp với hiến pháp là nguồn của pháp luật. Có hai phương pháp khác nhau để biểu
thị. Một là sự ban hành, một sự sáng tạo có mục đích những quy định bất thành văn
được các bên chủ thể pháp luật tạo nên. Hai là biểu thị cở sở pháp lí cơ bản của hệ thống
pháp luật dưới khái niệm quy phạm cơ bản. Ở nghĩa rộng nhất, nguồn của pháp luật biểu
thị mọi quy phạm pháp luật cả chung cả riêng, nghĩa là các quy phạm đặt ra quyền hoặc
nghĩa vụ pháp lí. Như vậy quyết định của tòa án là nguồn của một nghĩa vụ đặc biệt.
Song dẫn đến sự mơ hồ của cụm từ ‘nguồn của pháp luật’, đặt ra vấn đề: quy phạm
chung nào là nguồn của quy phạm riêng?
Ở Việt Nam vấn đề nguồn của pháp luật được đề cập ở góc nhìn, mức độ khác
nhau. Nhiều người cho rằng khái niệm hình thức pháp luật và nguồn của pháp luật là
một. Trong một số sách, giáo trinh pháp luật, hình thức của pháp luật gồm hình thức bên
trong (các nguyên tắc chung của pháp luật, hệ thống pháp luật, chế định pháp luật, quy
phạm pháp luật) và hình thức bên ngoài (tập quán pháp, tiền lệ pháp, văn bản quy phạm
pháp luật, luật tôn giao hay học thuyết pháp lí). Hình thức nội tại là kết cấu của những
yếu tố tạo thành nội dung pháp luật. Hình thức bên ngoài là hình dạng bề ngoài chứa
đựng nội dung.
Có một số học giả cho rằng tập quán pháp, tiền lệ pháp và văn bản quy phạm pháp
luật là những hình thức pháp luật với quan niệm hình thức của pháp luật là cách thức mà
giai cấp thống trị sử dụng để nâng ý chí của giai cấp mình lên thanh pháp luật. quan
niệm này đã cũ và không hoàn toàn chính xác về hình thức pháp luật. Có học giả quan
niệm hình thức bên ngoài là cái chứa đựng nội dung, quy tắc pháp luật, hành vi theo ý
chí nhà nước, còn gọi là nguồn của pháp luật. Quan niệm này chỉ đề cập nguồn hình
thức mà chưa đề cập đến nguồn nội dung. Cá biệt có tác giả dùng thuật ngữ nguồn gốc
của pháp luật (bao gồm nguồn của pháp luật quốc nội và quốc tế) để chỉ nguồn của pháp
luật. Có thể thấy nguồn và hình thức pháp luật là những khái niệm khác nhau, không thể
đồng nhất. Nguồn của pháp luật là khái niệm dùng để chỉ tất cả những gì mà những chủ
thể có thẩm quyền dựa vào để xây dựng, ban hành, giải thích pháp luật, hay đây chính là
căn cứ được các chủ thể có thẩm quyền sử dụng làm cơ sở để tác động pháp luật và áp
dụng thực tiễn. Nguồn của pháp luật gồm có nguồn nội dung và hình thức. Nguồn nội
dung là xuất xứ, căn nguyên của pháp luật. Đường lối chính sách của Đảng ở Việt Nam
là một trong nguồn nội dung quan trọng.
Nguồn hình thức của pháp luật được hiểu là phương thức tồn tại của các quy phạm
pháp luật trong thực tế hay là nơi chứa đựng, nơi có thể cung cấp quy phạm pháp luật.
Nói chung, pháp luật của đa số các nước trên thế giới trong tất cả các giai đoạn phát
triển đều có một số nguồn hình thức cơ bản là tập quán, án lệ và văn bản quy phạm pháp
luật và còn các nguồn khác tùy vào quy định mỗi nước. Theo một vài học giả, nguồn
của XHCN bao gồm: luật, thực tiễn xét xử, tập quán và những quy tắc trong nếp sống
cộng đồng XHCN… Trong xu thế toan cầu hóa hiện nay, các nhà nước đương đại đều
thừa nhân thêm các nguồn mới là những tập quán, điều ước quốc tế mà trước đó chưa hề
có.
Cuối cùng, tác giả đưa ra kết luận trong các công trình nghiên cứu luật học thì các
nguồn hình thức thường được quan tâm nghiên cứu và đề cập nhiều hơn nguồn nội dung
của nó.
So sánh quan điểm của tác giả Lê Thị Hồi với những kiến thức đã được học trong
môn Lý luận về nhà nước và pháp luật:
Điểm giống nhau:
+ Thứ nhất, về khái niệm nguồn của pháp luật: “ Nguồn của pháp luật là tất cả các
yếu tố chứa đựng hoặc cung cấp căn cứ pháp lí cho hoạt động cơ quan nhà nước, nhà
chức trách có thẩm quyền cũng như các chủ thể khác trong xã hội.”
+ Thứ hai, nguồn của pháp luật bao gồm cả nguồn nội dung và nguồn hình thức.
Nguồn nội dung của pháp luật là xuất xứ, căn nguyên của pháp luật bởi vì nó được các
chủ thể có thẩm quyền dựa vào đó để xây dựng, ban hành và giải thích pháp luật. Nguồn
hình thức của pháp luật được hiểu là phương thức tồn tại của các quy phạm pháp luật
trong thực tế hay là nơi chứa đựng, nơi có thể cung cấp các quy phạm pháp luật, là
những căn cứ mà các chủ thể có thẩm quyền dựa vào đó để giải quyết các vụ việc pháp
lí xảy ra trong thực tế. Tuy nhiên trong khoa học pháp lí cũng như trong thực tiễn, vấn
đề nguồn nội dung ít được đề cập, còn nguồn hình thức của pháp luật luôn được quan
tâm trên cả phương diện nhận thức cũng như hoạt động thực tiễn.
+ Thứ ba, bài viết của tác giả Nguyễn Thị Hồi và giao trinh Lí luận chung về nhà
nước và pháp luật cung cấp các loại nguồn khác nhau trên thế giới như điều ước quốc
tế, chuẩn mực đạo đức xã hội, các quan điểm, tư tưởng học thuyết của các nhà khoa học
pháp lí. Đó đều là các loại nguồn phổ biến trên thế giới.
+ Thứ tư, quan điểm của tác giả Nguyễn Thị Hồi và các tác giả viết giao trinh đều cho
răng nguồn của pháp luật và hình thức bên ngoai của pháp luật có liên quan chặt chẽ với
nhau. Tuy nhiên đó là 2 khái niệm hoan toan khác nhau, không thể đánh đồng.
Điểm khác nhau:
+ Thứ nhất, dựa vào bài viết “Về khái niệm nguồn của pháp luật” – TS. Nguyễn Thị
Hồi, tác giả có đề cập một cách rộng hơn quan điểm về nguồn của pháp luật trên thế giới
thông qua Từ điển Black Law Dictionary, của một số học giả Pháp, Michel Virally, hay
định nghĩa của Hans Kelsen – học giả người Đức… Không chỉ dừng lại ở đó, tác giả
còn nhắc tới định nghĩa về nguồn của pháp luật ở Việt Nam, như là trong một số sách và
giáo trình Lí luận về nhà nước và pháp luật, sách chuyên khảo “Những vấn đề lí luận cơ
bản về nhà nước và pháp luật”, định nghĩa của một số học giả khác…Sau đó, TS.
Nguyễn Thị Hồi đã trực tiếp đưa quan điểm của mình vào, đó là nguồn của pháp luật có
2 loại nguồn nội dung và nguồn hình thức. Nguồn nội dung của pháp luật là xuất xứ, là
căn nguyên, chất liệu làm nên các quy định cụ thể của pháp luật.. Nguồn hình thức của
pháp luật được hiểu là phương thức tồn tại của các quy phạm pháp luật trong thực tế
hay là nơi chứa đựng, nơi có thể cung cấp các quy phạm pháp luật, tức là những căn cứ
mà các chủ thể có thẩm quyền dựa vào đó để giải quyết các vụ việc pháp lí xảy ra trong
thực tế. Còn đối với cách hiểu của em sau khi được học môn Lí luận, em mới chỉ được
tiếp cận một cách chi tiết về nguồn hình thức vì trong giáo trình không nêu rõ ràng quan
điểm về nguồn nội dung như bài viết của TS. Nguyễn Thị Hồi. Bởi theo như giáo trình
Lí luận chung về nhà nước và pháp luật, các tác giả cho rằng vấn đề nguồn hình thức
của pháp luật luôn được quan tâm nhiều hơn trên bình diện nhận thức cũng như trong
hạt động thực tiễn.
+ Thứ hai, bài viết của tác giả Nguyễn Thị Hồi có cung cấp một số dẫn chứng về
nguồn của pháp luật trong hệ thống pháp luật trên thế giới. Có thể kể đến như là tập
quán quốc tế, các nguyên tắc chung của pháp luật, nhu cầu quản lí kinh tế - xã hội, hay
thực tiễn xét xử của tòa án, học thuyết và lí trí, những quy tắc trong nếp sống cộng đồng
xuất hiện trong hệ thống pháp luật Roman - Giecman, Anh, Mĩ, XHCN,..
Trong khi đó, giáo trình Lí luận chung về nhà nước và pháp luật đưa ra các nguồn
khác của pháp luật như là điều ước quốc tế, hợp đồng, đường lối chính sách của lực
lượng cầm quyền, các tư tưởng, học thuyết, tín điều tôn giáo, hương ước hay pháp luật
nước ngoài.. Ở đây, em được hiểu rõ hơn về khái niệm của các loại nguồn khác trên thế
giới cũng như được cung cấp kiến thức về vị trí, vai trò của từng loại nguồn này đối với
các quốc gia.
+ Thứ ba, về quan điểm nguồn của pháp luật Việt Nam hiện nay, so với những gì em
tiếp thu trong suốt quá trình học môn Lí luận, thì Việt Nam có 3 loại nguồn pháp luật
chủ yếu đó là tập quán pháp, tiền lệ pháp, và văn bản quy phạm pháp luật. Trong đó, văn
bản quy phạm pháp luật có vai trò quan trọng bậc nhất. Các văn bản được đề cập đến
nhiều nhất đó là Hiến pháp; Bộ luật, luật, nghị quyết của Quốc Hội; Lệnh, quyết định
của Chủ tịch nước …
Còn theo như bài viết của TS. Nguyễn Thị Hồi, tác giả chỉ đề cập một cách chung
chung đến một số loại nguồn nội dung và nguồn hình thức quan trọng như là Đường lối,
chính sách của Đảng, các nguyên tắc chung của pháp luật, các điều ước quốc tế, nhu cầu
quản lí kinh tế - xã hội, các học thuyết khoa học pháp lí,..Tuy nhiên, ở đây tác giả đã
đưa ra các nguồn rộng hơn, đặc trưng chủ yếu đó là đường lối chính sách của Đảng, nhu
cầu quản lí kinh tế - xã hội.

Quan điểm của em về vấn đề này


Nguồn pháp luật là một khái niệm pháp lý cơ bản phức tạp của khoa học Lý luận
nhà nước và pháp luậtt và là một vấn đề có ý nghĩa lý luận -thực tiễn quan trọng trên các
phương diện xây dựng pháp luật áp dụng và thực hiện pháp luật. Là một chủ đề nghiên
cứu lớn nên từ lâu “nguồn pháp luật” đã được các nhà khoa học pháp lý Liên Xô (nước
Nga hiện nay) các học giả phương Tây và nhiều nhà khoa học pháp lý Việt Nam quan
tâm nghiên cứu. Mặc dù đã đạt được nhiều thành tựu trong nghiên cứu song cũng còn
không ít những vấn đề quan trọng và cấp thiết liên quan đến nguồn pháp luật còn chưa
được các nhà khoa học đề cậpp hoặc có đề cập nhưng hết sức. Ở Việt Nam hiện nay,
việc nghiên cứu làm rõ những vấn đề lý luận về nguồn của pháp luật đang trở thành yêu
cầu cần thiết và đang nhận được sự quan tâm sâu sắc của các nhà hoạch định chính sách
pháp luật nhà nghiên cứu và những cán bộ trực tiếp và nhiệm vụ quản lý xã hội phòng
ngừa, đấu tranh, chống tội phạm, Và một trong những nội dung có tính chất nền tảng,
then chốt gây nhiều tranh luận trong giới nghiên cứu lý thuyết luật Việt Nam và việc xác
định các hình thức bên ngoài của pháp luật và có sự đồng nhất hay không giữa hai khái
niệm “nguồn luật” và “hình thức pháp luật” . Đặc biệt, trong bối cảnh Việt Nam đang
thực hiện các mục tiêu hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường, xây dựng nhà nước pháp
quyền xã hội chủ nghĩa, hội nhập quốc tế và xu hướng giao thoa giữa các hệ thống pháp
luật trên thế giới ngày càng mạnh mẽ thì việc nghiên cứu nguồn pháp luật nhằm góp
phần hoàn thiện nguồn luật thống nhất và phù hợp với thông lệ quốc tế trở thành nhu
cầu khách quan và cần thiết. Thực tiễn của đất nước và thời đại cũng đòi hỏi nhiều hơn
sự mềm dẻo, thích ứng của pháp luật với những yêu cầu phát triển thì việc nghiên cứu
để tiếp tục nâng cao nhận thức về nguồn và hiệu quả của công tác pháp luật là một trong
những yêu cầu có tính khách quan trực tiếp của đổi mới tư duy pháp lý và đáp ứng yêu
cầu nâng cao vai trò điều chỉnh xã hội của pháp luật.
So sánh quan điểm của tác giả Nguyễn Thị Hồi trong bài viết "Về khái niệm nguồn
của pháp luật" so với GS.TS. Nguyễn Thị Kim Quý trong bài viết "Nguồn của
pháp luật" (Tạp chí Nhà nước và Pháp luật, số 5/2008)
Quan điểm của tác giả Nguyễn Thị Hồi
Trong bài viết "Về khái niệm nguồn của pháp luật", tác giả Nguyễn Thị Hồi đã đưa ra
khái niệm nguồn của pháp luật như sau: "Nguồn của pháp luật là những căn cứ pháp lý,
trên cơ sở đó các quy tắc xử sự được xác lập và trở thành quy phạm pháp luật. Nguồn
của pháp luật bao gồm các văn bản quy phạm pháp luật, tập quán, án lệ, các nguyên tắc
pháp luật và học thuyết pháp luật."
Quan điểm của GS.TS. Nguyễn Thị Kim Quý
Trong bài viết "Nguồn của pháp luật", GS.TS. Nguyễn Thị Kim Quý đã đưa ra khái
niệm nguồn của pháp luật như sau:
"Nguồn của pháp luật là những căn cứ pháp lý mà trên cơ sở đó các quy tắc xử sự được
xác lập và trở thành quy phạm pháp luật. Nguồn của pháp luật bao gồm các văn bản quy
phạm pháp luật, tập quán, án lệ."
Có thể thấy, quan điểm của tác giả Nguyễn Thị Hồi về khái niệm nguồn của pháp luật
là tương đồng với quan điểm của GS.TS. Nguyễn Thị Kim Quý. Cả hai quan điểm đều
cho rằng, nguồn của pháp luật là những căn cứ pháp lý, trên cơ sở đó các quy tắc xử sự
được xác lập và trở thành quy phạm pháp luật. Đồng thời, cả hai quan điểm đều bao
gồm các nguồn của pháp luật như sau:
Văn bản quy phạm pháp luật: Đây là nguồn quan trọng nhất của pháp luật, bao gồm các
văn bản do cơ quan nhà nước có thẩm quyền ban hành theo đúng thủ tục quy định.
Tập quán: Đây là những quy tắc xử sự được hình thành trong quá trình thực tiễn lâu dài
và được thừa nhận rộng rãi trong xã hội.
Án lệ: Đây là những quyết định của tòa án trong các vụ việc cụ thể được coi là những
quy tắc xử sự chung.
Tuy nhiên, cũng có một số điểm khác biệt nhỏ giữa hai quan điểm này. Cụ thể, tác giả
Nguyễn Thị Hồi đã bổ sung thêm khái niệm "các nguyên tắc pháp luật" và "học thuyết
pháp luật" vào nguồn của pháp luật. Điều này là phù hợp với thực tiễn của Việt Nam và
các nước trên thế giới.
Các điểm khác biệt cụ thể
Về khái niệm:
Tác giả Nguyễn Thị Hồi sử dụng khái niệm "các căn cứ pháp lý" để chỉ nguồn của pháp
luật, trong khi GS.TS. Nguyễn Thị Kim Quý sử dụng khái niệm "những căn cứ pháp lý
mà trên cơ sở đó các quy tắc xử sự được xác lập và trở thành quy phạm pháp luật".
Về nội hàm:
Tác giả Nguyễn Thị Hồi bổ sung thêm khái niệm "các nguyên tắc pháp luật" và "học
thuyết pháp luật" vào nguồn của pháp luật, trong khi GS.TS. Nguyễn Thị Kim Quý chỉ
bao gồm các nguồn của pháp luật là văn bản quy phạm pháp luật, tập quán và án lệ.
Lý giải sự khác biệt
Sự khác biệt về quan điểm giữa hai tác giả có thể được giải thích như sau:
Về khái niệm:
Khái niệm "các căn cứ pháp lý" của tác giả Nguyễn Thị Hồi là khái niệm chung, bao
hàm cả các quy tắc pháp lý mang tính quy phạm và các quy tắc pháp lý mang tính không
quy phạm. Trong khi đó, khái niệm "những căn cứ pháp lý mà trên cơ sở đó các quy tắc
xử sự được xác lập và trở thành quy phạm pháp luật" của GS.TS. Nguyễn Thị Kim Quý
là khái niệm hẹp hơn, chỉ bao hàm các quy tắc pháp lý mang tính quy phạm.
Về nội hàm:
Việc bổ sung thêm khái niệm "các nguyên tắc pháp luật" và "học thuyết pháp luật" vào
nguồn của pháp luật của tác giả Nguyễn Thị Hồi là phù hợp với thực tiễn của Việt Nam
và các nước trên thế giới. Hiện nay, các nguyên tắc pháp luật và học thuyết pháp luật
ngày càng được coi trọng và có vai trò quan trọng trong việc xây dựng và áp dụng pháp
luật.

17. Bài viết: “Các loại nguồn của pháp luật Việt Nam hiện nay”, Nguyễn Thị Hồi,
Tạp chí Nghiên cứu lập pháp, số 12 (128) tháng 8/2008
1. Một số nguồn nội dung của pháp luật Việt Nam
Đường lối, chính sách của Đảng
Đường lối, chính sách của Đảng được coi là nguồn nội dung của pháp luật bởi vì chúng
định ra mục tiêu, phương hướng phát triển kinh tế - xã hội của đất nước trong một giai
đoạn nhất định cũng như những phương pháp, cách thức cơ bản để thực hiện những mục
tiêu, phương hướng này. Và những mục tiêu, phương hướng, phương pháp và cách thức
đó sẽ được Nhà nước thể chế hoá thành pháp luật và tổ chức thực hiện trong thực tế.
Nhu cầu quản lý kinh tế - xã hội của đất nước
Đây cũng là một trong những nguồn nội dung quan trọng của pháp luật, một trong
những cơ sở để xây dựng, ban hành pháp luật. Để tổ chức, quản lý và điều hành nền
kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa, Nhà nước phải ban hành các quy
định pháp luật cụ thể nhằm xây dựng đồng bộ các loại thị trường (thị trường lao động,
thị trường hàng hoá, thị trường bất động sản, thị trường tài chính...); cụ thể hoá các
chính sách tài chính, thuế, tiền tệ, giá cả, đầu tư, thu nhập...; sắp xếp, cơ cấu lại các
ngành kinh tế, điều chỉnh các quan hệ kinh tế theo chiều hướng mà Nhà nước mong
muốn, chiều hướng vừa thúc đẩy sự tăng trưởng, vừa bảo đảm sự cân đối và ổn định của
nền kinh tế - xã hội.
Các tư tưởng, học thuyết pháp lý
Quyền lực nhà nước là thống nhất, có sự phân công và phối hợp giữa các cơ quan nhà
nước trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp”. Quy định này của
Hiến pháp được xây dựng trên cơ sở sự kế thừa tư tưởng của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư
tưởng Hồ Chí Minh về nhà nước và pháp luật; tư tưởng chủ quyền nhân dân; tư tưởng
nhà nước pháp quyền và tiếp nhận các yếu tố hợp lý của học thuyết phân chia quyền lực
nhà nước.
2. Các loại nguồn hỗn hợp
Các nguyên lý chung của pháp luật
Đây là những nguyên lý, những tư tưởng cơ bản làm cơ sở cho toàn bộ quá trình xây
dựng và thực hiện pháp luật trong thực tế. Có những nguyên tắc chỉ là nguồn nội dung
của pháp luật.
Văn bản quy phạm pháp luật
Đây là loại nguồn hình thức chủ yếu, cơ bản và quan trọng nhất của pháp luật, bởi lẽ,
các cơ quan nhà nước ở Việt Nam khi giải quyết các vụ việc pháp lý thực tế thuộc thẩm
quyền của mình đều chủ yếu dựa vào các VBQPPL. VBQPPL là văn bản do các cơ quan
nhà nước có thẩm quyền ban hành theo thủ tục, trình tự luật định, trong đó có quy tắc xử
sự chung được Nhà nước bảo đảm thực hiện, nhằm điều chỉnh các quan hệ xã hội theo
định hướng xã hội chủ nghĩa.
VBQPPL không chỉ là nguồn hình thức mà còn có thể là nguồn nội dung của pháp luật,
bởi, nếu xét về nội dung thì các quy định trong các văn bản có giá trị pháp lý cao hơn lại
có thể trở thành nguồn nội dung cho các văn bản có giá trị pháp lý thấp hơn. Chẳng hạn,
các quy định của Hiến pháp là nguồn nội dung của tất cả các VBQPPL khác vì các quy
định trong các văn bản ấy được xây dựng, ban hành dựa trên cơ sở các quy định của
Hiến pháp, trong nhiều trường hợp là sự cụ thể hoá, chi tiết hoá nhằm thực hiện Hiến
pháp trong thực tế... Hoặc một đạo luật nào đó có thể trở thành nguồn nội dung cho các
nghị định hướng dẫn thi hành nó.
Các điều ước quốc tế
Nói chung, các điều ước quốc tế do Việt Nam ký kết, phê chuẩn hoặc gia nhập thực tế
vừa là nguồn nội dung, vừa là nguồn hình thức của pháp luật nước ta. Nó là nguồn nội
dung trong trường hợp các quy định của nó được chuyển hóa thành các quy định trong
các VBQPPL. Điều ước quốc tế trở thành nguồn hình thức của pháp luật trong trường
hợp nó được áp dụng trực tiếp toàn bộ hoặc một phần vào việc giải quyết các vụ việc
xảy ra trong thực tế. Việc áp dụng này đã được thừa nhận trong Luật Ký kết, gia nhập và
thực hiện điều ước quốc tế năm 2005 của nước ta. Nói chung, trong lĩnh vực luật quốc
tế thì điều ước quốc tế là nguồn cơ bản, chủ yếu và quan trọng nhất. Còn đối với pháp
luật quốc gia, vai trò của điều ước quốc tế ngày càng quan trọng và có vị thế ngày càng
cao hơn, nhất là trong xu thế toàn cầu hóa hiện nay
Phong tục, tập quán
Theo quan niệm về tập quán thì tất cả các loại tập quán như tập quán thông thường, tập
quán chung, tập quán pháp luật và tập quán địa phương đều có thể trở thành nguồn của
pháp luật. Phong tục tập quán vừa có thể là nguồn nội dung, vừa có thể là nguồn hình
thức của pháp luật. Những phong tục tập quán tiến bộ, tốt đẹp, phù hợp với ý chí của
Nhà nước, được Nhà nước thừa nhận sẽ trở thành nguồn nội dung của pháp luật. Ví dụ,
việc Nhà nước thừa nhận phong tục ăn Tết Nguyên đán, phong tục Giỗ tổ Hùng Vương
ngày 10 tháng 3 âm lịch đã dẫn đến quy định cho phép người lao động, cán bộ, công
chức, học sinh, sinh viên... được nghỉ làm việc, học tập trong những ngày này. Ngoài
ra, trong một số lĩnh vực, các quy tắc và quan niệm đạo đức chính thống, các truyền
thống tốt đẹp của dân tộc cũng có thể trở thành nguồn nội dung của pháp luật. Các quy
định về quyền, nghĩa vụ của cha mẹ và con cái, của ông bà và các cháu, của vợ và
chồng, của các thành viên khác trong gia đình với nhau trong pháp luật hôn nhân và gia
đình là sự thể chế hóa các quan niệm đạo đức truyền thống, là sự thừa nhận các quy tắc
đạo đức thịnh hành trong xã hội;... Phong tục tập quán là nguồn hình thức của pháp luật
trong những trường hợp nó được áp dụng vào việc giải quyết các vụ việc xảy ra trong
thực tế. Việc thừa nhận phong tục tập quán là nguồn hình thức của pháp luật đã được thể
hiện cụ thể trong một số đạo luật của nước ta.
Trong loại nguồn này còn bao gồm cả các tập quán quốc tế đã được thừa nhận và áp
dụng tại Việt Nam như các tập quán thương mại quốc tế. Nói chung, phong tục tập
quán chỉ được coi là nguồn thứ yếu của pháp luật Việt Nam bởi các quy định của nó chủ
yếu tồn tại dưới dạng bất thành văn nên thường chỉ được hiểu một cách ước lệ, thiếu rõ
ràng, cụ thể, khó bảo đảm cho việc hiểu và áp dụng thống nhất trong phạm vi rộng.
Song, ưu điểm của phong tục tập quán là hình thành từ thực tiễn cuộc sống, từ những
thói quen ứng xử hàng ngày nên rất gần gũi với nhân dân và thường được nhân dân tự
giác thực hiện. Vì vậy, phong tục tập quán có thể góp phần bổ sung cho chỗ thiếu của
pháp luật, khắc phục những lỗ hổng của pháp luật nên cần được tiếp tục sử dụng cùng
với các VBQPPL. Điều cần thiết hiện nay là phải có hình thức xác định cụ thể những tập
quán được Nhà nước thừa nhận để bảo đảm cho việc áp dụng pháp luật được thống nhất
và bảo đảm công bằng xã hội.
Theo tinh thần của Nghị quyết này, thì trong tương lai, pháp luật Việt Nam có thể có
thêm hai nguồn sau:
Án lệ: Án lệ là loại nguồn rất quan trọng của pháp luật ở các nước thuộc hệ thống thông
luật. Nó có một số ưu điểm sau: đề cập đến các vụ việc đã xảy ra trong thực tế mà không
phải là những giả thuyết có tính lý luận về những tình huống có thể xảy ra trong tương
lai, vì vậy, nó thường phong phú và đa dạng hơn pháp luật thành văn; góp phần bổ sung
cho những thiếu sót, những lỗ hổng của pháp luật thành văn và khắc phục được tình
trạng thiếu pháp luật; tạo điều kiện cho việc áp dụng pháp luật được dễ dàng, thuân lợi
hơn. Tuy nhiên, ở Việt Nam hiện nay, án lệ vẫn chưa được thừa nhận một cách chính
thức; song, nếu theo tinh thần của Nghị quyết số 48 thì trong tương lai gần, án lệ có thể
được coi là một trong các nguồn hình thức của pháp luật nước ta. Vấn đề cần phải
nghiên cứu ở nước ta hiện nay là những bản án loại nào và của toà nào có thể trở thành
án lệ? Chủ thể, nguyên tắc, trình tự, thủ tục thừa nhận nó ra sao? Nếu một bản án được
thừa nhận là án lệ thì phần nào trong bản án sẽ bị bắt buộc phải tuân theo hoặc phải tôn
trọng? Đây là những câu hỏi mà các nhà chuyên môn, các nhà hoạt động thực tiễn phải
trả lời. Theo tác giả, đó nên là các bản án của Toà án nhân dân tối cao.
Quy tắc của các hiệp hội nghề nghiệp
Loại nguồn dự kiến này mới chỉ được đề cập đến trong Nghị quyết số 48 nói trên mà
dường như chưa có tiền lệ ở Việt Nam và cũng chưa được thừa nhận chính thức về mặt
Nhà nước. Chỉ mới có quy định của các tổ chức chính trị - xã hội là đã được thừa nhận
một cách gián tiếp trong một số văn bản. Đối với các quy tắc của các hiệp hội nghề
nghiệp thì vấn đề cần làm sáng tỏ cả về mặt lý luận và thực tiễn là quy tắc của các hiệp
hội nghề nghiệp nào có thể được thừa nhận là một trong các loại nguồn của pháp luật?
Đó là những quy tắc điều chỉnh những quan hệ xã hội nào, về những vấn đề gì? Nói
chung, đây là vấn đề khá mới mẻ, cần phải được cân nhắc cẩn thận trước khi quyết định
thừa nhận nó là một trong các loại nguồn của pháp luật nước ta.
So sánh quan điểm của tác giả Lê Thị Hồi với những vấn đề tương tự em đã được
học trong môn Lý luận về nhà nước và pháp luật:
Điểm giống nhau:
Tập quán không phải là nguồn luật chủ yếu mà có chỉ vai trò như là nguồn lực bổ trợ
cho các nguồn lực khác bởi vì so với các nguồn lực khác như văn bản quy phạm pháp
luật, án lệ thì tập quán có những hạn chế nhất định. Tập quán thường hình thành một
cách tự phát, ít biến đổi và mang tính cục bộ. Tuy vậy, xét về mặt lịch sử tập quán pháp
có đóng một vai trò rất quan trọng trong đời sống pháp lý nhiều quốc gia trên thế giới
Văn bản quy phạm pháp luật là nguồn luật chủ yếu của các nước thuộc hệ thống pháp
luật Châu Âu lục địa và hệ thống pháp luật xã hội chủ nghĩa. Toàn bộ quá trình xây
dựng pháp luật, thực hiện và áp dụng pháp luật điều chỉnh pháp luật đều xoay quanh yếu
tố nền tảng qui phạm pháp luật.
Có đề cập đến án lệ như một loại nguồn của pháp luật Việt Nam hiện nay nhưng chỉ
đóng vai trò thứ yếu so với văn bản quy phạm pháp luật
Điểm khác nhau:
Có đề cập và triển khai sâu đến các loại nguồn khác đó là các nguyên tắc chung của
pháp luật, các điều ước quốc tế, quy tắc của các hiệp hội nghề nghiệp so với ba loại
nguồn được nêu trong giáo trình đó là tập quán pháp, án lệ và văn bản quy phạm pháp
luật.
Quan điểm của em về vấn đề này:
Việc thừa nhận và áp dụng đa dạng các loại nguồn của pháp luật là một xu hướng tất
yếu của quá trình phát triển pháp luật. Điều này giúp cho pháp luật Việt Nam ngày càng
đáp ứng được yêu cầu quản lý xã hội trong điều kiện hội nhập quốc tế. Cá nhân tôi đánh
giá cao việc thừa nhận và áp dụng đa dạng các loại nguồn của pháp luật ở Việt Nam
hiện nay. Điều này cho thấy Nhà nước ta đã có những bước tiến quan trọng trong việc
xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật. Mỗi loại nguồn pháp luật đều có những vai
trò và ưu điểm riêng. Luật thành văn là loại nguồn pháp luật cơ bản, có tính bắt buộc
cao. Tập quán pháp là loại nguồn pháp luật phản ánh thực tiễn đời sống xã hội, có tính
linh hoạt cao. Các nguyên tắc cơ bản của pháp luật là cơ sở để giải thích, áp dụng pháp
luật. Án lệ là cơ sở để thống nhất áp dụng pháp luật, bảo đảm tính công bằng, chính xác
trong xét xử. Quốc tế công là cơ sở để điều chỉnh các quan hệ xã hội giữa các quốc gia.
Tuy nhiên, việc áp dụng đa dạng các loại nguồn của pháp luật cũng đặt ra những yêu
cầu mới cho hoạt động lập pháp, tư pháp và hành pháp. Để đảm bảo sự thống nhất và
hiệu quả trong áp dụng pháp luật, cần có sự phối hợp chặt chẽ giữa các cơ quan nhà
nước có thẩm quyền trong việc xây dựng, ban hành, giải thích và áp dụng pháp luật.Về
lâu dài, cần tiếp tục hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt Nam, trong đó chú trọng đến
việc hoàn thiện các loại nguồn pháp luật. Các loại nguồn pháp luật cần được xây dựng,
ban hành một cách khoa học, hợp lý, phù hợp với thực tiễn đời sống xã hội. Việc áp
dụng các loại nguồn pháp luật cần được thực hiện thống nhất, chặt chẽ, bảo đảm tính
công bằng, chính xác, hiệu quả. Cụ thể, đối với luật thành văn, cần tiếp tục hoàn thiện
hệ thống pháp luật, đảm bảo tính đồng bộ, thống nhất, khả thi. Việc ban hành văn bản
quy phạm pháp luật cần được thực hiện theo đúng trình tự, thủ tục quy định, đảm bảo
tính dân chủ, công khai, minh bạch. Đối với tập quán pháp, cần có sự tổng kết, hệ thống
hóa, công bố rộng rãi các tập quán pháp để các cơ quan nhà nước và cá nhân, tổ chức có
thể dễ dàng tiếp cận và áp dụng

18. Bài viết: “Nhận thức và áp dụng án lệ - Nhìn từ phán quyết Bosman và gợi mở
cho Việt Nam”, Phạm Vĩnh Hà, Tạp chí Nhà nước và Pháp luật, số 5/2017
Phán quyết Bosman là một phán quyết được công bố bởi Tòa án công lý châu Âu (ECJ)
ngày 15/12/1995, liên quan đến vụ kiện nổi tiếng giữa cầu thủ bóng đá Bỉ Jean-Marc
Bosman với Liên đoàn bóng đá Bỉ, câu lạc bộ R.F.C de Liège (sau đây gọi tắt là CLB
Liege) và Liên đoàn bóng đá châu Âu (UEFA).
Vụ kiện bắt đầu từ việc bản hợp đồng giữa Bosman với CLB Liege hết hạn vào
tháng 6/1990, và Bosman không muốn ký kết hợp đồng mới do mức lương thỏa thuận bị
giảm đáng kể. Sau đó, mức phí chuyển nhượng mà CLB đưa ra quá cao và vô lý, trong
đó bao gồm cả phí đào tạo cầu thủ, khiến anh không thể đầu quân được cho CLB nào
khác. Ngày 6/10/1993, Bosman kiện cả Liege, Liên đoàn bóng đá Bỉ lẫn UEFA ra Tòa
án Công lý châu Âu.
Sau 5 năm, Bosman được xử thắng kiện với phán quyết gồm 3 điểm:
1. Điều 48 của Hiệp ước EEC loại trừ việc áp dụng các quy tắc được đặt ra bởi các Liên
đoàn thể thao mà theo đó, một cầu thủ bóng đá chuyên nghiệp là công dân của một quốc
gia thành viên khi đáo hạn hợp đồng với một câu lạc bộ không thể đầu quân cho một câu
lạc bộ khác thuộc một quốc gia thành viên khác nếu câu lạc bộ sau không trả cho câu lạc
bộ trước một khoản phí chuyển nhượng, đào tạo và phát triển cầu thủ.
2. Điều 48 của Hiệp ước EEC loại trừ việc áp dụng các quy tắc được đặt ra bởi các Liên
đoàn thể thao mà theo đó, trong những trận đấu thuộc các giải đấu mà họ tổ chức, các
CLB bóng đá chỉ được phép đưa ra sân một số lượng nhất định các cầu thủ chuyên
nghiệp mang quốc tịch của các quốc gia thành viên khác.
3. Hiệu lực trực tiếp của Điều 48 Hiệp ước EEC không thể được dựa vào để phục vụ cho
việc đưa ra những yêu cầu liên quan đến một khoản phí về chuyển nhượng, đào tạo và
phát triển mà đã được thanh toán hoặc vẫn phải thanh toán theo một nghĩa vụ phát sinh
từ trước ngày ra phán quyết này, trừ trường hợp những người đã tiến hành những thủ tục
tố tụng tại tòa hoặc đưa ra một yêu cầu tương đương theo luật áp dụng của quốc gia
trước ngày đó.”
Phán quyết Bosman được cho là một thành công rất lớn, tạo ra cuộc cách mạng trong
toàn bộ hệ thống chuyển nhượng cầu thủ ở châu Âu bởi nhiều yếu tố. Thứ nhất, phán
quyết Bosman có phạm vi áp dụng rất rộng. Trong nội dung phán quyết, Tòa án chỉ nhắc
đến các đối tượng chung như “các liên đoàn thể thao”, “các CLB bóng đá”, “các vận
động viên chuyên nghiệp”, biến bản án Bosman, vốn là một phán quyết mang tính cá
biệt, trở thành quy phạm chung. Thứ hai, phán quyết Bosman vừa mang tính giải thích,
vừa tạo ra quy phạm. Trong phán quyết Bosman, các thẩm phán đã khéo léo giải thích
các quy định của Hiệp ước Cộng đồng châu Âu mà trọng tâm là Điều 48 và áp dụng
chúng vào lĩnh vực thể thao. Đồng thời, Tòa đã tạo ra một quy phạm ngầm định, được
hiểu là: “Các liên đoàn thể thao không được đặt ra các luật lệ hạn chế quyền tự do lao
động và di chuyển của các vận động viên mà trái với các quy tắc chung của Hiệp ước
Cộng đồng châu Âu”. Thứ ba, án lệ Bosman được sử dụng chủ yếu trong giai đoạn tiền
tố tụng. Với tính chất bắt buộc và mức độ nổi tiếng, phán quyết Bosman được các CLB
và cầu thủ biết đến và tuân thủ gần như một đạo luật thành văn của cơ quan lập pháp.
Các bên đều nhận thức rõ được những lợi thế và bất lợi của mình để giải quyết những
tranh chấp tương tự trong nội bộ với nhau, không muốn đưa ra trước tòa.
Từ sự thành công của phán quyết Bosman, tác giả cho rằng cần có sự nhận thức và áp
dụng án lệ một cách đúng đắn ở Việt Nam. Một là, nên xem xét khả năng thừa nhận
những án lệ tạo ra quy phạm mới. Hiện nay ở Việt Nam chỉ có loại án lệ giải thích các
quy phạm pháp luật còn thiếu tường minh, tuy cần thiết song là chưa đủ để lấp đầy
những lỗ hổng của pháp luật thành văn. Hai là, cần nhìn nhận lại một số ưu, nhược điểm
của án lệ. Về ưu điểm, án lệ ít chịu sự phụ thuộc về yếu tố thời gian và với tính linh hoạt
vốn có, hiệu lực của nó có thể được mở rộng về phạm vi không gian, cũng như về đối
tượng tác động khi được tiếp tục phát triển bởi các án lệ khác. Về nhược điểm, án lệ dễ
dẫn đến sự tùy tiện của tòa án và nguy cơ tòa án lấn quyền nghị viện, đặc biệt là với loại
án lệ tạo ra quy phạm mới. Ba là, cần xác định rõ đâu là nội dung án lệ và trình bày nội
dung đó một cách trung thực nhất. Thay vì xây dựng án lệ gồm hai phần “nội dung án
lệ” và “khái quát nội dung án lệ” như hiện nay với nhiều hạn chế về cách trình bày cũng
như hạn chế của chủ thể thực hiện là Hội đồng thẩm phán Tòa án Nhân dân tối cao, tác
giả cho rằng chúng ta có thể sử dụng cách thức đơn giản như phán quyết Bosman: Đăng
tải toàn văn phán quyết, chỉ bổ sung thêm từ khóa và ký hiệu nhận dạng án lệ. Bốn là,
cần tận dụng sức mạnh truyền thông trong việc hỗ trợ đưa án lệ vào đời sống. Ở Việt
Nam, do số lượng án lệ được công bố trong mỗi đợt là khá ít và tần suất cũng không
nhiều, nên chúng ta hoàn toàn có điều kiện về thời gian để đào sâu vào ý nghĩa của từng
án lệ và giới thiệu những nội dung này đến người dân thông qua các kênh báo đài, diễn
đàn khoa học.
Dưới góc độ của một nhà nghiên cứu pháp luật, nhìn án lệ trong mối quan hệ với phán
quyết Bosman, tác giả Phạm Vĩnh Hà đã đưa ra những quan điểm vừa giống với kiến
thức phổ thông trong bộ môn Lý luận chung về nhà nước và pháp luật, vừa có những
điểm khác biệt nhất định.

So sánh quan điểm của tác giả Phạm Vĩnh Hà với những vấn đề tương tự em đã
được học trong môn Lý luận về nhà nước và pháp luật:
Điểm giống nhau:
Về nguồn gốc hình thành án lệ, tác giả cùng cho rằng đó là từ những bản án, quyết định
của chủ thể có thẩm quyền (thường là thẩm phán Tòa án tối cao) khi giải quyết các vụ
việc cụ thể trong thực tế cuộc sống, được nhà nước thừa nhận có chứa đựng khuôn mẫu
để giải quyết các vụ việc tương tự về sau, nếu thẩm phán hoặc luật sư chứng minh được
tính chất tương tự.
Về vai trò của án lệ đối với pháp luật, tác giả cũng thừa nhận đó là một loại nguồn quan
trọng của pháp luật. Tức là án lệ cung cấp những căn cứ pháp lý để chủ thể có thẩm
quyền thực hiện hành vi thực tế, bổ sung cho pháp luật trong những trường hợp pháp
luật chưa quy định hoặc không thể chạm tới. Thậm chí ở các nước như Anh, Mỹ, án lệ
còn có vị trí cao hơn, được coi trọng hơn văn bản quy phạm pháp luật.
Điểm khác nhau:
Về phân loại án lệ, theo lý thuyết cho rằng có hai loại án lệ: một là án lệ tạo ra quy phạm
pháp luật, do thẩm phán tạo ra trong quá trình giải quyết vụ việc; hai là án lệ giải thích
các quy phạm thành văn mà còn mập mờ chưa rõ nghĩa, thẩm phán chỉ có quyền giải
thích mà không được phép tạo ra quy phạm mới. Tuy nhiên, tác giả Phạm Vĩnh Hà có
phần không đồng tình với lý thuyết này bằng việc lý giải phán quyết Bosman như một
loại án lệ đặc biệt: vừa là án lệ giải thích, vừa là án lệ tạo ra quy phạm pháp luật.

Về ưu điểm của án lệ, theo lý thuyết từ bộ môn Lý luận về nhà nước và pháp luật, ưu
điểm này được xét trong việc xây dựng và áp dụng án lệ. Cụ thể, vì án lệ bắt nguồn từ
thực tế cuộc sống, từ những vụ việc cụ thể được chủ thể có thẩm quyền giải quyết trên
cơ sở khách quan, công bằng, tôn trọng lẽ phải nên việc xây dựng án lệ không tốn nhiều
chi phí, dễ xác định và án lệ cũng dễ dàng được xã hội chấp nhận, áp dụng. Ở một góc
độ khai thác khác, tác giả Phạm Vĩnh Hà lại nêu ra những ưu điểm của án lệ trong mối
tương quan với hiệu lực của văn bản quy phạm pháp luật. Cụ thể, án lệ ít chịu sự phụ
thuộc về yếu tố thời gian, có thể được mở rộng về phạm vi không gian, cũng như về đối
tượng tác động khi được tiếp tục phát triển bởi các án lệ khác.
Về hạn chế của án lệ, tác giả cũng có ý cho rằng một trong những hạn chế của án lệ là
dễ dẫn tới sự tùy tiện của tòa án và nguy cơ lấn quyền của nghị viện. Tuy nhiên quan
điểm của ông là không nên xem điều này như một yếu tố tiêu cực nếu những quy phạm
được tạo ra từ hệ quả của án lệ được các chủ thể tôn trọng và thực hiện một cách tự giác
trong đời sống xã hội.
Về cách thức áp dụng án lệ, từ việc nhận thức về phán quyết Bosman trong thực tế, tác
giả nêu quan điểm rằng án lệ không chỉ được áp dụng khi vụ việc đã được đưa ra tòa án,
với chủ thể áp dụng là thẩm phán, mà án lệ còn có thể được áp dụng trong giai đoạn tiền
tố tụng. Khi đó, các bên biết được lợi thế và bất lợi của mình mà tự có được giải pháp
phù hợp. Hệ quả này có thể được xem như một điểm rất đặc biệt của án lệ trong điều
chỉnh các quan hệ xã hội, đặc biệt khi đó là các án lệ có tính phổ biến, tính khuôn mẫu
cực kỳ cao và có phần phán quyết rõ ràng, cụ thể.

Quan điểm của bản thân về vấn đề này:


Đời sống kinh tế xã hội luôn vận động nhanh chóng, không ngừng, đòi hỏi pháp luật
phải có sự điều chỉnh kịp thời. Nhưng không phải bao giờ nhà nước cũng kịp thời ban
hành các quy phạm pháp luật mới để đáp ứng nhu cầu đó. Luật thành văn dù có chặt
chẽ, rõ ràng, ổn định, song cũng có những hạn chế dẫn đến hệ quả là luật pháp có thể lạc
hậu hay thiếu hụt để giải quyết các vấn đề của cuộc sống. Án lệ chính là một dạng
nguồn quan trọng của pháp luật, bổ khuyết cho những nhược điểm đó. Với nhiều quốc
gia trên thế giới, án lệ là một trong những loại nguồn quan trọng và có lịch sử phát triển
lâu đời trong hệ thống pháp lý. Tuy nhiên ở Việt Nam, án lệ chỉ mới được công nhận và
áp dụng trong thời gian gần đây; vì vậy vẫn còn rất ít những nghiên cứu về vấn đề này.
Nghiên cứu này đưa ra cách nhìn tổng quan nhất về án lệ và việc áp dụng án lệ trong hệ
thống pháp luật Việt Nam.
1. Bài viết: “Tư duy về nhà nước và pháp luật trong thời đại ngày nay”, Đào Trí Úc,
Tạp chí Nhà nước và Pháp luật, số 7/2017
1. Tư duy về quản trị quốc gia
1.1. Những thách thức mới của quản trị quốc gia

Bài 10: “Quan niệm về pháp luật, một vài suy nghĩ”, Hoàng Thị Kim Quế , Tạp chí Nhà
nước và Pháp luật, số 6/2006

Từ xưa đến nay, việc đặt ra, bàn luận về khái niệm pháp luật, pháp luật là gì, các quan
niệm, cách tiếp cận khác nhau về pháp luật hay cảm nhận, đánh giá và thực hành pháp luật
trong cuộc sống luôn mang tính vừa hiện đại, vừa quen thuộc. Thực chất, khái niệm chỉ mang
tính tương đối vì khi mà thời cuộc thay đổi thì chính những khái niệm ấy cũng đồng loạt có sự
đổi thay. Khi mà các quan hệ xã hội, quan hệ pháp luật đã liên thông quốc gia thì các quy tắc
luật lệ cũng phải thay đổi cho phù hợp, “phải sửa mình để tồn tại”.
Pháp luật là một hiện tượng xã hội phức tạp với nhiều biểu hiện khác nhau. Suốt
chiều dài lịch sử, không một ai có thể đưa ra một khái niệm chính xác định nghĩa về pháp
luật. Nhìn chung, đây là một câu hỏi lớn buộc con người phải trả lời thông qua sự kết hợp
của tư duy và thực tiễn.
Về mối quan hệ tương quan với đạo đức, pháp luật được xác định: pháp luật có giá
trị đạo đức, pháp luật là hiện tượng đạo đức. Về phương diện công bằng và tự do, pháp
luật là đại lượng của công bằng và tự do. Từ góc độ chức năng, pháp luật được xác định là
công cụ, phương thức giải quyết tranh chấp. Về mối quan hệ với nhà nước, pháp luật là
phương tiện giới hạn nhà nước, là công cụ quản lý xã hội. Từ đó ta thấy được rằng pháp
luật có thể được nhận thức từ nhiều góc độ khác nhau.
Mỗi trường phái pháp luật đều có những ưu và hạn chế nhất định xét trên nhiều
phương diện. Vì vậy, ta cần kết hợp tính năng ưu việt của các trường phái và loại trừ
những điểm hạn chế. Nói tóm lại, khó có thể đưa ra một định nghĩa tổng hợp đáp ứng đầy
đủ các yêu cầu đảm bảo tính thống nhất của pháp luật; do đó, chỉ có thể thừa nhận sự tích
hợp tương đối giữa các quan niệm pháp luật khác nhau.
Mỗi trường phái pháp luật đều có những ưu và hạn chế nhất định xét trên nhiều
phương diện. Vì vậy, ta cần kết hợp tính năng ưu việt của các trường phái và loại trừ
những điểm hạn chế. Nói tóm lại, khó có thể đưa ra một định nghĩa tổng hợp đáp ứng
đầy đủ các yêu cầu đảm bảo tính thống nhất của pháp luật; do đó, chỉ có thể thừa nhận
sự tích hợp tương đối giữa các quan niệm pháp luật khác nhau.
Pháp luật được hiểu, sử dụng ở cả nghĩa khách quan lẫn chủ quan. Pháp luật khách
quan là các quy phạm pháp luật được áp dụng cho tất cả mọi người. Theo nghĩa chủ
quan, pháp luật được hiểu là sự tự do, khả năng lựa chọn hành vi sao cho phù hợp theo
quy định của pháp luật khách quan. Quan niệm vật chất về pháp luật tức pháp luật thực
định là hệ thống các quy phạm được ban hành và tồn tại chính thức trong xã hội; tùy
thuộc vào quan điểm, đặc trưng văn hoá riêng của mỗi quốc gia, dân tộc trong từng thời
kỳ lịch sử mà việc đánh giá vị trí, vai trò và giá trị của các hiện tượng pháp luật là rất
khác nhau.
Về cơ bản, pháp luật được định nghĩa một cách truyền thống: là hệ thống các quy
phạm pháp luật do nhà nước đặt ra hay thừa nhận thể hiện ý chí nhà nước của giai cấp
thống trị xã hội, có tính bắt buộc chung, được nhà nước đảm bảo thực hiện nhằm điều
chỉnh các quan hệ xã hội theo đường lối của nhà nước. Theo quan điểm của tác giả, định
nghĩa này vẫn đúng, tuy nhiên chưa được đầy đủ và phù hợp với đặc điểm của xã hội lúc
bấy giờ. Trước hết, tác giả đã đưa ra các cách để xác định định nghĩa pháp luật bao gồm:
thuộc tính tiêu biểu nhất, chức năng và mục đích tồn tại của pháp luật. Nhìn chung, định
nghĩa truyền thống trên mới chỉ đề cập đến pháp luật thực định, do vậy, một đặc thù vô
cùng nổi bật trong công tác nghiên cứu, áp dụng, giảng dạy và học tập luật của chúng ta
là nặng về phân tích quy phạm pháp luật.
Theo quan điểm của tác giả, bất kỳ một định nghĩa nào của pháp luật đều mang
tính tương đối vì nó bao gồm các thuộc tính cơ bản nhất của pháp luật. Ngày nay, pháp
luật không chỉ thể hiện ở phương diện giai cấp, mà còn từ phương diện nhân loại nữa.
Do vậy, pháp luật thực định phải phù hợp với lý trí, với các giá trị nhân đạo, dân chủ,
công bằng. Tác giả cho rằng: “Bản chất pháp luật là một thể thống nhất bao gồm hai
phương diện cấu thành: phương diện giai cấp và phương diện xã hội”. Từ phương diện
thứ hai, pháp luật là công cụ điều chỉnh chung của xã hội, đáp ứng các nhu cầu, lợi
ích… của xã hội.
Dù dưới quan điểm tiếp cận nào, pháp luật cũng được hiểu là hệ thống của trật tự
xã hội. Và hiện tại, định nghĩa pháp luật chủ yếu vẫn là về pháp luật thực định: chỉ rõ
tính chất, chức năng, vai trò, thuộc, tính, giá trị của pháp luật. Theo tác giả: “Pháp luật là
hệ thống các quy tắc xử sự có tính bắt buộc chung do nhà nước đặt ra hoặc thừa nhận,
được xác định chặt chẽ về hình thức thể hiện ý chí nhà nước của giai cấp thống trị trên
cơ sở ghi nhận các nhu cầu, các lợi ích của toàn xã hội, được nhà nước đảm bảo thực
hiện nhằm điều chỉnh các quan hệ xã hội vì sự trật tự, ổn định, phát triển bền vững của
xã hội; bảo đảm và bảo vệ các quyền con người”. Theo đó, mỗi cách tiếp cận pháp luật
đều có tính hợp lý nhất định những nhìn chung, pháp luật vẫn là công cụ để thiết lập trật
tự xã hội có hiệu lực bắt buộc và được kiểm soát, đảm bảo thực hiện bởi quyền lực nhà
nước. Ngoài ra, điều cốt lõi đặt ra cho quan niệm về pháp luật đó chính là hệ thống các
quy phạm pháp luật do nhà nước ban hành hay thừa nhận trên cơ sở ghi nhận các nhu
cầu, lợi ích của toàn xã hội.
2. Cho biết quan niệm về pháp luật của tác giả bài viết có điểm gì giống và khác so
với cách hiểu quan niệm về pháp luật mà em đã được học trong môn học Lý luận
chung về nhà nước và pháp luật
Điểm giống:
+Pháp luật có thể được nhận thức từ rất nhiều góc độ, cách thức khác nhau và bởi các
chủ thể khác nhau.
+Pháp luật là cái phản ánh cái đang tồn tại, cái có sẵn hay pháp luật là cái cần phải có.
+Trình bày về bản chất, quan niệm về pháp luật có tầm quan trọng đặc biệt trong số
phận phạm trù cơ bản của luật pháp.
+Định nghĩa về pháp luật như là hệ thống các quy tắc xử sự chung do nhà nước đặt ra
hay thừa nhận.
+ Mỗi định nghĩa pháp luật mang tính chính thức, phù hợp với tình hình hiện nay.
+ Pháp luật tồn tại và phát triển trên cả ba lĩnh vực: hệ thống các quy phạm pháp luật, tư
tưởng pháp luật, ý thức pháp luật và văn hóa pháp luật, thực tiễn pháp luật.
+ Bản chất của pháp luật gồm hai phương diện cấu thành: phương diện giai cấp và
phương diện xã hội.
+Pháp luật bảo đảm thực hiện để điều chỉnh các quan hệ xã hội nhằm thiết lập trật tự xã
hội.
Điểm khác:
+ Pháp luật thể hiện ý chí của nhà nước.
+ Nhà nước có thể dùng biện pháp cưỡng chế để đảm bảo cho pháp luật được thực hiện.
+ Được thể hiện dưới những hình thức nhất định: pháp luật tập quán, pháp luật án lệ,
văn bản quy phạm pháp luật.
+ Là những quy pham cụ thể, hiện hữu, xác định, thể hiện rõ ràng, chúng được ban hành
để điều chỉnh các quan hệ xã hội trong một phạm vi xác định.
+ Là phương tiện để công dân thực hiện bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình

Bài 11: .Bài viết:“Một số suy nghĩ về mối quan hệ giữa pháp luật và đạo đức
trong hệ thống điều chỉnh xã hội”,Hoàng Thị Kim Quế, Tạp chí Nhà nước và Pháp
luật số 7/1999
Bài viết “Một số suy nghĩ về mối quan hệ giữa pháp luật và đạo đức trong hệ thống điều
chỉnh xã hội” của tác giả Hoàng Thị Kim Quế đã cho thấy được mối quan hệ giữa pháp luật và
đạo đức ở nhiều khía cạnh khác nhau. Bên cạnh đó, mối quan hệ này được xem là một trong
những nghiên cứu cơ bản của khoa học pháp lý bởi lẽ như Đảng ta đã khẳng định “Quản lý xã
hội bằng pháp luật, đồng thời coi trọng giáo dục, nâng cao đạo đức”.
Vấn đề đầu tiên được tác giả đề cập đến chính là vị trí, vai trò của pháp luật và đạo đức trong
hệ thống các quy phạm điều chỉnh xã hội. Quan điểm đánh giá tổng thể và có hệ thống về pháp
luật là quan điểm mà theo đó phải đặt pháp luật trong mối tương quan với các quy phạm xã hội
khác. Trong hệ thống các quy phạm điều chỉnh xã hội, pháp luật và đạo đức giữ vị trí trung tâm,
có vai trò quan trọng nhất. Phạm vi điều chỉnh của pháp luật và đạo đức luôn bao quát tất cả các
lĩnh vực quan hệ xã hội. Những hoạt động, hành vi hằng ngày của mỗi cá nhân thường chịu sự
điều chỉnh của pháp luật và đạo đức.
Đạo đức được thể hiện trong tất cả quy phạm xã hội và tuỳ vào những điều kiện khác nhau
mà có mức độ khác nhau. Nói một cách phổ quát nhất thì đạo đức chính là tổng thề những
nguyên tắc, quan niệm, chuẩn mực xã hội về điều thiện, điều ác, về danh dự, lương tâm, lẽ công
bằng, vinh, nhục… Đạo đức luôn luôn gắn gắn với con người, với xã hội loài người. Ở đâu có
con người thì ở đấy sẽ xuất hiện quan hệ đạo đức, đạo đức. Vai trò của những yếu tố đạo đức tỉ
lệ thuận với sự phát triển của xã hội loài người. Hơn thế, mọi hành vi con người không những
đều phải được đánh giá từ tiêu chí đạo đức mà bên cạnh đó còn có sự điều chỉnh, bổ sung từ
pháp luật. Pháp luật luôn sẵn sàng hỗ trợ và bảo vệ các lợi ích mà các quy phạm xã hội khác điều
chỉnh, tuy nhiên pháp luật không thể điều chỉnh mọi quy phạm xã hội, môi quy phạm xã hội đều
có những ưu điểm và nhược điểm nên pháp luật khó có thể tác động đến các quan hệ tư tưởng và
tình cảm.
Thứ hai là sự thống nhất giữa pháp luật và đạo đức. Pháp luật và đạo đức đều có chức năng
chung là điều chỉnh hành vi của con người và các mối quan hẹ xã hội. Cả hai luôn hướng tới sự
công bằng, cái đúng, cái thiện, luôn bảo vệ con người và đều vì thiết lập nên những trật tự tốt
đẹp xây dựng xã hội, loại bỏ đi những thứ tiêu cực, cản trở sự phát triển của con người và xã hội.
Giúp mỗi cá nhân hình thành nên những suy nghĩ, nhận thức hành động đúng đắn, phân biệt
trắng đen. Đồng thời, đạo đức chính là cơ sở giúp xây dựng và áp dụng pháp luật, những quan
niệm về lẽ sống, hạnh phúc, lương tâm, công bằng hay nhân đạo góp phần quan trọng trong việc
xét xử, đưa ra quyết định của các cơ quan có thẩm quyền. Ngoài ra, thái độ, sự đánh giá, sự cảm
nhận, cách xử lý đối với hành vi của con người còn thể hiện sự thống nhất giữa đạo đức và pháp
luật.
Tiếp theo là sự khác biệt giữa pháp luật và đạo đức. Pháp luật và đạo đức tuy có quan hệ mật
thiết nhưng chúng không loại trừ nhau, không thể thay thế lẫn nhau. Về phạm vi điều chỉnh, có
những lĩnh vực quan hệ xã hội mà pháp luật không thuộc phạm vi điều chỉnh của đạo đức và
không phải bất kỳ vi phạm đạo đức nào cũng vi phạm pháp luật, phạm vi điều chỉnh của đạo đức
rộng hơn. Đạo đức thuộc yếu tố tinh thần không thể tách khỏi bản thân con người, còn pháp luật
chủ yếu điều chỉnh những mối quan hệ xã hội quan trọng, liên quan mật thiết đến sự tồn vong,
trật tự, an ninh của một quốc gia. Về hỉnh thức và mức độ thể hiện, pháp luật có mức độ thể hiện
cụ thể và chi tiết hơn so với đạo đức, pháp luật được thể hiện trong các văn bản giấy trắng mực
đen, đề cập trực tiếp đến mối quan hệ. Đạo đức thể hiện đa dạng và phổ quát hơn, thường tồn tại
chủ yếu dưới dạng bất thành văn, ca dao, tục ngữ, phong tục,…Bên cạnh đó, đạo đức thường đề
cập nhiều đến bổn phận hơn là quyền. Pháp luật sẽ điều chình hành vi con người theo quy định
của pháp luật, còn đạo đức sẽ điều chỉnh dựa trên cảm xúc, quan niệm, chuẩn mực. Về phương
pháp đảm bảo thực hiện, đạo đức thực hiện dựa vào những yếu tố kích thích nội tâm bên trong
con người. Ngược lại, pháp luật thực hiện bằng các hoạt động tổ chức, thuyết phục và cưỡng chế
Nhà nước, sự tự giác của con người trên nhận thức.
Cuối cùng là sự tác động qua lại giữa đạo đức và pháp luật, sự tác động biện chứng này được
thể hiện ở vai trò của pháp luật đối với đạo đức và ngược lại. Pháp luật được xây dựng, ban hành
nhất định phải dựa trên cơ sở đạo đức, phải lấy đạo đức làm gốc và phải phù hợp với đạo đức .
Pháp luật vừa bảo vệ và phát huy những nguyên tắc, chuẩn mực của đạo đức nhưng cũng vừa
hạn chế, loại bỏ những quan điểm đạo đức tiêu cực, lỗi thời, cổ hủ. Đạo đức là cơ sở, là môi
trường thuận lợi để tiếp thu, cảm nhận và thực hiện pháp luật. Pháp luật phải phù hợp với đạo
đức, không trái với đạo đức và đạo đức là phương tiện hỗ trợ, bổ sung cho pháp luật.
Tóm lại, mối quan hệ giữa đạo đức và pháp luật luôn gắn bó mật thiết với nhau, cả hai đều
luôn hỗ trợ, bổ sung cho nhau. Muốn quản lý tốt xã hội thì phải có sự kết hợp giữa pháp luật và
đạo đức.
2. Điểm giống và khác nhau trong quan điểm của tác giả Hoàng Thị Kim Quế
về mối quan hệ giữa đạo đức và pháp luật so với cách hiểu về những vấn đề tương
tự mà em đã được học trong môn học Lý luận chung về nhà nước và pháp luật.
- Điểm giống: đều cho rằng mối quan hệ giữa pháp luật và đạo đức là một mối
quan hệ mật thiết, bổ sung, hỗ trợ lẫn nhau, vừa thống nhất, vừa mâu thuẫn. Đạo đức là
cơ sở để xây dựng và ban hành pháp luật, ngược lại pháp luật giúp củng cố, bảo vệ, phát
huy những giá trị đạo đức tốt đẹp và loại bỏ những giá trị đạo đức cổ hủ, lỗi thời.
- Điểm khác: Tác giả không đề cập tới sự khác biệt chủ thể ban hành đạo đức và
pháp luật.
12. Bài viết: “Nhận thức về mối quan hệ giữa pháp luật với đạo đức”, Nguyễn
Văn Năm, Tạp chí Luật học, số 4/2006.
Để điều chỉnh hành vi con người có rất nhiều công cụ khác nhau, trong đó nổi bật nhất là
pháp luật và đạo đức.
Đạo đức là một khái niệm mang những ý nghĩa như nói lên những phẩm chất tốt đẹp của con
người, hay cũng có thể được hiểu là nhân cách, đức hạnh, phẩm hạnh. Những phẩm chất tốt đẹp
ấy được hình thành nên sau quá trình tu dưỡng, rèn luyện theo chuẩn mực đạo đức xã hội.
Pháp luật là tập hợp các quy định và quy tắc được nhà nước thiết lập hoặc công nhận để thể
hiện quan điểm và quan niệm của nhà nước, đồng thời đảm bảo việc thực thi chúng.
Pháp luật và đạo đức là hai khái niệm không thể tách rời, chúng vừa có sự thống
nhất .vừa có sự khác biệt và hai khái niệm này luôn có sự tác động qua lại, ảnh hưởng
lẫn nhau.

Những đặc điểm giống nhau giữa pháp luật và đạo đức:

- Đều giữ vai trò quan trọng đảm bảo cho xã hộ tồn tại và phát triển trong ổn
định, trật tự

- Đều mang tính quy phạm phổ biến, là những khuôn mẫu, chuẩn mực cho hành
vi con người

- Luôn có sự phù hợp ở mức độ nhất định

- Đều thuộc phạm trù xã hội, phản ánh tồn tại xã hội trong những giai đoạn phát
triển nhất định của lịch sử

- Trong xã hội có giai cấp, pháp luật và đạo đức vừa mang tính giai cấp vừa
mang tính xã hội.
Những điểm khác nhau giữa pháp luật và đạo đức:

Pháp luật Đạo đức

Con đường hình - Thông qua hoạt - Tự phát trong đời


thành động xây dựng nhà sống chung của
nước cộng đồng

Hình thức thể hiện - Thành văn và - Không thành văn:


không thành văn tục ngữ, ca dao,
- Phổ biến dưới phong tục, tập
hình thức văn bản quán…
quy phạm pháp luật - Thành văn: các
kinh, sách tôn giáo,
chính trị, văn học,
….
- Đa dạng
Tính xác định về - Chặt chẽ - Không chặt chẽ
hình thức - Xác định được - Mang tính khái
chủ thể trong các quát
điều kiện, hoàn - Không nêu ra các
cảnh biện pháp chế tài
- Nêu rõ hậu quả sẽ
phải gánh chịu

Phạm vi điều chỉnh - Chỉ điều chỉnh - Rộng hơn pháp


những quan hệ xã luật
hội bị chi phối bởi - Tất cả quan hệ xã
ý chí, lí trí, những hội mà chủ thể của
quan hệ xã hội có nó là những người
tầm quan trọng nhất có ý chí, lí trí, tình
định đối với đời cảm,
sống xã hội

Cách thức điều - Xác định quyền, - Xác định những


chỉnh nghĩa vụ cho chủ nghĩa vụ, bổn phận
thể cho chủ thể

Cơ chế điều chỉnh - Do nhà nước tiến - Do nhiều chủ thể


hành khác nhau tiến hành

Biện pháp đảm bảo - Biện pháp nhà - Yếu tố kích thích
thực hiện nước: cưỡng chế, nội tâm của con
người.

Sự tác động qua lại giữa pháp luật và đạo đức


- Sự tác động của pháp luật lên đạo đức:
+ Pháp luật ghi nhận những quan niệm, chuẩn mực đạo đức mà trước hết là giai
cấp thống trị
+ Pháp luật loại trừ những quan điểm, đạo đức lạc hậu, trái với giai cấp thống trị
+ Pháp luật góp phần ngăn chặn sự thoái hóa, xuống cấp của đạo đức, những
hành vi trái với thuần phong mĩ tục.
- Sự tác động của đạo đức lên pháp luật:
+ Đạo đức tác động đến việc hình thành các quan điểm, hệ thống pháp luật: nhà
nước thể chế hóa các quan điểm, tập quán thành pháp luật, tập quán pháp. Ảnh hưởng
mạnh mẽ nhất chính là đạo đức của giai cấp thống trị, giai cấp khác vẫn có nhưng ảnh
hưởng hạn chế.
+ Đạo đức tác động đến việc thực hiện pháp luật của các chủ thể: mỗi người đều
có đạo đức cá nhân khác nhau, do đó tùy vào mỗi người mà việc áp dụng pháp luật có
nghiêm chỉnh và đúng đắn không.

2. So sánh quan điểm về mối quan hệ giữa pháp luật và đạo đức trong bài
11,12.
Điểm giống
- Cả hai tác giả đều đề cập đến điểm giống, khác và sự tác động qua lại lẫn nhau giữa
pháp luật và đạo đức. Cả hai tác giả đều có chung quan điểm là pháp luật và đạo đức là
hai quy phạm có vị trí và vai trò quan trọng nhất đối với các quan hệ xã hội.
+ Sự thống nhất: pháp luật và đạo đức đều thuộc kiến trúc thượng tầng, có phạm vi
điều chỉnh rộng, bao quát tất cả các quan hệ xã hội
+ Sự khác biệt: cả hai tác giả đều cho rằng pháp luật và đạo đức có hình thức biểu
hiện khác nhau. Đạo đức đề cập đến bổn phận nhiều hơn quyền, đạo đức không tồn tại
hoặc ít tồn tại các biện pháp chế tài. Về phương pháp thực hiện, đạo đức nhờ vào yếu tố
kích thích từ nội tâm con người và dư luận xã hội. Pháp luật được đảm bảo thực hiện
bằng các biện pháp nhà nước.
+ Sự tác động qua lại: cả hai tác giả đều nhận định pháp luật được xây dựng trên
cơ sở đạo đức. Pháp luật vừa là công cụ vừa là phương tiện phát huy, bảo vệ, củng cố
các giá trị đạo đức có ích, tích cực và loại bỏ đi các giá trị đạo đức tiêu cực, lỗi thời, cổ
hủ, phản tiến bộ. Pháp luật và đạo đức có mối quan hệ tác động qua lại hỗ trợ, bổ sung
lẫn nhau.
Điểm khác
Tiêu chí Bài viết của tác giả Hoàng Thị Bài viết của tác giả Nguyễn
Kim Quế Văn Năm
Hình thức - Thành văn - Thành văn và bất thành văn
biểu hiện
của pháp
luật
Phạm vi - Đạo đức điều chỉnh các quan - Đạo đức điều chỉnh tất cả các
điều chỉnh hệ xã hội trực tiếp thể hiện tính quan hệ xã hội mà chủ thể là
chất hành vi của con người, con người có ý chí, lí trí, tình
những hành vi có thể đánh giá cảm.
từ phương diện, theo quan điểm
đạo đức.
Sự tác - Làm rõ hơn vai trò của đạo
động qua đức đối với pháp luật
lại giữa
pháp luật
và đạo đức

19.Bài viết: “Bàn về cơ cấu của quy phạm pháp luật”, Nguyễn Quốc Hoàn, Tạp chí
Luật học, số 1/2000)
Quy phạm pháp luật là “tế bào” của hệ thống pháp luật, là những viên gạch xây dựng
nên “tòa nhà” pháp luật, vì vậy việc tạo ra các quy phạm pháp luật đầy đủ và có cơ sở
khoa học là rất cần thiết để hoàn thiện hệ thống pháp luật. Chính nhờ vào những quy
phạm này mà chúng ta có thể đảm bảo tính hiệu quả và tính công bằng của pháp luật,
đồng thời giúp đảm bảo một xã hội công bằng và phát triển. Việc nghiên cứu quy phạm
pháp luật giúp ta hiểu rõ hơn bản chất của pháp luật và đồng thời tạo cơ sở lí luận cho
việc nghiên cứu các vấn đề khác. Tuy nhiên, vẫn còn nhiều quan điểm về cấu trúc quy
phạm pháp luật, nó vẩn chưa được đồng nhất trong khoa học pháp lí Việt Nam và nhiều
nước trên thế giới.
Được biết pháp luật là hệ thống quy tắc xử sự do nhà nước ban hành và đảm bảo thực
hiện, vì thế tính nhà nước là đặc trưng cơ bản của pháp luật. Tuy nhiên, cưỡng chế
không phải là cách duy nhất để nhà nước thực hiện chức năng, nhiệm vụ của mình.
Ngoài việc sử dụng các biện pháp cưỡng chế, thuyết phục còn là một phương thức hoạt
động cơ bản của các nhà nước, đặc biệt là nhà nước xã hội chủ nghĩa. Vì thế, nếu cho
rằng pháp luật chỉ được đảm bảo thực hiện bằng cưỡng chế của nhà nước thì không
hoàn toàn chính xác. Mặt khác, pháp luật mang tính bắt buộc chung là do “tế bào” của
nó có mối liên hệ chặt chẽ, mật thiết tạo nên hệ thống thống nhất, nếu có quy phạm pháp
luật nào đó xác định quyền của chủ thể này thì sẽ có quy phạm pháp luật tương ứng với
nó xác định nghĩa vụ của chủ thể khác, nếu có chủ thể pháp luật được hưởng quyền nào
đó thì chủ thể khác cũng đồng thời có khả năng được hưởng quyền như thế và họ có
nghĩa vụ tôn trọng các quyền của nhau đã được pháp luật ghi nhận. Tuy nhiên, nếu xét
đến quy phạm pháp luật cụ thể nào đó, ta không thể hoàn toàn cho rằng mỗi quy phạm
đều có tính chất bắt buộc như toàn bộ hệ thống pháp luật. Bởi vì, nếu quy phạm đó chỉ
rõ cho chủ thể được phép thực hiện hành vi nào đó, thì điều này đòi hỏi các chủ thể khác
phải tôn trọng quyền đó, còn chính chủ thể lại không bị ép buộc phải thực hiện quyền
của mình. Do đó, việc các chủ thể tuân thủ các quyền của chủ thể khác là đã tuân theo
những quy phạm mà trong đó chỉ định nghĩa vụ của họ, chứ không phải là thực hiện quy
phạm để xác định quyền cho chủ thể kia. Có những quy phạm pháp luật chỉ áp dụng cho
một loại chủ thể đặc biệt. Vì vậy, không thể nói rằng tất cả quy phạm đều có tính bắt
buộc chung đối với tất cả mọi người.
Từ đó, ta có thể đưa ra khái niệm về quy phạm pháp luật như sau: Quy phạm pháp luật
là quy tắc xử sự do nhà nước đặt ra hoặc thừa nhận và đảm bảo thực hiện nhằm điều
chỉnh các mối quan hệ xã hội.
Bộ phận quy định trả lời cho câu hỏi: Được làm gì? Không được làm gì? Phải được làm
gì? Và làm như thế nào? Nói cách khác, bộ phận quy định xác định cách xử sự cho chủ
thể mà nội dung đó là quyền và nghĩa vụ của chủ thể. Vì vậy nếu chúng ta cho rằng bộ
phận quy định nêu lên cách xử sự buộc chủ thể phải tuân theo khi gặp điều kiện và hoàn
cảnh được nên ra ở phần giả định của quy phạm pháp luật là không hoàn toàn chính xác
bởi nếu phần quy định chỉ xác định quyền cho chủ thể thì rõ ràng nó không thể được coi
là chủ thể bắt buộc phải tuân theo như đã phân tích ở trên. Do đó, bộ phận quy định xác
định khuôn mẫu hành vi cho chủ thể khi họ ở vào điều kiện, hoàn cảnh đã được xác định
trong phần giả định của quy phạm pháp luật. Tùy thuộc vào từng trường hợp, chúng ta
có thể xác định xem liệu khuôn mẫu hành vi đó có áp dụng cho chủ thể hay không.
Bộ phận chế tài theo quan điểm chung là đơn vị xác định các biện pháp ảnh hưởng mà
chính quyền dự tính áp dụng đối với những cá nhân hoặc tổ chức không tuân thủ đúng
những quy định trong luật pháp. Thực tế, chế tài là cách để bảo đảm việc thực hiện
nghĩa vụ pháp lý của chủ thể. Tuy nhiên, đây không phải là biện pháp duy nhất mà
chính quyền sử dụng để đảm bảo sự tôn trọng đối với luật pháp của chủ thể, như đã
được phân tích ở trên.
Các quy phạm pháp luật thường được chia thành ba phần: giả định, quy định và chế tài.
Tuy nhiên, khi nghiên cứu các quy phạm pháp luật, ta thường không thấy đầy đủ cả ba
phần này vì có những nội dung có thể áp dụng chung cho nhiều quy phạm pháp luật
hoặc do tính chất ngôn ngữ mà bộ phận nào đó của quy phạm pháp luật có thể được
trình bày ẩn. Ngoài ra, cũng có những quy phạm pháp luật không có phần chế tài do
nhiều lý do khác nhau, ví dụ như chưa có cơ chế hợp lí hoặc việc sử dụng biện pháp
thuyết phục hiệu quả hơn so với chế tài bắt buộc. Vì vậy, không phải tất cả các nghĩa vụ
pháp lý đều cần có phần chế tài mà có thể được đảm bảo bằng cách khen thưởng hoặc
gắn liền với lợi ích trực tiếp của chủ thể.
Các điểm được phân tích cho thấy tính phức tạp của cấu trúc quy phạm pháp luật. Điều
này mở ra hướng nghiên cứu mới về các quy phạm nhằm xác định sự cần thiết của việc
tồn tại các thành phần khác nhau trong từng hoàn cảnh. Không phải lúc nào chúng ta
cũng có đầy đủ ba yếu tố giả định, quy định và chế tài trong các quy phạm. Điều này rất
quan trọng trong việc nghiên cứu và làm rõ các hình thức điều chỉnh pháp luật và các
thành phần của cơ chế điều chỉnh pháp luật.

20. Bài viết: “Vấn đề cơ cấu của quy phạm pháp luật”, Nguyễn Quốc Hoàn, Tạp chí
Luật học, số 2/2004
Trong khoa học pháp lí hiện nay, có nhiều quan điểm khác nhau về cơ cấu quy phạm
pháp luật. Tuy nhiên, mỗi quan điểm đều thể hiện những ưu điểm và hạn chế nhất định.
Đến với quan điểm đầu tiên cho rằng cơ cấu của quy phạm pháp luật bao gồm giả định,
quy định và chế tài. Giả định là nêu lên những điều kiện và hoàn cảnh trong cuộc sống
và cách xử sự của cá nhân hay tổ chức trong những hoàn cảnh đó. Quy định nêu lên
cách xử sự, giải quyết của chủ thể khi gặp những điều kiện, hoàn cảnh được nêu trong
phần giả định. Chế tài là xác định những biện pháp áp dụng đối với chủ thể không thực
hiện đúng yêu cầu trong phần quy định của quy phạm pháp luật. Tuy nhiên ở quan điểm
này có một vài hạn chế. Thứ nhất là gây khó khăn trong việc phân chia, sắp xếp nội
dung của quy phạm pháp luật theo đúng từng phần. Thứ hai, việc quan niệm chế tài là
biện pháp để xử lý đối với chủ thể vi phạm chưa bao quát hết các biện pháp để đảm bảo
cho pháp luật được thực hiện, Bởi vì, bên cạnh những biện pháp chế tài còn có những
biện pháp khuyến khích đối với chủ thể thực hiện pháp luật.
Quan điểm thứ hai tiếp cận quy phạm pháp luật từ khía cạnh cấu trúc nội dung và có hai
ý kiến khác nhau. Ý kiến thứ nhất cho rằng quy phạm pháp luật chỉ gồm phần quy định
và phần mệnh đề. Phần quy định bao gồm tình huống của hành động của chủ thể: hành
động của chủ thể trong tình huống đó, thể thức hành động. Phần mệnh đề có hai loại là
mệnh đề phạm vi và mệnh đề độc lập. Ý kiến thứ hai tập trung phân tích cơ cấu của quy
phạm với các bộ phận của quy định. Ở quan điểm này đã làm sáng tỏ tính bản chất của
quy phạm pháp luật và phân biệt được nội dung nào là sự ghi nhận hoàn cảnh khách
quan, nội dung nào là ý chí của nhà nước và hành vi của chủ thể. Tuy nhiên vẫn còn hạn
chế chính là chưa làm sáng tỏ những biện pháp đảm bảo quy tắc được thực hiện. Tuy
nhiên, nó chỉ tập trung vào việc bảo đảm thực hiện quy phạm pháp luật bằng biện pháp
chế tài và không giải quyết được vấn đề bản chất của quy phạm pháp luật.
Xuất phát từ khái niệm quy phạm pháp luật là “quy tắc xử sự chung” và “được nhà nước
bảo đảm thực hiện”, cấu trúc của quy phạm được chia thành hai phần có mối quan hệ
mật thiết với nhau: phần quy tắc và phần bảo đảm. Khi xem xét cấu trúc của quy phạm
pháp luật phải chú ý. Thứ nhất, không phải quy phạm pháp luật nào cũng có đầy đủ các
bộ phận trong cấu trúc như lí thuyết. Thứ hai, một quy phạm pháp luật với một phần quy
tắc có thể kèm theo nó nhiều phần bảo đảm khác nhau. Thứ ba, giữa các quy phạm pháp
luật có mối quan hệ mật thiết với nhau. Ngoài hai phần cơ bản như trên thì quy phạm
pháp luật còn có các mệnh đề để giải thích các khái niệm pháp lý, xác định hiệu lực...
Quan niệm về cơ cấu quy phạm pháp luật như trên giúp dễ dàng phân biệt được hai khái
niệm về điều luật của văn bản quy phạm pháp luật và quy phạm pháp luật. Điều luật là
hình thức thể hiện nội dung của một hoặc nhiều quy phạm pháp luật. Vì vậy không thể
đồng nhất điều luật với quy phạm pháp luật. Thứ nhất, một điều luật có thể chỉ chứa
đựng một hoặc nhiều phần quy tắc hay một hoặc nhiều phần bảo đảm của các quy phạm
pháp luật khác nhau. Thứ hai, có những điều luật chỉ chứa đựng những mệnh đề của quy
phạm pháp luật như các khái niệm, các quy định mang tính định hướng hoặc những quy
định liên quan đến hiệu lực của các văn bản quy phạm hoặc các quy phạm.
Tóm lại, quan niệm này đã giải quyết được những vấn đề trong lý luận về nhà nước và
pháp luật, cũng như khắc phục những hạn chế của các quan điểm trước đây. Tuy nhiên,
việc chấp nhận quan điểm này cũng có ý nghĩa thực tiễn, tạo ra những quan niệm mới
trong việc xây dựng và ban hành các văn bản quy phạm pháp luật. Đồng thời, nó cũng
mở ra một hướng mới để làm sáng tỏ tính hệ thống của toàn bộ hệ thống quy phạm pháp
luật và cho phép phát triển và hoàn thiện lí thuyết về hệ thống pháp luật.
So sánh quan điểm của tác giả Nguyễn Quốc Hoàn với những kiến thức được học trong
môn Lý luận về nhà nước và pháp luật:

1. Giống nhau

- Việc phân chia các bộ phận trong cơ cấu quy phạm pháp luật theo quan điểm của tác giả
và theo môn Lý luận nhà nước và pháp luật đều dựa trên các câu hỏi: Chủ thể là ai? Khi nào? Ở
đâu? Chủ thể được làm gì? Chủ thể không được làm gì? Biện pháp của Nhà nước là gì?

- Đều cho rằng nội dung của các quy phạm pháp luật có quan hệ mật thiết với nhau.

- Đều cho rằng các điều luật chỉ chứa một phần của quy phạm pháp luật. Vì vậy, thông
thường các bộ phận của quy phạm thường được trình bày trong nhiều văn bản khác nhau.

- Các quy phạm pháp luật thường không có đầy đủ ba bộ phận, nhằm tránh sự trùng lặp
không cần thiết.

2. Khác nhau:

- Trong khi môn Lý luận Nhà nước và pháp luật tách riêng biệt ba bộ phận của quy phạm
pháp luật (phần giả định, quy định, chế tài) thì theo tác giả Nguyễn Quốc Hoàn, bộ phận quy
định và giả định thuộc bộ phận quy tắc, phần chế tài (các biện pháp mà Nhà nước đảm bảo thực
hiện) nằm trong phần đảm bảo.

21. Bài viết: “Một cách tiếp cận đối với quy phạm pháp luật”, Nguyễn Minh Đoan,
Tạp chí Luật học, số 4/2004.
Nghiên cứu về quy phạm pháp luật là một hoạt động rất quan trọng và cần thiết trong
việc hoàn thiện hệ thống pháp luật của một quốc gia. Qua việc nghiên cứu, chúng ta có
thể hiểu rõ hơn về các luật pháp và quy định được áp dụng trong xã hội, từ đó giúp cho
việc thực thi pháp luật trở nên chính xác và hiệu quả hơn. Nó còn giúp nâng cao ý thức
pháp luật trong xã hội và kĩ năng sống và làm việc theo pháp luật. Tuy nhiên, vấn đề này
vẫn còn nhiều thách thức, ví dụ như cấu trúc quy phạm pháp luật chưa được đồng nhất
trong khoa học pháp lí Việt Nam và nhiều nước khác trên thế giới.

1. Về khái niệm quy phạm pháp luật:

Pháp luật là bộ khung quy định gồm các luật, chính sách, nguyên tắc và quy định khác.
Nó không chỉ có tính quy phạm rộng mà còn phản ánh bản chất và hướng đi của nó
trong tương lai. Với cách tiếp cận này, không phải tất cả các quy định đều được coi là
pháp luật, chỉ những quy định chi tiết mới được xem là quy phạm pháp luật. Pháp luật là
hệ thống các quy định do nhà nước ban hành và đảm bảo thực thi, bao gồm cả quy tắc
xử sự và nguyên tắc pháp lý, chính sách và các quy định khác.
Trong xã hội, quy phạm xã hội là các quy tắc và tiêu chuẩn được sử dụng để điều chỉnh
các mối quan hệ giữa con người. Chúng giúp quản lý xã hội, phối hợp ý chí và tập trung
mục đích hoạt động của từng cá nhân để đạt được lợi ích và mục đích mong muốn, tạo
điều kiện cho sự ổn định và phát triển của xã hội. Có nhiều loại quy phạm xã hội, bao
gồm quy phạm đạo đức, tập quán, tổ chức chính trị xã hội, tôn giáo và pháp luật. Mỗi
loại quy phạm xã hội có đặc điểm và ảnh hưởng riêng lên các mối quan hệ xã hội.
Quy phạm pháp luật là một loại quy phạm xã hội, vì vậy nó vừa mang đầy đủ những
thuộc tính chung của các quy phạm xã hội vừa có những thuộc tính của riêng mình. Cụ
thể quy phạm pháp luật là những quy tắc về cách xử sự và hướng dẫn cho con người
trong những tình huống cụ thể. Nó quy định rõ ràng cách con người nên xử sự và giới
hạn của hành vi đó, bao gồm cả những hậu quả không mong muốn nếu không tuân theo
hoặc vi phạm. Bên cạnh đó, nó còn là tiêu chuẩn để đánh giá và giới hạn hành vi của
con người và các chủ thể tham gia vào các mối quan hệ, một mô hình để xác định tính
hợp pháp của hành vi của các bên và những người có chức vụ, quyền hạn và giúp phân
biệt được hành vi có tính hợp pháp và tuân thủ pháp luật hay không. Quy phạm pháp
luật là những quy định chung do nhà nước ban hành và đảm bảo thực hiện, nó được sử
dụng để điều chỉnh các mối quan hệ xã hội và thể hiện ý chí của nhà nước, là những quy
tắc chung áp dụng cho tất cả các tổ chức và cá nhân tham gia vào các mối quan hệ mà
nó quy định, dù có tính chất khác nhau. Hơn hết, quy phạm pháp luật có tính hệ thống,
giữa chúng có sự liên hệ mật thiết và thống nhất với nhau tạo nên những chính thể thống
nhất. Các quy phạm pháp luật của các nhà nước hiện đại chủ yếu là quy phạm pháp luật
thành văn. Số lượng và đối tượng tác động của các quy phạm pháp luật ngày một nhiều
hơn, trật tự ban hành, áp dụng và bảo vệ chúng ngày càng dân chủ hơn với sự tham gia
của đông đảo các thành viên trong xã hội. Nội dung của quy phạm pháp luật ngày càng
trở nên chính xác, chặt chẽ, rõ ràng và có tính thống nhất cao.
Tóm lại, quy phạm pháp luật là những nguyên tắc hành vi được đặt ra bởi nhà nước và
được thực thi để điều chỉnh các mối quan hệ trong xã hội, với mục đích cuối cùng là
đảm bảo sự ổn định và phát triển của đất nước

2. Về cấu trúc của quy phạm pháp luật

Pháp luật có tính độc lập tương đối, cấu trúc của nó bao gồm những thành phần tạo nên
quy phạm. Các quan điểm về cấu trúc của quy phạm pháp luật thường có nhiều tranh cãi. Tuy
nhiên, một cách tiếp cận phù hợp hơn là phân thành hai phần: phần giả định và phần mệnh
lệnh, trong đó quy phạm chứa câu hỏi về ai và khi nào, sẽ xử sự như thế nào hoặc hậu quả gì
cần phải gánh chịu.

a. Giả định

Phần giả định của quy phạm pháp luật nêu ra các hoàn cảnh và điều kiện mà quy phạm
pháp luật tác động đến chủ thể (tổ chức, cá nhân) nhất định. Các hoàn cảnh và điều kiện này có
thể liên quan đến hành vi của con người, sự biến đổi tự nhiên, thời gian và không gian. Phần
giả định giúp xác định chủ thể nào và trong điều kiện nào sẽ bị tác động của quy phạm pháp
luật. Việc xác định hoàn cảnh và điều kiện này cần chính xác, rõ ràng để tránh hiểu nhầm nội
dung của quy phạm pháp luật.

Trong quá trình thực hiện pháp luật, cần phải xác định rõ ràng đối tượng nào sẽ bị ảnh
hưởng bởi các quy định của pháp luật. Quy định này có thể đơn giản hoặc phức tạp và có thể
thay đổi do những sự thay đổi trong kinh tế, chính trị và xã hội, cũng như các quan điểm pháp
lý của nhà nước.

b. Chỉ dẫn:
Chỉ dẫn trong quy phạm pháp luật là những cách xử sự mà các chủ thể pháp luật buộc
phải thực hiện khi xảy ra những hoàn cảnh, điều kiện được nêu trong phần giả định của quy
phạm. Phần này thể hiện ý chí của nhà nước đối với các tổ chức hay cá nhân. Thông qua phần
chỉ dẫn, các chủ thể pháp luật biết được họ phải làm gì, được/không được làm gì, hưởng lợi ích
và gánh chịu hậu quả bất lợi gì khi xảy ra những hoàn cảnh, điều kiện đã nêu. Những chỉ dẫn
của nhà nước được nêu trong quy phạm pháp luật đối với các chủ thể có thể là:

- Những hành vi (cách xử sự) mà chủ thể được phép hoặc không được phép thực hiện;

- Những hành vi (cách xử sự) mà chủ thể thoả thuận được với nhau.

- Những hậu quả không mong muốn mà cá nhân phải chịu đựng có thể bao gồm
việc bị tước đi quyền lợi hoặc mất đi một quyền nào đó, cũng như phải đối mặt với
những khó khăn trong việc khôi phục lại những thiệt hại đã gây ra. Điều này có thể dẫn
đến sự mất tự do, tài sản, danh dự, sức khoẻ và tính mạng của chủ thể.
Chỉ dẫn của nhà nước trong quy phạm pháp luật chia thành hai nhóm: nhóm thứ nhất chỉ
ra quyền hoặc nghĩa vụ pháp lí của các tổ chức, cá nhân. Những chi dẫn loại này thường
trả lời cho câu hỏi: Tổ chức, cá nhân đã nêu ở phần giả định của quy phạm phải làm gì,
được làm gì, không được làm gì, làm như thế nào?. Nhóm thứ hai chỉ ra các biện pháp
bảo đảm cho pháp luật được thực hiện. Việc áp dụng biện pháp nào phụ thuộc vào chủ
thể có thẩm quyền và hoàn cảnh cụ thể.
Tóm lại, theo cách tiếp cận này, chúng tôi cho rằng lý thuyết về quy phạm pháp luật sẽ
gần gũi hơn và dễ hiểu hơn về cấu trúc của các quy định được thể hiện khác nhau trong
các luật.
So sánh quan điểm của tác giả Nguyễn Minh Đoan với kiến thức đã được học trong môn
Lý luận về nhà nước và pháp luật:

1. Điểm giống nhau:

- Khái niệm quy phạm pháp luật: đều được định nghĩa là quy tắc xử sự chung, do Nhà
nước ban hành và đảm bảo thực hiện để điều chỉnh các quan hệ xã hội.

- Trong cấu trúc của quy phạm pháp luôn có bộ phận giả định, đây là bộ phận bắt buộc.
Bộ phận này nêu lên hoàn cảnh, điều kiện cụ thể mà quy phạm pháp luật tác động lên các cá
nhân, tổ chức.
2. Điểm khác nhau:

Trong khi tác giả chỉ chia cấu trúc của quy phạm pháp luật thành 2 phần là giả định và chỉ dẫn,
thì trong môn Lý luận về nhà nước và pháp luật, quy phạm pháp luật được chia thành 3 bộ
phận:

a. Giả định: Đây là bộ phận không thể thiếu của quy phạm pháp luật. Trong bộ phận này
còn được phân loại ra thành giả định giản đơn và giả định phức tạp.

b. Quy định: là bộ phận nêu lên cách xử xự mà cá nhân hoặc tổ chức ở vào hoàn cảnh,
điều kiện đã nêu trong bộ phận giả định được phép hoặc buộc phải thực hiện. Bộ phận này có
vai trò mô hình hóa ý chí của Nhà nước, cụ thể hóa cách thức xử xự của các chủ thể khi tham
gia quan hệ pháp luật. Trong bộ phận này còn được phân loại ra quy định dứt khoát, quy định
không dứt khoát và quy định tùy nghi.

c. Chế tài: Đưa ra các biện pháp mà Nhà nước dự kiến áp dụng đối với cá nhân hoặc tổ
chức đã không thực hiện được mệnh lệnh của Nhà nước đã được nêu ở bộ phận quy định của
quy phạm pháp luật.

22. Bài viết: “Góp phần thống nhất nhận thức về khái niệm quan hệ pháp luật”, Lê
Vương Long, Tạp chí Luật học, số 4/2006

Thông qua bài viết “Thống nhất nhận thức về khái niệm quan hệ pháp luật” tác giả đã
đưa ra các khái niệm bao quát nhất của quan hệ pháp luật. Theo tác giả, quan hệ pháp
luật là khái niệm cơ bản của khoa học lý luận về nhà nước và pháp luật. Đồng thời là
đặc điểm điều chỉnh của các ngành pháp luật thể hiện ở cấu trúc của quan hệ pháp luật,
tỷ lệ giữa quyền và nghĩa vụ, cơ cấu và đặc điểm của chủ thể pháp luật, phương tiện tác
động đến hành vi của chủ thể. Thông qua bài viết đã đề cập đến một số khái niệm về
quan hệ pháp luật trong thực tiễn pháp luật nước ta. Trong khoa học luật dân sự, việc
xây dựng khái niệm và đặc điểm của quan hệ pháp luật ít được quan tâm với tư cách là
một nội dung nghiên cứu độc lập. Việc nghiên cứu các quan hệ pháp luật thường liên
quan đến từng quyền cụ thể và việc giải quyết các quyền, nghĩa vụ và nghĩa vụ pháp lý
nhất định. Tác giả cho rằng ưu điểm của cách tiếp cận này là giúp có được cái nhìn đa
chiều về sức sống của các quan hệ pháp luật trong thực tiễn cuộc sống. Ngoài ra, theo
cấu trúc của quan hệ pháp luật, giải pháp sinh động đa chiều trong thực tế cuộc sống.
Tuy nhiên, nhìn vào điều kiện có thể thấy nghĩa vụ là vấn đề chủ yếu của quan hệ pháp
luật và nghĩa vụ phải đi kèm với cách tiếp cận muốn có quyền tài sản. Nhưng trong các
học thuyết pháp lý Anh-Mỹ, ranh giới giữa “đúng” và “không đúng” không rõ ràng. Do
đó, khái niệm "các quyền chủ thể bị thiếu" hoặc thể chế "các hợp đồng được bảo vệ biến
mất". Nó cung cấp một cơ chế để giải quyết các vấn đề pháp lý mà không cần tòa án.
Khái niệm quan hệ pháp luật không được coi là khái niệm chính của hệ thống khái niệm
pháp luật vì một số lý do. Trong luật học xã hội chủ nghĩa, bảo vệ khái niệm quan hệ
pháp luật là một trong những khái niệm cơ bản của luật học, được giải thích dưới góc độ
triết học mác xít. C. Mác và Ph. Ăng-ghen chỉ ra rằng thực tiễn là tiêu chí quan trọng
nhất của lý luận. Và V.I. Lênin đã có những luận cứ khoa học về sự thống nhất giữa
khái niệm và thực tiễn. Vì vậy, việc nhấn mạnh cơ sở của khái niệm quan hệ pháp luật
có ý nghĩa xét từ góc độ khoa học pháp lý đặc biệt. Tuy nhiên, khái niệm luật học không
bao hàm các khái niệm pháp luật. Vì vậy, chưa có sự thống nhất về nội hàm của khái
niệm quan hệ pháp luật, khái niệm quan hệ pháp luật chưa được thừa nhận một cách
chính thức với tư cách là một khái niệm cơ bản của luật học. Công cuộc đổi mới ở nước
ta cho thấy, sự thay đổi về cấu trúc của các quan hệ xã hội đã làm cho nội dung và tính
chất pháp lý của các quy phạm pháp luật có một số thay đổi. Trong luật học Việt Nam,
có nhiều cách hiểu khác nhau về khái niệm quan hệ pháp luật. Nguyên nhân cơ bản là
chưa có sự thống nhất trong cách tiếp cận đối với quan hệ pháp luật. Ở nước ta, có 4
quan điểm được tác giả nghiên cứu và chỉ ra như sau:

Quan điểm thứ nhất: quan hệ pháp luật là hình thức pháp lí của các quan hệ xã hội.
Hình thức pháp lí này xuất hiện trên cơ sở sự điều chỉnh của pháp luật đối với các quan
hệ xã hội tương ứng và các bên tham gia quan hệ pháp luật đó đều mang những quyền
và nghĩa vụ pháp lí được quy phạm pháp luật quy định.

Quan điểm thứ hai: khẳng định quan hệ pháp luật là những quan hệ xã hội được quy
phạm pháp luật điều chỉnh.

Quan điểm thứ ba: quan hệ pháp luật là quan hệ xã hội đặc biệt nảy sinh do sự tác
động hữu cơ giữa quy phạm pháp luật và sự kiện pháp lý.
Quan điểm thứ tư: Quan hệ pháp luật là quan hệ có tính chất tác động qua lại về mặt xã
hội trên cơ sở những sự kiện pháp lí nhất định để qua đó chủ thể đạt được những mục
đích của mình do pháp luật quy định.

Qua các phân tích, xem xét thì tác giả đã đưa ra các nội dung cơ bản sau :

- Quan hệ pháp luật là một dạng quan hệ xã hội

- Các bên tham gia quan hệ pháp luật đều có quyền và nghĩa vụ pháp lí - Việc thực
hiện quyền và nghĩa vụ pháp lí chủ thể trong quan hệ pháp luật được đảm bảo bằng các
biện pháp nhà nước

- Cơ sở pháp lí làm phát sinh, tồn tại và thay đổi quan hệ pháp luật chính là các quy
định pháp luật.

Tóm lại, quan hệ pháp luật là một dạng thức của quan hệ xã hội có sự hiện diện của
quyền, nghĩa vụ pháp lí và được đảm bảo bởi nhà nước. Những quan hệ xã hội chưa đủ
các thuộc tính trên thì chưa thể thành quan hệ pháp luật. Quan hệ pháp luật là dạng quan
hệ xã hội phát sinh, tồn tại và hoạt động trên cơ sở pháp luật và được đặc trưng bởi sự
tồn tại và tác động qua lại của các quyền và nghĩa vụ pháp lý của các chủ thể.

So sánh bài 20,21,22

Giống nhau

Nhìn chung cả ba quan điểm đều cho rằng quy phạm pháp luật bao gồm những nội
dung như điều kiện, hoàn cảnh cụ thể, chủ thể, quy định cách xử sự của chủ thể, biện
pháp bảo đảm. Cụ thể như giả định là phần xác định hoàn cảnh, điều kiện nhất định có
thể xảy ra trong đời sống xã hội và cá nhân, tổ chức nằm trong phạm vi tác động của
quy phạm pháp luật đó; hay việc xác định quyền và nghĩa vụ của chủ thể khi gặp những
điều kiện hay hoàn cảnh được nêu trong phần giả định thể hiện trực tiếp ý chí của nhà
nước.

Khác nhau
Quan điểm của tác giả Nguyễn Quốc Hoàn trong bài viết “Bàn về cơ cấu của quy phạm
pháp luật” về khái niệm quy phạm pháp luật là quy tắc xử sự do nhà nước đặt ra hoặc
thừa nhận và đảm bảo thực hiện nhằm điều chỉnh các mối quan hệ xã hội. Quan điểm
của tác giả Nguyễn Minh Đoan trong bài viết “Một cách tiếp cận đối với quy phạm pháp
luật” về khái niệm quy phạm pháp luật là quy tắc xử sự chung do nhà nước ban hành và
bảo đảm thực hiện để điều chỉnh quan hệ xã hội nhằm đạt được những mục đích nhất
định. Về cơ cấu của quy phạm pháp luật, quan điểm trong bài “Vấn đề cơ cấu của quy
phạm pháp luật” cho rằng quy phạm pháp luật gồm phần quy tắc và phần bảo đảm.
Phần quy tắc xác định cách xử sự của chủ thể gắn liền với những hoàn cảnh, điều kiện
nhất định trong đời sống xã hội, bao gồm giả định và quy định. Phần bảo đảm xác định
những biện pháp mà nhà nước dự kiến áp dụng đối với chủ thể trong giả định của phần
quy tắc và với những điều kiện nhất định, gồm giả định hành vi và biện pháp bảo
đảm. Phần quy định xác định khuôn mẫu cho chủ thể khi họ ở vào hoàn cảnh hay điều
kiện trong phần giả định. Phần chế tài xác định biện pháp tác động mà nhà nước dự kiến
áp dụng đối với chủ thể không thực hiện đúng mệnh lệnh trong phần quy định.
Và tác giả khẳng định thêm không phải bất kì trong trường hợp nào cũng có được các
quy phạm pháp luật đầy đủ ba bộ phận. Về các loại biện pháp bảo đảm, bài viết “Vấn đề
cơ cấu của quy phạm pháp luật” đưa ra biện pháp khen thưởng hoặc chế tài. So sánh
điều luật với quy phạm pháp luật, tác giả của bài viết “Vấn đề cơ cấu của quy phạm
pháp luật” khẳng định quan điểm giúp ta dễ dàng phân biệt được quy phạm pháp luật
với điều luật. Còn trong bài “Một cách tiếp cận đối với quy phạm pháp luật” lại cho rằng
lý thuyết về quy phạm pháp luật sẽ gần với các điều luật hơn với cách tiếp cận của bài
viết.

CHƯƠNG 2: 19 BÀI INTERNET

1.Bản chất của quyền lực, M.Scott Peck.


Ở bài viết này, tác giả đã đề cập cho chúng ta về bản chất của quyền lực. Quyền lực sẽ
được chia làm hai loại: quyền lực chính trị và quyền lực tinh thần và huyền thoại tôn
giáo đã rất khó khăn trong việc vạch ra ranh giới khác biệt giữa chúng.
Ở đây, quyền lực chính trị được hiểu là khả năng bắt buộc người khác bằng nhiều cách
thức khác nhau phải làm theo ý mình muốn. Nó được thể hiện không phải từ chính chủ
thể mang quyền lực mà là những chức vụ, vị trí mà chủ thể đang mang, không hề liên hệ
đến nhận thức hay sự khôn ngoan. Quyền lực tinh thần lại khác, nó nằm hoàn toàn bên
trong cá nhân con người, là khả năng đưa ra quyết định, là ý thức. Bài viết đã đề cập
rằng, đôi khi có những việc, chúng ta tưởng chừng đã tường tận và thấu hiểu nhưng kết
quả thì không như chúng ta mong muốn, còn những việc tưởng chừng còn nhiều nghi
hoặc và không nắm chắc thì lại đạt được kết quả ngoài mong đợi. Có thể nói, khi còn
nhiều trở ngại trong lối suy nghĩ, ý thức càng được đề cao hơn, phát triển khả năng tư
duy để khai sáng trong nhận thức.
Để đi đến được quyền lực, chúng ta phải đủ nhận biết được cái nào đúng, cái nào sai,
đủ nhận thức được khi mình đang lạc lối, phải có hi vọng để được thoát ra, tìm một
hướng đi mới. Nhận thức không phải là ngày một ngày hai, nó phải đến từ từ và được
rút ra từ những bài học, chiêm nghiệm trong cuộc sống, từ những kiến thức được tích
lũy và vun đắp qua từng ngày để trở thành một phiên bản hoàn hảo hơn, giúp tạo bệ
phóng tới quyền lực.
Quyền lực thật sự sẽ gắn liền với sự khiêm tốn vui tươi, không ai mang quyền lực thật
sự sẽ khoe khoang và tân bốc chính mình, ngược lại họ luôn cho rằng nó không đáng kể
và dường như còn kết nối mình với Thiên Chúa.
Mọi thứ đều có hai mặt, khi con người càng nhận thức cao, hiểu rộng thì càng khó để
hành động vì phải đặt ra rất nhiều vấn đề và hệ lụy có thể xảy ra với hành động của
mình. Lúc này, quyền lực tinh thần không còn là nhận thức mà còn là khả năng duy trì
những quyết định với nhận thức càng lúc càng sâu rộng hơn. Quyền lực tinh thần có thể
đem đến nhiều niềm vui nhưng dường như còn mang lại cả sự cô đơn vì càng có tri thức
cao, người ta lại càng muốn tìm thấy một người đồng điệu về mặt kiến thức, một người
đủ đẳng cấp để cùng trao đổi, san sẻ, góp ý cho mình, không thể kiếm tìm được người
có cùng cấp độ nhận thức để giao tiếp cùng mình. Lấy ví dụ từ Đức Kitô, dù cố gắng
cách mấy thì cũng không có ai có thể hiểu người thật sự, không ai có đủ sự khôn ngoan
ấy cả.
Tóm lại, bản chất của quyền lực, hoặc là xuất phát từ chức vụ, thân phận mà một
người đang mang-quyền lực chính trị hay có thể tạm gọi là vật chất. Hoặc là xuất phát từ
tri thức-quyền lực tinh thần-ý thức của con người.

0. 2.Quyền lực cứng, quyền lực mềm, quyền lực thông minh-Bùi Việt Hương
Các định nghĩa về quyền lực đều thống nhất rằng quyền lực có năng lực làm thay đổi
hành động của chủ thể khác trong mối quan hệ quyền lực. Có ba cách cơ bản để thực
hiện được việc thay đổi hành vi của người khác theo ý mình mong muốn đó là: ép buộc,
đe dọa bằng bạo lực; dụ dỗ bằng lợi ích; thu hút, hấp dẫn họ bằng các giá trị tư tưởng.
Và hai cách đầu được biết đến như dùng quyền lực cứng cách còn lại là quyền lực mềm.

Quyền lực cứng là quyền lực có được dựa trên sức mạnh quân sự và kinh tế. Theo
Thomas Schelling, có hai nguồn chính của quyền lực cứng là sự đe dọa và dụ dỗ, chúng
liên hệ gần gũi với nhau.

Quyền lực mềm được thể hiện qua sự hấp dẫn và thuyết phục. Cha đẻ của thuyết
quyền lực mềm Joseph Nye cho rằng nó là khả năng đoạt được thứ mình muốn thông
qua sự hấp dẫn thay vì bắt buộc. Về bản chất, quyền lực mềm là khả năng tạo ra ảnh
hưởng với người khác bằng cách tác động tới hệ thống giá trị của người khác làm thay
đổi suy nghĩ và khiến người đó mong muốn chính điều mình mong muốn.
Quyền lực cứng và quyền lực mềm có liên hệ với nhau. Quyền lực cứng là sự tác động
từ bên ngoài đến các đối tượng của quyền lực và phương thức duy trì rất tốn kém, nguy
cơ chống đối cao nếu không đảm bảo được tính chính đáng. Quyền lực mềm nằm ở lẽ
phải, sự thuyết phục, tạo ra sự thay đổi từ bên trong, tạo nên tính chính đáng. Hai loại
quyền lực này tác động và củng cố lẫn nhau. Quyền lực cứng là hậu phương, cơ sở cho
quyền lực mềm được phát huy. Quyền lực mềm hấp dẫn khi được bắt nguồn từ thành
công về vật chất, những thứ do quyền lực cứng mang lại.

Quyền lực mềm là sự bồi đắp cho những khiếm khuyết của quyền lực cứng, trong
nhiều trường hợp chỉ có thể sử dụng hoặc quyền lực cứng hoặc quyền lực mềm và hoặc
phải kết hợp cả hai. Việc kết hợp chúng sẽ tạo ra quyền lực thông minh-một hình thức
sử dụng quyền lực ngày càng có ý nghĩa và ảnh hưởng trong thế giới hiện đại. Đây
không phải là loại quyền lực thứ ba.Tuy nhiên để sử dụng quyền lực thông minh là một
vấn đề khó bởi đòi hỏi cùng lúc có một quyền lực cứng đủ mạnh để cưỡng chế khi cần
và sự linh hoạt, nhạy cảm của người cầm quyền. Việc sử dụng quyền lực thông minh
đem lại hiệu quả cao nhất yêu cầu một cơ chế phản hồi linh hoạt từ phía người dân, giúp
cho chính quyền được củng cố cả quyền lực mềm và cứng, cân bằng giữa tính hiệu quả
trong sự hoạt động của nhà nước và tham gia của người dân. Hơn thể, yêu cầu phải có
những người lãnh đạo linh hoạt khôn khéo, theo đó là người dân phải tự nguyện, tự giác
để cùng nhau cải thiện chất lượng đời sống, trình độ của người dân.

Dù là bất kì loại quyền lực nào thì điều quan trọng là phải biết sử dụng chúng hợp lí
trong từng trường hợp. Hơn nữa, phải nhận thức đúng ý nghĩa của chúng để có thể củng
cố quyền lực hợp lý, tạo nên sức mạnh tối đa của quốc gia.
0. 3.Quốc hội Việt Nam-Những vấn đề lí luận và thực tiễn
Chức năng của Quốc hội chính là các phương thức hoạt động, cá mặt hoạt động, các
phương thức tác động của Quốc hội. Quốc hội nước ta là cơ quan đại diện của nhân dân,
cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất và là cơ quan duy nhất có quyền lập hiến, lập
pháp. Về mặt lí luận, Quốc hội không chi thực hiện lập pháp mà còn ở những lĩnh vực
hành pháp, tư pháp tuy nhiên lại dễ dẫn đến hiểu lầm Quốc hội là cơ quan toàn năng.
Tình trạng này đã dẫn đến hiệu quả không cao và làm sai lệch bản chất của Quốc hội.
Đầu tiên, vấn đề là phải nâng cao hoạt động lập pháp. Hiện nay, các văn bản luật có
chất lượng không cao vì phần lớn chúng là “luật khung”, cơ chế giám sát của Quốc hội
cũng chưa chặt chẽ. Thứ nhất, cần phải có sự thẩm định chép, phản biện và trao đổi
nhiều quan điểm. Thứ hai, Quốc hội cần phải thực hiện quyền lập pháp trực tiếp, nghĩa
là phải tự mình soạn thảo các dự án luật. Quốc hội cần lập ra “Tiểu ban chuyên trách các
dự án luật” sẽ bao gồm các đại biểu Quốc hội liên quan đến dự án luật đó và các đại
biểu có chuyên môn. Tiểu ban không chỉ thẩm định mà còn chủ động soạn thảo, có quan
điểm lập pháp độc lập so với quan điểm của các cơ quan của Chính phủ. Hai bên sẽ
phản biện lại dự thảo luật của nhau nhằm đảm bảo tính khoa học của dự thảo luật. Trong
cơ chế này, Uỷ ban Pháp luật đóng vai trò rất quan trọng trong các Tiểu ban dự án luật
và chịu trách nhiệm chính về kĩ thuật lập pháp. Thực tế hiện nay, nhiều văn bản chứa
đựng các điều khoản cần phải được sửa đổi, bổ sung nhanh chóng nhằm đáp ứng yêu
cầu do thực tiễn đặt ra và các Tiểu ban chuyên trách của Quốc hội sẽ trực tiếp làm luật
và sửa luật, qua đó sẽ tăng cao được quyền lập pháp.
Bên cạnh đó hoạt động quyết định ngân sách cũng là một hoạt động rất quan trọng.
Hoạt động duyệt chi ngân sách và hoạt động ra những quyết định quan trọng có mối liên
hệ chặt chẽ với nhau. Quốc hội với vị trí, chức năng của mình có quyền và cần phải yêu
cầu cụ thể đối với Chính phủ trong việc hệ thống xây dựng những chủ trương, chính
sách nhanh chóng để đảm bảo quyền lợi của nhân dân. Cụ thể phải bổ sung một số
quyền hạn của Quốc hội trong việc yêu cầu, đề ra đường lối chủ trương để trên cơ sở đó
Chính phủ làm ngân sách. Phải biết cụ thể hóa nó, góp phần thực hiện bởi các tổ chức có
liên quan.
Để công việc mang lại kết quả cao, ngoài phát huy quyền làm chủ thì không thể thiếu
được cơ chế kiểm tra, giám sát hiệu quả. Hoạt động giám sát của Quốc hội được thực
hiện bởi nhiều cơ quan, tổ chức, tác giả cho rằng, điều đó không đạt được hiệu quả cần
thiết. Đồng thời cũng cho rằng thành lập một Uỷ ban Giám sát Quốc hội sẽ hiệu quả
hơn. Chức năng chủ yếu của nó vẫn là giúp Quốc hội thực hiện quyền lập pháp, tư pháp.
Ví dụ đối với các hành vi trái pháp luật, văn bản vi phạm Hiến pháp, Uỷ ban Quốc hội
có quyền đình chỉ hiệu lực ngay. Tiếp theo, cần thực hiện cơ chế giám sát tối cao hoàn
thiện hơn qua các Tòa hành chính-xét xử các khiếu kiện của công dân về các hành vi vi
phạm pháp luật của các viên chức, công chức nhà nước, sự vi hiến của các văn bản pháp
luật của các cơ quan nhà nước có thẩm quyền. Trong tương lai kiến thức pháp luật được
phổ biến rộng rãi sẽ giúp các tòa hành chính phát huy hiệu quả. Cuối cùng, rất cần một
cơ quan giám sát độc lập có thể phát hiện, xử lý các trường hợp ban hành văn bản pháp
luật trái Hiến pháp, pháp luật. Cơ quan này phải có vị trí độc lập, có chức năng, thẩm
quyền do Quốc hội quy định, có khả năng phán xét khách quan về tính hợp hiến của các
văn bản pháp luật do các cơ quan nhà nước trung ương ban hành cũng như các hành vi,
hoạt động của các viên chức cấp cao của Quốc hội và Chính phủ.
4. Bản chất đang thay đổi của quyền lực
Có nhiều định nghĩa về quyền lực: khả năng làm việc gì đó, khả năng đạt được kết quả
mà mình mong muốn, khả năng tác động hành vi của người khác .Vậy quyền lực là khả
năng gây ảnh hưởng lên hành vi cuả người khác để đạt được kết quả mình mong muốn.
Quyền lực luôn luôn phụ thuộc vào bối cảnh trong đó các mối quan hệ tồn tại với nhau.
Các chính trị gia thực dụng và người thường cho rằng những vấn đề về hành xử và động
lực là quá phức tạp. Vì vậy, họ dùng một định nghĩa thứ hai về quyền lực và xem nó đơn
giản là sự sở hữu khả năng hoặc nguồn lực có thể tác động đến hệ quả mong muốn. Khi
quyền lực được xem là đồng nghĩa với nguồn lực tạo ra nó, sẽ xuất hiện nghịch lý là
người có nhiều quyền lực không phải lúc nào cũng đạt được hệ quả mong muốn.
Nguồn lực của quyền lực không dễ chuyển hóa thành kết quả mong muốn giống như
tiền bạc. Biến đồi nguồn lực thành quyền lực theo nghĩa đạt đuợc ước nguyện của mình
đòi hỏi phải có chiến lược bài bản và tài lãnh đạo khéo léo.
Tác giả nhắc đến quyền lực mềm, cách gián tiếp để để đạt được ước nguyện có khi còn
được gọi là “bộ mặt thứ hai của quyền lực”. Quyền lực mềm, vốn lôi cuốn các đối tác
mong muốn đạt được điều mà bạn cũng muốn, tạo điều kiện để hợp tác hơn là cưỡng
chế. Quyền lực mềm không đơn thuần đồng nghĩa với ảnh hưởng. Bởi vì dù sao ảnh
hưởng cũng có thể xuất phát từ quyền lực cứng bằng răn đe hay mua chuộc. Quyền lực
mềm cũng hàm chứa nhiều hơn là tính thuyết phục hay khả năng tranh biện, mặc dù đây
là một trong những thành tố quan trọng.
Một cách hiểu khác về sự khác biệt giữa quyền lực cứng và quyền lực mềm là xem xét
tất cả các phương cách được dùng để đạt được kết quả mong muốn. Quyền lực cứng và
quyền lực mềm liên hệ với nhau vì đấy là hai khiá cạnh của cùng một năng lực nhằm đạt
được mục tiêu qua ảnh hưởng lên hành vi ngưởi khác. Hai dạng quyền lực chỉ khác nhau
về mức độ, xét về bản chất hành vi và tính hữu hình của nguồn lực. Trên chính trường
quốc tế, nguồn lực sản sinh ra quyền lực mềm thường xuất phát từ các giá trị mà một tổ
chức hoặc quốc gia thể hiện qua nền văn hoá, qua những ví dụ đưa ra qua phương thức
hoạt động và chính sách trong nước cũng như phương pháp xử lý các mối quan hệ bên
ngoài.
Quyền lực mềm không phụ thuộc vào quyền lực cứng. Quyền lực mềm của một quốc
gia dựa trên ba nguồn lực chính: nền văn hoá (ở những điểm thu hút), giá trị về chính trị
(áp dụng trong và ngoài nước), và chính sách đối ngoại (khi được cho là hợp pháp và
phù hợp đạo đức).
5. Quyền lực mềm và ảnh hưởng tới chính sách đối ngoại của Mỹ dưới chính quyền
Obama, Nguyễn Văn Dũng.
Quyền lực mềm được hiểu là dùng sự thuyết phục, các biện pháp ôn hòa và phi bạo
lực. Các nhân tố tác động đến việc sử dụng quyền lực mềm của Hoa Kì dưới thời tổng
thống B. Obama gồm: khách quan là bối cảnh quốc tế, chủ quan là tình hình nội bộ của
Hoa Kì và nhân tố cá nhân. Là một người sinh ra trong gia đình bình dân, ông là người
Mĩ gốc Phi đầu tiên trở thành tổng thống của Hoa Kỳ/, ông luôn tự hào về nguồn gốc
của mình và ủng hộ các chính sách cho người nhập cư, kêu gọi hòa bình giữa các dân
tộc trên thế giới.
Quyền lực ấy được thông qua các biện pháp chính yếu như: ngoại giao ôn hòa, đa
phương; giải quyết các vấn đề bằng biện pháp hòa bình, thúc đẩy nhân quyền…Qua các
sự kiện như: rút quân ở Iraq, kêu gọi các nước đồng minh và các tổ chức quốc tế hỗ trợ
Iraq tái thiết sau chiến tranh, nỗ lực kết thúc chiến tranh tại Afghanistan đã thể hiện
được nỗ lực giải quyết bằng biện pháp ôn hòa của ông. Dưới thời tổng thống B. Obama,
các chính sách tăng cường liên kết khu vực và kinh tế không ngừng được triển khai với
các nước: Trung Quốc, Ấn Độ, các nước ASEAN,... Thiết lập chương trình hợp tác với
APEC, xây dựng APEC như một tổ chức lãnh đọa cấp cao quan trọng nhằm thực hiện
mục tiêu thúc đẩy hội nhập kinh tế và các liên kết thương mại khắp Thái Bình Dương ,
xây dựng TPP. Các giá trị Mĩ được phổ biến trên phạm vi toàn cầu: thúc đẩy dân chủ,
nhân quyền ở châu Phi, Trung Đông, châu Á; xây dựng nền ngoại giao công chúng. Mở
rộng phạm vi hợp tác an ninh-quốc phòng bằng cách tăng cường hiện diện quân sự, hỗ
trợ nhân đạo thiên tai …
Kết quả là Hoa Kì đã khôi phục và ổn định được kinh tế, thực hiện cam kết kết thúc
chiến đấu ở Iraq và Afghanistan, giúp hỗ trợ tái thiết sau khi rút quân đội khỏi nơi đây.
Về mặt chiến lược đã ghi dấu ấn ngoại giao tại châu Á và một số khu vực, xây dựng
nhiều mối quan hệ và cam kết về các mục tiêu phát triển bền vững toàn cầu. Qua đó,
hình ảnh của Hoa Kì trên thế giới đã được thay đổi ngoạn mục.
Bên cạnh đó vẫn tồn tại một số hạn chế nhất định. Trong khi Trung Quốc đang không
ngừng bành trướng sức mạnh kinh tế quân sự mà Hoa Kì lại chủ trương ngoại giao ôn
hòa thì lại tạo điều kiện để Trung Quốc bành trướng. Càng nhân nhượng thì Trung Quốc
càng lấn tới và gây ra nguy hiểm đến vị thế của Hoa Kì. Một phần cho rằng chính sách
ngoại giao của tổng thống O. Bama là quá mềm yếu và làm mất đi hình ảnh mạnh mẽ
cần thiết của một cường quốc như Hoa Kì. Quyền lực mềm của Hoa Kì chỉ được thực
hiện tốt khi có sự hợp tác của các bên liên quan. Chắc chắn rằng quyền lực mềm không
thể thực hiện được nếu không có sự hỗ trợ của quyền lực cứng, nếu không có tiềm lực
kinh tế và quân sự đủ mạnh thì quyền lực mềm trong ngoại giao dưới thời Obama không
thể thực thi, không thể đứng độc lập một mình.
6.Cách mạng thông tin, các chủ thể phi quốc gia và sự phân tán quyền lực phần I
Cuộc cách mạng thông tin đương đại bắt nguồn từ những tiến bộ kỹ thuật nhanh
chóng về máy tính, truyền thông và các phần mềm vốn giúp cho chi phí xử lý và truyền
tải thông tin giảm xuống một cách đáng kể. Đặc tính quan trọng nhất của cuộc cách
mạng thông tin không phải là tốc độ truyền thông giữa các quốc gia giàu có và quyền
lực. Thay đổi quan trọng nhất của cuộc cách mạng thông tin là việc chi phí truyền tải
thông tin giảm đáng kể. Càng ngày, chi phí truyền thông càng giảm nhưng lượng thông
tin được truyền tải thì càng lớn hơn rất nhiều lần. Những thay đổi sâu sắc trong hai
ngành công nghiệp có liên quan là máy tính và truyền thông, đôi khi được gọi là “cuộc
Cách mạng Công nghiệp lần thứ ba”, đang thay đổi bản chất của các chính phủ, chủ
quyền quốc gia và tạo ra một sự phân tán quyền lực.
Trong quá trình hình thành và phát triển đất nước, từng cuộc cách mạng công nghiệp
diễn ra luôn đem lại những tác động to lớn đến kinh tế, văn hóa, chính trị, xã hội. Sự ra
đời của các phương tiện truyền thông đại chúng và phát thanh truyền hình hay việc máy
tính càng nhỏ hóa, lượng thông tin truyền đạt ngày cao gắn liền với sự thay đổi về chính
trị. Sự phổ biến của thông tin làm cho quyền lực được phân tán rộng rãi hơn, và giờ đây
những thiết chế không chính thức có thể phá vỡ thế độc quyền của những cơ quan nhà
nước truyền thống. Tốc độ lan truyền nhanh của internet khiến cho tất cả mọi chính phủ,
cả chính phủ Mỹ lẫn các nước khác trên thế giới, sẽ có ít cơ hội kiểm soát các chương
trình nghị sự của họ hơn.
Trong các xã hội văn minh, các tổ chức và các cộng đồng ảo ngày càng phát triển trên
mạng internet và vượt qua biên giới tài phán theo lãnh thổ, hình thành nên các mẫu hình
quản trị riêng của mình. Hiện nay, khái niệm về chủ quyền đang không ngừng thay đổi,
các yếu tố, mối quan hệ quốc tế giữa các quốc gia thay đổi. Khi chi phí internet giảm
đáng kể đã tạo điều kiện cho hàng triệu người được tiếp cận thông tin nhiều quốc gia
trên thế giới.
Vấn đề về chủ quyền quốc gia là đề tài tranh cãi nóng bỏng trong nền chính trị thế
giới hiện nay. Tuy nhiên cuộc tranh luận về số phận của các quốc gia chủ quyền đang
được định hình một cách quá kém cỏi. Ngày nay tất cả mọi người từ những kẻ tin tặc
cho tới những tập đoàn lớn đang phát triển những quy tắc và chuẩn mực riêng của
internet mà không bị kiểm soát bởi những thể chế chính trị chính thức. Thật ra chỉ là tấn
công vào các lĩnh vực mà các quốc gia chưa kiểm soát hiệu quả. Khi người dân tham gia
vào các cộng đồng intranet sẽ không ảnh hưởng đến sự trung thành của họ mà sẽ khác
với những công dân điển hình trước khi thời đại internet bắt đầu.
Công nghệ thông tin, đặc biệt là internet, đã giúp đơn giản hóa nhiệm vụ điều phối và
là cánh tay trợ giúp đắc lực cho những nhà hoạt động nhân quyền. Tuy nhiên, các nhà
lãnh đạo chính trị, đặc biệt là ở các nước thuộc địa trước đây, thường dựa vào sự bảo vệ
mà chủ quyền pháp lý mang lại để chống lại sự can thiệp từ bên ngoài.
Nhiều phong trào bùng nổ nhưng không chấm dứt sự tồn tại của các quốc gia có chủ
quyền, nhưng chúng thực sự khiến cho nền chính trị của các quốc gia trở nên dễ thay đổi
hơn và không còn bị bó hẹp trong chiếc vỏ của các quốc gia nữa.
7. Cách mạng thông tin, các chủ thể phi quốc gia và sự phân tán quyền lực phần
II.
Những chủ thể liên quốc gia có vai trò ngày càng gia tăng. Thế kỉ XVIII, các
quốc vương là người đại diện cho 1 quốc gia. Thế kỷ XIX, 1 tầng lớp tinh hoa hơn kiểm
soát các chính sách đối ngoại. Nửa sau thế kỷ XX, chương trình nghị sự của nền chính
trị quốc tế đang ngày càng được mở rộng hơn cuốn hút sự tham gia của hầu như mọi chủ
thể. Các xã hội tương tác với nhau ở nhiều cấp độ hơn. Những lợi ích chồng chéo này
luôn luôn tồi tại, và thường phổ biến trong lĩnh vực kinh tế và xã hội hơn là trong các
vấn đề an ninh quân sự truyền thống. Hơn nữa, khi một số nhóm lợi ích trong nước có
được khả năng liên lạc và tương tác một cách trực tiếp với các nhóm lợi ích ở các quốc
gia khác, chúng sẽ tạo ra một hình thái chính trị thế giới mới. Hai mô hình của chính trị
thế giới gồm: mô hình truyền thống của nền chính trị quốc tế và mô hình liên quốc gia.
Khi nói về chính trị của sự phụ thuộc lẫn nhau chúng ta không nên cho rằng mọi thứ đều
được định hình bởi mô hình truyền thống của các mối quan hệ giữa các chính phủ với
nhau. Một trong những đặc điểm nổi bật của mối quan hệ phụ thuộc lẫn nhau phức tạp
chính là vai trò quan trọng của các chủ thể khác bên cạch các quốc gia. Các quốc gia có
vẻ như bất khả xâm phạm nếu nhìn tổng thể, nhưng nếu xem xét kỹ hơn ta sẽ thấy có
những lĩnh vực các quốc gia rất dễ bị tổn thương hơn nhiều so với những lĩnh vực khác.
Những lĩnh vực này thường có xu hướng hoạt động liên quốc gia để cải thiện tình hình.
Nói tóm lại, các quốc gia vẫn là chủ thể quan trọng nhất của chính trị quốc tế,
nhưng như những người theo chủ nghĩa kiến tạo đã cảnh báo, nếu nói như vậy nghĩa là
bạn đã bỏ quên một số yếu tố quan trọng khác mà chúng ta cần phải biết về chính trị và
những sự xung đột trong một thế giới phụ thuộc lẫn nhau.
Các tổ chức phi chính phủ (NGO)
Các tổ chức tư nhân ngày càng tăng trưởng hoạt động liên quốc gia. Mặc dù
không được bầu ra một cách dân chủ nhưng những tổ chức này đôi khi có thể giúp phát
triển những chuẩn tắc mới. Xét về tài nguyên quyền lực, những tổ chức mới này hiếm
khi sở hữu sức mạnh cứng nhưng cuộc cách mạng thông tin đã tăng cường đáng kể sức
mạnh mềm của họ. Nếu xét tới quyền lực của các nhà biên tập uy tín hay những nhân
vật có thể định hướng thông tin trong thời đại internet, có một cách đơn giản để đánh giá
tầm quan trọng ngày càng gia tăng của các tổ chức liên quốc gia khi nhìn vào số lần
được nhắc đến trên các phương tiện truyền thông đại chúng chính thống. Vì thế, các tổ
chức này thường xuyên tham gia vào cuộc chiến giành sự quan tâm của những nhà biên
tập có ảnh hưởng.
8. Tương lai của quyền lực toàn cầu.
Trong thế kỷ 21, đối ngoại thông minh sẽ cần kết hợp giữa sức mạnh cứng của sự cưỡng
chế, thanh toán với sức mạnh mềm của sự lôi cuốn và thuyết phục. Vậy những nguồn
lực nào sẽ tạo thành quyền lực trong thế kỷ này? Quan niệm phổ biến cho rằng nhà nước
với quân đội mạnh sẽ chiếm ưu thế, nhưng trong thời đại thông tin của thế kỷ 21, có thể
nhà nước (hay các chủ thể phi nhà nước) với những câu chuyện thú vị nhất sẽ giành
chiến thắng. Đến giờ, việc đo lường cân bằng quyền lực toàn cầu đã khó, nhưng việc
làm thế nào phát triển những chiến lược hiệu quả để tồn tại trong thế giới mới này càng
khó hơn. Hai sự thay đổi quyền lực quan trọng đang diễn ra trong thế kỷ này là chuyển
dịch quyền lực và phân tán quyền lực.
Ngày nay, sức mạnh toàn cầu được phân phối theo mô thức giống như trò cờ vua
trên ba tầng khác nhau. Ở bàn cờ đầu tiên, quyền lực quân sự vẫn mang tính đơn đơn
cực, và Mỹ sẽ còn vượt trội trong tương lai gần. Nhưng ở bàn cờ thứ hai, quyền lực kinh
tế đã thể hiện nhiều cực hơn trong hơn một thập niên trở lại đây, với Trung Quốc, châu
Âu, Nhật Bản, và Mỹ là những người chơi chính. Bàn cờ cuối cùng bao gồm một tập
hợp các quan hệ xuyên quốc gia, nơi các tập đoàn đa quốc gia lưu chuyển khối lượng
tiền của khổng lồ, nơi những kẻ khủng bố vận chuyển vũ khí, và những tin tặc đe dọa an
ninh mạng (quyền lực bị phân tán).
Khi nói đến chính trị xuyên quốc gia - bàn cờ sau cùng - cuộc cách mạng thông
tin đang xóa dần đi những rào cản tham gia vào chính trị toàn cầu. Bốn mươi năm trước,
liên lạc tức thì trên toàn cầu vẫn có thể thực hiện được nhưng vô cùng đắt đỏ, và chỉ sử
dụng hạn chế ở cấp độ chính phủ và các doanh nghiệp lớn. Điện đàm nay đã miễn phí
trên Skype. Ngày nay, ai cũng có thể tải về những bức ảnh chất lượng cao từ Google
Earth, miễn phí. Và thậm chí, với mỗi đại dịch lây lan do chim, người du lịch, số người
chết có thể còn nhiều hơn cả trong thế chiến thứ nhất hay thứ hai. Quyền lực sẽ ngày
càng được thực thi trong phạm vi tương tác mạng rộng lớn hơn.
Chủ nghĩa hiện thực thể hiện đầy đủ một số khía cạnh của quan hệ quốc tế. Nhưng nhà
nước không còn là chủ thể quan trọng duy nhất trong các vấn đề quốc tế; an ninh quân
sự không còn là kết quả quan trọng duy nhất mà họ theo đuổi; và vũ lực không phải là
công cụ tốt nhất, duy nhất và lúc nào cũng có thể sử dụng để đạt được kết quả như ý
muốn. Không phải chỉ riêng với quan hệ giữa các nước phát triển thì quyền lực mềm
mới đóng vai trò quan trọng. Trong thời đại công nghệ thông tin, truyền thông trở nên
quan có ý nghĩa hơn và các kết quả đạt được sẽ không chỉ phụ thuộc vào những nước có
quân đội mạnh mà còn bởi những nước có những câu chuyện hấp dẫn hơn. Thành công
không chỉ phụ thuộc chiến thắng quân sự mà còn phải nhờ vào vào câu chuyện có sức
lôi cuốn.
9. Cái giá của sự công bằng: về giai cấp siêu giàu mới nổi.
Có nhiều lí do chính dẫn đến sự xuất hiện của giới siêu giàu, ở một mặt, một số(ít) trở
thành siêu giàu vì tải năng, sáng kiến cùng với may mắn của họ, có thể nhắc đến như
Bill Gates, Steve Jobs. .Ngược lại đó là những người siêu giàu nhờ những hoạt động bất
hợp pháp( tham nhũng, cướp đoạt,...)
Tuy nhiên, nhìn kĩ lại thì Bill Gates hay Steve Jobs không chỉ giàu lên từ tài năng mà
phần lớn từ độc quyền, hoạt động này hợp pháp song chứng tỏ họ đã tăng tài sản lên
hàng trăm lần nhờ vào các lợi dụng và khai thác các thể chế và luật pháp theo hướng có
lợi cho họ. Khách quan mà nói, những người giàu dựa vào tham nhũng, cướp đoạt kia
cũng có tài khi đã lách luật để đưa bản thân từ giàu bất hợp pháp trở thành siêu giàu hợp
pháp.
Một nguồn gốc nữa của sự siêu giàu là do tích cực khai thác sự thiếu kém thông tin
của đa số người khác qua việc nghĩa ra các công cụ tài chính, bảo hiểm,.. vô cùng phức
tạp.
Ở Việt Nam thì hai ý niệm “tham nhũng” và “nhóm lợi ích” được ghép chung, nó không
hoàn toàn đúng. Nhưng khi các nhóm lợi ích thông đồng cấu kết với tham nhũng thì
việc nguy hại của tham nhũng bị tăng lên gấp nhiều lần.
Có người cho rằng, việc bất công bằng thu nhập thì khó tránh khỏi vì là một tiền đề
khó tránh của một nền kinh tế muốn tăng trưởng nhanh. Họ cho rằng khi bản thân giàu
có sẽ giúp đỡ, phát triển được xã hội. Có ba cách phản biện quan điểm này. Thứ nhất,
không phải lúc nào người ta cũng đặt lợi ích tập thể lên trên, có rất nhiều trường hợp họ
chỉ theo đuổi lợi ích cá nhân. Thứ hai, các nhà tâm lí học, khoa học xã hội đã tìm ra
được động lực lao động của con người. Đó không phải dựa vào sự thỏa mãn vật chất mà
dựa vào sự thỏa mãn về mặt tinh thần khi hoàn thành tốt công việc được giao. Thứ ba,
không phải lúc nào gói “thù lao” cũng được thiết kế tối hảo cho các lãnh đạo ngân hàng
giám đốc các đại công ti. Ngoài ra việc chênh lệch như thế còn ảnh hưởng đến việc làm
giảm giá trị nội tệ, tăng giá thành hàng nhập khẩu, gây sức ép cho người tiêu dùng.
Điều này đã đem đến nhiều ảnh hưởng như: “Thu nhập tương đối” và “Hạnh phúc
con người” nghĩa là thu nhập càng thấp, trung bình thì sẽ càng thấy ít hạnh phúc và
ngược lại. Việc chênh lệch này khiến cho mọi người nản chí và thậm chí từ bỏ nhiều cơ
hội. Cứ thế, sự bất bình đẳng trong xã hội sẽ truyền từ thế hệ này sang thế hệ khác. Bên
cạnh đó, trong xã hội bất bình đẳng này, nhất là khi tài sản của những người giàu phi
pháp, lối sống vô văn hóa, xa hoa, phù phiếm này bị quảng bá nhiều trên các phương
tiện truyền thông đại chúng thì khiến con người lệch xa những lối sống văn minh thật
sự.
Và vấn đề đặt ra ở đây là chúng ta phải làm gì? Có những người cực đoan cho rằng
đây là một hiện tượng tự nhiên, chống lại chỉ thể hiện sự ganh tị,... nhà nước không cần
làm gì cả. Tuy nhiên, đây là kết quả của sự ranh ma trong khai thác lỗ hổng của thể chế,
nền kinh tế, có khả năng gây ra nguy hại cho sự phát triển của một quốc gia, rộng hơn là
mức độ an sinh của tuyệt đại đa số trong xã hội. Tất nhiên, không thể tránh khỏi sự bất
bình đẳng trong xã hội, tuy nhiên việc siêu giàu trong thời gian nhanh chóng dù có hợp
pháp thì cũng vượt quá xa tài sức và sự đóng góp của họ cho xã hội.
Ít nhiều, các nhà lãnh đạo cũng đã nghĩ tới việc can thiệp vào để giảm sự bất bình
đẳng thu nhập trong xã hội, chấn chỉnh những méo mó kinh tế, tái cấu trúc thể chế, tuy
nhiên, đây là một vấn đề hết sức khó khăn và nan giải.
10. Augus Deaton: Nhà nước yếu kém khiến đất nước nghèo.
Theo tác giả, ông cho rằng cảnh sát sẽ luôn giúp đỡ người dân khi cần cho tới khi được
đón tiếp bằng một tràng quát thảo từ một viên cảnh sát NewYork khi ông hỏi đường đến
bưu điện.
Người Mĩ coi hệ thống pháp lý và hành chính, các trường công lập, dịch vụ chăm sóc
sức khỏe và an sinh xã hội cho người già; hệ thống đường sá, quốc phòng và ngoại giao,
và các khoản đầu tư lớn của nhà nước cho nghiên cứu, nhất là trong y học, là lẽ đương
nhiên. Họ nộp thuế đầy đủ và có quyền yêu cầu các quyền lợi tương xứng.
Tuy nhiên ở phần lớn châu Phi và châu Á, các nhà nước thiếu năng lực thu thuế, cung
cấp dịch vụ, đồng thời cảnh sát cũng đè đầu cưỡi cổ, hành hạ người dân. Ngay cả ở Ấn
Độ việc đảm bảo an toàn trong sức khỏe cũng không được coi trọng khi nhà nước không
quản lí các bác sĩ tư, để họ hành nghề mà không đủ tiêu chuẩn.
Trong trường hợp nhà nước không có khả năng cung cấp dịch vụ chăm sóc sức khỏe cho
bà mẹ và trẻ em thường xuyên thì số người tử vong tăng cao. Tương tự, không đưa ra
các chính sách và thực thi hiệu quả các quy định thì các doanh nghiệp khó hoạt động.
Vai trò của chính phủ trong việc giảm nghèo là rất lớn, không thể mãi dựa vào nguồn
viện trợ nước ngoài hay các nhân tố bên ngoài.
Tóm lại, bài viết đã nêu rõ vai trò của nhà nước trong việc quyết định các chính sách
kinh tế, chính trị, rằng phải có sự dẫn dắt, quyết sách phù hợp để đưa đất nước đi lên,
nếu không, sự trượt dài của xã hội là kết quả tất yếu của một nhà nước yếu kém.
11. Mô hình Trung Quốc: Đối thoại giữa Francis Fukuyama và Trương Duy Vi
Francis Fukuyama: Ở Trung Quốc mọi người đều biết phải có một sự giải trình và chịu
trách nhiệm mang tính đạo đức, có nghĩa là chính quyền hoàn toàn không phải giải trình
và chịu trách nhiệm thông qua bầu cử nhưng phải thấy được trách nhiệm trước công
chúng trên nền tảng của sự giáo dục và tu thân, rèn luyện theo tinh thần của các bậc
hoàng đế và vua chúa. Điều mà Trung Quốc đã không phát triển được đó chính là thể
chế chính trị pháp quyền và thể chế giải trình và chịu trách nhiệm chính trị công khai.
Mô hình Trung Quốc. Đặc điểm đầu tiên đó là một chính phủ tập trung, quan liêu và
toàn trị. Tính giải trình và chịu trách nhiệm của Trung Quốc mang nội dung đạo đức
nhiều hơn là thủ tục. mô hình Trung Quốc dựa trên định hướng xuất khẩu và vai trò tích
cực của các chính sách của nhà nước nhằm hỗ trợ quá trình công nghiệp hóa. Một hệ
thống an sinh xã hội khá khiêm tốn nếu như so sánh với các nước phát triển. So với thế
hệ trước, người Trung Quốc hiện nay tương đối ít bị hệ tư tưởng chi phối và chính phủ
cũng đã thử nghiệm nhiều đổi mới. Mô hình hướng vào xuất khẩu là phù hợp với Trung
Quốc khi nền kinh tế quốc gia còn nhỏ nhưng nó sẽ phải thay đổi để trở nên một hệ
thống phù hợp và hiệu quả để đuổi kịp các nước đã công nghiệp hóa. Chính phủ còn có
những yêu cầu về mặt đạo đức cần đáp ứng.
Trương Duy Vi: Thượng Hải không chỉ có hạ tầng “cứng” tốt hơn New York, chẳng hạn
như tàu điện cao tốc, đường ngầm, sân bay, cảng và nhiều phương tiện phục vụ thương
mại mà còn cả hạ tầng “mềm” nữa. Nói về tính giải trình và chịu trách nhiệm như GS
Fukuyama đã tranh luận thì đây chính là hình thức dân chủ nghị viện đa đảng ở Phương
Tây. Tính giải trình và chịu trách nhiệm trong chính trị và luật pháp. Sự đổi mới thể chế
chính trị của Trung Quốc hiện nay đã giải quyết dứt điểm vấn đề “ngụy vương”. Về tính
bền vững của mô hình Trung Quốc, Trung Quốc là một nhà nước văn hiến có một
không hai, với logic và chu kỳ phát triển riêng của mình, Trung Quốc hiện nay mới đang
ở giai đoạn đầu của một chu kỳ đi lên. Quả thực Trung Quốc phụ thuộc nhiều vào ngoại
thương, thế nhưng sự phụ thuộc đó hơi bị thổi phồng.
Francis Fukuyama: Ngụy vương gần đây nhất của Trung Quốc, nói rất chân thành, chính
là Mao Trạch Đông. Một hình thái pháp trị có kiểm soát và đối trọng trong dài hạn sẽ có
ý nghĩa sống còn chứ không chỉ dựa vào ký ức và kinh nghiệm của một thế hệ.
12. Người giàu nắm quyền như thế nào?
Chuyện người giàu có nhiều quyền lực chính trị hơn kẻ nghèo vốn dĩ không phải
mới mẻ, và công trình nghiên cứu của hai nhà khoa học chính trị là Martin Gilens của
Đại học Princeton và Benjamin Page của Đại học Northwestern càng chứng minh điều
đó một cách rõ ràng và thuyết phục hơn.

Khi xét riêng, nguyện vọng của nhóm cử tri thu nhập trung bình có ảnh hưởng tích
cực vì hầu hết các chính sách, nguyện vọng của tầng lớp trung lưu không khác biệt
nhiều so với giới tinh hoa kinh tế. Một khảo sát chính xác hơn cho thấy khi hai nhóm
này đưa ra quan điểm khác nhau thì tầng lớp trung lưu ảnh hưởng không đáng kể trong
khi nhóm còn lại vẫn duy trì ảnh hưởng rất lớn. Hàm ý rằng khi lợi ích của giới tinh hoa
khác biệt phần còn lại thì mới được ưu tiên cân nhắc: khi mong muốn của liên minh các
nhóm lợi ích và người giàu được xem xét thì “việc quần chúng nghĩ gì không còn quan
trọng nữa”.

Câu trả lời có thể là do hầu hết các cử tri thiếu hiểu biết về cách vận hành của bộ
máy chính trị và cách nó phục vụ cho lợi ích của giới tinh hoa, gây trở ngại cho việc
nhận ra sự thiên vị của các chính trị gia. Một phần câu trả lời nguy hiểm khác nằm ở các
chiến lược mà các lãnh đạo chính trị sử dụng để được đắc cử. Một chính trị gia đại diện
cho quyền lợi của tầng lớp tinh hoa giàu có thì buộc phải tìm các con đường khác có thể
là chủ nghĩa dân tộc, chủ nghĩa phe nhóm, và những thủ đoạn chính trị dựa vào các giá
trị và hình tượng văn hóa hơn là các lợi ích kinh tế thiết yếu để tỏ ra hấp dẫn đối với đại
chúng.

“Tôn giáo là thuốc phiện của nhân dân” vì niềm tin tôn giáo có thể che khuất sự
tước đoạt vật chất của những người lao động bị bóc lột. Nền chính trị bản sắc rất nguy
hiểm vì xu hướng tạo ra biên giới xung quanh một nhóm đặc quyền bên trong và loại trừ
các nhóm từ các quốc gia, các giá trị, tôn giáo, hay sắc tộc khác như nền dân chủ phi tự
do ở Nga, Thổ Nhĩ Kỳ và Hungary.

Sự bất bình đẳng lan rộng ở các nước phát triển và đang phát triển trên thế giới đã
và đang gây hại cho nền chính trị dân chủ, vừa làm mất dần đi vai trò bầu cử của tầng
lớp trung lưu và thấp hơn, đồng thời tạo mầm mống cho một nền chính trị độc hại mang
màu sắc chủ nghĩa phe nhóm trong giới tinh hoa.

13. Quyền lực chuẩn tắc: cuộc đối đầu địa chính trị mới.
Chuẩn tắc không phải là điều gì mới, nhưng tầm quan trọng của chúng gần đây đã
được chính phủ một số quốc gia đưa lên vị trí hàng đầu với mục tiêu tạo nên một hình
thức ảnh hưởng. Chi tiêu quốc phòng chắc chắn đang gia tăng nhanh chóng tại các nước
mới nổi ở châu Á, nhưng chủ yếu bởi vì các láng giềng của Trung Quốc lo ngại về sự
hung hăng của nước này. Thậm chí ngay cả Trung Quốc cũng nhận thức rủi ro về mặt
kinh tế nếu theo đuổi các chính sách hiếu chiến, điển hình qua việc Bắc Kinh quyết định
giảm căng thẳng với Nhật Bản sau hai năm đối đầu gia tăng. Quyền lực chuẩn tắc có
môt số tính chất nổi bật: nó vừa riêng biệt nhưng cũng vừa mang tính đột phá. Để làm
được điều đó, họ đã sử dụng một hình thức quyền lực sáng tạo hơn: cái mà tôi gọi là
Quyền lực chuẩn tắc (Standard Power ) Hai lãnh vực đặc biệt kết hợp giữa tiềm năng
thương mại khổng lồ với một hệ thống quy tắc ít ỏi ở mức độ thấp chính là Internet của
vạn vật (Internet of things) và các loại phương tiện bay không người lái dạng thương
mại. Một nhà nghiên cứu đầu ngành đã nhắc đến công nghiệp chế tạo thế hệ tiếp theo
như sau: 'Những hiệp định đó nghe có vẻ ngốc nghếch, nhưng chúng sẽ làm cho quá
trình chế tạo trở nên rẻ hơn, nhanh hơn và tin cậy hơn. Và Trung Quốc hoàn toàn hiểu rõ
con bài của mình - một bộ phận quan trọng của chiến lược 'Made in China 2025' là 'giúp
các chuẩn mực cấp cao trong công nghiệp chế tạo được công nhận bởi thế giới và bởi
các cơ quan thiết lập chuẩn mực quốc tế Moises Naim đã mô tả một cách gần chính xác
nhất những gì đang diễn ra bên trong các đường biên giới khi cho rằng kết thúc của
quyền lực' (the end of power) có nghĩa là 'Quyền lực trở nên dễ dàng nắm bắt, nhưng lại
khó sử dụng hơn và dễ bị đánh mất hơn' Cuộc chiến liên quan tới chuẩn tắc thường kết
thúc đúng lúc chúng ta nhận ra nó luôn luôn xảy ra.
Phương Tây vốn đã quen với vai trò là người thiết lập luật chơi toàn cầu trong
hàng thế kỷ và đang cố gắng sử dụng những chuẩn tắc mới như là cách thức để duy trì vị
thế địa chính trị đang suy giảm của mình. Trung Quốc gần đây được xếp hạng nằm
ngoài tốp 30 các quốc được ngưỡng mộ nhất thế giới. Thị trường liên quan đến Internet
của vạn vật đã được định giá khoảng 3,9 đến 11,1 nghìn tỷ USD mỗi năm trên toàn cầu
trong tương lai, trong khi các loại thiết bị bay không người lái có thể mang lại 100 triệu
USD lợi nhuận mỗi năm chỉ tính riêng tại nước Mỹ. Liệu nước Mỹ dẫn đầu trong mọi
thứ liên quan tới Internet là kết luận tất yếu? Việc sử dụng hay đe doạ sử dụng vũ lực sẽ
không bao giờ biến mất trong quan hệ quốc tế. Nỗ lực của Mỹ nhằm giữ các đồng minh
của mình tránh xa Ngân hàng Đầu tư Cơ sở hạ tầng Châu Á (AIIB) mới thành lập của
Bắc Kinh bằng cách đưa ra nghi ngờ về khả năng quản trị chặt chẽ. Nhưng cũng đừng
quên rằng các chủ thể phi quốc gia từ lâu đóng vai trò quan trọng trong việc định hình
chính sách đối nội và đối ngoại của nước Mỹ.
Những chuẩn tắc dẫn đầu không xuất hiện từ hư vô. Ngày nay trận chiến mới đã
nổ ra. Nói cách khác, vẫn chưa rõ ai sẽ là người chiến thắng trong cuộc chiến chuẩn tắc
thế kỷ 21. Điều này khiến quyền lực chuẩn tắc trở nên ngày càng đáng chú ý, sức mạnh
cứng không còn hữu dụng nữa.

14. Vai trò của nhà nước.

Nhà nước được quy định bởi kinh tế, trong đó bản chất, chức năng và hình thức của
bộ máy nhà nước đều phụ thuộc tương đối khách quan ở 2 phương diện của cơ sở kinh
tế: đó là tác động tích cực đến sự phát triển kinh tế, thúc đẩy phát triển thông qua các
chính sách kinh tế phù hợp hoặc có thể đóng vai trò tiêu cực, cản trở sự phát triển với
chính sách kinh tế lỗi thời, không phù hợp với sự phát triển chung của thế giới như nhà
nước chiếm hữu nô lệ và phong kiến giai đoạn cuối. Trong mỗi thời kỳ lịch sử nhất
định, nhà nước đồng thời có thể tác động tích cực hoặc tiêu cực đối với kinh tế phụ
thuộc vào khả năng nhận thức và nắm bắt kịp thời các phương diện khác nhau của quy
luật vận động kinh tế cũng như phụ thuộc vào lợi ích của giai cấp thống trị.

Trong xã hội, chính trị là sợi dây liên kết nhà nước với cơ sở hạ tầng kinh tế trong
kiến trúc thượng tầng. Các tổ chức chính trị của xã hội là những hình thức và phương
diện bảo đảm thực hiện quyền lực chính trị trong xã hội có giai cấp, trong đó Đảng
chính trị có vai trò lãnh đạo, định hướng sự phát triển xã hội, vạch ra chính sách lớn
định hướng cho hoạt động của nhà nước. Nhà nước là trung tâm với quyền lực chính trị
công cộng đặc biệt không thể thay thế được của bộ máy chuyên chính giai cấp, sở hữu
sức mạnh của những bộ máy cưỡng chế như tòa án, quân đội, cảnh sát, nhà tù… cũng
như thực hiện quyền đối nội, đối ngoại độc lập không phụ thuộc vào bất kỳ quốc gia
nào.

Tổ chức xã hội có vai trò quan trọng tùy vào quy mô, tính chất và chức năng nhiệm
vụ dưới sự lãnh đạo của Đảng như công đoàn, đoàn thanh niên, hội phụ nữ, hội nông
dân, mặt trận tổ quốc Việt Nam. Chúng có vai trò khác nhau trong đời sống chính trị
nhưng có quan hệ chặt chẽ, hỗ trợ, giúp đỡ lẫn nhau.

Cuối cùng, pháp luật là công cụ để nhà nước duy trì sự thống trị, thực hiện chức
năng, nhiệm vụ. Nhà nước và pháp luật mang tính thông nhất và tác động qua lại lẫn
nhau, khi quyền lực của nhà nước dựa trên cơ sở pháp luật, được thực hiện thông qua
pháp luật và bị hạn chế bởi pháp luật. Pháp luật được hiểu là là sản phẩm trực tiếp của
hoạt động nhà nước và là mục đích tồn tại của nhà nước.

15. Tại sao chủ nghĩa tân tự do kinh tế đã hết thời?

Sau Cách mạng nông nghiệp, tiến bộ công nghệ luôn thúc đẩy các lực lượng mang
tính khuếch tán (các quyền lực và đặc quyền cũ xói mòn) và lực lượng mang tính tập
trung (những người kiểm soát các năng lực mới) đối lập nhau. Hiện tại, mâu thuẫn giữa
khuếch tán và tập trung đang gia tăng ở mọi cấp độ của nền kinh tế. Nhờ toàn cầu hoá
về vốn và tri thức, các nước có thể chuyển các nguồn lực sang các lĩnh vực có năng suất
và tiền lương cao hơn, góp phần khuếch tán và tập trung đồng thời sức mạnh thị trường
một cách mạnh mẽ.

Nghiên cứu của Cesar Hidalgo và đồng nghiệp tại MIT cho thấy gần đây ở các nước
có tập trung ngành giảm thì sự bất bình đẳng về thu nhập giảm (như Hàn Quốc) và
ngược lại (như Na Uy). Một nghiên cứu khác của Erling Bath, Alex Bryson, James
Davis, và Richard Freeman cho thấy sự khuếch tán trong mức lương từ những năm 1970
dẫn đến gia tăng bất bình đẳng thu nhập ở Mỹ.Vào cuối những năm 1970 khi chủ nghĩa
tân tự do có ảnh hưởng mạnh, quyết định dỡ bỏ các quy định và luật lệ về kinh tế sau
cuộc Đại suy thoái (1929-1933) và sáp nhập theo chiều dọc và ngang đóng vai trò quan
trọng trong việc tạo ra một làn sóng toàn cầu hóa mới, lan rộng sự tăng trưởng và thịnh
vượng khắp các quốc gia, đặt nền tảng cho sự tập trung của thu nhập và sự giàu có trong
nội bộ từng quốc gia như dạng “kinh tế số” (platform economy).

Giờ đây, các nhà hoạch định chính sách trước tiên cần thực hiện các luật cạnh tranh
thông minh hơn, không chỉ tập trung vào thị phần hay quyền định giá, mà còn vào nhiều
hình thức tìm kiếm đặc lợi khác hoặc tạo điều kiện dễ dàng hơn cho các doanh nghiệp
khởi nghiệp (start-ups) mở rộng quy mô như các công nghệ sổ cái kỹ thuật số (digital
ledger technologies). Câu trả lời phụ thuộc vào cách doanh nghiệp cân bằng giữa việc
chiếm giữ và tạo ra giá trị.

Cuối cùng, phải vượt qua sự cao ngạo tân tự do cho rằng những người làm việc
chăm chỉ và chơi đúng luật sẽ vươn cao, hay “sự ngạo mạn về khả năng” với ý tưởng sai
lệch rằng sự thành công và thất bại chỉ phụ thuộc vào chính chúng ta. Cần phải có các
chính sách trực tiếp đối đầu với các bất bình đẳng về cơ cấu – từ lương tối thiểu đến các
chương trình thu nhập cơ bản phổ quát.

16. Chủ nghĩa tân tự do-Hệ tư tưởng nằm trong cội rễ tất cả các vấn đề của chúng
ta.

Chủ nghĩa tân tự do phát sinh như một nỗ lực có ý thức để định hình lại cuộc sống
con người và di chuyển vị trí của quyền lực. Theo đó, sự cạnh tranh là đặc trưng xác
định các mối quan hệ của con người, định nghĩa lại công dân là những người tiêu thụ
thông qua việc mua và bán, qua quá trình thưởng phạt xứng đáng, đảm bảo “thị trường”
mang lại lợi ích mà kế hoạch hoá không thể.

Những nỗ lực để hạn chế sự cạnh tranh được xem là kẻ thù của tự do, càng nỗ lực
tạo ra một xã hội bình đẳng bao nhiêu thì càng phản tác dụng và làm xói mòn đạo đức
bấy nhiêu. Thị trường đảm bảo rằng mọi người đều nhận được những gì họ xứng đáng.
Trong một thế giới bị sự cạnh tranh chi phối, những người bị tụt lại phía sau được xem
và tự xem là những kẻ thua cuộc. Sự giải phóng ra khỏi các quy định thuế chính là tự do
đầu độc chính mình, để các lí thuyết gia tân tự do lợi dụng áp đặt các chính sách thất
nhân tâm trong khi mọi người bị phân tâm. Một nghịch lí là sự cạnh tranh toàn cầu dựa
trên số lượng và so sánh toàn cầu, mọi người đều có chế độ đánh giá và kiểm soát chặt
chẽ nhằm xác định người chiến thắng và trừng phạt kẻ thua cuộc. Nó không được quan
niệm trở thành một hoạt động tội phạm hình thành từ thủ đoạn tư lợi nhưng đã nhanh
chóng tạo ra sự độc tôn: thù lao đã được thay thế bằng thu nhập không từ lao động. Các
chính sách tân tự do thất bại khắp nơi và càng trở nên cực đoan, gây ra khủng hoảng
kinh tế và khủng hoảng chính trị khi phạm vi quyền lực của nhà nước bị thu hẹp. Kết
quả là người nghèo và tầng lớp trung lưu bị mất quyền và bị đẩy ra khỏi nền chính trị,
không còn gì ngoài quyền lực và sự tuân phục, để rồi thứ duy nhất còn lại buộc chặt
chúng ta là quyền lực của nhà nước. Chiến thắng sau cùng của chủ nghĩa tân tự do phản
ánh sự thất bại của cánh tả và phe trung dung khi không tạo ra khuôn khổ tổng quát cho
tư tưởng kinh tế trong 80 năm qua. Cần phải đề xuất một giải pháp thay thế chặt chẽ, với
nhiệm vụ trọng tâm là phát triển một chương trình kinh tế Apollo, một nỗ lực có ý thức
để thiết kế một hệ thống mới, phù hợp với yêu cầu của thế kỉ XXI.

17. Tại sao các chính phủ cần liên tục đổi mới?
Trong bối cảnh thế giới đang chuyển mình, sự cạnh tranh là điều không thể tránh khỏi.
Những quốc gia không thể theo kịp sẽ bị lãng quên chỉ trong nháy mắt. Các nước có
chính phủ già cỗi phải đối mặt với số phận chung của những công ty đã lụi tàn. Vì vậy,
việc đổi mới là điều cần thiết để tồn tại và phát triển.
Các quốc gia đang cạnh tranh với nhau trong một thị trường kinh tế đầy biến động.
Những nước bị tụt lại sẽ bị loại bỏ khỏi cuộc chơi này. Chính vì vậy, vai trò của chính
phủ là rất quan trọng. Đổi mới là chìa khóa cho sự sống còn và phát triển của con người,
là nhiên liệu cho sự tiến bộ và bản thiết kế cho sự nổi dậy của một quốc gia.
Chúng ta cần tập trung vào việc phát triển kỹ năng, nâng cao trình độ và đầu tư vào
những lĩnh vực mới. Những chính phủ không đào tạo cho thế hệ trẻ những kỹ năng cần
thiết sẽ dần bị tụt hậu và đất nước sẽ gặp khó khăn. Vì thế, hãy cùng nhau đổi mới để
đạt được thành công và phát triển bền vững cho đất nước chúng ta.

18. Từ nhà nước phúc lợi đến nhà nước đổi mới.
Viễn cảnh công nghệ tước đi công ăn việc làm đang ám ảnh nền kinh tế thế giới.
Nhiều người tin rằng nền kinh tế thế giới có thể đang ở đỉnh điểm bùng nổ về các công
nghệ mới, nhưng vấn đề là chúng lại tiết giảm sức lao động của con người, dẫn đến thay
thế lượng lớn công nhân tay nghề thấp và trung.

Một thế giới nơi máy móc làm việc thay con người không có nghĩa là tình trạng thất
nghiệp cao, nhưng phần lớn nhất của năng suất lao động gia tăng được đổ dồn về túi của
những người sở hữu các công nghệ mới đó. Và rồi lực lượng lao động lớn sẽ bị thất
nghiệp hoặc phải nhận lương thấp, tương tự như ở những nước phát triển ít nhất trong
khoảng bốn thập niên qua. Chúng đang là những thủ phạm gây ra sự gia tăng bất bình
đẳng từ cuối những năm 1970, với xu hướng tiếp tục tạo ra những cấp độ bất bình đẳng
mới chưa từng có trong lịch sử và nguy cơ lan rộng của xung đột chính trị - xã hội. Tuy
nhiên, bằng những suy nghĩ sáng tạo và các thiết chế thể chế, chúng ta có thể cứu hệ
thống kinh tế tư bản khỏi các nguy cơ do chính nó tạo ra.

So với các thị trường tài chính tại những nền kinh tế phát triển, nhà nước đóng vai trò
đầu tư này thậm chí ở quy mô lớn hơn, qua đó cho phép nhiều cải tiến công nghệ hơn
xảy ra và chuyển những lợi ích đó trực tiếp tới xã hội nói chung.

Với mô hình ngân hàng trung ương và xã hội đóng vai trò là một đồng chủ sở hữu
thông qua đại diện của mình là chính phủ, phần lớn lợi ích sẽ được chuyển cho những
công dân của nước đó dưới dạng cổ tức “canh tân xã hội” để bổ sung thu nhập, tiến dần
về một xã hội nơi các tiến bộ kỹ thuật tạo điều kiện cho từng cá nhân trong xã hội được
tự do “đi săn vào buổi sáng, câu cá vào buổi chiều, chăm sóc gia súc vào buổi tối và
tranh luận sau bữa ăn tối.”

Thế kỷ 21 đòi hỏi sự chuyển đổi từ “Nhà nước phúc lợi” dân chủ hóa và ổn định hóa
hệ thống kinh tế tư bản để hướng tới một “Nhà nước đổi mới” như phác thảo trên, điều
hòa giữa lợi ích và các động cơ thúc đẩy đầu tư, khắc phục điểm yếu về thuế cao mà
không kích thích bù đắp vào năng lực đổi mới.

19. Vốn văn hoá, Trần Hữu Dũng.


Trong thời đại hiện đại ngày nay kết hợp với sự ra đời của công nghệ tiên tiến, sự xuất
hiện cụm từ “văn hoá” luôn khơi dậy trong mỗi người một sự gợi nhớ, lòng tự hào về
truyền thống, bản sắc dân tộc, những giá trị lịch sử của nhân dân ta. Vậy chúng ta có thể
làm gì để tạo nên cho đất nước những vẻ đẹp phồn vinh, nhiều sắc màu này chính là vấn
đề đặt ra ở bài viết này.
Vậy “văn hoá” là gì ? Thứ nhất, “văn hoá” của một quốc gia được định nghĩa là văn hoá
trong “lĩnh vực văn hoá” hay “ngành công nghiệp văn hóa” của quốc gia đó. Đây
thường là các hoạt động văn học và nghệ thuật, chẳng hạn như viết, thơ, sáng tác, điêu
khắc và hội hoạ,..Thứ hai, văn hoá (từ góc độ nhân học và xã hội học) là tập hợp các
phong tục, tập quán và tín ngưỡng tạo thành nền tảng và chất keo thiết yếu cho sự vận
hành đúng đắn của một xã hội, hiện thân cho giá trị của cộng đồng qua bao đời thế hệ,
truyền từ đời này sang đời kia.
Một là nếu muốn lồng ghép vốn văn hóa vào phân tích kinh tế, trước tiên chúng ta phải
xác định mối quan hệ giữa các giá trị văn hóa và kinh tế. Vốn văn hoá vật thể mà gần
gũi và đều có thể được nghĩ đến để lấy ví dụ như là ngôi nhà lịch sử, cụ thể là họ cộng
thêm giá trị văn hoá vào giá trị kinh tế của đồ vật, có khả năng làm tăng giá trị đó lên
nhiều lần.
Về vốn văn hoá phi vật thể, mối quan hệ giữa các giá trị văn hóa và kinh tế phức tạp hơn,
cái này không gây ra cái kia. Nói cách khác, các dịch vụ bắt nguồn từ vốn văn hoá phi vật
thể có giá trị văn hoá và kinh tế,nhưng ở đây các loại giá
trị này được liên kết chặt chẽ với nhau và không thể tách rời.
Hai là đặt ra vấn đề vốn văn hoá đóng góp được gì vào tổng thu nhập và tốc độ phát
triển của một nước
Ba là vốn văn hoá giúp ta hiểu sâu hơn về ý niệm tính bền vững của phát triển. Đóng
góp của nó vào khả năng phát triển dài hạn không khác gì đóng góp của vốn thiên
nhiên.
Bốn là chế độ thị trường và xu thế toàn cầu hoá đặt ra những thử thách và những cơ hội
mới.
Giữ gìn và phát huy di sản văn hoá dân tộc là một nhiệm vụ quan trọng, nhưng nên hiểu
tại sao phải giữ gìn, phát huy, và không lo sợ một cách võ đoán và phi lý những trào lưu
văn hoá mới. Chính sách văn hoá là cần thiết nhưng phải tôn trọng thực tế của nền kinh
tế thị trường mở và không được bị ràng buộc bởi ảo tưởng hay tính chủ quan. Mặc dù
một số mục tiêu có thể đạt được thông qua chính sách nhưng cũng có những khía cạnh
không thể đạt được.

CHƯƠNG 3: SÁNG TẠO 3 QUY PHẠM PHÁP LUẬT VÀ XÁC ĐỊNH CÁC BỘ
PHẬN
- Nếu một người thực hiện hành vi cướp giật mà gây ra thương tích cho người khác, thì
phải bồi thường khoản tiền bằng với giá trị của tài sản bị cướp giật còn phải chi trả
phí điều trị thương tích cho người bị hại.
- Người lao động có lương cơ bản từ 5.000.000 đồng trở lên có nghĩa vụ đóng thuế thu
nhập cá nhân bằng 5% lương cơ bản. Nếu không thực hiện nghĩa vụ sẽ phải chịu phạt
tù từ 1 năm đến 5 năm tuỳ theo mức độ.
- Nếu doanh nghiệp kinh doanh hàng nhái, hàng giả, hàng kém chất lượng thì sẽ bị
tiêu huỷ toàn bộ hành hoá và buộc đóng cửa vĩnh viễn.

 Chú thích
Gạch chân: bộ phận quy định
In đậm: bộ phận giả định
In nghiêng: bộ phận chế tài

You might also like