You are on page 1of 12

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT THÀNH PHỐ HỒ CHÍNH MINH


_____________________________
KHOA CÁC CHƯƠNG TRÌNH ĐÀO TẠO CHẤT LƯỢNG CAO

MÔN: NHỮNG QUY ĐỊNH CHUNG VỀ LUẬT DÂN SỰ


TÀI SẢN VÀ THỪA KẾ
BÀI THẢO LUẬN SỐ 3
Sinh viên: Chu Mẫn Ngọc
Lớp: CLC48F
MSSV: 2353801014122
Buổi thảo luận thứ ba: Tài sản và Quyền đối với tài
sản
- Thế nào là giấy tờ có giá? Nêu cơ sở pháp lý khi trả lời và cho ví dụ
minh họa về giấy tờ có giá.
Theo khoản 1 Điều 105 Bộ luật Dân sự 2015 quy định "Tài sản là vật,
tiền, giấy tờ có giá và quyền tài sản". Như vậy, giấy tờ có giá là một loại
tài sản theo luật dân sự.
Giấy tờ có giá: gồm cổ phiếu, trái phiếu, hối phiếu, kì phiếu, tín phiếu….
- Trong thực tiễn xét xử, “giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, giấy
chứng nhận sở hữu nhà” có là giấy tờ có giá không? Quyết định số 06 và
Bản án số 39 có cho câu trả lời không ?
*Trong thực tiễn xét xử, “giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, giấy
chứng nhận sở hữu nhà” có là giấy tờ có giá không?
Trong thực tiễn xét xử “giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, giấy chứng
nhận sở hữu nhà” không phải là giấy tờ có giá. Căn cứ vào quy định 141
TANDTC-HĐXX thì Tòa Án Nhân Dân Tối Cao đã có hướng dẫn như
sau:
Theo điều 163 BLDS 2005 quy định “Tài sản bao gồm vật, tiền, giấy tờ có
giá và các quyền tài sản”. Theo quy định tại điểm 8 điều 6 của Luật Ngân
hàng Nhà nước năm 2010 thì giấy tờ có giá là “ bằng chứng xác nhận
nghĩa vụ trả nợ giữa tổ chức phát hành giấy tờ có giá với người sở hữu
giấy tờ có giá trong một thời hạn nhất nhất, điều kiện trả lãi và các điều
kiện. Theo đó căn cứ vào các quy định của pháp luật hiện hành, thì giấy tờ
có giá bao gồm: hồi phiếu đòi nợ, hồi phiếu nhận nợ, séc, công cụ chuyển
nhượng; trái phiếu chính phủ, trái phiếu công ty, kỳ phiếu, cổ phiếu; tín
phiếu, hối phiếu, trái phiếu, công trái và công cụ khác làm phát sinh nghĩa
vụ trả nợ; các loại chứng khoán ( cổ phiếu, trái phiếu, chứng chỉ quỹ,
quyền mua cổ phần, chứng quyền, quyền chọn bán, hợp đồng tương lai,
nhóm chứng khoán hoặc chỉ số chứng khoán, hợp đồng góp vốn đầu tư,
các loại chứng khoán khác do Bộ Tài chính quy định ). Vậy theo các quy
định trên thì giấy chứng nhận quyền sử dụng tài sản, giấy chứng nhận
quyền sử dụng đất, giấy chứng nhận sở hữu nhà không phải là tài sản có
giá.
*Quyết định số 06 và Bản án số 39 có cho câu trả lời không ?
Căn cứ vào quyết định số 06/2017/QĐ-PT của TAND tỉnh Khánh Hòa,
tại điều 2 xét thẩm quyền giải quyết vụ án “ Theo Điều 105 BLDS
2015 quy định về tài sản như sau (1) Tài sản là vật, tiền, giấy tờ có giá
và quyền tài sản (2) Tài sản bao gồm bất động sản và động sản. Bất
động sản và động sản có thể là tài sản hiện có và tài sản hình thành
trong tương lai”; Điều 115 BLDS 2015 “Quyền tài sản là quyền trị giá
được bằng tiền, bao gồm quyền tài sản đối với đối tượng quyền sở hữu
trí tuệ, quyền sử dụng đất và các quyền tài sản khác”; Căn cứ khoản 16
điều 3 Luật đất đai năm 2013 “ Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất,
quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất là chứng thư pháp
lý để Nhà nước xác nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở, tài
sản khác gắn liền với đất hợp pháp của người có quyền sử dụng đất,
quyền sở hữu nhà ở và quyền sở hữu tài sản khác gắn liền với đất. Như
vậy, giấy chứng nhận quyền sử dụng đất chỉ là văn bản chứa đựng
thông tin về Quyền sử dụng đất, là văn bản chứng quyền, không phải là
tài sản và không thể xem là loại giấy tờ có giá”.
- Trong thực tiễn xét xử, “giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, giấy
chứng nhận sở hữu nhà” có là tài sản không? Quyết định số 06 và
Bản án số 39 có cho câu trả lời không? Vì sao ?
Trong thực tiễn xét xử, “giấy chứng nhận quyền sử dụng đất,
giấy chứng nhận sở hữu nhà” có là tài sản không ?
Trong thực tiễn xét xử thì “ giấy chứng nhận quyền sử dụng đất,
giấy chứng nhận sở hữu nhà” không phải là tài sản , vì căn cứ theo
điều 105 BLDS 2015 thì “ Tài sản là vật, tiền, giấy tờ có giá và
quyền tài sản”, vì thế có thể khẳng định chúng không phải là tài sản.
Quyết định số 06 và Bản án số 39 có cho câu trả lời không? Vì
sao ?
Căn cứ vào quyết định số 06/2017/QĐ-PT của TAND tỉnh Khánh
Hòa đã viết “ Như vậy, giấy chứng nhận quyền sử dụng đất chỉ là
văn bản chứa đựng thông tin về quyền sử dụng đất, là văn bản chứng
quyền, không phải là tài sản và không thể xem là loại giấy tờ có
giá”.
Căn cứ vào bản án số 39/2018/DSST của TAND huyện Long Hồ tỉnh Vĩnh
Long thì “ Giấy chứng nhận quyền sử dụng là chứng thư pháp lý để nhà
nước xác nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở, tài sản khác gắn liền
với đất hợp pháp của người có quyền sủ dụng đất”
Từ hai căn cứ trên ta có thể khẳng định “ Giấy chứng nhận quyền sử
dụng đất hay giấy chứng nhận sở hữu nhà” không phải là tài sản.
- Suy nghĩ của anh/chị về hướng giải quyết trong Quyết định số
06 liên quan đến “giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, giấy
chứng nhận sở hữu nhà” nhìn từ khái niệm tài sản; Nếu áp dụng
BLDS năm 2015, giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, giấy
chứng nhận sở hữu nhà có là tài sản không? Vì sao?
- Suy nghĩ của anh/chị về hướng giải quyết trong Quyết định số
06 liên quan đến “giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, giấy
chứng nhận sở hữu nhà” nhìn từ khái niệm tài sản.
Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất được tồn tại dưới hình thức vật
chất nhất định, hình dạng cụ thể là một tờ giấy, và có thể bị/ được
con người chiếm hữu, quản lí, việc nó không thể tham gia vào giao
dịch trao đổi mua bán cũng không làm mất đi bản chất tài sản của
nó, nhưng để lại hậu quả thực tế và làm ảnh hưởng đến quyền lại của
người sử dụng đất, việc xem giấy chứng nhận quyền sử dụng đất
không phải là tài sản đã tước bỏ đi quyền chiếm hữu và sử dụng hợp
pháp của người sử dụng đất đối với loại giấy tờ này.
Nếu áp dụng BLDS năm 2015, giấy chứng nhận quyền sử dụng
đất, giấy chứng nhận sở hữu nhà có là tài sản không? Vì sao?
Căn cứ vào điều 105 BLDS 2015 thì tài sản là vật, tiền, giấy tờ có
giá nên nếu áp dụng BLDS 2015 thì giấy chứng nhận quyền sử dụng
đất không phải là tài sản, nó chỉ là giấy tờ công chứng của các cơ
quan có thẩm quyền nhằm bảo vệ quyền lợi về tài sản cho chủ thể.
- Suy nghĩ của anh/chị về hướng giải quyết trong Bản án số 39
liên quan đến “giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, giấy chứng
nhận quyền sở hữu nhà”.
Trong thực tế xét xử, giấy chứng nhận quyền sử dụng đất không được xem là
giấy tờ có giá và cũng không được xem là tài sản cho nên không được phép
giao dịch trao đổi. Việc bà T khai con ông B có thế chấp cho bà để vay tiền
mà không thể chứng minh được và không có chứng cứ xác thực nên việc bà
lấy giấy chúng nhận quyền sử dụng đất của ông B và đòi ông B 120.000.000
thì bà mới trả giấy chứng nhận quyền sử dụng đất là không có căn cứ. Từ đó
kết luận hướng giải quyết của tòa án là hoàn toàn hợp lí.
- Bitcoin là gì?
Bitcoin có thể được hiểu là một loại tiền ảo - một loại tiền tệ
kỹ thuật số được phát hành dưới dạng phần mềm mã nguồn
mở, không có sự quản lý, được phát hành bởi những người
phát triển phần mềm cũng thường là người kiểm soát hệ thống
và được sử dụng, chấp nhận thanh toán giữa các thành viên
của một cộng đồng ảo nhất định. ( Nguồn:
https://thuvienphapluat.vn/phap-luat/bitcoin-la-gi-toi-co-the-
coi-bitcoin-nhu-mot-loai-tai-san-de-su-dung-trong-thanh-toan-
duoc-khong-78.html )
Theo các bị cáo trong vụ án “Cướp tài sản”, Bitcoin có là
tài sản không? Ở các vụ việc về Bitcoin, Tòa án có xác định
Bitcoin là tài sản theo pháp luật Việt Nam không?
Căn cứ vào điều 105 BLDS 2015 thì “ tài sản là vật, tiền, giấy
tờ có giá và quyền tài sản” “ tài sản bao gồm bất động sản và
động sản. Bất động sản và động sản có thể là tài sản hiện có và
tài sản hình thành trong tương lai”. Tại khoản 6 điều 7 điều 4
nghị định 101/2012/NĐ-CP thanh toán không dùng tiền mặt
sửa đổi bởi nghị định 80/2016/NĐ-CP quy định. Phương tiện
thanh toán không dùng tiền mặt sử dụng trong giao dịch thanh
toán (sau đây gọi là phương tiện thanh toán), bao gồm: Séc,
lệnh chi, ủy nhiệm chi, nhờ thu, ủy nhiệm thu, thẻ ngân hàng
và các phương tiện thanh toán khác theo quy định của Ngân
hàng Nhà nước. Phương tiện thanh toán không hợp pháp là
các phương tiện thanh toán không thuộc quy định tại khoản 6
Điều này”. Phương tiện thanh toán không hợp pháp là các
phương tiện thanh toán không thuộc quy định tại khoản 6 Điều
này”. Bên cạnh đó, Công văn 5747/NHNN-PC của Ngân hàng
Nhà nước Việt Nam ngày 21/7/2017 gửi Văn phòng Chính
phủ cũng khẳng định:
"Tiền ảo nói chung và Bitcoin, Litecoin nói riêng không phải
là tiền tệ và không phải là phương tiện thanh toán hợp pháp
theo quy định của pháp luật Việt Nam. Việc phát hành, cung
ứng và sử dụng tiền ảo nói chung và Bitcoin, Litecoin nói
riêng (phương tiện thanh toán không hợp pháp) làm tiền tệ
hoặc phương tiện thanh toán là hành vi bị cấm. Chế tài xử lý
hành vi này đã được quy định tại Nghị định 96/2014/NĐ-CP
của Chính phủ về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực
tiền tệ và ngân hàng và Bộ luật Hình sự 2015 (đã sửa đổi, bổ
sung)"
Như vậy, Việt Nam không công nhận đồng tiền ảo trong đó có
Bitcoin là một phương tiện thanh toán, nên việc truy tố 16 bị
cáo trong vụ án nêu trên còn nhiều tranh cãi, vì hành lang
pháp lý về tiền ảo còn chưa quy định cụ thể, dễ dàng phát sinh
các hành vi trái pháp luật. Nếu truy tố 16 bị cáo nêu trên về tội
"Cướp tài sản" thì vô hình trung đã thừa nhận Bitcoin, tiền ảo
là tài sản bởi hiện tại Bitcoin chưa được thừa nhận trong hệ
thống pháp luật Việt Nam.
Pháp luật nước ngoài có coi Bitcoin là tài sản không? Nếu
có, nêu hệ thống pháp luật mà anh/chị biết. - Theo anh/chị,
có nên coi Bitcoin là tài sản ở Việt Nam không? Vì sao?
Pháp luật nước ngoài đã có sự công nhận Bitcoin là tài sản.
Quốc gia đầu tiên chấp nhận hoàn toàn Bitcoin là Nhật Bản.
bắt đầu vào ngày 1 tháng 4 năm2017, Bitcoin đã được công
nhận là một tài sản và một phương thức thanh toán hợp pháp.
Theo Điều 5 Luật tiền tệ ảo thì,tại Nhật Bản vào năm 2017,
tiền ảo được hiểu theo hai khía cạnh: (1) Giá trị giống như một
tài sản tài chính, được ghi lại bằng điện từ trong phương tiện
điện tử,ngoại trừ bất kỳ đơn vị tiền tệ nào được phép ở Nhật
Bản hoặc các quốc gia khác, và, tài sảnđược xác định là đơn vị
tiền tệ được sử dụng để thanh toán giá trị hàng hóa khi mua,
bán, chothuê hoặc cung cấp dịch vụ khác cho một hoặc nhiều
mặt hàng không xác định, (2) có cùng giá trị với tài sản dùng
để trao đổi.
Theo tôi, căn cứ vào tình hình kinh tế thực tiễn của Việt Nam
thì vẫn chưa nên xem Bitcoin là một loại tài sản ở Việt Nam vì
nhiều lí do.
- Quyền tài sản là gì?
Theo Điều 115 Bộ luật Dân sự 2015 quy định “Quyền tài sản
là quyền trị giá được bằng tiền, bao gồm quyền tài sản đối với
đối tượng quyền sở hữu trí tuệ, quyền sử dụng đất và các
quyền tài sản khác”
- Có quy định nào cho phép khẳng định quyền thuê, quyền
mua tài sản là quyền tài sản không?
Dựa trên pháp luật hiện hành của Việt Nam thì chưa có quy
định cụ thể nào khẳng định rõ quyền thuê, quyền mua tài sản
là quyền tài sản.
- Đoạn nào của Quyết định số 05 cho thấy Tòa án nhân
dân tối cao theo hướng quyền thuê, quyền mua là tài sản?
Trong quyết định số 05 của Tòa án nhân dân tối cao có ghi
nhận quyền thuê, quyền mua là tàisản tại phần nhận định của
Tòa án: “Theo quy định tại Điều 188 và Điều 634 Bộ luật Dân
Sự1995, quyền thuê, mua hóa giá nhà của cụ T là quyền tài
sản (trị giá được bằng tiền) và đượcchuyền giao cho các thừa
kế của cụ T. Do đó, bà H và ông T1 được hưởng thừa kế
quyền thuê,mua hóa giá nhà của cụ T.
- Suy nghĩ của anh/chị về hướng giải quyết của Tòa án
nhân dân tối cao trong Quyết định số 05 về quyền thuê,
quyền mua (trong mối quan hệ với khái niệm tài sản)?
Việc Tòa án nhận định quyền thuê, quyền mua là tài sản là
hợp lý bởi trong theo Điều 163 Bộ luật Dân Sự 2005 “Tài sản
là vật, tiền, giấy tờ có giá và quyền tài sản. ". Quyền thuê,
quyền mualà quyền trị giá được bằng tiền nên là quyền tài sản
theo Điều 181 Bộ luật Dân Sự 2005 “Quyền tài sản là quyền
trị giá được bằng tiền và có thể chuyển giao trong giao dịch
dân sự”.
************************************************

*Căn cứ xác lập quyền sở hữu


Đoạn nào của Quyết định trên cho thấy Tòa án khẳng
định gia đình chị Vân đã chiếm hữu nhà đất có tranh chấp
trên 30 năm và cho biết suy nghĩ của anh/chị về khẳng
định này của Tòa án?
 Trong quyết định số 111/2013/DS-GĐT có đoạn chị Vân
khẳng định đã chiếm hữu nhà đất có tranh chấp trên 30
năm ““Gia đình chị Nhữ Thị Vân ở tại nhà số 2 Hàng
Bút đã nhiều thế hệ, tuy chị Vân có lời khaithừa nhận
gia đình chị thuê nhà của cụ Hảo và nộp tiền thuê nhà
cho ông Chính (con cụ Hào), nhưng cụ Hảo vào miền
Nam sinh sống từ năm 1954, ông Chính không xuất
trình được tài liệu cụ Hào ủy quyền cho ông Chính quản
lý căn nhà. Trong khi đó chị Vân khai gia đình chị ở tại
căn nhà số 2 Hàng Bút từ năm 1954, lúc đầu là ông nội
chị ở, sau này là bố chị Vân và chị Vân tiếp tục ở”
 Theo tôi thì khẳng định trên của tòa là không hợp lý vì
nhà này là nhà của cụ Hảo có trên giấy tờ lưu giữ, nếu
không có văn bản nào của cơ quan nhà nước thì không
thể xem đây là nhà đất tranh chấp.
Đoạn nào của Quyết định trên cho thấy Tòa án khẳng định
gia đình chị Vân đã chiếm hữu ngay tình nhà đất có tranh
chấp trên 30 năm và cho biết suy nghĩ của anh/chị về
khẳng định này của Tòa án?
 Căn cứ vào khoản 1 điều 247 BLDS về xác lập quyền sở
hữu theo thời hiệu: “Người chiếm hữu, người được lợi
về tài sản không có căn cứpháp luật nhưng ngay tình,
liên tục, công khai trong thời hạn mười năm đối với
độngsản, ba mươi năm đối với bất động sản thì trở thành
chủ sở hữu tài sản đó, kể từ thờiđiểm bắt đầu chiếm hữu,
trừ trường hợp quy định tại khoản 2 điều này” , mà gia
đình chị Vân đã ở tại căn nhà này trên 30 năm , từ đó
khẳng định đây là chiếm hữu ngay tình.
 Theo tôi khẳng định này của tòa án là không hợp lý vì
căn nhà số 02 Hàng Bút là gia đình cụ Hào cho thuê, cụ
Hảo vẫn là chủ sở hữu, cụ ủy quyền cho ông Chính quản
lý ngồi nhà chứ không từ bỏ quyền sở hữu căn nhà, chị
Vân vốn biết căn nhà của gia đình chị đang sinh sống
được thuê từ ông Chính nên không thể khẳng định gia
đình chị Vân đã chiếm hữu ngay tình nhà đất có tranh
chấp trên 30 năm theo Điều 189 Bộ luật Dân sự 2005:
“Người chiếm hữu tài sản không có căn cứ pháp luật
nhưng ngay tình là người chiếm hữu mà không biết và
không thể biết việc chiếm hữu tài sản đó là không có căn
cứ pháp luật”
Đoạn nào của Quyết định trên cho thấy Tòa án khẳng định
gia đình chị Vân đã chiếm hữu liên tục nhà đất có tranh
chấp trên 30 năm và cho biết suy nghĩ của anh/chị về
khẳng định này của Tòa án?
 Trong quyết định số 111/2013/DS-GĐT, quyết định của
toàn án khẳng định gia đình chị Vân đã chiếm hữu liên
tục nhà đất có tranh chấp trên 30 năm “ “Gia đình chị
Nhữ Thị Vân tại nhà số 2 Hàng Bút đã nhiều thế hệ, tuy
chị Vân có lời khai thừa nhận gia đình chị thuê nhà của
cụ Hảo và nộp tiền thuê nhà cho ông Chính (con cụ
Hào), nhưng cụ Hào vào miền Nam sinh sống từ năm
1954, ông Chính cũng không xuất trình được tài liệu cụ
Hảo Nam sinh sống từ năm 1954, ông Chính cũng
không xuất trình được tài liệu cụ Hảo ủy quyền cho ông
Chính quản lý căn nhà. Trong khi đó chị Vân khai gia
đình chị Vân tại nhà số 2 Hàng Bút từ năm 1954, lúc đầu
là ông nội chị Vân ở, sau này bố chị Vân và chị Vân tiếp
tục ở”.
 Theo tôi quyết định của tòa là hợp lí vì tính từ thời điểm
cho thuê từ năm 1954 đến năm 2004 cụ Hảo khởi kiện
đã quá 30 năm, cùng với đó là không có tài liệu minh
chứng đòi nhà với chị Vân.
Đoạn nào của Quyết định trên cho thấy Tòa án khẳng định
gia đình chị Vân đã chiếm hữu công khai nhà đất có tranh
chấp trên 30 năm và cho biết suy nghĩ của anh/chị về
khẳng định này của Tòa án?
 Theo bản án của tòa án, đoạn văn khẳng định gia đình
chị Vân đã công khai sở hữu nhà đất có tranh chấp hơn
30 năm “ Sau khi ông nội chị mất (1995) thì gia đình
chị không đóng tiền thuê nhà cho ông Chính nữa. Sau đó
bố chị (ông Nhữ Duy Sơn) và chị tiếp tục quản lý. Năm
1997 bố chị chết thì chị tiếp tục ở tại nhà số 2 (hàng bút
lầu 1), chị không trả tiền thuê nhà cho ai
 Căn cứ điều 191 BLDS 2005 Việc chiếm hữu tài sản
được coi là chiếm hữu công khai khi thực hiện một cách
minh bạch, không giấu diếm; tài sản đang chiếm hữu
được sử dụng theo tính năng, công dụng và được người
chiếm hữu bảo quản, giữ gìn như tài sản của mình.” , từ
đó khẳng định quyết định của tòa là hợp lí.
Đoạn nào của Quyết định trên cho thấy Tòa án khẳng định
cụ Hảo không còn là chủ sở hữu nhà đất có tranh chấp và
cho biết suy nghĩ của anh/chị về khẳng định này của Tòa
án?
 Theo bản án của Tòa án khẳng định cụ Hảo không còn là
chủ sở hữu nhà đất có tranh chấp là “ Mặc dù phía nguyên
đơn khai có đòi nhà đối với gia đình chị Vân từ sau năm
1975 nhưng không có tài liệu chứng minh (chỉ có biên bản
hòa giải tỏa Ủy ban nhân dân phường Hàng Bồ năm 2001 );
đến năm 2004 cụ Hảo mới có đơn khởi kiện ra Tòa án yêu
cầu chị Vân trả nhà là không có căn cứ vì thực tế cụ Hảo
không còn là chủ sở hữu nhà đất nêu trên.
 Theo tôi quyết định của Tòa là không hợp lí vì Theo tôi
khẳng định này của tòa án là không hợp lý vì căn nhà số
02 Hàng Bút là gia đình cụ Hào cho thuê, cụ Hảo vẫn là
chủ sở hữu, cụ ủy quyền cho ông Chính quản lý ngồi
nhà chứ không từ bỏ quyền sở hữu căn nhà.
Theo anh/chị, gia đình chị Vân có được xác lập quyền sở
hữu đối với nhà đất có tranh chấp trên cơ sở quy định về
thời hiệu hưởng quyền không? Vì sao?
 Căn cứ vào khoản 1 điều 247 BLDS 2015 thì “Người chiếm
hữu, người được lợi về tài sản không có căn cứ pháp luật
nhưng ngay tình, liên tục, công khai trong thời hạn mười
năm đối với động sản, ba mươi năm đối với bất động sản thì
trở thành chủ sở hữu tài sản đó, kể từ thời điểm bắt đầu
chiếm hữu, trừ trường hợp quy định tại khoản 2 Điều này.”
Khi gia đình chị chiếm hữu liên tục công khai nhưng không
ngay tình nên không thể áp dụng quy định về thời hiệu
hưởng quyền, và vì cụ Hảo là chủ sở hữu căn nhà và khi cụ
mất thì ngôi nhà thuộc về người được thừa kế.
*Chuyển rủi ro đối với tài sản
Ai phải chịu rủi ro đối với tài sản theo quy định của
BLDS? Nêu cơ sở pháp lý khi trả lời.
 Căn cứ vào khoản 1 điều 62 BLDS 2015 quy định “ Chủ sở
hữu phải chịu rủi ro về tài sản thuộc sở hữu của mình, trừ
trường hợp có thỏa thuận khác hoặc Bộ luật này; luật khác
có liên quan. Nên có thể khẳng định bà Dung phải chịu rủi
ro về tài sản theo quy định của BLDS.
Tại thời điểm cháy chợ, ai là chủ sở hữu số xoài? Nêu
cơ sở pháp lý khi trả lời.
 Điều 223 Bộ luật dân sự 2015 quy định Xác lập quyền sở
hữu theo hợp đồng. Người được giao tài sản thông qua hợp
đồng mua bán, tặng cho, trao đổi, cho vay hoặc hợp đồng
chuyển quyền sỡ hữu khác theo quy định của pháp luật thì
có quyền sỡ hữu tài sản đó. Vì thế tại thời điểm cháy thì Bà
Dung là người sở hữu số xoài.
Bà Dung có phải thanh toán tiền mua ghe xoài trên
không? Vì sao? Nêu cơ sở pháp lý khi trả lời.
 Bà dung phải thanh toán tiền mua ghe xoài vì tại thời điểm
cháy chợ bà Dung đã là chủ sở hữu ghe xoài, điều đó đồng
nghĩa giao dịch mua bán của bà Dung và bà Thủy đã hoàn
tất, từ đó bà phải có trách nhiệm thanh toán tiền mua ghe
xoài cho bà Thủy ( khoản 1 điều 149 BLDS 2015 ).

You might also like