You are on page 1of 57

1.

Tư duy về nhà nước và pháp luật trong thời đại ngày nay

1 Tư duy về quản trị quốc gia

1.1 Những thách thức mới của quản trị quốc gia

Ở Việt Nam chúng ta trên phạm vi toàn cầu luôn tồn tại những hiện tượng nan giải và
mẫu thuẫn của quá trình phát triển . Những biểu hiện rõ nét nhất mà cho ta thấy được là
yêu cầu về tăng trưởng kinh tế và công bằng xã hội . Xét về mức độ vĩ mô đó là sự mẫu
thuẫn giữa một mặt hiệu quả thấp và hoạt động sản xuất , kinh doanh , và một mặt khác
của nhu cầu mở rộng của thị trường. Mẫu thuẫn chính gây ra là sự khủng hoảng hệ thống
tài chính quốc gia tại nhiều nước trên thế giới giữa những năm qua . Để khắc phục tình
hình lúc bấy giờ chúng ta sẽ phải áp dụng chính sách tăng thuế nhằm không để hụt sức
cho đà phát triển kinh tế - xã hội. Tuy nhiên , cách làm đó dẫn đến hậu quả làm suy giảm
các đòn bẩy tích tụ tư và kích thích đầu tư vào các hoạt động sản xuất , kinh doanh , làm
yếu đi tinh thần khởi nghiệp và chất lượng cuộc sống . Cách thứ hai thường gặp trong
việc giải quyết mâu thuẫn hiệu quả kinh tế và nhu cầu đầu tư cho các chương trình và
mục tiêu kinh tế - xã hội là chính sách cắt giảm chi tiêu , cắt giảm đầu tư cho những
chương trình của quốc gia. Đó cũng chỉ là biện pháp tức thời.

Thách thức thứ hai ở tầm vĩ mô là vấn đề quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế và giải quyết
các vấn đề xã hội . Các giải pháp thúc đẩy tăng trưởng kinh tế đã và đang mang lại kết
quả trông thấy về mức sống của người dân . Nhưng tăng trưởng nhanh cũng đã cho thấy
những hệ lụy tiêu cực về mặt xã hội.

Đòn bẩy của tăng trưởng là yêu cầu về chuyên môn hóa , phân hóa dựa theo trình độ lao
động và tay nghề . Yêu cầu mọi người phải có trình độ tay nghề cao sự chuyển dịch lao
động kéo theo sự chuyển dịch dân cư tạo ra sự bất ổn về đời sống và các mặt trái khác
trong quá trình đó . Tất cả những yếu tố đó tạo nên sự bất ổn trong tâm lý con người , Có
một nhà xã hội học người Mỹ gọi đó là “cú sốc tương lai “hay là “nỗi sợ về tương lai”.
Đặc trưng chủ đạo của thời này là sự đan xen Của nhiều dòng chảy văn hóa đa dạng và
phức hợp và phức tạp trong tương tác văn hóa và lối sống . Để hóa giải xung đột văn hóa
và lối sống trong bối cảnh toàn cầu hóa là một trong những vấn đề nan giải của các hệ
thống quản trị quốc gia hiện đại .

Trong quan hệ quốc tế với phạm vi toàn cầu và khu vực Những thách thức biểu hiện
thông qua các màu thuận ngay trong quá trình liên kết trên phạm vi toàn cầu . Đây là một
quá trình phức tạp có cái sự song hành và có cả sự trái chiều hợp tác đi liền với cạnh
tranh và thậm chí là tranh chấp.

Hệ thống quản trị quốc gia ngày nay được đặt giữa những yếu tố phức tạp bên trong và
bên ngoài . Đặt ra những yêu cầu bức phá trong tư duy dám từ bỏ những phương thức
quản lý tỏ ra hiệu quả trong những điều kiện trước đây nhưng thực chất không còn phù
hợp với tình hình mới của xã hội. Trong bối cảnh đó một trong những chức năng mới và
nổi bật của nhà nước là phòng ngừa và khắc phục khủng hoảng kinh tế ,xã hội ,chính
trị ,môi trường. Mặc dù vậy tiêu chí chúng ta đặt ra đối với mọi hệ thống là năng lực kiến
tạo song song vào đó là sự kết nối xã hội tạo dựng sự thống nhất bình đẳng trong các
quan hệ giữa mọi chủ thể quan hệ xã hội.

Sự phát triển xã hội ngày nay đã đặt ra một dấu hỏi lớn làm thế nào để nhà nước có thể
quản trị được quá trình phát triển của đất nước trước yêu cầu của những tình hình mới.
Câu trả lời cũng như các giải pháp xích hộp chỉ có thể tìm thấy trong việc đổi mới
phương thức quản trị - Từ việc hoạch định chính sách pháp luật đến việc thực hiện pháp
luật theo hướng của nhà nước . Sử dụng các nguồn lực xã hội về vật chất và về tinh thần
về nhân tài về nhân lực, Đã thúc đẩy tìm năng cho sự chuyển đổi trong quốc gia và chất
lượng của mọi cuộc cải cách phù hộ không chỉ vào sự tác động của nhà nước. Nhà nước
nên tiếp cận vấn đề quản trị quốc gia với ý tưởng về nâng cao năng lực kiến tạo cần được
bắt đầu từ nhận thức về tính chất đa dạng , Đa chiều và phức tạp của xã hội hiện đại để
đứng ra xử lý được những quyết sách đúng đắn. Không thể không nhận thấy rằng xã hội
hiện đại là một xã hội tràn ngập thông tin kéo theo những tính liên kết trên bình diện xã
hội . Mối quan hệ ấy có những biểu hiện mà chúng ta cần phải nhận rõ và không thể
không thừa nhận , Thứ nhất nó phá vỡ thế độc tôn của các thiết chế nhà nước trong việc
lý giải các vấn đề về kinh tế chính trị xã hội. Thứ hai nó làm thay đổi nguyên tắc về nắm
giữ thông tin, Thông tin là cơ sở để quản lý vì vậy chủ thể quản lý thường có lợi thế về trí
thức hiểu biết trong bối cảnh đối tượng bị quản lý không có thông tin đó.

Từ đặc tính quan trọng này bài học rút ra cho sự hình thành và hoàn thiện của nhà nước
kiến tạo như sau: Một là Đổi mới hệ thống quản trị quốc gia theo hướng tạo ra những cấu
trúc linh hoạt không cứng nhắc nhất thành bất biến bên trong bộ máy để có thể nhanh
chóng tiếp cận và xử lý thông tin nhu cầu từ phía xã hội. Hai là cần có một đội ngũ công
chức chuyên gia nhà quản lý không chỉ biết nắm giữ thông tin mà phải là thả năng phân
tích thông tin không xơ cứng trong nhận thức biết sáng tạo ra những kiến thức mới từ các
thông tin này.

2. Góp phần nhận thức về quyền lực nhà nước

Quyền lực được xem là khả năng của cá nhân hay tổ chức có thể buộc các cá nhân hay tổ
chức khác phải phục tùng ý chí của minh. Quyền lực sinh ra từ nhu cầu tổ chức hoạt động
chung, nhu cầu phân công lao động xã hội và quản lí xã hội. Quyền lực là điều kieejnn và
phương tiện cần thiết khách quan bảo đảm sự hoạt động bình thường của bất kì cộng
đồng xã hội, thể hiện mối quan hệ chỉ huy lệ thuộc hoặc mệnh lệnh, thể hiện ở sự áp đặt ý
chí của chủ thể có quyền đối với chủ thể dưới quyền, mặt khác sức mạnh của nó được xác
định ở mức độ phụ thuộc, phục tùng của chủ thể dưới quyền đối với ý chí chủ thể có
quyền. Trong đó cưỡng chế vua vừa là yếu tố của nội dung mang tính quyết định để thực
hiện quyền lực có sự kết hợp chặt chẽ với phương pháp thuyết phục. Quyền lực tồn tại ở
mọi cộng đồng có tổ chức, có mục đích của con người trong xã hội có giai cấp cũng như
xã hội nói chung cũng như đối với các bộ phận khác nhau của nó. Do vậy trong xã hội
tồn tại nhiều loại quyền lực khác nhau như quyền lực thị tộc. Mỗi chủ thể thường nằm
trong nhiều mối quan hệ quyền lực khác nhau. Trong quan hệ quyền lực này chủ thể là
người có quyền lực nhưng trong quan hệ quyền lực khác chủ thể lại có thể là người có
quyền. Quyền lực có quan hệ mật thiết với nhau với hoạt động quản lí, nó là điều kiện
không thể thiếu của quản lí để bảo đảm sự thống nhất ý chí của nhiều cá nhân nhằm thực
hiện những công việc chung. Quyền lực nhà nước là dạng quyền lực xã hội mang tính ý
chí gắn liền với chủ quyền quốc gia được thể hiện thông qua những định chế nhà nước,
pháp luật, mang tính giai cấp và mục đích chính trị rõ ràng. Quyền lực nhà nước luôn
thuôc về giai cấp thống trị và chủ yếu phục vụ lợi ích cho giai cấp thống trị. Nhà nước là
tổ chức trực tiếp mang quyền lực nhà nước, cụ thể hơn quyền lực nhà nước được biểu
hiện cụ thể ở hệ thống cơ quan tổ chức nhà nước.

Theo lí thuyết thì quyền lực nhà nước ở trung ương được chia thành nhiều quyền mà chủ
yếu là chia thành ba quyền: lập pháp, hành pháp, tư pháp và giao cho các cơ quan nhà
nước khác nhau ở trung ương nắm giữ và thực hiện để các loại quyền lực này có thể kiểm
soát và chế ước lẫn nhau. Tuy nhiên thực tiễn đã cho thấy cơ chế phân quyền trong các
nước tư sản cũng không giống nhau, tình trạng xung đột, mâu thuẫn giữa các nhánh
quyền lực thường xuyên xảy ra mâu thuẫn. Để khắc phục tình trạng trên và phù hợp với
bản chất của mình, quyền lực nhà nước ở các nước xã hội chủ nghĩa được tổ chức theo
nguyên tắc tập trung thống nhất trên cơ sở phân công và phối hợp thực hiện quyền lực
giữa các cơ quan nhà nước một cách hợp lí. Theo quy định của Hiến pháp và các đạo luật
tổ chức bộ máy nhà nước của nước ta hiện nay thì ở nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt
Nam, tất cả quyền lực thuộc về nhân dân mà nền tảng là liên minh giai cấp công nhân với
giai cấp nông dân và tầng lớp tri thức. Như vậy ở đây có cơ chế ủy quyền, nhân dân đã
trao quyền lực của mình không chỉ cho quốc hội mà còn cho cả hội đồng nhân dân các
cấp. Tuy nhiên quyền lực tối cao của Nhà nước được trao cho Quốc hội vì vậy quốc hội
được coi là cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất, thay mặt cho nhân dân cả nước quyết
định những vấn đề cơ bản trọng đại nhất của đất nước. Nhưng nếu chỉ có Quốc hội và hội
đồng nhân dân các cấp thì không thể thực hiện được hết quyền lực nhà nước. Vì thế xuất
phát từ các cơ quan quyền lực nhà nước được thành lập để cùng với các cơ quan quyền
lực nhà nước thực hiện quyền lực. Để đảm bảo sự thống nhất không phân chia quyền lực
pháp luật nước ta quy định tất cả các cơ quan khác đều do Quốc hội và hội đồng nhân dân
trực tiếp hoặc gián tiếp thành lập và các cơ quan này phải chịu trách nhiệm trước Quốc
hội và hội đồng nhân dân các cấp, phải báo cáo công tác với Quốc hội và nhân dân. Bằng
cách tổ chức như thế, quyền lực nhà nước ở nước ta xét theo chiều ngang cũng đảm bảo
sự tập trung thống nhất vào các cơ quan quyền lực nhà nước. Sự tập trung này là cần
thiết, nó đảm bảo cho sự thống nhất của cơ chế thực hiện quyền lực nhà nước, tránh được
hiện tượng mâu thuẫn xung đột nhiều khi đối lập giữa các cơ quan nhà nước trong quá
trình thực hiện quyền lực nhà nước. Để đảm bảo việc quản lí toàn diện thống nhất các
mặt quan trọng của đời sống xã hội cần thành lập hệ thống các cơ quan nhà nước từ trung
ương tới địa phương kết hợp theo ngành và theo lãnh thổ. Để đảm bảo sự tập trung thống
nhất quyền lực từ trung ương tới địa phương, Hiến pháp nước ta quy định hội đồng nhân
dân là cơ quan quyền lực nhà nước không phải “ của địa phương “, mà còn phải chịu
trách nhiệm với cơ quan nhà nước. Quyền lực nhà nước ở nước ta vừa bảo đảm sự tập
trung thống nhất ở trung ương.

Vấn đề mà chúng ta quan tâm hiện nay là hoàn thiện hơn bộ máy nhà nước CHXHCNVN
trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước làm sao bảo đảm được tính hiệu quả
trong việc tổ chức và thực hiện quyền lực nhà nước của nhân dân

SO SÁNH

Giống nhau: cả 3 tạp chí đều nên lên các bộ phận cấu thành nên quyền lực nhà nước,
trình bày đầy đủ các nội dung đầy đủ trong ba bộ phận , đều cho rằng quyền lực nhà nước
được sinh ra từ nhu cầu của xã hội, là điều kiện khách quan đảm bảo an ninh trật tự xã
hội cho người dân

Khác nhau:

Ths Nguyễn Minh Đoan thì cho rằng quyền lực nhà nước trong hiện đại nên tập trung và
thống nhất quyền lực cho Quốc hội, quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân đại diện là
Quốc hội, từ đó đảm bảo tính thống nhất từ trung ương đến cơ sở.

PGS.TS Lê Minh Tâm thì không đề cập đến tính quyền lực nhà nước thuộc về Quốc hội,
tác giả chỉ đề cập đến nên có sự thống nhất về quyền lực nhà nước từ trung ương đến cơ
sở, và giải thích bản chất của quyền lực.

Ý Kiến Bản Thân


Theo ý kiến của em, trong tình hình xã hội phát triển hiện đại ngày nay thì cần phải có sự
thống nhất quyền lực nhà nước, và ngày nay cơ quan quyền lực nhất chính là Quốc hội và
Quốc hội chính là cơ quan đại diện cho quyền lực của nhân dân vì thế nên phân bổ quyền
lực từ trung ương đến cơ sở, nên phân bổ từ cấp thấp đến cao và thông qua ý kiến của
Quốc hội, để không phải bị dồn quá nhiều việc vào một cơ quan nhà nước. Từ đó mới
phát huy được tính thống nhất và đảm bảo tính kiểm soát với các cơ quan nhà nước khác.

3. Quyền lực nhà nước và việc sửa đổi bổ sung một số điều của hiến pháp năm
1992

Quyền lực, quyền lực nhà nước là vấn đề vô cùng phức tạp của chính trị học và khoa học
pháp lí. Để góp phần nhận thức đúng đắn đầy đủ hơn về quyền lực nhà nước và góp ý cho
việc sửa đổi bổ sung một số điều của Hiến pháp năm 1992. Xuất phát từ cách hiểu biết về
quyền lực nói chung chúng ta có thể hiểu quyền lực nhà nước có thể buộc các cá nhân tổ
chức trong xã hội phải phục tùng. Cũng như các loại quyền lực khác quyền lực nhà nước
luôn tồn tại trong những mối quan hệ xác định. Quan hệ giữa nhà nước với các cá nhân tổ
chức trong xã hội ở đó phải phục tùng nhà nước. “ Khả năng “ ở đây được hiểu là sức
mạnh bạo của nhà nước, sức mạnh vật chất uy tín, vị thế trong xã hội hay khả năng trong
xã hội trong xã hội hay khả năng vận động quần chúng nó của nó. Vấn đề quyền lực nhà
nước thuộc về ai cũng gây không ít tranh cãi, cần có sự phân biệt rõ hai khái niệm quyền
lực nhà nước và quyền lực nhân dân. Quyền lực nhà nước chỉ là cách nói tắt của nhóm “
quyền lực nhà nước “. Trong mối quan hệ giữa nhà nước và các cá nhân tổ chức trong xã
hội thì nhà nước là chủ thể của quyền lực, quyền lực nhà nước còn các cá nhân tổ chức
đối tượng của quyền lực ấy. Tuy nhiên trong xã hội chủ nghĩa không chỉ tồn tại mối quan
hệ một chiều như vậy. Một mặt, các cá nhân tổ chức phải phục tùng nhà nước nhưng mặt
khác cũng phục tùng nhân dân. Khi toàn dân đã thể hiện sức mạnh của mình thì nhà nước
không thể không phục tùng. Trong chiều quan hệ ngược lại này thì nhân dân là chủ thể
quyền lực. Quyền lực này không phải quyền lực nhà nước mà là quyền lực nhân dân. Cho
dù nhân dân được hiểu theo góc độ nào thì quyền lực nhân dân vẫn luôn tồn tại. Nó tồn
tại trong mối quan hệ giữa nhân dân với nhà nước và các tổ chức khác của họ. Quyền lực
nhân dân được hiểu là khả năng nhân dân có thể buộc nhà nước hay các chủ thể khác phải
phục tùng, đây được xem là khả năng vốn có, đó là sức mạnh vật chất, sức mạnh bạo lực
nhân dân sức mạnh của dư luận xã hội. Trong xã hội dân chủ thì quyền lực nhân dân có
điều kiện để phát huy và giữa quyền lực nhà nước với quyền lực nhân dân có mối quan
hệ tương tác. Do vậy, quan hệ giữa nhà nước với nhân dân không đơn thuần là quan
mệnh lệnh phục tùng một chiều. Trong quan hệ giữa nhà nước với các cá nhân tổ chức thì
cá chủ thể này phải phục tùng nhà nước

Nhà nước xã hội chủ nghĩa với tư cách thừa ủy quyền của nhân dân, do vậy ý chí của nhà
nước phải phù hợp với ý chí nhân dân. Tưc là nhà nước không được thể hiện ý chí của
mình một cách chủ quan đơn phương tùy tiện mà một mặt nhà nước luôn tìm cách kiểm
tra xem ý chí của mình được thể hiện ra có phù hợp với ý chí của nhân dân hay không.
Chính vì thế khi có vấn đề gì phức tạp nhà nước phải tìm cách trưng cầu ý dân. Bên cạnh
đó trong bộ máy nhà nước luôn có những cơ quan đại biểu của nhân dân, thay mặt cho
nhân để kiểm tra giám sát hoạt động của nhà nước. Quyền lực ấy có thể được sử dụng để
tổ chưc và quản lí xã hội đời sống xã hội, phát triển kinh tế văn hóa giáo dục, bảo vệ an
ninh đem lợi ích cho toàn thể nhân dân. Tóm lại nhân dân là chủ thể của quyền lực nhân
dân khi thực hiện quyền lực của mình nhân dân dùng nhà nước làm công cụ thay mặt
nhân dân tổ chức và quản lí đời sống xã hội. Muốn thực hiện được nhiệm vụ đó, nhà
nước phải có quyền lực đó là quyền lực nhà nước, nhầ nước là chủ thể quyền lực ấy. Tuy
nhiên vấn đề khác rất quan trọng đó là cơ chế vận hành quyền lực nhà nước, cách thức tổ
chức quyền lực nhà nước, cách thức tổ chức quyền lực nhà nước. Chúng ta biết rằng
thông thường ý chí nhà nước được thể hiện dưới dạng các quy tắc xử sự chung nó được
đặt ra không phải cho cá nhân tổ chức cụ thể nào mà cho loại đối tượng nhất định, được
áp dụng trên địa bàn tương đối rộng, trong thời gian tương đối lâu dài, vì vậy nó thường
phải khái quát.

Khoa học pháp lí gọi ba khâu tương ứng là lập pháp hành pháp, tư pháp. Trong các nhà
nước chủ nô, phong kiến tất cả các khâu này đều do vua thực hiện. Tuy vậy nhưng nhà
vua không thể làm được tất cả mọi công việc mà vua phải lập ra các cơ quan nhà nước từ
trung ương xuống địa phương. Tuy nhiên các cơ quan này đơn thuần chỉ là cơ quan giúp
việc phụ thuộc vào vua, nếu cả quyền lập pháp và hành pháp, tư pháp đều nằm trong tay
nhà vua tất yếu sẽ nảy sinh sự lạm quyền chuyên chế, độc đoán. Do đó khi nói quyền lực
nhà nước là tập trung thống nhất phải hiểu theo nghĩa đối lập với phân tán. Ở nghĩa này “
tập trung “ được hiểu là dồn vào một chỗ, một nơi còn thống nhất được hiểu là quy về
một mối. Từ đó tập trung thống nhất quyền lực nhà nước phải hiểu là tập trung vào trung
ương quy về trung ương chứ không phát tán. Sức mạnh bạo lực nhà nước, tiềm lực vật
chất hay khả năng tác động đều tập trung thống nhất về trung ương.

4. Bàn về tính thống nhất của quyền lực nhà nước và sự phân công, phối hợp
trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp
1. Quyền lực

Quyền lực được hợp thành từ quyền và lực, Huyền ở đây được hiểu là khả năng thực hiện
những hành vi ( công việc nhiệm vụ hoạt động nhất định) và lực là sức mạnh, uy tín, trí
tuệ ,lực lượng ,điều kiện và tìm lực kinh tế. Huyền có nội dung rất rộng và nhiều loại Vì
quyền hình thành từ những nhu cầu khách quan và sự ước muốn chủ quan trong phạm vi
quyền lực luôn có xu hướng mở rộng. Nhưng lực thì luôn có những giới hạn nhất định.
Vì vậy nội hàm của khái niệm quyền lực luôn thể hiện sự giới hạn bởi mức độ kết hợp
với mức độ tương tác giữa quyền và lực. Theo đó quyền là hả năng được bảo đảm sức
mạnh để thực hiện những hành vi hoặc buộc người khác phải thực hiện những hành vi
nhất định theo ý chí của người có quyền hoặc được trao quyền.

Quyền lực là thái niệm vừa có tính khái quát lại vừa có tính cụ thể. Nhờ có tính khái quát
và tính cụ thể mà quyền lực vừa có chiều sâu bản chất thâm trầm lại vừa có hình thức
biểu hiện phong phú vừa thống nhất lại vừa đa dạng. Mỗi loại quyền đó có nguồn gốc cơ
sở tồn tại và được bảo đảm bằng những sức mạnh, song song với điều đó chẳng hạn như
quyền lực luân lý có nguồn gốc từ nhu cầu hành xử nhằm đạt được những mục đích luân
lí nhất định. Trong mỗi loại quyền lực đó lại có những biến dạng quyền lực rất phong phú
tuy nhiên trong thực tiễn của đời sống xã hội quyền lực này Hường có sự tương tác thâm
nhập với nhau vì vậy rất khó để tách rời mỗi loại hoặc biến dạng mỗi loại hay quyền lực
đó.

Quyền lực luôn có sự vận động phát triển theo thời gian không gian có sự biến đổi của
điều kiện chính trị kinh tế văn hóa và xã hội. Trong tình hình đó đòi hỏi phải có cách tiếp
cận toàn diện hệ thống khi giải quyết những vấn đề liên quan đến quyền lực.

2. Quyền lực nhà nước

Quyền lực nhà nước là một dạng đặc biệt của quyền lực chính trị. Tính chất đặc biệt của
quyền lực nhà nước thể hiện ở chỗ nó là quyền lực công khai không nhất bao trùm toàn
xã hội quyền lực nhà nước có đủ sức mạnh để kiểm soát và ràng buộc những chủ thể phải
phục tùng theo mệnh lệnh. Quyền lực nhà nước dựa theo bốn tiêu chí chỉ xuất hiện khi xã
hội đã phát triển đến trình độ nhất định hay là cơ sở tồn tại của quyền lực nhà nước bao
gồm những yếu tố được sự thừa nhận rộng rãi về mặt xã hội, được hợp pháp hóa dưới các
hình thức pháp lý Được đảm bảo bằng sức mạnh của bộ máy nhà nước và tìm năng kinh
tế hợp pháp. Tiêu chí thứ ba là phạm vi tác động của quyền lực nhà nước rất rộng lớn về
thời gian không gian và đối tượng . Cuối cùng quyền lực nhà nước có tính thống nhất cao
đồng thời cũng có tính thứ bậc phức tạp biểu hiện công khai với danh nghĩa chủ quyền
nhân dân chủ quyền quốc gia và được thừa nhận về mặt quốc tế.

3. Tính thống nhất của quyền lực nhà nước

Thống nhất là một trong những thuộc tính cơ bản của quyền lực nhà nước. Nguồn gốc
quyền lực nhà nước không phải là quyền lực của tự thân mà bắt nguồn từ quyền lực nhân
dân nhân danh quyền lực nhân dân và luôn Chịu sự kiểm soát của quyền lực nhân dân khi
chưa có nhà nước thì đã có quyền lực nhân dân và nghĩa là quyền lực của cả cộng đồng.
Khi quy mô nhà nước lớn dần lên phương thức dân chủ trực tiếp không thể thực hiện
được một cách phổ biến nữa thì phương thức dẫn đến dân chủ gián tiếp thông qua cơ
quan dân cử để tổ chức và quyền lực nhà nước đã tìm ra được ngày càng được áp dụng
rộng rãi.
Tuy nhiên quyền lực nhân dân vẫn là cơ sở của sự biểu hiện dễ thấy nhất là việc các nhà
nước phải tôn trọng các quyền bầu cử bãi miễn những đại biểu do nhân dân bầu ra đối với
những vấn đề quan trọng của đất nước phải đưa ra trưng cầu dân ý. Nhưng sự phân định
đó phải được đặt trên cơ sở đảm bảo tính thống nhất và tính chỉnh thể của quyền lực nhà
nước. Có thể nói tính thống nhất của quyền lực nhà nước là vấn đề có tính nguyên tắc bảo
đảm tính thống nhất của quyền lực là yêu cầu có tính khách quan.

Để tổ chức quản lý và điều hành các vấn đề của một quốc gia trên các lĩnh vực rộng lớn
phức tạp linh hoạt và nhạy cảm đòi hỏi nhà nước phải có một bộ máy có đủ các cơ cấu và
sức mạnh theo nghĩa rộng nhất có từ này quyền lực được giao. Sức mạnh mà phân tán tất
cả yếu và không thể bảo đảm cho việc thực hiện các quyền và chủ thể của quyền lực nhà
nước. Cũng chính vì vậy mà bộ máy quyền lực đó thường do lực lượng mạnh nhất nắm
giữ. Tuy nhiên quyền lực nhà nước suất phát từ quyền lực nhân dân nên khi đảng chính
trị cầm quyền và lực lượng tiên tiến đại diện cho ý chí và lợi ích của nhân dân thì bộ máy
quyền lực nhà nước được tổ chức nhằm bảo đảm và phục vụ lợi ích nhân dân ngược lại
nếu đảng cầm quyền đại diện cho lực lượng phản động hay bộ máy quyền lực nhà nước
có thể được sử dụng chỉ để phục vụ cho lợi ích của lực lượng cầm quyền đi ngược lại với
lợi ích của nguyện vọng

4. Sự phân định tương đối của quyền lực nhà nước

Nếu như tính thống nhất của quyền lực nhà nước là vấn đề tất yếu và xuyên suốt của quá
trình tồn tại và phát triển của quyền lực nhà nước thì sự phân định tương đối của quyền
lực nhà nước cũng suất phát từ nhu cầu có tính khách quan nhưng đó là phương thức tổ
chức và thực thi quyền lực trong quá trình xuất hiện tồn tại và phát triển của nó có những
đặc điểm riêng. Sự xuất hiện chậm hơn có nhiều biến dạng và luôn chịu sự tác động
nhiều yếu tố khác nhau có thể giải thích về điều này như sau: Lần đầu khi quy mô nhà
nước còn nhỏ phương pháp dân chủ trực tiếp được sử dụng một cách phổ biến và quyền
lực nhà nước rất gần với quyền lực của nhân dân sự hài hòa giữa quyền và lực lượng đảm
bảo tình trạng lạm dụng độc đoán chưa được phổ biến vấn đề phân định và phân công
quyền lực chưa trở thành nhu cầu bức xúc.
Tóm lại các quyền lập pháp hành pháp và tư pháp lào những bộ phận quyền lực nhà nước
mỗi bộ phận đều có sự độc lập nhất định nhưng giữa chúng luôn có sự tác động qua lại
đan xen và hòa quyện với nhau. Việc phân định giặt rồi mỗi bộ phận quyền lực đó chỉ có
thể thực hiện được về mặt lý thuyết còn trên thực tiễn là không thể thực hiện được vì vậy
giải pháp tốt nhất Và có ý nghĩa thực tiễn nhất là trên cơ sở xác định rõ tính chất đặc
điểm nội dung và hình thức phương pháp biểu hiện đặc thù của mỗi quyền lực để xây
dựng cơ sở khoa học cho việc tìm ra mức độ hợp lý trong việc phân công và phối hợp
thực hiện hiệu quả cao nhất mỗi loại quyền lực đó nói riêng và quyền lực của nhà nước
nói chung.

5. Nguyên tắc quyền lực nhà nước là thống nhất, có sự phân công và phối hợp
giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành
pháp và tư pháp

Văn kiện các đại hội IX, X của Đảng Cộng Sản Việt Nam và Hiến Pháp Việt Nam năm
1992 khẳng định: nhà nước CHXHCNVN là Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của
nhân dân, do nhân dân vì nhân dân, tất cả quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân, quyền
lực nhà nước là thống nhất, có sự phân công và phối hợp giữa các cơ quan nhà nước
trong việc thực hiện quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp.

1. Quyền lực nhà nước là thống nhất


Quyền lực nhà nước là một dạng quyền xã hội mang tính ý chí, gắn liền với chủ
quyền quốc gia. Quyền lực nhà nước xuất phát từ nhân dân, nhà nước nhận quyền
từ nhân dân, một khối thống nhất tạo nên một sự thống nhất vô cùng to lớn trong
xã hội. Quyền lực nhà nước được sinh ra do nhu cầu phân công lao động xã hội,
nhu cầu quản lý xã hội từ phía nhà nước. Để thực hiện quyền lực nhà nước phải
cần đến các đội quân chuyên nghiệp hoặc hầu như là chuyên nghiệp. Do sự phát
triển của nhà nước và nhu cầu quản lý đời sống xã hội mà đội ngũ những người
thực hiện quyền lực nhà nước ngày càng đông đảo về số lượng được nâng cao về
chất lượng và ngày càng phải thực hiện nhiều công việc khác nhau của xã hội. Để
nâng cao năng suất lao động đội quân này phải được tổ chức chặt chẽ thành những
bộ phận chuyên thực hiện những công việc nhà nước nhất định. Sự chuyên môn
hóa trong việc thực hiện các công việc nhà nước được xe là sự phân công lao động
quyền lực nhà nước. Tùy thei quan niệm và sự pháy triển của nhu cầu quản lý nhà
nước mà quyền lực nhà nước từ chỗ tập trung trong tay 1 cá nhân hay một nhóm
người từng bước được chia tách dần ra phân công cho nhiều cơ quan nhà nước
khác nhau cùng thực hiện. Dù các nhà nước có thành lập thêm bao nhiêu cơ quan
gì đi nữa thì quyền lực nhà nước vẫn luôn phải thống nhất, bộ máy nhà nước vẫn
luôn là một cơ chế thống nhất nắm giữ và thực hiện quyền lực nhà nước.
Ở nước ta theo quy định của hiến pháp và các luật tổ chức bộ máy nhà nước thì tất
cả quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân mà nền tảng là liên minh giai cấp.
2. Sự phân công thực hiện quyền lực nhà nước
Nếu xét từ chức năng của quyền lực nhà nước thì quyền lực nhà nước thường liên
quan đến ba loại hoạt động cơ bản là xây dựng pháp luật, công bố và tổ chức thực
hiênj pháp luật, phân công thực hiện quyền lực nhà nước giao cho từng nhóm các
cơ quan nhà nước thực hiện một quyền lực nhất định nào đí có tính chất chuyên
nghiệp. Việc phân công thực hiện quyền lực nhà nước cũng hạn chế được sự độc
đoán chuyên quyền, sự lạm dụng quyền lực trong bộ máy nhà nước. Bởi nguy cơ
mang tính phổ biến của những người, những cơ quan cầm quyền là dễ dẫn đến tình
trạng lạm quyền. Khi đã có sự phân công thực hiện quyền lực nhà nước họ không
còn cơ hội để lạm quyền bởi khi cơ quan này lạm quyền thì sẽ ảnh hưởng tới
quyền lực của cơ quan khác. Việc phân biệt các quyền không đơn thuần là sự phân
công mà còn có ý nghĩa kiểm soát kiềm chế quyền lực đối với quyền hành pháp,
một loại quyền lực trực tiếp ảnh hưởng tới tự do dân chủ tới lợi ích của các tổ chức
và cá nhân trong xã hội. Sự phân công hợp lý công việc giữa các cơ quan nhà nước
trong việc thực hiện quyền lực nhà nước sẽ tạo ra sự chủ động, linh hoạt, năng
động của mỗi cơ quan nhà nước cũng như cả bộ máy nhà nước. Mỗi cơ quan luôn
chủ động, tự giác thực hiện phần công việc được giao đó vừa là bổn phận trách
nhiệm vừa là niềm tự hào về vai trò của mỗi cơ quan. Sự phân công thực hiện
quyền lực luôn diễn ra theo chiều khác nhau, theo chiều ngang giữa các cơ quan
nhà nước cùng cấp, theo chiều dọc giữa cùng một loại cơ quan ở các cấp khác
nhau. Trên cơ sở sự phân công hợp lý về nhiệm vụ, quyền hạn trong pháp luật sẽ
là tiêu chí để đánh giá tính hợp pháp, trách nhiệm, hiệu quả trong hoạt động mỗi
cơ quan nhà nước.
3. Sự phối hợp thực hiện quyền lực nhà nước
Bộ máy nhà nước là một chỉnh thể thống nhất, xuất phát từ tính chất thống nhất
của quyền lực nhà nước, sự thống nhất ở mục đích cuối cùng trong hoạt động của
tất cả các cơ quan nhà nước đòi hỏi phải có sự phối hợp chặt chẽ giữa các cơ quan
nhà nước trong việc thực hiện quyền lực nhà nước. Sự phối hợp giữa cơ quan nhà
nước trong việc thực hiện quyền lực nhà nước có tác dụng chế ước, kiểm soát lẫn
nhau giữa các cơ quan nhà nước để tránh khỏi nguy cơ lạm dụng quyền lực, Đồng
thời sự phối hợp còn có tác dụng hạn chế hoặc tránh sự xung đột quyền lực. Do
vậy pháp luật quy định cho cơ quan nhà nước này có thể đảm nhận mang tính trợ
giúp một công việc thuộc thẩm quyền cơ quan nhà nước, sự phối hợp còn tạo ra sự
hiểu biết thông cảm lẫn nhau giữa các cơ qua trong việc thực hiện quyền lực nhà
nước.
Lý luận và thực tiễn đều khẳng định là nguyên tắc quyền lực nhà nước thống nhất
có sự phân công phối hợp giữa các cơ quan nhà nước, để đẩy nhanh công cuộc xây
dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa trên tất cả các mặt thì cần tập trung
hệ thống thể chế, chức năng, nhiêm vụ, tổ chức bộ máy tiếp cải cách bộ máy.
3

6. Góp phần đổi mới nhận thức về chức năng của nhà nước

Xuất phát từ sự phát triển của tư tưởng đổi mới được xác định từ đại hội VI qua đại hội
VII và IX của Đảng ta về con đường đi lên xã hội chủ nghĩa, về nhà nước trong điều kiện
mới. Đại hội đảng IX đã xác định vấn đề cấp bách là đẩy mạnh cải cách tổ chức và nâng
cao hoạt động của nhà nước cho phù hợp với tình hình mới, đảm đương đúng vai trò của
mình đối với sự phát triển của xã hội thể hiện rõ bản chất tốt đẹp tính ưu việt của nhà
nước ta.
Chức năng của nhà nước là một trong những vấn đề cơ bản của lí luận nhà nước và pháp
luật, là khái niệm phức tạp luôn gắn với những phạm trù như bản chất nhiệm vụ, các hình
thức và phương pháp hoạt động của nhà nước, khi chuyển sang cơ chế thị trường định
hướng XHCN nhiều quan điểm về chức năng của nhà nước tuy nhiên hầu hết quan điểm
đó đều chưa lí giải thỏa đáng về khái niệm chức năng của nhà nước cũng như vai trò, nội
dung, phương thức thực hiện chức năng của nhà nước đối với đời sống xã hội, nhiều sách
ở Liên Xô trước đây thì chức năng của nhà nước là những phương diện hoạt động chủ
yếu của nhà nước nhằm thực hiện những nhiệm vụ đặt ra trước nhà nước.

Như bất kì hiện tượng xã hội nào nhà nước tồn tại và phát triển thông qua những mối liên
hệ biện chứng của nó thể hiện trong các hoạt động của nhà nước tác động vào thế giới
tinh thần của con người. Mỗi chức năng cụ thể thể hiện sự thống nhất của nội dung hình
thức biện pháp thực hiện quyền lực nhà nước trong lĩnh vực hoạt động nhất định của nhà
nước gắn với việc thực hiện các nhiệm vụ của nhà nước, không chỉ tồn tại trong mối liên
hệ với nhiệm vụ nhà nước mà còn phản ánh bản chất và vai trò vị trí của nhà nước đối với
xã hội, phát điểm là mục tiêu hoạt động của nhà nước, chức năng của nhà nước tương
xứng với hiện tượng nhà nước.

Quan điểm thứ hai xuất phát từ bản chất nhà nước thuộc tính cơ bản bên trong của nhà
nước, phản ánh hai thuộc tính đặc trưng của bản chất nhà nước với tư cách là tổ chức
thống trị giai cấp và tổ chức đại diện chính thức cho xã hội. Quan điểm thứ ba kết luận
rằng cần nhận thức khái niệm chức năng nhà nước trên ba góc độ thống nhất hữu cơ.

Quan điểm khác cho rằng chức năng của nha nước chính là những nhiệm vụ cơ bản của
nhà nước trong từng giai đoạn phát triển cụ thể đưa vào khái niệm chức năng của nhà
nước cả những phương pháp cách thức nhà nước thực hiện chức năng của mình. Tuy có
những khác biệt nhất định trong mỗi cách hiểu chức năng của nhà nước nhìn chung
chúng đều xuất phát trên cơ sở chủ nghĩa duy vật biện chứng, chủ nghĩa duy vật lịch sử
của triết học Mác – Leenin về nguồn gốc bản chất vị trí vai trò của nhà nước trong đời
sống xã hội. Trong bối cảnh hiện nay, cần làm sáng tỏ những luận điểm sau
1. Chức năng của nhà nước gắn liền với điều kiện xuất hiện và bản chất của nhà
nước
Quan điểm của học thuyết Mác-Leenin đã phủ định một cách khoa học các thuyết
như thuyết thần học, thuyết gia trưởng, thuyết bạo lực thuyết tâm lí thuyết khế ước
xã hội của các học giả khác nhau giải thích về nguồn gốc nhà nước, điều kiện xuất
hiện nhà nước quy định nhà nước phải có những quy định nhà nước phải có những
chức năng nhất định, đó là chức năng chuyên chính giai cấp và chức năng xã hội.
Chức năng của nhà nước được xác định từ bản chất nhà nước và ngược lại bản
chất nhà nước được thể hiện thông qua các chức năng của nhà nước được cụ thể
hóa và thể hiện trong nhiều mặt hoạt động.
2. Tương quan giữa tính giai cấp và tính xã hội của chức năng nhà nước lệ
thuộc vào điều kiện lịch sử trong các nhà nước khác nhau
Tính giai cấp và tính xã hội trong chức năng của nhà nước luôn tồn tại một cách
khách quan, không phụ thuộc vào sự nhận thức của con người, các chức năng của
nhà nước đều chứa đựng tính xã hội và tính giai cấp nhưng mức độ thể hiện các
tính chất đó khác nhau tùy thuộc vào từng điều kiện lịch sử. Tương quan giữa hai
tính chất trong chức năng của nhà nước phụ thuộc vào sự tương quan lực lượng xã
hội, sự xung đột lợi ích giai cấp thể hiện trên các lĩnh vực kinh tế xã hội và chính
trị trong điều kiện xã hội mà nhà nước đó tồn tại.
3. Chức năng của nhà nước trong mối quan hệ với quyền lực nhà nước và trình
độ dân chủ
Quyền lực nhà nước và chức năng nước tồn tại như điều tất yếu trong xã hội có
tính giai cấp và nhà nước. Chức năng nhà nước là một trong nhiều hình thức thể
hiện quyền lực nhà nước. Chức năng nhà nước là các phương diện hoạt động chủ
yếu của nhà nước nhằm thi hành quyền lực nhà nước. Bản chất của nhà nước
XHCN là nhà nước dân chủ là quyền lực thuộc về nhân dân.
7. Về Vai Trò Và Chức Năng Của Nhà Nước
Từ sau công cuộc đổi mới, nhà hước ta là luôn là vấn đề thời sự. Bởi vì, đối với hầu hết
các nước trên thế giới hiện tại, việc tìm kiếm cách thức tổ chức và hoạt động để làm sao
nhà nước hoạt động hiệu quả. Đã có rất nhiều công trình nghiên cứu về vấn đề này. Song
để có thể tìm ra giải pháp cải cách bộ máy nhà nước một cách có hiệu quả, thiết nghĩ,
nhìn nhận lại chức năng, vai trò của nhà nước là một việc làm cần thiết.

1. Về vai trò của nhà nước


Qua thực tế tồn tại của nhà nước, có thể thấy nhà nước có vai trò rất to lớn đối với
xã hội. Mặc dù xã hội giữ vai trò quyết định đối với nhà nước vì nó là cơ sở cho sự
ra đời, tồn tại và phát triển của nhà nước song xã hội có giai cấp cũng không thể
tồn tại, nếu không có nhà nước, lực lượng có khả năng tổ chức, điều hành, quản lý
xã hội, làm dịu xung đột thì xã hội mới tồn tại và phát triển được. Vai trò của nhà
nước đối với xã hội được thể hiện chủ yếu thông qua việc đề ra chủ trương, đường
lối chính sách, pháp luật chiến lược. Nếu những chủ trương ấy phù hợp với thực tế
khách quan thì hoạt động của nhà nước có thể được đẩy mạnh. Ngược lại nếu
chính sách, pháp luật không phù hợp thì những tiến trình, chủ trương, cũng như
hoạt động của nhà nước sẽ bị hạn chế. Thưở ban đầu, khi nhà nước mới ra đời thì
vai trò của nhà nước đối với xã hội thấp hơn nhiều so với hiện tại, tính cách giai
cấp của nó thể hiện công khai và rõ rệt hơn so với tính xã hội vì nhà nước chủ yếu
thực hiện chức năng trấn áp để phục vụ mục tiêu thống trị giai cấp. Khi nền kinh tế
thị trường hình thành, nó gần như hoàn toàn được thả nổi, được điều tiết bằng một
bàn tay vô hình, đó là quy luật cạnh tranh tự do và quy luật giá trị, nhà nước hầu
như không can thiệp vào nền kinh tế xã hội, và để cho nó như “ chiếc phao “ tự thả
nổi. Cho đến tận thế kỷ XVII người ta vẫn chỉ thấy vai trò của nhà nước đối với xã
hội chủ yếu thể hiện qua việc sử dụng tài nguyên xã hội để cung cấp một số hàng
hóa công cộng cơ bản, thiết yếu như luật pháp, trật tự, cơ sở hạ tầng, thu thuế và
nâng cao năng suất của khu vục tự nhân. Song thời gian này đã có người nhận thấy
vai trò của nhà nước song việc hướng dẫn buôn bán và thúc đẩy sự phát triển xã
hội.
Đến cuối thế kỷ XVIII đã xuất hiện quan điểm cho rằng thị trường là công cụ tốt
nhất để thực hiện tăng trưởng và cải thiện phúc lợi, còn nhà nước thì thích hợp
nhất với một số chức năng nòng cốt như quốc phòng, bảo đảm an ninh về người và
tài sản, giáo dục công dân. Nhưng ngay sau đó thì “ sự can thiệp của nhà nước vẫn
tiếp tục đóng một vai trò sống còn, xúc tác trong sư tăng trưởng và phát triển của
thị trường. Chính phủ tốt nhất khi nó cai quan ít nhất, nơi mà nhà nước ít can thệp
vào nền kinh tế hơn ở Châu Âu và Nhật Bản. Nhà nước can thiệp vào nền kinh tế
thị trường thông qua việc ban hành và tổ chức thực hiện các quy phạm pháp luật
trong lĩnh vực kinh tế, thông qua các chính sách tài chính, tiền tệ, giá cả, đầu tư,
thuế, cơ chế. Bằng các phương tiện trên, thì nhà nước có thể thúc đẩy sự phát triển
của ngành này, hạn chế sự phát triển của ngành kia, nhà nước cũng có thể can
thiệp, điều tiết thị truowddng bằng vệc thành lập các cơ quan được giao đặc trách
việc điều tiết, quản lý kinh tế, với quy chế độc lập. Từ những bài học, ta thấy nhà
nước có thể cải thiện kết quả phát triển bằng cách như tạo một môi trường kinh tế
vĩ mô và vi mô trong đó có những hình thức kích thích đúng cho hoạt động kinh tế
có hiệu quả. Tạo một cơ sở hạ tầng thể chế quyền sở hữu tài sản, hòa bình, luật
pháp và trật tự, phần lớn các nhà nước hiện tại cố gắng bảo đảm công bằng xã hội,
chủ trọng phát triển an sinh xã hội, giáo dục và kinh tế, đề ra những chính sách
bảo vệ môi trường, ngày nay nhà nước được xem như người chịu trách nhiệm
trong việc phòng ngừa, giải quyết hậu quả rủi ro xã hội, bảo đảm sự đoàn kết xã
hội và sư phổ biến tri thức. Đặc biệt trong điều kiện phát triển kinh tế tri thức và
thời đại, nhu cầu của người dân đối với vai trò của nhà nước luôn luôn là thường
trực, đa dạng và không có giới hạn. Do vậy, cải cách tổ chức và hoạt động của bộ
máy nhà nước để nâng cao hiệu quả hoạt động và vai trò xã hội của nó là một việc
làm cần thiết đối với mọi nhà nước hiện đại
2. Về Chức Năng Của Nhà Nước
Chức năng của nhà nước là những phương diện hoạt động chủ yếu của nhà nước
nhằm để thực hiện những nhiệm vụ đặt ra trước nhà nước. Chức năng nhà nước là
những phương diện hoạt động cơ bản của nhà nước được xác định từ bản chất nhà
nước, do cơ kinh tế và kết cấu giai cấp quyết định, nhằm tác động có định hướng
đến các lĩnh vực của đời sống xã hội và thực hiện các nhiệm vụ đặt ra trước nhà
nước

8. THẾ GIỚI ĐANG BIẾN ĐỔI VỀ BÀN TAY NHÀ NƯỚC


1.Thế giới đang biến đổi

Thế giới đang biến chuyển mạnh mẽ cả về lượng và chất, với các xu hướng chủ yếu:
Thứ nhất, tăng cường đối thoại, vừa cạnh tranh vừa hợp tác, phụ thuộc và chế định lẫn
nhau trong quá trình khu vực hóa, toàn cầu hóa, đồng nhất hóa môi trường kinh doanh,
hoàn thiện và nâng cao hơn nữa hiệu quả vận hành của các nguyên tắc và thiết chế thị
trường mở, vì sự phát triển bền vững của mỗi nước, cũng như của toàn thể cộng đồng.
Đối thoại ngày càng là sự lựa chọn ưu tiên cùng với sự gia tăng hợp tác trong cạnh tranh
gay gắt trên tất cả các cấp độ và lĩnh vực, cả trong một quốc gia, cũng như trong quan hệ
quốc tế. Hệ thống sản xuất, thương mại và tài chính quốc gia ngày càng mở rộng và quốc
tế hóa. Nhân loại đang thực sự bước vào kỷ nguyên của các thị trường toàn cầu được
kiểm soát tập thể .Đồng thời, sẽ ngày càng đậm nét hơn xu hướng hội tụ và “đồng nhất
hóa” giữa các khối kinh tế, môi trường và nguyên tắc quản lý kinh tế chủ yếu trong nước,
trong khu vực và trong phạm vi toàn cầu.
Thứ hai, tăng cường quá trình tái cấu trúc mới, đa dạng hóa và đa cực hóa về trung tâm,
mô hình, động lực và cả mục tiêu phát triển, đa phương hóa việc quản lý và giải quyết
các vấn đề của mỗi quốc gia cũng như quốc tế.
Các sản phẩm hàng hóa và dịch vụ đang và sẽ có sự cải thiện căn bản theo hướng đa dạng
hơn, gọn nhỏ hơn, nhiều chức năng hơn, tiện lợi, tinh xảo hơn, tiết kiệm năng lượng và rẻ
hơn, do đó, phổ cập hơn và có tính chất cá nhân hơn; xuất hiện hàng loạt sản phẩm hoàn
toàn mới với vòng đời sản phẩm ngày càng ngắn lại, thậm chí rất ngắn. Giá trị của thông
tin trở nên đắt hơn. Chất lượng nắm bắt, xử lý các thông tin trở thành nhân tố quyết định
chất lượng sống, cũng như sự thành công của mỗi cá nhân và doanh nghiệp, do đó, cũng
là yếu tố chủ yếu cho sự thành công của mỗi quốc gia.
Để chống khủng hoảng, Chính phủ các nước ngày càng tuân theo công thức: một là, mở
rộng nhu cầu xã hội thông qua nới lỏng chính sách tài chính – tín dụng; hai là, khai thác
thị trường quốc tế; ba là, điều chỉnh chuyển hướng năng lực sản xuất và cơ cấu sản phẩm
cung ứng để phù hợp cầu hoặc kích thích lượng cầu mới có khả năng thanh toán cao…
Hướng thứ nhất sẽ kéo theo sự gia tăng mạnh các khoản nợ công và tư, sự bấp bênh và
nhạy cảm của hệ thống tài chính – tín dụng quốc gia và quốc tế… Hướng thứ hai và
hướng thứ ba ngày càng được các nước lựa chọn nhiều hơn. Thành thử, có thể thấy, quốc
tế hoá, toàn cầu hoá và tri thức hoá nền kinh tế vừa là hướng phát triển và lối thoát tự
nhiên hữu hiệu nhiều triển vọng nhất, vừa là hệ quả trực tiếp của những cố gắng chủ quan
tìm kiếm các giải pháp tối ưu chống khủng hoảng chu kỳ kinh tế…
Những cơ hội mới, những thách thức mới đang và sẽ đặt ra ngày càng nhiều và đa dạng
hơn cho mỗi doanh nghiệp, mỗi quốc gia và toàn thế giới…
2. Tư duy mới về “bàn tay Nhà nước”
Những thập niên sau cuộc Đại khủng hoảng cuối những năm 1920, nước Mỹ trỗi dậy nhờ
phất cao ngọn cờ tự do kinh doanh và thu được nguồn lợi nhuận khổng lồ từ buôn bán vũ
khí, quy tụ các dòng vốn đầu tư và dòng thác vàng (70% tổng dự trữ vàng trên toàn thế
giới) chảy về Mỹ từ châu Âu lúc đó đang ngập chìm trong khói đạn của cuộc Chiến tranh
thế giới lần thứ hai. Cuộc khủng hoảng tài chính năm 2008 đang bộc lộ những tín hiệu và
động thái chưa từng có, đánh dấu bước ngoặt xuống dốc của thời kỳ hoàng kim chủ nghĩa
tư bản tự do Mỹ, cũng như vai trò Mỹ – một siêu cường kinh tế và tài chính.
Thế giới đang bước vào thời đại kinh tế mới, kinh tế thị trường có điều tiết thích hợp của
chính phủ. Trong đó, sẽ có yêu cầu cao hơn về tăng cường vai trò của luật pháp, chế tài,
điều tiết nhà nước, kiểm soát các thể chế thị trường, thắt chặt cho vay tín dụng, thiết lập
hệ thống thông tin công khai, minh bạch, phát triển các công cụ dự báo, cảnh báo và
trừng phạt các sai trái và gian lận…
Tư duy mới về “bàn tay Nhà nước” đang và sẽ ngày càng trở nên rõ nét, bao quát và chi
phối toàn diện các hoạt động trong mọi lĩnh vực của đời sống kinh tế – xã hội quốc gia và
quốc tế, với các biểu hiện và yêu cầu chủ yếu sau:
Vai trò đầu tư trực tiếp, cũng như là trụ cột phát triển của Nhà nước ngày càng giảm hoặc
được định hướng hỗ trợ phát triển đầu tư tư nhân, song Nhà nước có vai trò ngày càng to
lớn trong cuộc chiến với các chấn động cơ cấu hoặc chu kỳ kinh tế bột phát, nhất là
khủng hoảng tài chính – ngân hàng, dù nó xảy ra ở trong nước hay nước ngoài, nguyên
nhân không trực tiếp từ sai lầm của Chính phủ hoặc trong khu vực kinh tế nhà nước.
Đồng thời, vai trò của công tác thông tin, dự báo và giám sát, cảnh báo an toàn, nhất là an
toàn hệ thống tài chính – ngân hàng, là hết sức quan trọng và không thể coi nhẹ trong bất
luận trường hợp nào và vào thời điểm nào … Ngoài ra, cần luôn tỉnh táo với các tác động
lan tỏa, dây chuyền có tính hai mặt của các biến cố và chính sách kinh tế trên thị trường
trong nước và quốc tế. Cần dập ngòi khủng hoảng từ khi nó còn nhen nhúm, thay vì khi
nó đã thành đám cháy mạnh và lan rộng, thì chi phí là khó đo lường, nhất là với một nước
còn nghèo và các thiết chế thị trường còn chưa phát triển, hoàn thiện.
“Bàn tay” điều chỉnh của Nhà nước cần chuyển dịch theo hướng giảm can thiệp hành
chính, trực tiếp, để chuyển sang phương thức can thiệp gián tiếp, có tính định hướng và
giám sát nhiều hơn, vừa tuân thủ các yêu cầu và lợi ích thị trường, vừa không làm xấu đi
sự ổn định kinh tế vĩ mô và bảo đảm hài hòa các lợi ích trong quá trình phát triển, nhất là
không lạm dụng sức chịu đựng và đổ gánh nặng khủng hoảng lên người dân, người tiêu
dùng.
3. “Bàn tay Nhà nước” ở Việt Nam
Quá trình Đổi mới nói chung, và sử dụng “bàn tay Nhà nước” trong quản lý phát triển
kinh tế – xã hội của Việt Nam nói riêng, dù muốn hay không, ít hoặc nhiều, trực tiếp và
gián tiếp, trước mắt hoặc lâu dài đã, đang và sẽ chịu ảnh hưởng của những xu hướng phát
triển và tư duy mới về vai trò Nhà nước mang tính toàn cầu chung … Thực tế cho thấy,
“bàn tay Nhà nước” Việt Nam về cơ bản đã đón nhận và bắt nhịp được với các xu thế
chung của thế giới, nhờ đó đã góp phần chèo lái đúng hướng và vững vàng con thuyền
kinh tế Việt Nam vượt bao thác ghềnh, khó khăn và thách thức to lớn, chưa có tiền lệ
trong lịch sử hàng ngàn năm dựng nước và giữ nước của dân tộc, để ngày càng củng cố
thế và lực trên hành trình vươn ra đại dương, hội nhập cùng bạn bè năm châu, bốn biển

“Bàn tay Nhà nước” Việt Nam thường bộc lộ tập trung và có thêm cơ hội hoàn thiện hơn
khi xảy ra các chấn động kinh tế – tài chính mạnh trong và ngoài nước
Tuy nhiên, thực tế cũng cho thấy, cả về nhận thức, chính sách, thể chế và phương thức tổ
chức hoạt động của “bàn tay Nhà nước” ở Việt Nam vẫn còn một số bất cập do sự đan
xen giữa cái mới chưa được luận giải, khẳng định và hình thành đầy đủ, đồng bộ, nhất
quán, với cái cái cũ vẫn đang tồn tại, hoặc chưa được đổi mới kịp thời, thích hợp. Cơ chế
Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa và tăng cường hội nhập kinh tế quốc tế chưa thật rõ ràng, chậm đổi mới. Nội dung,
phương thức, mức độ quản lý nhà nước đối với các khu vực kinh tế còn chưa thống nhất
và chưa thật hiệu quả; còn nhiều bất cập trong phân cấp và phối hợp quản lý Nhà nước.
Việc tách chức năng quản lý nhà nước với chức năng kinh doanh của doanh nghiệp còn
chậm. Một số chủ trương, chính sách chưa được thể chế hóa bằng các kế hoạch, cơ chế,
trách nhiệm triển khai cụ thể, kịp thời, hiệu quả. Công tác thông tin, dự báo kinh tế và
quản lý chất lượng phát triển theo hướng bền vững còn lúng túng và bị buông lỏng.
Nhiều tiềm năng và nguồn lực cần thiết cho phát triển còn chưa được khai thác và sử
dụng có hiệu quả…
Để nâng cao năng lực, hiệu lực và hiệu quả quản lý Nhà nước đối với quá trình phát triển
kinh tế – xã hội ở nước ta, vượt qua các cuộc khủng hoảng trong một thế giới đang biến
đổi toàn diện và nhanh chóng, liệu pháp “bàn tay Nhà nước” ở Việt Nam cần được hoàn
thiện theo một số phương hướng và nội dung trọng tâm sau:
Tiếp tục làm rõ cơ sở lý luận và thực tiễn về một số vấn đề lớn và mới trong chủ trương
phát triển và quản lý Nhà nước.
Đặc biệt, một chính sách tài chính -tiền tệ thận trọng (không quá lỏng, không quá chặt)
luôn là cần thiết trong thực tế Việt Nam; tiếp tục h?n ch? và nâng cao hiệu quả đầu tư
công, đầu tư của khu vực kinh tế Nhà nước; chủ động tiếp cận, tham gia, duy trì, khai
thác sử dụng đúng lúc và hiệu quả các cơ chế giám sát an toàn tài chính quốc gia, khu
vực và quốc tế; chuyển mạnh chính sách bảo hộ theo hướng khuyến khích phát triển công
nghiệp phụ trợ và tham gia chuỗi giá trị toàn cầu, theo cả phương thức tuần tự, cũng như
theo các cách thức mới, nhẩy vọt, rút ngắn; khuyến khích phát triển các tập đoàn kinh tế
đa sở hữu, tập đoàn kinh tế tư nhân mạnh, hoạt động xuyên quốc gia, tạo nguồn động lực
mạnh và đột phá trong quá trình phát triển và hội nhập.
Tôn trọng yêu cầu khách quan của các quy luật và quy trình quản lý kinh tế, các cam kết
hội nhập và sự hài hoà các lợi ích phát triển, không ngừng cải thiện môi trường kinh
doanh.
Nâng cao chất lượng công tác xây dựng và quản lý theo quy hoạch, kế hoạch phát triển
kinh tõ – x héi và đô thị, phát triển hạ tầng kỹ thuật và xã hội có tính mở và thực tiễn cao,
coi trọng các chỉ tiêu chất lượng, “phủ sóng” bao quát đầy đủ hơn các nguồn vốn, các địa
phương và lĩnh vực, vừa đảm bảo tính tập trung thống nhất, vừa kích thích tính chủ động,
sáng tạo và phản ứng thị trường kịp thời của địa phương và cơ sở; xác định rõ địa chỉ các
tổ chức và cá nhân, trách nhiệm, thời gian và nguồn lực, cùng kế hoạch tài chính, với sự
bảo đảm và hỗ trợ về chính trị – hành chính cần thiết trong thực hiện các quy hoạch…
Xúc tiến nhanh hơn, triệt để hơn việc tách chức năng quản lý nhà nước về kinh tế với
chức năng quản lý sản xuất kinh doanh, chức năng hành chính với chức năng dịch vụ
công, xây dựng một nền hành chính hiện đại, hiệu quả và minh bạch, phân định và làm rõ
các quy chế pháp lý khác nhau đối với các loại cơ quan, phân rõ quyền hạn và trách
nhiệm của sở, ban, ngành, phối hợp với các bộ liên quan, tránh tình trạng quản lý chồng
chéo, giảm bớt quyền, làm rõ trách nhiệm, tăng cường giám sát và đánh giá công việc của
cơ quan và công chức Nhà nước từ trung ương đến địa phương, nhất là quyền “thẩm
định”, “phê duyệt”, “chấp thuận”, quyền cho phép và cấp phép… chuyển sang hướng
dẫn, kiểm tra việc thực thi pháp luật;
Tăng cường phân cấp quản lý kinh tế – xã hội, đảm bảo các chính sách kinh tế – xã hội
vừa thống nhất, vừa đa dạng hoá (không đơn nhất, đồng loạt cho các đối tượng, vùng
khác nhau), vừa có tính lịch sử trong ổn định và có thể dự báo được; tăng cường cải cách
hành chính từ trên xuống theo yêu cầu thực tế và nhiệm vụ quản lý nhà nước, phù hợp
cam kết hội nhập và thông lệ quốc tế, tạo thuận lợi và lòng tin cậy cho hoạt động kinh
doanh của doanh nghiệp, đồng thời thúc đẩy thực hiện trách nhiệm xã hội của doanh
nghiệp cả trên thị trường trong nước và quốc tế; rà soát bãi bỏ hoặc cải cách thủ tục hành
chính được theo hướng đơn giản, nhanh gọn và phổ cập rộng rãi mô hình“một cửa, một
đầu mối” ở tất cả các cơ quan quản lý; đẩy mạnh việc tinh giảm các bộ phận phòng, ban
trong bộ máy quản lý chính quyền các cấp; phân công phân cấp và xác định trách nhiệm
rõ ràng cho cấp cơ sở; khuyến khích và thúc đẩy các cấp chính quyền năng động, quyết
liệt trong chỉ đạo điều hành, khắc phục tình trạng lười nghĩ, làm bừa, ngại và thiếu trách
nhiệm, ngại khó, né tránh và lạm dụng, không tập trung giải quyết triệt để những vụ việc
nổi cộm, bức xúc ngay từ khi mới phát sinh ở cơ sở. Ngoài ra, cần đổi mới căn bản hệ
thống định mức, chế độ chi tiêu quản lý tài chính hướng đến kết quả đầu ra, đề cao trách
nhiệm và tự chủ của đơn vị và cá nhân liên quan (với những chế tài vật chất và hành
chính đủ sức mạnh răn đe đi kèm), chống tình trạng áp dụng máy móc gây khó khăn cho
thực hiện và cả quản lý, hoặc làm tăng tình trạng nói dối, biến báo “hợp lý hóa”, kẽ hở
cho phát sinh tham nhũng, thất thoát và đầu tư kém hiệu quả.
Thực hiện nghiêm việc đấu thầu thực chất các dự án, đặc biệt là dự án được tài trợ bằng
các nguồn lực công, cũng như các hoạt động mua sắm chi từ nguồn đầu tư công với sự
tham gia rộng rãi, bình đẳng của các khu vực doanh nghiệp, chứ không phải chỉ khép
kín trong khu vực Nhà nước.
Chú ý đến liều lượng, thời lượng, chính sách bổ trợ khi xây dựng và thực thi những giải
pháp đã, đang và sẽ triển khai để phát huy mặt tích cực, giảm tiêu cực của các chính
sách được lựa chọn.
Coi trọng hơn nữa việc chống tham nhũng v trng dụng người tài. Nhà nước cần xây
dựng một cơ chế chống tham nhũng thực chất hơn, dân chủ hơn, kiên quyết và hiệu quả
hơn. Đặc biệt, phải coi chống tham nhũng trong công tác cán bộ như một đột phá mới
của cải cách hành chính.
Đảm bảo sự gắn kết hài hòa giữa phát triển kinh tế với quan tâm phát triển văn hóa, giải
quyết các vấn đề bức xúc xã hội – môi trường, nâng cao chất lượng và yêu cầu phát
triển bền vững.
Nhà nước cần quan tâm bảo đảm hài hoà các lợi ích trong quá trình phát triển, giảm
thiểu cách biệt giữa các tầng lớp xã hội, các vùng và lĩnh vực; ưu tiên phát triển nguồn
nhân lực chất lượng cao, các hoạt động đảm bảo xã hội có tổ chức công bằng và hiệu
quả; nâng cao văn hoá quản lý và văn hóa kinh doanh…
Thế giới đang và sẽ biến đổi ngày càng nhanh chóng, ai biết trước được các xu hướng
phát triển.
9.Quan Niệm Về Pháp Luật

Vừa xưa cũ, vừa hiện đại, vừa quen, vừa lạ, khi đặt ra việc bàn luận về khái niệm pháp
luật, các quan niệm, cách tiếp cận khác nhau về pháp luật. Khái niệm khoa học là do con
người xác định trên cơ sở phương pháp trừu tượng hóa từ các hiện tượng của hiện thực
khách quan, nên khái niệm cũng chỉ mang tính tương đối. Thời cuộc thay đổi thì khái
niệm ít nhiều cũng phải thay đổi theo. Khi mà các quan hệ xã hội quan hệ pháp luật đã
liên thông quốc gia thì các quy phạm cũng phải thay đổi để tồn tại. Cuộc tranh luận vì thế
mà cũng trở nên sôi nổi hơn bao giờ hết

Pháp luật là một hiện tượng xã hội phức tạp với nhiều biểu hiện khác nhau. Từ xa xưa các
triết gia người, cac luật gia luôn đi tìm một định nghĩa về pháp luật, câu nói đó vẫn còn
nguyên giá trị cho đến thời đại nay. Suốt chiều dài lịch sự, con người luôn tranh luận về
các vấn đề liên quan đến pháp luật. Từ thực tiễn đến lý luận, từ lý luận vào thực tiễn, tùy
thuộc các góc độ khác nhau mà còn có những quan niệm, nhận thức khác nhau về pháp
luật, từ xưa các vị hoàng đế luôn cho rằng “ pháp luật là ta và ta là pháp luật “. Từ
phương diện mối tương quan với đạo đức, pháp luật có giá trị đạo đức, là hiện tượng đạo
đức. Từ phương diện công bằng và tự do, pháp luật là đại cương của công bằng, đai
lượng của tự do. Tiếp cận từ góc độ chức năng thì nó là công cụ phương tiện điều chỉnh
hành vi và quan hệ xã hội. Nhìn từ góc độ các tranh chấp đủ loại, pháp luật được đánh giá
như là công cụ phương thức giải quyết tranh chấp. Trong tương quan với nhà nước, pháp
luật được xác định la phương tiện giới hạn quyền lực nhà nước, là công cụ chủ yếu của
quản lý xã hội. Nói tóm lại pháp luật có thể được nhận thức từ nhiều gốc độ khác nhau
bởi các chủ thể nhận thức khác nhau, với nhưng lợi ích, ý đồ, toan tính khác nhau, trong
những không gian và thời gian khác nhau.

Vấn đề bản chất quan niệm về pháp luật có tầm quan trọng đặc biệt trong số các phạm trù
cơ bản của pháp luật, bởi từ đó ảnh hưởng, liên quan đến việc nhận thức các phạm trù,
các hiện tượng pháp lý cơ bản, của pháp luật. Chẳng hạn liên quan đến vấn đề nguồn
pháp luật, tâm lý pháp luật và tư tưởng pháp luật và quan trọng hơn là cách thức nguyên
tắc áp dụng pháp luật

Từ xa xưa các vấn đề pháp luật đã được đưa ra bàn luận, chẳng hạn về mối tương quan
giữa pháp luật và tập quán, pháp luật và đạo đức, tôn giáo. Pháp luật là cái phản ánh sự
tồn tại, cái hiện thực, cái có sẵn hay pháp luật là cái cần có. Theo trường phái tâm lý,
pháp luật không chỉ là hệ thống quy phạm của nahf nước mà còn bao hàm những tâm lý
cảm xúc của con người, do vậy tính cưỡng chế nhà nước không phải là thuộc tính cơ bản
của pháp luật, mà là tâm lý cảm xúc cá nhân. Trường phái xã hội học pháp luật cổ vũ cho
tư tưởng “ linh hoạt pháp luật”, nghĩa là có thể thay đổi quy phạm pháp luật trong quá
trình áp dụng pháp luật, cổ vũ cho sự tự do đánh giá của tòa án, tòa án không bị ràng
buộc bởi luật và có thể áp dụng luật theo sự đánh giá của mình. Mỗi một trường phái
pháp luật đều có nhưng ưu và hạn chế riêng, tất cả đều có thể vừa đúng và vừa sai, theo
đó cần chú trọng pháp luật thực định, cần phù hợp lý trí, công bằng, với các quyền tự
nhiên của con người, pháp luật phải được kiểm nghiệm từ thực tiễn cũng nên luôn hướng
pháp luật lý tưởng. Pháp luật không đúng khong công bằng sẽ không còn là pháp luật, nó
được sử dụng ở cả mặt khách quan và chủ quan. Theo mặt khách quan, pháp luật là tổng
hợp các quy định luật của nhà nước, là trật tự pháp luật cuộc sống, theo ý nghĩa chủ quan,
pháp luật được hiểu là những biểu hiện cụ thể của các quy tắc trừu tượng trong các quyền
cụ thể của cá nhân. Sự tự do, khả năng lựa chọn hành vi theo quy định của pháp luật
khách quan, đó là pháp luật chủ quan. Theo quan niệm rộng về pháp luật, pháp luật thực
định chỉ là một bộ phận của pháp luật, khái niệm pháp luật thực định tư duy về pháp luật
thực định cũng đã hàm ý nói lên, ngoài nó còn có những bộ phận khác của pháp luật, nó
đã tồn tại ở nhiều quốc gia, nhiều trường phái pháp luật thế giới. Khoa học pháp lý không
chỉ phân tích hệ thống pháp luật hiện hành mà còn phải đưa ra những tiêu chí đánh giá
pháp luật. Do vậy bên cạnh quan điểm pháp luật thực định còn phải đưa ra hệ thống các
tiêu chí đánh giá pháp luật.

Những yếu tố pháp lý cần đưa vào định nghĩa pháp luật, cái gì là cốt lõi nhất, tiêu biểu
nhất cho pháp luật và từ góc độ nào, nhìn lại định nghĩa truyền thống này có thể thấy rằng
trong định nghĩa đó các thuộc tính cơ bản của pháp luật xuất xứ trực tiếp của pháp luật và
mục đích của pháp luật đã cố gắng đưa vào. Cách xác định đấy cần chỉ rõ những yếu tố
cơ bản như: thuộc tính cơ bản nhất, chức năng và mục đích tồn tại. Mỗi cách tiếp cận
pháp luật đều có tính hợp lý nhất định, nhưng dù có được tiếp cận dưới góc độ nào thì nó
vẫn là phương tiện để xác định thiết lập trật tự xã hội, nhưng đồng thời cũng cần bổ sung
các thành tố trong quan niệm pháp luật cho phù hợp với cuộc sống thực tế và quốc tế.

10.Một số suy nghĩ về mối quan hệ giữa pháp luật và đạo đức trong hệ thống điều
chỉnh xã hội

Đầu tiên, vai trò của pháp luật và đạo đức trong hệ thống các quy phạm điều chỉnh xã hội,
hệ thống các quy phạm xã hội ở nước ta bao gồm quy phạm pháp luật quy phạm đạo đức,
tập quán phong tục, luật tục, hương ước quy phạm của các cộng đồng dân cư, quy phạm
của các tổ chức xã hội và các tổ chức tôn giáo và khái quát vị trí vai trò của các quy phạm
xã hội này. Tác giả khẳng định trong hệ thống các quy phạm điều chỉnh xã hội thì pháp
luật và đạo đức giữ vị trí trung tâm, có vai trò quan trong nhất. Cả pháp luật và đạo đức
đều có phạm vi điều chỉnh rộng, bao quát tất cả các lĩnh vực quan hệ xã hội. Các yếu tố
đạo đức ở những mức độ khác nhau được thể hiện tổng tất cả các quy phạm xã hội đặc
biệt là ở phong tục tập quán luật tục và hương ước

Dưới dạng phổ biến nhất đạo đức là tổng thể những nguyên tắc quan niệm, chuẩn mực xã
hội về những điều tích cực, thiện lành về danh dự, lương tâm, lẽ công bằng, vinh, nhục. Ở
đâu có con người thì ở đó có đạo đức có quan hệ đạo đức. Trong xã hội phổ biến là con
người luôn có nhu cầu hướng tới các giá trị đạo đức, hướng tới điều tốt nhân đạo, lẽ công
bằng. Xã hội càng phát triển, càng hiện đại thì vai trò của những yếu tố đạo đức càng
được đề cao. Mọi hành vi của con người đều phải được đánh giá từ tiêu chí pháp luật và
đạo đức. Yếu tố tích cực sự tác động trực tiếp lên hành vi của con người là một trong
những khác nhau có bản giữa pháp luật, đạo đức với các bộ phận khác của thượng tầng
kiến trúc xã hội. Pháp luật bằng những thuộc tính sức mạnh riêng có của mình mà các
loại quy phạm xã hội khác không có được, có ảnh hưởng tích cực tới các quy phạm xã
hội, trong chừng mực nhất định sẽ làm thay đổi nội dung của những quy phạm xã hội đó.
Khi cần thiết pháp luật sẽ sẵn sàng loại bỏ để hỗ trợ, bảo vệ các lợi ích khác nhau mà các
quy phạm xã hội khác điều chỉnh. Mỗi quy phạm xã hội đều có ưu thế và hạn chế, nhưng
pháp luật và đạo đức tỏ ra có ưu thế hơn trong xã hội ngày nay, bởi pháp luật mang tính
chặt chẽ và bắt buộc điều chỉnh hành vi con người dựa trên trên pháp lý từ đó nhằm ổn
định trật xã hội, còn đạo đức là phạm trù về tinh thần và tâm lý, giúp điều chỉnh hành vi
từ bên trong từ đó giúp xã hội ổn định hơn.

Thứ hai là về sự thống nhất giữa pháp luật và đạo đức. Pháp luật và đạo đức đều có chức
năng chung là điều chỉnh hành vi con người và các mối quan hệ xã hội. Pháp luật và đạo
đức có mối quan hệ hữu cơ, bổ sung, hổ trợ cho nhau, tạo nên sự điều chỉnh mạnh mẽ
nhất đối với hành vi của con người. Khác với những hình thái ý thức xã hội khác, pháp
luật và đạo đức tác động trực tiếp đến hành vi của con người, hướng dẫn, kiểm tra đánh
giá các hành vi đó theo những tiêu chí nhất định. Tính thống nhất của pháp luật và đạo
đức cũng được thể hiện trong quy định của chúng đối với cái thiện và cái ác. Các phạm
trù của đạo đức như lẽ sống, hạnh phúc, lương tâm có ý nghĩa quan trọng trong hoạt động
xây dựng và áp dụng pháp luật của các cơ quan Nhà nước có thẩm quyền. Tính thống
nhất của pháp luật và đạo đức còn được thể hiện ở thái độ, sự đánh giá, sự cảm nhận và
cách xử lí đối với những hành vi con người.

Thứ ba là sự khác biệt giữa pháp luật và đạo đức. Về phạm vi điều chỉnh của pháp luật và
đạo đức không hoàn toàn trùng hợp nhau. Có những lĩnh vực mà pháp luật điều chỉnh
nhưng lại không thuộc phạm vi điều chỉnh đạo đức và ngược lại. Pháp luật điều chỉnh
những quan hệ xã hội quan trọng, ít nhiều mang ý nghĩa quốc gia. Đạo đức có thể điều
chỉnh những quan hệ xã hội mà pháp luật không điều chỉnh như tình bạn, tình yêu tình
hàng xóm. Đạo đức chỉ điều chỉnh những quan hệ xã hội trực tiếp thể hiện tính chất hành
vi của con người, đạo đức có phạm vi điều chỉnh rộng hơn pháp luật nếu đứng trên
phương diện xem đạo đức là yếu tố tinh thần không tách rời bản thân hành vi con người.
Về hình thức, mức độ thể hiện so với đạo đức thì pháp luật có mức độ thể hiện cụ thể chi
tiết hơn. Pháp luật dưới dạng bất thành văn, cũng gồm nghĩa vụ và quyền nhưng nghĩa vụ
được đề cập nhiều hơn. Về các phương pháp đảm bảo thực hiện đạo đức nhờ vào yếu tố
kích thích nội tâm con người, sức mạnh bên trong từ lương tâm từ những thói quen xử dự
và từ sức mạnh bên ngoài, dự luận xã hội. Pháp luật được đảm bảo thực hiện bằng hoạt
động của các tổ chức thuyết phục và cưỡng chế của Nhà nước và cả sự tự giác.

Thứ tư sự tác động qua lại giữa pháp luật và đạo đức, pháp luật và đạo đức có sự tác động
biện chứng thể hiện ở vai trò của pháp luật với đạo đức và ngược lại. Pháp luật dựa trên
một cơ sở đạo đức nhất định, pháp luật vừa khẳng định vừa bảo vệ và phát huy những
nguyên tắc, chuẩn mực đạo đức truyền thống, vừa hạn chế đi đến loại bỏ những quan
điểm chuẩn mực đạo đức tiêu cực phản tiến bộ, pháp luật không tạo ra bản thân các giá trị
đạo đức.

Tóm lại pháp luật và đạo đức có mối liên hệ mất thiết phát huy tác dụng khi được bổ sung
hổ trợ nhau. Quản lí xã hội bằng pháp luật kết hợp đạo đức là một tất yếu khách trong
điều kiện xây dựng nhà nước pháp quyền ở nước ta.

11.Nhận Thức Về Mối Quan Hệ Giữa Pháp Luật Và Đạo Đức

Pháp luật và đạo đức là những công cụ quan trọng trong việc điều chỉnh hành vi con
người, tuy được nhận thức và sử dụng khác nhau nhưng không thể phủ nhận rằng chúng
luôn song hành và bổ sung cho nhau, chính vì thế viếc kết hợp pháp lật và giáo dục đạo
đức là điều tất yếu nên có.

Đạo đức được tiếp cận trên nhiều nhận định khác nhau, nó là tổng thể các quan niệm,
quan điểm của một cộng đồng, từ đó hình thành ra các quy tắc xử sự tạo thành các khái
niệm, từ đó điều chỉnh hành vi xã hội, lương tâm con người. Đạo đức được hiểu như
phẩm chất tốt đẹp nhất của một con người nhờ sự tu dưỡng rèn luyện, vậy đạo đức được
hiểu theo hai hướng vừa là quan niệm vừa là phẩm chất đạo đức cá nhân. Pháp luật và
đạo đức luôn có mối quan hệ mật thiết với nhau, giữa chúng vừa có sự thống nhất nhưng
cũng có sự khác biệt.

1. Những điểm giống nhau cơ bản giữa pháp luật và đạo đức
Pháp luật và đạo đức đều là những phương tiện nhằm điều chỉnh các quan hệ xã
hội, phẩm chất hành vi của một con người. Nhờ chúng thì xã hội mới có thể tồn tại
và phát triển một cách văn minh nhất. Cả pháp luật và đạo đức đều mang tính phổ
biến, đều tác động mạnh đến xử sự và hành vi của con người, dù phạm vi điều
chỉnh của cả hai khác nhau song luôn đi cùng và bổ trợ cho nhau. Pháp luật và đạo
đức luôn phù hợp ở những mức độ nhất định, đạo đức hướng đến một phạm vi
điều chỉnh bao quát, đến mọi chủ thể của xã hội, nhưng người ta cũng cho rằng
pháp luật là một phẩm chất đạo đức nên có. Pháp luật và đạo đức đều thuộc phạm
trù xã hội, đều do bộ óc của con người tạo lập nên. Chúng luôn tác động lại đời
sống, thúc đẩy và kĩm hãm ở một mức độ nhất định. Trong xã hội giai cấp thì pháp
luật và đạo đức đều mang tính giai cấp và mang tính xã hội, đều là vũ khí chính trị
của giai cấp cầm quyền.
2. Những điểm khác nhau cơ bản giữa pháp luật và đạo đức
Đầu tiên phải nói đến con đường hình thành, pháp luật được hình thành dựa trên
quá trình xây dựng hệ thống pháp luật từ nhà nước, đạo đức lại hình thành tự phát
trong đời sống. Thứ hai là về hình thức thể hiện, pháp luật chỉ đơn giản là văn bản
thành văn được thể trên các văn bản pháp luật, còn đạo đức thì khá phức tạp khi nó
không rõ ràng bởi chỉ thông qua truyền miệng, ca dao tục ngữ. Thứ ba là về hình
thức, pháp luật thường rõ ràng hơn khi thể hiện truyền đạt dễ dàng cho chủ thể
hiểu và thực hiện còn đạo đức lại khái quát và bao trùm hơn. Thứ tư là phạm vi
điều chỉnh, vì pháp luật chỉ được áp dụng trong một phạm vi và đối tượng cụ thể
nên không thể bao trùm như đạo đức, phạm vi điều chỉnh của đạo đức là bao trùm
xã hội, pháp luật dựa vào hành vi, độ tuổi để xác định những hành vi của một chủ
thể, còn đạo đức do tính chất mềm dẻo nên nó chỉ điều chỉnh khi nó mới manh nha
hình thành. Thứ năm là cách thức điều chỉnh, pháp luật sử dụng những mệnh lệnh
quy định nhằm thể hiện giá trị buộc tôn trọng và thực hiện, còn đạo đức thì chỉ ra
cho chủ thể bổn phận và nghĩa vụ của chính mình. Cuối cùng là biện pháp bảo
đảm vì pháp luật là do nhà nước ban hành và đảm bảo thực hiện bằng quyền lực
nên luôn thể hiện tính chặt chẽ về biện pháp, còn đạo đức hình thành một cách tự
phát, và được bảo đảm thực hiện bằng nội tâm của con người.
3. Sự tác động qua lại giữa pháp luật và đạo đức
Đầu tiên phải nói đến đạo đức tác động đến sự hình thành của hệ thống pháp luật,
nó như là môi trường cho sự phát sinh và tồn tại, là lý tưởng tiền đề để nhà nước
dựa vào nhằm xây dựng pháp luật, ở mức độ thấp thì các quy pham pháp luật được
ban hành không trái với đạo đức, ở mức độ cao thì nhà nước thể chế hóa các quan
điểm ấy thành một điều luật. Thứ hai khi nói đến sự tác động của pháp luật đến
đạo đức, thì pháp luật ghi nhận những quan niệm và chuẩn mực mà đạo đức đưa ra
từ đó bảo vệ, duy trì và phát huy những đạo đức ấy và từ từ trở thành một quy tắc
xử sự chung cho chủ thể thực hiện theo. Nhưng bên cạnh đó pháp luật cũng bài
xích, bài trừ các quan niệm, tư duy lạc hậu của đạo đức tiêu cực, nhằm để không
làm ảnh hưởng đến các giá trị mà đạo đức tích mang lại, từ đó góp phần nâng cao
và bảo vệ đạo đức, bằng cách ban ran những văn bản, những quy định để bài trừ
và khai phá những phong tục lạc hậu, không giúp ích đến đời sống xã hội ngày
nay, để bảo vệ đạo đức.
Tóm lại pháp luật và đạo đức là hai phạm trù để điều chỉnh hành vi của con người,
chúng luôn thống nhất trong đời sống nhưng luôn có những nét riêng biệt đáng kể.
Một vụ việc xảy ra phải luôn được giải quyết bằng cả pháp luật và đạo đức, từ đó
đảm bảo được tính khách quan của vấn đề hơn

12.Pháp Luật Và Đạo Đức Xã Hội

1. Khái quát chung về pháp luật và đạo đức xã hội


Trong xã hội loài người, để có thể tồn tại các cá nhân và tổ chức phải có sự liên
kết với nhau, phải có sự phối hợp từ những cá nhân riêng lẻ tạo nên một mục tiêu
nhất định. Tuy nhiên để đạt được những mục tiêu đó con người cần rất nhiều yếu
tố cấu thành mang tính quy phạm như đạo đức, tập quán, đặc biệt là pháp luật.
Theo quan điểm pháp luật thực định, pháp luật được hiểu là phép tắc do con người
đặt ra nhằm xác định hành vi của con người, pháp luật là hệ thống có tính bắt buộc
do nhà nước đảm bảo thực hiện bằng quyền lực, pháp luật là một hiện tượng xã
hội quan trọng, mỗi cách tiếp cận pháp luật đều có những lý luận riêng lẻ của nó
nhưng nó đều thừa nhận rằng pháp luật là quy tắc xử sự chung do nhà nước ban
hành và đảm bảo thực hiện. Xét về mặt nguồn gốc, pháp luật là sản phẩm của sự
phát triển xã hội, ra đời do nhu cầu đòi hỏi khách quan, phụ thuộc vào ý chí chủ
quan của nhà nước, do nhà nước đặt ra dựa trên các nhu cầu đời sống của nhà
nước. Điều này cho thấy pháp luật không chỉ thể hiện ý chí cầm quyền mà còn
phản ánh tập trung khách quan. Với tư cách là quy tắc xử sự, pháp luật có những
dấu hiệu mà quy phạm xã hội không có, nhưng nó không phải công cụ duy nhất để
điều chỉnh các quan hệ xã hội, nhưng pháp luật cần dành chỗ cho các quy phạm xã
hội khác như đạo đức. Đạo Đức là những tiêu chuẩn, nguyên tắc do con người
thừa nhận, là chuẩn mực ứng xử của con người, và nó mang tính giai cấp. Mỗi
hành vi , trật tự xã hội mà đạo đức đặt ra cũng góp phần củng cố những chuẩn mực
xã hội và gia đình, duy trì sự ổn định trật tự của xã hội, pháp luật điều chỉnh các
mối quan hệ xã hội nhất định còn đạo đức điều chỉnh hành vi của mọi điều kiện
hoàn cảnh
2. Điểm giống nhau cơ bản giữa pháp luật và đạo đức
Thứ nhất pháp luật và đạo đức đều là những tiêu chuẩn điều chỉnh xã hội, khuôn
mẫu cho hành vi của cá nhân và tổ chức. Để điều chỉnh các quan hệ xã hội cần kết
hợp cả pháp luật và đạo đức từ đó điều chỉnh hợp lí hơn về hành vi của cá nhân và
tổ chức.
Thứ hai, pháp luật và đạo đức đều hình thành dựa trên cơ sở nền tảng kinh tế - xã
hội, cả pháp luật và đạo đức đều chịu sự tác động của cơ sở hạ tầng, từ đó có thể
hiệu pháp luật và đạo đức có thể không giống nhau về phạm vi điều chỉnh.
Thứ ba trong nhiều trường hợp pháp luật và đạo đức đều phục vụ cho giai cấp cầm
quyền và đồng thời phục vụ cho lợi ích của xã hội, trong nhiều trường hợp đạo
đức có thể thay thế pháp luật, có thể tác động hầu hết đến các quan hệ xã hội kể cả
những quan hệ mà pháp luật không điều chỉnh.
Thứ tư, pháp luật và đạo đức có nhiều điểm tương đồng, nhà nước thừa nhận và
chuyển những quy tắc đạo đức thành pháp luật khi chúng phù hợp với nhu cầu của
xã hội. Phạm vi của pháp luật và đạo đức trong sự điều chỉnh có sự thống nhất với
nhau. Bên cạnh những điểm tương đồng thì pháp luật và đạo đức cũng có những
sự khác biệt, vì thế đôi khi khó kết hợp các loại quan hệ đó.
3. Những điểm khác nhau cơ bản giữa pháp luật và đạo đức
Thứ nhất về nguồn gốc hình thành, đạo đức hình thành trên sự tự phát của đời
sống được xã hội chấp nhận và tự nguyện tự theo, quy tắc đạo đức được hình
thành từ rất sớm, và không có nguyên tắc hình thành, chỉ được hình thành dựa theo
truyền miệng từ đời khác.
Thứ hai về phạm vi tác động, do tính chất xuất phát của đạo đức nên phạm vi tác
động của đạo đức cũng rất rộng so với pháp luật, nó điều chỉnh nhiều mối quan hệ
trong xã hội
Thứ ba về khả năng áp dụng và điều chỉnh, nếu pháp luật cần có trình tự và cơ chế
để nó thực hiện và theo quy định của pháp luật thì đạo đức được áp dụng không
theo một trình tự nào chỉ dựa theo bản năng của chủ thể.
Thứ tư về biện pháp bảo đảm thực hiện, nếu như pháp luật là những quy tắc xử sự
do nhà nước ban hành và được thực hiện chỉ bởi các cơ quan nhà nước có thẩm
quyền thì đạo đức được mọi chủ thể tuân theo một cách tình nguyện và áp dụng
rộng rãi trong đời sống.
4. Mối quan hệ giữa pháp luật và đạo đức
Đầu tiên pháp luật được hình thành dựa trên các nền tảng đạo đức xã hội, thứ hai
pháp luật chuyển hóa nhiều đạo đức thành quy phạm từ đó góp phần hình thành
quan điểm và chuẩn mực đạo đức mới, đạo đức hỗ trợ và đưa pháp luật vào đời
sống. Có thể thấy được pháp luật và đạo đức đều góp phần vào sự điều chỉnh các
chuẩn mực sống và đạo đức xã hội của con người, pháp luật và đạo đức đều bổ trợ
nhau và không thể thiếu một trong hai trong việc điều chỉnh hành vi chuẩn mắc
của con người.
Tóm lại để xây dựng hệ thống pháp luật toàn vẹn thì pháp luật và đạo đức là hai
phạm trù không thể thiếu trong việc điều chỉnh hành vi của con người.
SO SÁNH
Giống nhau: hai tác giả đều nhận định rằng pháp luật và đạo đức đều là hai phạm
trù để điều chỉnh các hành, chuẩn mực của con người, cả hai luôn song song và bổ
trợ nhau, cả hai tác giả đều đồng ý rằng pháp luật có phạm vi điều chỉnh hẹp hơn
đạo đức, vì chủ thể mà đạo đức hướng đến là mọi chủ thể trong xã hội, tac giả
cũng đồng ý rằng đạo đức là nền tảng cho sự hình thành của các quy định pháp
luật.
Khác nhau: Ths Nguyễn Văn Nam đã thể hiện rõ phạm vi điều chỉnh của pháp luật
, từ độ tuổi, hoàn cảnh, tác giả cũng khẳng định rằng đạo đức còn điều chỉnh hành
vi với chính mình, đây là điều không có trong tạp chí tương tự khác

Ý Kiến Cá Nhân
Bản thân em thấy rằng pháp luật và đạo đức đều là hai phạm trù điều chỉnh chuẩn
mực hành vi của con người, vì thế trong mọi hoàn cảnh và điều kiện cả hai đều có
vai trò nhất định và luôn bổ trợ cho nhau, em cũng đồng ý rằng đạo đức là cơ sở
nền tảng của pháp luật, dựa trên đạo đức pháp luật mới ra đời để điều chỉnh những
hành vi xử sự của con người.

13.Tập Tục với Pháp Luật

1. Tập tục trong xã hội

Trong đời sống xã hội và trong sách báo ở nước ta có khá nhiều thuật ngữ để chỉ những
cách sử sử độc lập Lập đi lập lại nhiều lần thành khó quen được nhiều người thừa nhận
và tuân theo những tập tục tập quán luật tục phong tục.

Cùng với sự phát triển của văn hóa và xã hội vai trò của tập tục ngày càng bị thu hẹp lại.
Nhà nước xã hội ngày càng can thiệp nhiều hông vào các lĩnh vực tự quản của các cộng
đồng trong đó có việc xây dựng những qui ước để điều chỉnh mối quan hệ liên quan đến
cộng đồng. Đây là một nguyên nhân dẫn đến tập tục bị mài mòn Lãng quên một số bị
ngăn cấm một số bị lạc hậu không còn phù hợp.

2. Những nội dung cơ bản của tập tục và việc áp dụng tập tục.

Tập tục là những qui ước có tính chất tổng hợp về những vấn đề ô các lĩnh vực khác nhau
của đời sống xã hội, Trong đó Hường có phần nội dung đề cập đến những quy tắc quy
định cách xử sự cần tuân theo những phần xác định những hình thức khen thưởng hoặc
xử lý những Vi phạm các cách thức biện pháp trừng phạt. Vì chủ yếu liên quan đến đời
sống cộng đồng nên nội dung tập tục tập trung vào các lĩnh vực chính của đời sống xã hội
những quy định về vụ việc dân sự xác định quyền sở hữu hoặc sử dụng đất đai. Các việc
liên quan đến hôn nhân và gia đình quy định điều kiện thủ tục kết hôn ly hôn và hậu quả
của những việc này mối quan hệ giữa thành viên trong gia đình và dòng họ. Một số quy
định liên quan đến những hành vi nguy hiểm cho xã hội như việc trộm cấp đánh nhau giết
người cướp của các hành vi hiếp dâm loạn luân để bảo đảm an ninh cho cộng đồng mẫu
số quy định liên quan đến các lễ hội các hoạt động chung của cả cộng đồng và các thiết
chế tổ chức của cộng đồng trách nhiệm của những người đứng đầu các cộng đồng như gia
đình dòng họ đứng đầu làng , bản. Những biện pháp xử lý vi phạm tập tục phần lớn là
những biện pháp gây ra hậu quả bất lợi cho chủ thể vi phạm về mặt kinh tế danh dự.
Những biện pháp này thường rất khắc nghiệt và có tác dụng tăng đề rất lớn cho nên số
người vi phạm tập tục trên thực tế là rất ít. Tập tục được phổ biến giáo dục cho các thành
viên cộng đồng thông qua các dịp lễ hội qua các hoạt động phân xử của già làng trưởng
bản hay là những người có uy tín khác trong cộng đồng khi xảy ra những tranh chấp hay
vi phạm tập tục. Đối với nhiều cộng đồng dân cư trong quá trình sản xuất sinh hoạt ở hầu
hết các trường hợp tranh chấp vướng mắc giữa những các thành viên Trong cộng đồng
tập tục thường được sử dụng để giải quyết trước tiên. Và chỉ khi sử dụng những việc ấy
có liên quan đến pháp luật và các tập tục không thể giải quyết được thì nhân dân mới nhờ
cậy đến chính quyền để giải quyết bằng pháp luật.

Nghĩa vụ chấp hành tập tục và những phán quyết dựa trên cơ sở tập tục không chỉ có tính
bắt buộc đối với những người trực tiếp có liên quan và những người thân trong gia đình
dòng họ cộng đồng cũng phải có nghĩa vụ tham gia thực hiện như là một loại trách
nhiệm.

3. Tập tục trong quan hệ với pháp luật

Một số người quan niệm rằng chỉ có pháp luật được ban hành đầy đủ công Minh và uy
nghiêm mới có hả năng duy trì được trật tự trong xã hội tạo điều kiện thúc đẩy xã hội
phát triển. Họ đã nhầm khi quá đề cao vai trò của pháp luật mà coi nhẹ vai trò của những
giá trị của những tập tục hay là những công cụ khác điều chỉnh quan hệ xã hội. Những
qui ước đó được hình thành là một trong những nhu cầu tất nhiên từ quá trình sản xuất
sinh hoạt trao đổi cùng nhau của con người. Khi pháp luật suất hiện khi tập tục vẫn không
mất đi pháp luật chỉ thay thế một phần chứ không hay thế tập tục một cách hoàn toàn
chung việc điều chỉnh và quan hệ xã hội.

Tập tục và pháp luật đều là những công cụ điều chỉnh suất hiện do nhu cầu tổ chức quản
lý những hoạt động chung của con người do vậy chúng có những chức năng tương tự
nhau đều có những công cụ điều chỉnh luôn hỗ trợ lẫn nhau trong công việc và phục vụ
mục đích chung của cộng đồng. Đương nhiên giữa chúng có những sự khác biệt rất lớn từ
quá trình hình thành và phát triển nguồn gốc xuất xứ chủ thể ban đầu phạm vi điều chỉnh
và biện pháp đảm bảo thực hiện. Quan hệ giữa tập tục và pháp luật thể hiện trên cả ba
phương diện là xây dựng pháp luật thực hiện pháp luật và hoạt động xét xử.

4. Một số kiến nghị

Nhà nước nên tiến hành sưu tầm tập hợp hóa các tập tục được xem là quan trọng có giá
trị tồn tại trong khắp mọi miền đất nước. Chọn lọc và giữ gìn và phát huy Những tập tục
tốt đẹp loại trừ những tập tục có hại đồng thời tác động để hình thành những tập tục mới
phù hợp với đời sống bản sắc văn hóa của dân tộc trong thời đại mới. Vì su tầm các tập
tục được tiến hành ở nhiều quy mô và phạm vi khác nhau có thể theo vùng theo tỉnh hoặc
ở các phạm vi nhỏ hơn. Chú trọng đúng mức tới việc xây dựng nội dung cần được lưu ý
và quy ước mới Chuyển hóa dần những tập tục hôm thành văn và tốt đẹp. Các tập tục tốt
đẹp và truyền thống văn hóa nếu xe khải phù hợp cần thiết thì nên đa dạng và phát triển
Hay vì cứ bó hẹp ở một số vấn đề chính là sự cụ thể hóa của pháp luật.

Cũng cố vị trí và vai trò của những người đứng đầu cộng đồng là những người vừa vận
dụng pháp luật vừa kết hợp với tập tục để trực tiếp giải quyết hầu như mọi công việc lớn
nhỏ trong cộng đồng của mình. Những người đứng đầu cộng đồng vừa phải có trách
nhiệm trước các thành viên cộng đồng của mình vừa phải có chịu trách nhiệm chút quyền
cấp cơ sở như trưởng thôn trưởng bản già làng phải là những người có uy tín trong nhân
dân am hiểu các tập tục của địa phương có đạo đức tốt. Đồng thời là người có hiểu biết về
đường lối chính sách của đảng pháp lý biết cách phân xử có lý có tình những tranh chấp
mâu thuẫn trong cộng đồng biết vận động quy tụ động viên nhân dân địa phương thực
hiện tốt những hoạt động của cộng đồng những tập tục của địa phương và đường lối
chính sách của đảng pháp luật của nhà nước

14.Pháp luật và tập quán trong điều chỉnh quan hệ xã hội

Điều chỉnh xã hội và pháp luật là quá trình phức trong nhận thức luận và thực tiễn, để
đem lại hiệu quả thì cần xem xét lại mối liên hệ giữa pháp luật và hiện tượng xã hội,
trong đó có mối quan hệ với tạp quán. Theo đó thì tập quán là thói quen hình thành đã lâu
trong đời sống được mọi người tuân theo xuất hiện và gắn liền với các hoạt động của con
người trên các lĩnh vực và trong mọi giai đoạn phát triển của loài người, nó đảm bảo tính
vận hành cho mọi người trong một trật tự nhất định, nó mang tính tự phát cục bộ và khó
thay đổi có nhiều loại và hình thành ở nhiều cấp độ. Giữa tập quán cá nhân và xã hội
không phải lúc nào cũng có sự thống nhất mà có rất nhiều sự khac biệt, nó điều chỉnh các
quan hệ xã hội bảo đảm mối quan hệ được diễn ra trong trật tự, nó còn có tính bảo thủ tồn
tại chủ yếu thông qua việc truyền miệng không cụ thể về nội dung nên thường thụ động
và tùy tiện, tập quán đã trở thành yếu tố cần thiết trong văn hóa làng xã và lối sống cộng
đồng mang tính bền vững, nó còn điều chỉnh cả hành vi siêu thực, nó góp phần xác lập
các hành vi hợp pháp, nó được nhà nước thừa nhận và nâng lên làm các quy tắc xử sự
chung, trong trường hợp này nó đã trở thành tập quán pháp, được sử dụng rộng rãi trong
đời sống phù hợp với truyền thống dân tộc, các tập quán tốt đẹp phù hợp với đời sống dân
tộc được nhà nước bảo vệ và được sử dụng giải quyết các vụ việc pháp luật không quy
định. Để áp dụng tập quán pháp theo quy định các bên không có áp dụng thỏa thuận và áp
dụng không trái với nguyên tắc, theo quy định thì nhà nước không quy định nghĩa vụ tức
là việc đó không mang tính pháp lí, trong trường hợp này chỉ có tòa án là thụ lí hay
không thụ lí, quyền đem lại hoặc không đem lại tính pháp lí đối với vụ việc trên. Việc áp
dụng tập quán có nhiều điểm khác so với áp dụng pháp luật, có phải trường hợp pháp luật
không quy định điều chỉnh có tranh chấp và khởi kiện thì tòa án giải quyết bằng cách áp
dụng tập quán, nguyên tắc trình tự áp dụng tập quán.., ngày nay pháp lệnh giải quyết các
vụ án dân sự cũng chưa có nhiều điều khoản cụ thể dành riêng cho trình tự áp dụng tập
quán, từ đó nó gây cản trở cho các vụ án, nhất là ở những vùng sâu xa.
Thừa nhận các nguyên tắc quản lí xã hội bằng pháp luật không có nghĩa là chúng ta có
thể ban hành đủ quy phạm pháp luật để đáp ứng mọi nhu cầu cho mọi chủ thể và cho xã
hội, từ việc nghiên cứu các mối quan hệ giữa pháp luật với tập quán trong điều chỉnh
quan hệ xã hội ta cần quan tâm các vấn đề như mặc dù muôn song cần sưu tầm, tuyển
chọn các tập quán điển hình tích cực có khả năng tương hợp cao với pháp luật để giải
quyết các tranh chấp xã hội khi chưa có quy định pháp luật điều chỉnh,có thể giao cho cơ
quan chức năng có thẩm quyền thực hiện . Nước ta với hơn 54 dân tộc, đa số sống ở
miền núi và dân trí thấp, sự ràng buộc phong tục tập quán là còn rất lớn, kinh nghiệm
thực tế về tự quản của đồng bào ở nông thôn ở miền núi cho thấy sự cần thiết về xây
dựng tộc ước và chuẩn hóa lệ làng, luật tục trong điều kiện ngày nay , hương ước là
những khoản ước trong làng, quy định về những điều trong làng, đây là phong tục nông
thôn nước ta, vì thế không thể bỏ, bỏ là không đúng, đây là lời Bác đã dặn. Ta cần có
những giải pháp cụ thể để xây dựng các thiết chế làng, xã, văn hóa, thực hiện xóa đói
giảm nghèo, giảm dần sự khác biệt nhằm bảo tồn và phát triển các giá trị phi vật thể. Sự
lệch thang các giá trị xã hội trong nền kinh tế thị trường là nguy cơ cảnh báo có thể mai
một các phong tục tập quán, truyền thống tốt đẹp hoặc phục hồi những phong tục lạc hậu,
những thói hư tật xấu đáng lẽ ra phải bị loại trừ, để hòa nhập nhưng không hòa tan ta cần
“ giữ gìn và phát triển những di sản văn hóa quý báu của dân tộc, tiếp thu những tinh hoa
dân tộc, sáng tạo, vun đắp nên những giá trị mới, phải tiến hành kiên trì cuộc đấu tranh
bài trừ hủ tục, thói hư tật xấu, chống mọi mưu toan để thực hiện hòa bình
Tóm lại việc áp dụng tập quán trong hoạt động xét xử còn rất nhiều vấn đề cần trao đổi
để thống nhất và có các quy định tố tụng phù hợp với thực trạng, pháp chế. Sự tương hợp
giữa pháp luật và tập quán.

15.VỀ KHÁI NIỆM NGUỒN CỦA PHÁP LUẬT

Nguồn của pháp luật là một trong những khái niệm cơ bản của lí luật nhà nước và pháp
luật và cũng là vấn đề gây nhiều tranh luận giữa các nhà khoa học. Việc nghiên cứu
nguồn của pháp luật có ý nghĩa lí luận và thực tiễn to lớn bởi vì xác định đầy đủ, chính
xác và sử dụng đúng đắn các loại nguồn của pháp luật sẽ góp phần tích cực vào công
cuộc hoàn thiện hệ thống pháp luật và nâng cao hiệu quả nó. Vấn đề nguồn của pháp luật
đã được đề cập trong nhiều công trình nghiên cứu về pháp luật của các tác giả trong và
ngoài nước với các tên gọi khác nhau như nguồn của pháp luật của các tác giả trong và
ngoài nước với các tên gọi khác nhau như nguồn của pháp luật hoặc hình thức pháp luật.
Tuy nhiên có khá nhiều quan điểm khác nhau về vấn đề này nên hiện tại vẫn chưa có định
nghĩa về nguồn của pháp luật được đa số các nhà nghiên cứu và thực hành pháp luật thừa
nhận.

Nguồn của pháp luật là khái niệm rộng có thể được hiểu nhiều nghĩa khác nhau và có thể
được xem xét dưới nhiều góc độ khác nhau. Theo nghĩa hẹp, nguồn của pháp luật là khái
niệm dùng để chỉ tất cả những nơi có chứa đựng các quy định mà thẩm phán có thể dựa
vào đó để giải quyết vụ án. Theo nghĩa rộng nói đến nguồn của pháp luật là nói đến
nguồn gốc của các khái niệm, các tư tưởng pháp luật, nói đến các chủ thể có thẩm quyền
ban hành pháp luật, nói đến các quy định của pháp luật, nói đến nơi chứa đựng các quy
định của pháp luật nói chung và các quyết định của tòa án nói đến điểm khởi nguồn của
pháp luật hoặc sự phân tích pháp lí. Về nguyên tắc chỉ có những nguồn được thiết lập
nguồn mới là nguồn pháp luật. Các nguồn này có hiệu lực nhờ vào hình thức trình bày
của chúng. Chúng là nguồn bởi vì chúng đã ban hành bởi cơ quan quyền lực nhà nước
duy nhất có thẩm quyền làm luật và làm cho luật trở nên bắt buộc, nhờ vào chế tài trong
trường hợp cần thiết. Xác định các nguồn này chính là xác định các cơ quan ban hành ra
những quy phạm pháp luật có tính bắt buộc theo quy định của nhà nước. Tìm hiểu xem
luật xuất phát từ ai ai là tác giả của quy phạm pháp luật. Đây là điểm đến giúp chúng ta
phân biệt giữa các nguồn hình thức được thiết lập làm nguồn với các nguồn của hình thức
tự nhiên.

Về mặt lí thuyết có loại nguồn này song thực tế chúng không phải và cũng không thể là
những nguồn duy nhất vì chúng có một số hạn chế nhất định, những nguồn hình thức loại
này có tính chất tương đối bất biến, tính bất biến này gây ra một số khó khăn, sẽ có
những trường hợp không lường trước được, những lổ hổng ít nhiều nghiêm trọng, tính bất
biến ủa những quy phạm được thiết lập nên khó có thể phù hợp được với những sự thay
đổi và phát triển không ngừng của thực tế một số quy phạm sẽ nhanh chóng trở nên lỗi
thời hoặc mất hiệu lực bởi vì đến một thời điểm nào đó chúng sẽ không thể áp dụng được
nữa về mặt kĩ thuật cũng như về mặt nội dung, ngoài ra còn có tình trạng là một số quy
phạm khác vì ý định của người lập nên những quy phạm đó có thể không được thể hiện
rõ, để khắc phục những bất cập trên người ta đã thừa nhận các guồn hình thức tự nhiên,
sự tồn tại của các nguồn tự nhiên này là nhằm giải quyết các vấn đề xảy ra trong thực
tiễn, lại có vấn đề nảy sinh ở đây là các nguồn không chính thức này từ đâu mà ra bởi vì
chúng không được tạo ra để trở thành nguồn, nguôn của pháp luật là khái niệm không hề
rõ ràng và có thể được hiểu theo nhiều nghĩa khác nhau, những quy phạm chung của hiến
pháp và các quy phạm chung khác được ban hành phù hợp với hiến pháp và tập quán
được coi là nguồn của pháp luật, nó có thể biểu thị hai phương pháp khác nhau để tạo nên
các quy phạm chung, sự ban hành phù hợp với hiến pháp và tập quán được coi là nguồn
của pháp luật, biểu thị ở cơ sở pháp lí cơ bản của hệ thống pháp luật. Tuy nhiên ở nghĩa
rộng nhất nguồn của pháp luật biểu thị mọi quy phạm pháp luật không chỉ những quy
phạm chung mà cả những quy phạm riêng biệt, tức là các quy phạm đặt ra quyền hoặc
nghĩa vụ pháp lí. Như vậy quyết định của tòa án là nguồn của một nghĩa vụ đặc biệt của
một bên và tương ứng với quyền của một bên khác. Điều đó dẫn đến sự mơ hồ tối nghĩa
cụm từ nguồn pháp luật nó dường như không biểu lộ được tất cả và sẽ là tốt hơn nếu giải
quyết được vấn đề quy phạm chung nào được coi là nguồn của các quy phạm riêng biệt.
Khái niệm hình thức pháp luật và nguồn pháp luật không hoàn toàn đồng nhất mà có
nhiều điểm khác nhau. Nguồn của pháp luật được tiếp cận dưới nhiều phương diện khác
nhau cả về lí luận và thực tiễn. Trong các giáo trình luật chuyên ngành cụm từ “ nguôn
của luật” được sử dụng khá phổ biến, được hiểu là những văn bản quy phạm pháp luật có
chứa đựng các quy phạm pháp luật nào đó.

Nguồn hình thức của pháp luật được hiểu là phương thức tồn tại của các quy phạm luật
trong thực tế hay là nơi chứa đựng nơi có thể cung cấp các quy phạm pháp luật tức là
những căn cứ mà các chủ thể có thẩm quyền dựa vào để giải quyết. Nói chung trong các
công trình nghiên cứu luật học thì các nguồn hình thức thường được quan tâm nghiên cứu
và được đề cập nhiều hơn các nguồn nội dung của nó.

16.CÁC LOẠI NGUỒN CỦA PHÁP LUẬT VIỆT NAM HIỆN NAY

1. Một số nguồn nội dung của pháp luật Việt Nam

Nguồn của pháp luật là tất cả các căn cứ được các chủ thể có thẩm quyền sử dụng làm cơ
sở để xây dựng, ban hành, giải thích pháp luật cũng như để áp dụng vào việc giải quyết
các vụ việc pháp lý xảy ra trong thực tế.

Đường lối, chính sách của Đảng

Đường lối, chính sách của Đảng được coi là nguồn nội dung của pháp luật bởi vì chúng
định ra mục tiêu, phương hướng phát triển kinh tế – xã hội của đất nước trong một giai
đoạn nhất định cũng như những phương pháp, cách thức cơ bản để thực hiện những mục
tiêu, phương hướng này. Nội dung các quy định trong các văn bản quy phạm pháp luật
từ Hiến pháp, luật cho đến các văn bản dưới luật đều phải phù hợp, không được trái với
đường lối, chính sách của Đảng. Về mặt lý luận, đường lối, chính sách của Đảng chỉ có
thể là nguồn nội dung mà không thể là nguồn hình thức của pháp luật. Nói chung, việc áp
dụng thẳng đường lối, chính sách của Đảng vào các lĩnh vực của xã hội là một hạn chế
cần khắc phục, vì về mặt nguyên tắc, đường lối, chính sách của Đảng chỉ có giá trị bắt
buộc phải tôn trọng hoặc thực hiện nghiêm chỉnh đối với các đảng viên và các tổ chức
đảng. Và dĩ nhiên, đường lối, chính sách đó chỉ có thể có giá trị bắt buộc phải tôn trọng
và thực hiện đối với toàn xã hội khi nó được Nhà nước thể chế hoá thành pháp luật.

Nhu cầu quản lý kinh tế – xã hội của đất nước

Đây cũng là một trong những nguồn nội dung quan trọng của pháp luật, một trong những
cơ sở để xây dựng, ban hành pháp luật. Để tổ chức, quản lý và điều hành nền kinh tế thị
trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa, Nhà nước phải ban hành các quy định pháp luật
cụ thể nhằm xây dựng đồng bộ các loại thị trường (thị trường lao động, thị trường hàng
hoá, thị trường bất động sản, thị trường tài chính ,cụ thể hoá các chính sách tài chính,
thuế, tiền tệ, giá cả, đầu tư, thu nhập , sắp xếp, cơ cấu lại các ngành kinh tế, điều chỉnh
các quan hệ kinh tế theo chiều hướng mà Nhà nước mong muốn, chiều hướng vừa thúc
đẩy sự tăng trưởng, vừa bảo đảm sự cân đối và ổn định của nền kinh tế – xã hội.

Các tư tưởng, học thuyết pháp lý

Các tư tưởng, học thuyết pháp lý cũng có thể trở thành nguồn nội dung của pháp luật.
Chẳng hạn, theo Điều 2 của Hiến pháp hiện hành của nước ta thì, “Nhà nước Cộng hoà
xã hội chủ nghĩa Việt Nam là Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do
nhân dân, vì nhân dân. Tất cả quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân mà nền tảng là liên
minh giữa giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và đội ngũ trí thức. Quyền lực nhà
nước là thống nhất, có sự phân công và phối hợp giữa các cơ quan nhà nước trong việc
thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp”.

2. Các loại nguồn hỗn hợp

Có những nguyên tắc vừa là nguồn nội dung, vừa là nguồn hình thức của pháp luật. Ví
dụ, nguyên tắc nhân đạo xã hội chủ nghĩa. Nguyên tắc này được coi là nguồn nội dung
của pháp luật vì các quy định của pháp luật trong nhiều lĩnh vực được ban hành ra nhằm
thực hiện các chính sách xã hội của Nhà nước phục vụ cho sự phát triển tự do, toàn diện
của mỗi cá nhân, bảo đảm công bằng xã hội, xoá đói, giảm nghèo… Với tư cách là nguồn
hình thức của pháp luật, nguyên tắc này đòi hỏi khi xác định mức bồi thường thiệt hại
xảy ra trong thực tế phải tuỳ từng trường hợp cụ thể của nạn nhân và của người gây thiệt
hại, có trường hợp chỉ yêu cầu bồi thường những thiệt hại trực tiếp; song, có trường hợp
lại phải yêu cầu bồi thường cả những thiệt hại trực tiếp lẫn những thiệt hại gián tiếp.

Văn bản quy phạm pháp luật

Đây là loại nguồn hình thức chủ yếu, cơ bản và quan trọng nhất của pháp luật, bởi lẽ, các
cơ quan nhà nước ở Việt Nam khi giải quyết các vụ việc pháp lý thực tế thuộc thẩm
quyền của mình đều chủ yếu dựa vào các là văn bản do các cơ quan nhà nước có thẩm
quyền ban hành theo thủ tục, trình tự luật định, trong đó có quy tắc xử sự chung được
Nhà nước bảo đảm thực hiện, nhằm điều chỉnh các quan hệ xã hội theo định hướng xã hội
chủ nghĩa. Các quy định của nó được trình bày thành văn nên thường rõ ràng, cụ thể, bảo
đảm có thể được hiểu và được thực hiện thống nhất ở phạm vi rộng; nhờ vậy, nó tạo điều
kiện thuận lợi cho việc đáp ứng các yêu cầu cơ bản của nguyên tắc pháp chế. Văn bản
quy phạm phạm pháp luật không chỉ là nguồn hình thức mà còn có thể là nguồn nội dung
của pháp luật, bởi, nếu xét về nội dung thì các quy định trong các văn bản có giá trị pháp
lý cao hơn lại có thể trở thành nguồn nội dung cho các văn bản có giá trị pháp lý thấp
hơn. Chẳng hạn, các quy định của Hiến pháp là nguồn nội dung của tất cả các Văn bản
quy phạm pháp luật khác vì các quy định trong các văn bản ấy được xây dựng, ban hành
dựa trên cơ sở các quy định của Hiến pháp, trong nhiều trường hợp là sự cụ thể hoá, chi
tiết hoá nhằm thực hiện Hiến pháp trong thực tế… Hoặc một đạo luật nào đó có thể trở
thành nguồn nội dung cho các nghị định hướng dẫn thi hành nó.

17.Nhận Thức Và Áp Dụng Án Lệ - Nhìn Từ Phán Quyết Bosman Và Gợi Mở


Cho Việt Nam

Bosman, phán quyết được đưa ra từ Toàn án công lý Châu Âu liên quan đến vụ kiện nổi
tiếng giữa Bosman và liên đoàn bóng đá Bỉ, phán quyết công bố vào ngày 15/2/1995 sau
hơn 20 năm nó vẫn phát huy sự hiệu lực và giá trị của mình
Vụ kiện được diễn ra khi Bosman là cầu thủ của liên đoàn bóng đá Bỉ, và khi anh đã hết
hạn hợp đồng, không muốn gia hạn với liên đoàn, vì thế liên đoàn đã bán Bos với mức
giá hét lên trời khiến các câu lạc bộ khác không thể nghĩ tới ước mong có Bos trong đội
ngay cả khi câu lạc bộ anh yêu thích, ai cũng biết việc làm đó nhằm giữ chân anh, nhưng
nó suýt khiến Bosman bị treo giày, vì thế anh quyết định kiện liên đoàn và sau 5 năm
Bosman đã thắng kiến vì không có một luật nào cho câu lạc bộ giữ cầu thủ khi đã hết hạn
và việc chuyển nhượng Bosman là vi phạm quyền tự do đi lại, theo đó anh đã được tự do
và ra đi, từ phán quyết đó việc chuyển nhượng cầu thủ đã tạo ra một cuộc cách mạng. Và
yếu tố để Bosman thắng kiện là rất rộng, vì vốn dĩ án lệ khi đã thông qua, sẽ trở thành
khuôn mẫu để tòa án dựa vào đó và xử lí cho các trường hợp tương tự. Vấn đề pháp lý
trong vụ kiện của Bosman là điển hình rất cao, khi ngày nay các câu lạc bộ, liên đoàn
thường xuyên xâm hại đến quyền lợi của vận động viên, trong phán quyết ta có thể rõ
ECJ không nhắc đến tên của Bosman và liên đoàn mà nhắc đến các liên đoàn, từ đó nó
trở thành quy phạm, phạm vi áp dụng đã được sử dụng cho toàn EU mà không phải chịu
bất kì sự phán quyết nào, phán quyết đặc biệt ở điểm 2 khi Bosman được chuyển sang
chơi ccasc môn bóng ném và những cầu thủ như Kolpak cũng không bị hạn chế quyền thi
đấu bởi những quy định, nếu so sánh thì ở Hoa Kỳ cũng có một đạo luật cho vận động
viên nhằm cải cách quyền anh được Hạ viên Hoa Kỳ thông qua vào 1999, nhưng giá trị
và hiệu lực pháp lý thì không được áp dụng rỗng rãi như Bosman, lý do vô cùng đơn giản
là vì đối tượng nhắm đến là vô cùng hẹp, chỉ giới hạn với vận động viên quyền anh mà
không phải là tất cả vận động viên. Hiện tượng các vận động viên thể thao bị phân biệt và
bóc lột ở Mỹ đã không còn xa lạ. Nhưng tính chất ban bổ của Ali quá eo hẹp là một bất
lợi cho các luật sư khi biện ngộ, đơn giản vì tính chất tương tự vụ kiện của Bosman
không giống nhau, quá eo hẹp. Điều thứ hai là vụ kiện của Bosman vừa giải thích vừa tạo
ra quy phạm, nhiều học giả cho rằng có hai loại án lệ, một là cho phép thẩm phán tao ra
các quy phạm, hai là giới thẩm phán trong việc giải thích các quy phạm thành văn. Trong
phán quyết của Bosman, các thẩm phán khéo léo giải thích các quy định để dẫn nó tới
một quy phạm, đặc biệt ở chỗ là không tập trung vào lập luận mà đi thẳng vào phán
quyết, chính điều này khiến trọng lực vụ án của Bosman có sức nặng hơn cả. Điều thứ ba
án lệ của Bosman được sử dụng trong giai đoạn tiền tố, nó phát huy tác dụng bảo vệ các
cầu thủ trước khi ra tòa tranh chấp, từ vụ việc đó các bên tham gia lao động tự biết quyền
và nghĩa vụ của nhau.

Theo nghị quyết 03/2015/NQ-HĐTP Hội Đồng Thẩm Phán Tòa Án Nhân Dân Tối Cao
công bố quy trình áp dụng án lệ, tuy nhiên ở Việt Nam không thừa nhận án lệ đưa ra
những quy phạm mới, chỉ mình nó thì chưa đủ lấp đầy lổ hỗng luật thành văn, nhưng
thiết nghĩ chúng ta nên thừa nhận nó tại Việt Nam. Hiệu lực của một văn bản quy phạm
pháp luật luôn bị giới hạn về thời gian, yếu tố lãnh thổ và phạm vi điều chỉnh nhưng án lệ
thì khác nó được áp dụng rộng rãi và không bị giới hạn về thời gian. Song đó nhược điểm
cũng nằm ở đó, nếu được áp dụng rộng rãi rất dễ dẫn đến việc lạm quyền của thẩm phán
và toàn án trên nghị viện. Nội dung của án lệ nằm ở lập luận của tòa, ở Việt Nam tồn tại
hai loại là nội dung án lệ và khái quát nội dung án lệ, ở Việt Nam là sự cắt gọn các tình
tiết. Theo tác giả thay vì phải xây dựng những tình tiết với cấu trúc án lệ phức tạp thì tại
sao chúng ta không làm như cách ECJ đã làm, họ đăng toàn phán quyết chỉ kèm theo ký
hiệu nhận dạng án lệ, đầu tiên ta có thể nhìn thấy tên của những thẩm phán, và cuối cùng
là chữ ký của chính phủ.

Điều cuối cùng để một án lệ được áp dụng rộng rãi như vụ kiện của Bosman điều ta cần
là gì ? Đúng chính là truyền thông hỗ trợ trong việc đưa án lệ vào trong đời sống. Vụ kiện
của Bosman đã không còn xa lạ ở trời Âu, nơi mà ưa chuộng đạo luật thành văn, và
truyền thông đã hỗ trợ ngầm giúp đẩy mạnh tỷ lệ thắng của Bos càng cao, việc đưa các
phương tiện truyền thống đại chúng hằm lan tỏa sức nóng của vụ kiện cũng như nhằm lan
rộng giá trị của nội dung khiến nó ý nghĩa hơn. Ở Việt Nam chúng ta có lợi thế trong việc
phổ biến các án lệ, chúng ta nên truyền thông qua báo đài hơn là truyền thông qua đơn
giản qua việc tuyên truyền.

18.BÀN VỀ QUY PHẠM PHÁP LUẬT


1. Tóm tắt tạp chí
Quy phạm pháp luật như những viên gạch để xây nên tòa nhà pháp luật góp phần hoàn
chỉnh hệ thống pháp luật, vì nó có cấu trúc chặt chẽ nên chúng ta dễ hiểu rõ bản chất hơn
từ đó tạo cơ sở lí luận để giải quyết các vấn đề có liên quan, trong khoa học pháp lí có rất
nhiều quan điểm về quy phạm pháp luật, có người cho rằng đầy đủ ba bộ phận là giả
định, quy định, chế tài nhưng có người cũng cho rằng nó chỉ có hai, để giải quyết ta cần
xét đến khái niệm của nó, quy phạm pháp luật là quy tắc xử sự chung được nhà nước ban
hành hoặc thừa nhận và đảm bảo thực hiện bằng quyền lực nhà nước, dù tính đặc trưng
của nó là nhà nước nhưng cưỡng chế không phải là giải pháp tối ưu mà bên cạnh đó nhà
nước cần sử dụng sự thuyết phục và đưa ra các biện pháp về vật chất lẫn tinh thần nhằm
động viên mọi người nghiêm túc thực hiện vì thế nói rằng pháp luật được đảm bảo bằng
cưỡng chế là không hoàn toàn đúng, hệ thống pháp luật có tính bắt buộc do có sự liên hệ
để tạo nên sự thống nhất nên nếu xác định quyền của chủ thể này thì sẽ có nghĩa vụ cho
chủ thể khác, tất cả mọi người đều được hưởng quyền và nên tôn trọng quyền lợi của
nhau, nhưng có một vài quan điểm cho rằng khi một chủ thể hưởng quyền không bắt
buộc chủ thể khác hưởng quyền của chính mình mà chỉ tôn trọng quyền của chủ thể kia
mà trong đó họ đã xác định nghĩa vụ của mình theo quy phạm pháp luật, có nhũng quy
phạm chỉ áp dụng lên những chủ thể đặc biệt, không áp dụng rộng cho tất cả mọi người,
bộ phận giả định xác định điều kiện và chủ thể mà khi gặp nó chủ thể có thể xử sự theo
cách thức nhà nước đã đặt ra, bộ phận quy định xác định cách xử sự cho chủ thể mà trong
đó là quyền và nghĩa vụ của chủ thể vì thế nói bô phận giả định bắt buộc chủ thể phải
tuân theo điều kiện và hoàn cảnh ở phần quy định là không chính xác, chủ thể chỉ thực
hiện khi chủ thể ở điều kiện và hoàn cảnh khi nó được xác định trong bộ phận giả định
của quy phạm pháp luật, bộ phận chế tài quy định sự tác động của nhà nước lên chủ thể
khi không thực hiện đúng mệnh lệnh được nêu trong quy phạm pháp luật, thực chất nó
chỉ là sự đảm bảo của nhà nước về nghĩa vụ của chủ thể, nhưng đó không phải là bảo đảm
về sự tôn trọng pháp luật mà nhà nước thể hiện, nó cũng không phải biện pháp duy nhất
mà nhà nước đề cập để buộc chủ thể thực hiện nghĩa vụ của bản thân khi không tuân theo
mệnh lệnh đã được quy định trong quy phạm pháp luật.

Với những phân tích trên thì có thể thấy quy phạm pháp luật có đầy đủ 3 bộ phận, nhưng
trong thực tế cách trình bày các điều luật cho ta thấy không đầy đủ cả 3 bộ phận, sở dĩ là
như vậy vì các nội dung được đề ra có thể giải quyền được nhiều vấn đề và lặp đi lặp lại
là điều không cần thiết, nhưng có thể là do tính chất ngô ngữ nên việc trình bày có thể bị
“ẩn”, nếu loại trừ các trường hợp trên thì ta có thể thấy không hề có bộ phận chế tài,
nhưng xét theo sự logic ta có thể thấy đầu tiên quy phạm pháp luật chỉ xác định quyền
của chủ thể,nếu một chủ thể được ban quyền nhưng từ chối hưởng quyền thì sẽ không bị
truy cứu trách nhiệm pháp lí, thứ hai nội dung của nó liên quan đến thủ tục pháp lí hoặc
trường hợp mà nội dung của nghĩa vụ gắn liền với với lợi ích của chủ thể, có những quy
định những thủ tục pháp lý nhưng nếu chủ thể không thực hiện thì cũng không có bất cứ
chế tài nào được áp dụng. Nếu có người khiếu nại nhưng trình lên cơ quan không có thẩm
quyền giải quyết vấn đề đó thì sẽ được trả đơn khiếu nại về coi như sự từ chối, ta có thể
thấy khi chủ thể tuân thủ thực hiện đúng quy trình thì những thủ tục pháp lí mới có thể
xuất hiện và tiếp tục diễn ra nhưng nếu ngược lại thì nó sẽ không tồn tại để làm các giai
đoạn tiếp theo nữa, trong trường hợp nghĩa vụ gắn liền với lợi ích chủ thể nên khi chủ thể
không thực hiện nghĩa vụ thì tất yêu lợi ích cũng sẽ mất theo. Bên cạnh đó có những quy
phạm pháp luật đề ra những nghĩa vụ nhưng không hề có biện pháp chế tài nào, bởi có
thể nhà nước chưa lường trước được những biện pháp áp dụng cho trường hợp đó cũng
có thể do nhà nước nghĩ biện pháp thuyết phục sẽ làm cho chủ thể dễ dàng nghe hơn.
Không phải bất cứ nghĩa vụ pháp lí nào cũng có biện pháp chế tài để đảm bảo nó được
thực hiện mà có thể thực hiện bằng biện pháp thuyết phục nhằm động viên chủ thể thực
hiện nghĩa vụ của chính bản thân mình, vì thế không phải bất kì nghĩa vụ nào cũng cần có
chế tài để chủ thể đảm bảo thực hiện theo quy định của nhà nước, từ những gì đã phân
tích trên ta có thể thấy được cấu trúc phức tạp của quy phạm pháp luật, nó tạo tiền đề để
chúng ta nghiên cứu rõ hơn về quy phạm pháp luật từ đó áp dụng chặt hơn cho những
điều kiện và hoàn cảnh cụ thể của từng chủ thể.

2. So sánh với tạp chí số 20


Cả hai tạp chí số 19 và số 20 đều nêu rõ những cấu trúc của quy phạm pháp luật,
cũng gồm đầy đủ 3 bộ phận, tuy nhiên ở tạp chí số 20 tác giả có nhắc đến rằng có
thể trong một quy phạm pháp luật chỉ có phân giả định và phần chế tài trong quy
định của bộ phận giả định, tuy nhiên cả hai tác giả đều đồng tình với việc không
phải quy phạm pháp luật nào cũng có chế tài bởi có những quy phạm pháp luật
nhà nước cần có sự thuyết phục chủ thể thực hiện nghĩa vụ của bản thân hơn, ở tạp
chí số 20 tác giả đã đi sâu hơn vào giải thích khái niệm của cả 3 bộ phận giả định,
quy đinh và chế tài và trong đó gồm 2 phần chính là quy tắc và bảo đảm mà tạp
chí 19 đã không đề cập đến, phần quy tắc tác giả số 20 đã nói rằng quy tắc xác
định cách ứng xử của chủ thể vào điều kiện và hoàn cảnh nhất định trong cuojc
sống, và phần bảo đảm thì xác định biện pháp mà nhà nước đề ra để áp dụng với
chủ thể, ngoài ra hai tác giả cũng đồng tình với ý kiến cho rằng không phải quy
phạm nào cũng đầy đủ cả 3 bộ phận các thủ tục pháp lí gắn liền với quyền và
nghĩa vụ của chủ thể.
3. Ý kiến bản thân
Theo những gì em đã được học về cơ cấu của quy phạm pháp luật, thì quy phạm
pháp luật cũng gồm 3 phần giả định, quy định và chế tài, tuy nhiên có một vài
trường hợp chỉ có phần giả định và chế tài hoặc quy định, không đủ cả ba, và chế
tài không nhất thiết phải sự dụng những biện pháp răn đe được quy định mà thay
vào đó là sự thuyết phục từ nhà nước để chủ thể thực hiện đầy đủ nghĩa vụ và tôn
trọng quyền của nhau. Những phân tích phía trên là cơ sở thực tiễn để chúng ta có
thể nghiên cứu rõ hơn về quy phạm pháp luật và các bộ phận cấu thành nên chúng,
tuy nhiên theo quan điểm của em quy phạm pháp luật không nhất thiết phải đủ cả
3 bộ phận hay chỉ có giả định và chế tài, vì những quy phạm đặt ra để con người
dựa vào biết cách xử sự chứ không phải trừng phạt, từ những suy nghĩ trên em
cũng đồng tình với ý kiến của hai tác giả của hai bài tạp chí phía trên.

19.Vấn Đề Cơ Cấu Của Quy Phạm Pháp Luật

Quy phạm pháp luật có rất nhiều ý nghĩa về mặt lí luận và thực tiễn, về lí luận nó góp
phần giải quyết và làm sáng tỏ các khái niệm quy phạm pháp luật, chế định pháp luật, về
mặt thực tiễn nó cộng hưởng cho việc lập pháp của chính phủ. Trong khoa học pháp lí
ngày nay có rất nhiều quan điểm vè quy phạm pháp luật, quan điểm thứ nhất xuất phát từ
cơ bản là quy định, giả định và chế tài, trong đó giả định nêu lên những điều kiện và hoàn
cảnh xảy ra được nêu và quy định trong quy phạm pháp luật, còn quy định truyền đạt cho
mọi người hiểu cách xử sự khi đối mặt với điều kiện hoàn cảnh cụ thể cuối cùng là bộ
phận chế tài nhằm giúp cho mọi người hiểu được các biện pháp áp dụng của chính phủ
với chủ thể vi phạm, quan điểm cho rằng quy phạm có đủ ba bộ phận nhưng có ý kiến
cho rằng chỉ có giả định và hậu quả pháp lý, các quan điểm khác nhau cũng tạo cơ sở lí
luận để xây dựng các khái niệm cho quy phạm pháp luật, chế định pháp luật, nếu quy
phạm có cả 3 bộ phận thì giả định là để xác định tình huống còn chế tài để áp dụng nhưng
nếu nghiên cứu kĩ ta có thể thấy điều kiện của phần giả định không bình thường. Việc
khẳng định rằng chế tài là biện pháp duy nhất để áp dụng lên chủ thể vi phạm là không
chính xác bởi ở một vài trường hợp nhà nước phải sử dụng biện pháp khuyến khích
thuyết phục để áp dụng lên chủ thể, quan điểm này cũng có 2 ý kiến, đầu tiên cho rằng
quy phạm có mệnh đề và quy định, trong đó quy định gồm tình huống của hành động,
phần mệnh đề có hai phạm vi là mệnh đề phạm vi mệnh đề hạn chế, ý kiến này chỉ tập
trung vào cơ cấu của quy phạm được quy định trong quan điểm trên, theo đó nội dung
của quy phạm gồm 4 bộ phận là đặc tính quy phạm, chủ thể, hành động, điều kiện thực
hiện, quan điểm trên trên cũng làm sáng tỏ được bản chất của quy phạm và phân biệt
được trong cấu trúc của quy phạm. Tuy nhiên quan điểm này chỉ làm sáng tỏ phần quy
tắc mà không đưa bất kì biện pháp nào. Quan điểm thứ ba cho rằng quy phạm pháp luật
ứng với một quy tắc, vì môt vài trường chung chính sách xử phạt, quan điểm này làm
sáng tỏ cơ cấu cũng như mối quan hệ giữa cấu trúc và nội dung. Tuy nhiên quan điểm
trên lại không thể hiện được bản chất cũng như phân biệt được với các văn bản khác. Và
cuối cùng họ xác định rằng quy phạm pháp luật gồm phần quy tắc và phần bảo đảm.

Phần quy tắc của quy phạm pháp luật xác định cách xử sự của chủ thể khi có điều kiện và
hoàn cảnh cụ thể, đây là phần cơ bản. Phần quy tắc có hai bộ phận là quy định và giả
định, trong đó phần giả định là dư liệu điều kiện hoàn cảnh xảy ra còn phần quy định
gồm 2 bộ phận là tình huống hành vi và chủ thể hành vi, nó thể hiện trực tiếp ý chí nhà
nước khi điều chỉnh quan hệ xã hội, phần bảo đảm xác định phần áp dụng của nhà nước
đối với chủ thể trong đó gồm 2 bộ phận là giả định và biện pháp bảo đảm, khác ở đây là
giả định của phần quy tắc nêu lên tình huống cụ thể để chủ thể xử sự theo đúng quy định
còn giả định của phần bảo đảm nêu lên sự vi phạm hoặc thực hiện tốt những yêu cầu của
pháp luật, biện pháp của phần bảo đảm là xác định hình thức hoặc mức độ cụ thể mà nhà
nước áp dụng với chủ thể, giữa quy tắc và bảo đảm có mối quan hệ mật thiết với nhau
trong đó giả định của phần bảo đảm là nội dung của phần quy tắc, khi nghiên cứu cơ cấu
họ đã đưa ra nhận định thứ nhất không phải quy phạm nào cũng có đủ bộ phận, thứ hai
một quy phạm với một quy tắc có thể kèm nhiều bảo đảm, thứ ba giữa các quy phạm có
mối liên mật thiết với nhau, từ đó ta có thể khẳng định rằng giữa những quy phạm pháp
luật đều có mối liên hệ mật thiết với nhau. Ngoài hai bộ phận là quy tắc và bảo đảm thì
còn có mệnh đề, tức là giải thích cái khái niệm pháp lí, mệnh đề hiệu lực, mệnh đề có tính
khái quát. Tuy nhiên từng mệnh đề của quy phạm pháp luật gắn liền với từng quy phạm
pháp luật, quan niệm như vậy giúp chúng ta dễ dàng phân biệt được hai khái niệm tuy
gần gũi nhau. Chúng ta không thể đồng nhất điều luật một quy phạm vì đầu tiên một điều
luật có thể chứa hoặc có nhiều quy tắc hoặc nhiều phần bảo đảm. Nếu việc ban hành quy
phạm pháp luật có mục đích trực tiếp để xác định xử sự cho chủ thể thì các điều luật đó
có chứa quy tắc. Lí do khác dẫn đến điều luật chỉ chứa một quy phạm xuất phát từ kĩ
thuật luật pháp. Thứ hai có những điều luật chứa đựng một quy phạm như các khái niệm.
Thực tế với các quan điểm xây dựng pháp luật như ngày nay chúng ta ít khi thấy được đủ
các bộ phận của một quy phạm pháp luật. Xét trên những phân tích ở trên thì những quan
điểm đấy chỉ là phần bảo đảm của quy phạm pháp luật.

Với những quan điểm được ra, chúng tôi thấy được nó đã khắc phục được những hạn chế
của những quan điểm trước đó. Từ những sự phân tích phía trên đồng thời cũng tạo đề cơ
sở để nghiên cứu sâu hon về bản chất của nó.

20.Một Cách Tiếp Cận Đối Với Quy Phạm Pháp Luật

Cơ cấu của quy phạm pháp luật có ý nghĩa rất lớn về mặt lí luận và hoạt động thực tiễn
pháp lý, đồng thời nhằm nâng coa ý thức pháp luật cho người dân tạo các kĩ năng sống
tuân theo pháp luật. Tuy nhiên cấu trúc của quy phạm pháp luật cho đến nay vẫn chưa có
sự thống nhất.

Quy phạm pháp luật là thuộc tính cơ bản quan trọng của pháp luật, luôn là hệ thống quy
phạm pháp luật, thiếu đi quy phạm thì pháp luật không còn là nó nữa. Trong xã hội hiện
đại thì pháp luật có thay đổi bao gồm pháp luật thực định, hệ thống quy phạm pháp luật,
hiện hành và những vấn đề cụ thể, với cách tiếp cận như vậy thì không phải tất cả quy
định của pháp luật đều là quy phạm pháp luật, một số quy định của pháp luật chưa thể
được xem là quy phạm pháp luật vì nó chưa thể hiện đặc trưng vốn có, ta cần mở rộng
hơn khái niệm pháp luật không chỉ về lí luận mà còn về thực định, điều này cho thấy các
quy định pháp luật có thể là nguyên tắc pháp lí, quy định,.. khi nhà nước thấy cần thiết, từ
đó ta có thể thấy được chỉ những quy định pháp luật là quy tắc xử sự thì mới là quy phạm
pháp luật. Đời sống con người luôn phải đặt ra những quy phạm pháp luật để thích ứng
với nhiều trường hợp xảy ra trong đời sống và xã hội, trong đời sống xã hội thì không thể
thiếu những quy phạm pháp luật cụ thể là quy tẵ xử sự, chúng là phương tiên để quản lí
xã hội tạo điều kiện để xã hội phát triển, và trong xã hội thì có rất nhiều quy phạm khác
nhau, mỗi quy phạm khác nhau đều hướng đến chủ thể và điều kiện hoàn cảnh khác nhau.
Với tư cách là quy tắc xử sự nó luôn điều chỉnh hành vi con người, nó đã được xác định
cách xử sự cũng như cách xử lí vi phạm của con người, thông qua quy phạm pháp luật thì
mới biết được hoạt động nào của chủ thể hợp lí và không hợp lí. Quy phạm pháp luật là
do nhà nước ban hành và bảo đảm thực hiện thể hiện ý chí của nhà nước, bằng việc chỉ ra
quyền và nghĩa vụ trách nhiệm của chủ thể là nhà nước đã công nhận và bảo đảm chúng
được thực hiện bằng quyền lực của mình, quy phạm pháp luật là quy tắc xử sự, không chỉ
điều chỉnh quan hệ xã hội mà còn điều chỉnh cụ thể một mối quan hệ, nó luôn điều chỉnh
mối quan hệ xã hội, quyền và nghĩa vụ được quy định trong quy phạm pháp luật luôn có
sự liên hệ mật thiết với nhau.

Cơ chế điều chỉnh pháp luật có vai trò thực hiện chức năng thông báo của nhà nước đối
với các chủ thể tham gia quan hệ xã hội để họ biết mình cần làm gì, phải làm gì và được
làm gì, quy phạm pháp luật có tính hệ thống, chúng không tác động riêng nhau mà có sự
mật thiết từ đó tạo nên một thể thống nhất . Quy phạm pháp luật là hiện tượng pháp lí có
tính độc lập không chỉ về nội dung mà còn về cấu trúc nhưng vấn đề cấu trúc còn gây ra
nhiều tranh khi các tác giả thường hay nhắc nhiều đến bộ phận cấu thành của nó, nhưng
tác giả tạp chí không muốn tranh luận về những vấn đề đó vì vốn dĩ mỗi người đều có
những quan điểm lập luận khác nhau, ngoài ra tác giả cũng chỉ bộ phận giả định của quy
phạm pháp luật, nêu ra những điều kiện hoàn cảnh mà chủ thể có thể xử sự, đó là những
tình huống đã, đang hoặc có thể xảy ra trong cuộc sống qua đó tác giả cũng nêu trong bộ
phận giả định giải thích những gì hướng đến chủ thể nào, hoàn cảnh nào, để từ đó giảm
bớt được lỗ hổng của pháp luật hơn, từ cũng hạn chế việc áp dụng pháp luật tương tự
trong quy phạm hơn, các tổ chức, cá nhân khi tham gia phải thật chú ý đến chủ thể chịu
sự tác động, bộ phận thứ hai hướng đến là chỉ dẫn, là một phần của quy phạm pháp luật
nó quy định chủ thể có thể hoặc buộc phải thực hiện gắn liền với điều kiện hoàn cảnh, là
cốt lõi của quy phạm, nó thể hiện ý chí của nhà nước đối với tổ chức, cá nhân khi xảy
điều kiện, hoàn cảnh cụ thể được quy định trong quy phạm pháp luật và thường được nêu
lên dưới dạng mệnh lệnh, có tác dụng nhằm để chủ thể xử sự cho đúng những gì đực quy
định trong quy phạm pháp luật, những chỉ dẫn của nhà nước với các chủ thể có thể được
thể hiện dưới dạng hành vi mà chủ thể được phép hoặc không được phép thực hiện, lợi
ích và những quyền mà chủ thể được hưởng, hành vi mà chủ thể buộc phải thực hiện, hậu
quả bất lợi phải gánh chịu, thường sẽ được chia làm hai nhóm, nhóm một là bộ phận quy
định pháp luật chỉ ra các quyền được hưởng và nghĩa vụ phải thực hiện, nhóm hai là biện
pháp cho pháp luật được thực hiện trong đó chỉ ra các biện pháp mà các cơ quan tổ chức
có thẩm quyền áp dụng với chủ thể vi phạm pháp luật.

Đối với những hành vi mang tính tính cực mạng lại lợi cho xã hội thường thì nhà nước sẽ
sử dụng biện pháp khuyến khích để dộng viện cá nhân, tổ chức để họ có thể thực hiện
quy phạm một cách tối ưu nhất, còn đối với những hành vi tiêu cực thì nhà nước chỉ áp
dụng những bất lợi, và các biện pháp bất lợi đó thường sẽ là trừng phạt, đình chỉ, bãi bỏ.
Tóm lại với cách tiếp cận như trên thì về mặt lí thuyết quy phạm pháp luật dễ gần với các
điều luật hơn và dễ dàng phân tích hơn về cơ cấu của quy phạm pháp luật.
21.Góp phần thống nhất nhận thức về khái niệm quan hệ pháp luật

Khái niệm quan hệ pháp luật là cơ bản trong nghiên cứu khoa học lí luận chung của nhà
nước , trong bất kì ngành luật nào thì các nhà khoa học luôn nghiên cứu kĩ nội dung và
đặc thù của quan hệ pháp luận được quyết định bởi đối tượng điều chỉnh, phương pháp
điều chỉnh, khác nhau ở chỗ điều chỉnh cấu trúc quan hệ pháp luật, giữa quyền và nghĩa
vụ, thành phần đặc điểm pháp lí, việc nghiên cứu cụ thể đã giúp hiểu rõ hơn về đối tượng
và phương pháp điều chỉnh, làm phong phú thêm về lí luận quan hệ pháp luật, hiểu rõ
thêm về bản chất của nó, trong khoa học pháp lí tư sản thì khái niệm quan hệ pháp luật,
đặc điểm quan hệ pháp luật hầu như rất ít được quan tâm. Việc nghiên cứu quan hệ pháp
luật thường gắn với từng loại quan hệ pháp luật, ưu điểm của nghiên cứu này là nhìn
được đa chiều và sống động về quan hệ pháp luật phù hợp với cấu trúc từng loại quan hệ
pháp luật,học giả tư sản đã giải quyết nhiều vấn đề mới mẻ của đời sống pháp lí góp phần
xác định khuynh hướng và trạng thái của cơ chế điều chỉnh. Xem xét quan hệ pháp luật
với tính cách giữa mối quan hệ của hai chủ thể có liên quan thì tác giả nhận định rằng
nghĩa vụ là cái cơ bản trong quan hệ pháp luật. Với cách tiếp cận thực sự muốn quyền
quyền phải gắn với nghĩa vụ nên đã đề cao nghĩa vụ pháp lí trong quan hệ pháp luật, một
số quyền được nhà nước thừa nhận nhưng không thực hiện quyền, một số quan hệ pháp
luật bị các bên tham gia đặt ngoài phạm vi pháp luật. Khái niệm quan hệ pháp luật chủ
yếu được dùng để phân tích quyền chủ thể và thực hiện nó cụ thể hơn. Hơn nữa việc tiếp
cận quan hệ pháp luật chủ yếu từ giao ước dân sự nên gắn nó gắn liền với khái niệm hợp
đồng, do nhiều nguyên nhân nên khái niệm quan hệ pháp luật không là nền tảng của hệ
thống pháp lí. Trong khoa học pháp lí xã hội chủ nghĩa, vấn đề quan hệ pháp lí, muốn
hiểu nó phải nghiên cứu phương pháp luận của nó, khẳng định khái niệm của nó tức là
xác định mối liên hệ của nó với thực tiễn, những luận cứ khoa học trở thành nền tảng cơ
sở lí luận trong việc xây dựng khái niệm quan hệ pháp luật. Mặc dù nó được xây cựng
trên nhiều luồng ý kiến khác nhau nhưng các nhà khoa học vẫn thống nhất là hình thức
của thực hiện pháp luật, khái niệm quan hệ pháp luật là được coi là khái niệm nền tảng
của khoa học pháp lí cho cả hệ thống quan hệ pháp luật chuyên ngành
Nếu không dựa trên hệ thống lí luận để giải thích thì chắc chắn sẽ có nhiều vướng mắc, vì
thế coi trọng tính nền tảng là rất quan trọng, điều này không có ý nghĩa rằng khái niệm
quan hệ pháp luật bao trùm nhiều vấn đề. Thực tế ở nước ta khái niệm quan hệ pháp luật
đã được nghiên cứu ở mức độ nhất định, trong nghiên cứu cũng chưa hình thành trường
phái lí luận riêng biệt do đó chưa có sự thống nhất. Thực tế khoa học pháp lí nước ta thời
kì trước chưa có sự nghiên cứu chuyên sâu về quan hệ pháp luật. Khái niệm quan hệ pháp
luật được thừa nhận là nền tảng của hệ thống khái niệm khoa học pháp lí. Trong điều kiện
đổi mới ngày nay, quan hệ xã hội ngày càng đa dạng và phức tạp, vì thế chúng ta cần
nghiêm túc nghiên cứu chuyên sâu hơn nữa về đặc tính của khái niệm quan hệ pháp luật,
qua sự nghiên cứu đấy cần xem lại khái niệm quan hệ pháp luật có phải khái niệm nền
tảng hay không, công cuộc đổi mới của nước ta cũng cho thấy sự thay đổi tính chất, cơ
cấu của quan hệ xã hội đã dẫn đến thay đổi nội dung của khái niệm quan hệ pháp luật và
các đặc trưng pháp lí vốn có của nó, chỉ đơn giản là vì nó chưa có sự thống nhất trong
cách tiếp cận quan hệ pháp luật. Tập hợp một số quan điểm được sử dụng phổ biến ở
nước ta, quan điểm đầu cho rằng quan hệ pháp luật là hình thức pháp lí của quan hệ xã
hội , nó xuất hiện dựa trên sự điều chỉnh của pháp luật đối với các quan hệ xã hội, quan
điểm thứ hai cho rằng quan hệ xã hội là những quan hệ pháp luật được quy phạm pháp
luật điều chỉnh, theo quan điểm này thì quan hệ pháp luật là những quan hệ được pháp
luật điều chỉnh, quá trình điều chỉnh pháp luật tạo nên hình thức pháp lí cho quan hệ xã
hội, quan điểm thứ ba lại có ý kiến khác quan hệ pháp luật là quan hệ xã hội đặc biệt nảy
sinh do sự tác động hữu cơ giữa quy phạm pháp luật và sự kiện pháp lí, khác với hai quan
điểm trên, quan điểm này tiếp cận từ thực tế nghĩa là nó sẽ không thể hình thành nếu
không có sự kiện pháp lí, nó chính là cầu nối giữa quan hệ pháp luật và hiện tượng quy
phạm pháp luật, đây là ý kiến hợp lí của quan điểm thứ ba khi nhìn quan hệ pháp luật
trong trạng thái động. Nhưng các nhà khoa học lại rất băn khoăn khi không biết tại sao
quan hệ pháp có thể tự tác động hữu cơ đến quan hệ xã hội để làm xuất hiện các quan hệ
pháp luật.
Quan điểm thứ tư lại hiểu quan hệ pháp luật là quan hệ có sự tác động qua lại về mặt xã
hội trên cơ sở pháp lí nhất định để chủ thể đạt được mục đích, Như vậy các quan điểm
nói trên cũng cho thấy sự phức tạp về khái niệm quan hệ pháp luật, mặc dù có nhiều cách
tiếp cận khác nhau nhưng đều thận nó là quan hệ xã hội, nó được hình thành tồn tại vận
động trên cơ sở pháp luật bỏi sự hiện diện tương tác giữa quyền và nghĩa vụ của chủ thể.

You might also like