You are on page 1of 10

Khái niệm tài sản

- Thế nào là giấy tờ có giá? Nêu cơ sở pháp lý khi trả lời và cho ví dụ minh họa
về giấy tờ có giá.

“Giấy tờ có giá”: theo khoản 1 Điều 1 Nghị định số 11/2012/NĐ-CP thì “Giấy tờ
có giá bao gồm cổ phiếu, trái phiếu, hối phiếu, kỳ phiếu, tín phiếu, chứng chỉ tiền gửi,
séc, chứng chỉ quỹ, giấy tờ có giá khác theo quy định của pháp luật, trị giá được
thành tiền và được phép giao dịch”.

Theo quy định tại Khoản 8 Điều 6 Luật Ngân hàng Nhà nước Việt Nam 2010, giấy
tờ có giá được định nghĩa là “bằng chứng xác nhận nghĩa vụ trả nợ giữa tổ chức phát
hành giấy tờ có giá với người sở hữu giấy tờ có giá trong một thời hạn nhất định, điều
kiện trả lãi và các điều kiện khác.

Ví dụ minh họa về giấy tờ có giá:

 Trái phiếu chính phủ


 Trái phiếu công ty
 Cổ phiếu
 Chứng chỉ tiền gửi Vietcombank.

- Trong thực tiễn xét xử, “giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, giấy chứng nhận
sở hữu nhà” có là giấy tờ có giá không? Quyết định số 06 và Bản án sô 39 có cho
câu trả lời không?

 Trong thực tiễn xét xử, “giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, giấy chứng nhận
nhận sở hữu nhà” không phải là giấy tờ có giá. Quyết định số 06 có câu trả lời
cho vấn đề này. Điều này được thể hiện rõ qua khoản 2 công văn
141/TANDTC-HĐXX: “Theo các quy định trên đây thì các giấy chứng nhận
quyền sở hữu tài sản (Giấy chứng nhân quyền sử dụng nhà ở, Giấy đăng ký xe
mô tô, xe máy; Giấy đăng ký xe ô tô...) không phải là “giấy tờ có giá” quy
định tại Điều 163 của Bộ luật dân sự năm 2005”
 Đoạn minh chứng trong quyết định số 06:
o Theo Điều 105 BLDS năm 2015 quy định về tài sản như sau: “1. Tài
sản là vật, tiền, giấy tờ có giá và quyền tài sản. 2. Tài sản bao gồm động
sản và bất động sản. Bất động sản và động sản có thể là tài sản hiện có
và tài sản hình thành trong tương lai”; Điều 115 BLDS năm 2015:
“Quyền tài sản là quyền trị giá được bằng tiền, bao gồm quyền tài sản
đối với đối tượng quyền sở hữu trí tuệ, quyền sử dụng đất và các quyền
tài sản khác”. Căn cứ khoản 16 Điều 3 Luật Đất Đai năm 2013: “Giấy
chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn
liền với đất là chứng thư pháp lý để Nhà nước xác nhận quyền sử dụng

Page 1
đất, quyền sở hữu nhà ở, tài sản khác gắn liền với đất hợp pháp của
người có quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và quyền sở hữu tài
sản khác gắn liền với đất”. Như vậy, giấy chứng nhận quyền sử dụng
đất chỉ là văn bản chứa đựng thông tin về Quyền sử dụng đất, là văn
bản chứng quyền, không phải là tài sản và không được xem là loại giấy
tờ có giá.

Bản án số 39 không đề cập đến vấn đề này.

- Trong thực tiễn xét xử, “giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, giấy chứng nhận
sở hữu nhà” có là tài sản không? Quyết định số 06 và Bản án số 39 có cho câu trả
lời không? Vì sao?

 Trong thực tiễn xét xử, “giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, giấy chứng nhận
sở hữu nhà” không phải là tài sản.
 Quyết định trên thể hiện điều đó qua dòng kết luận: “Như vậy, giấy chứng nhận
quyền sử dụng đất chỉ là văn bản chứa đựng thông tin về Quyền sử dụng đất, là
văn bản chứng quyền, không phải là tài sản và không được xem là loại giấy tờ
có giá”.
 Sở dĩ “giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, giấy chứng nhận sở hữu nhà”
không là tài sản vì nó không phải vật, tiền, giấy tờ có giá đồng thời cũng không
là quyền tài sản (khi so sánh với quy định tại khoản 1 Điều 105 BLDS) mà nó
chỉ là văn bản chứng quyền của các cơ quan có thẩm quyền ban hành nhằm bảo
vệ quyền về tài sản của chủ thể. Trường hợp nếu chủ thể bị mất giấy chứng
nhận thì có thể yêu cầu cấp lại do không ảnh hưởng gì đến quyền của chủ sở
hữu.
 Tuy nhiên trong Bản án số 39 lại cho rằng “giấy chứng nhận sở hữu nhà” là tài
sản. Điều này dựa trên quy định tại Điều 163 BLDS 2005: “Tài sản bao gồm
vật, tiền, giấy tờ có giá và các quyền tài sản.

- Suy nghĩ của anh/chị về hướng giải quyết trong Quyết định số 06 liên quan đến
“giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, giấy chứng nhận sở hữu nhà” nhìn từ khái
niệm tài sản (và nếu có điều kiện, đối chiếu thêm với pháp luật nước ngoài).

Hướng giải quyết của thực tiễn xét xử liên quan đến “giấy chứng nhận quyền sử
dụng đất. giấy chứng nhận sở hữu nhà” chưa thỏa đáng nếu nhìn từ khái niệm tài sản
do:

Thứ nhất, giấy chứng nhận quyền sử dụng đất tồn tại dưới một hình thức vật chất
nhất định, thâm chí có hình dạng cụ thể, nằm trong khả năng chiếm hữu của con người
(có thể thực hiện việc nắm giữ, chiếm giữ, quản lý đối với giấy chứng nhận quyền sử
dụng đất), có giá trị sử dụng ( dùng để minh chứng quyền sử dụng đất hợp pháp của
người sử dụng đất). Việc giấy chứng nhận quyền sử dụng đất không thể tham gia vào
Page 2
giao dịch trao đổi mua bán không làm mất đi bản chất tài sản của nó. Thực tế có
những loại tài sản mà Nhà nước cấm lưu thông, chẳng hạn vũ khí quân dụng, trang
thiết bị, kỹ thuật...

Thứ hai, việc coi giấy chứng nhận quyền sử dụng đất không phải là tài sản dẫn tới
nhiều hệ quả không giải thích được về mặt lý luận và thực tế, đồng thời nhận thức này
làm ảnh hưởng trực tiếp đến quyền lợi của người sử dụng đất. Cụ thể, theo quy định
hiên hành của pháp luật Việt Nam, quyền sở hữu và từng nội dung riêng lẻ của quyền
sở hữu là quyền chiếm hữu, quyền sử dụng và quyền định đoạt chỉ có thể thực hiện
trên các đối tượng là tài sản. Việc coi giấy chứng nhận quyền sử dụng đất không phải
là tài sản đã tước bỏ quyền chiếm hữu và sử dụng hợp pháp của người sử dụng đất đối
với loại giấy tờ này.1

- Nếu áp dụng BLDS 2015, giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, giấy chứng nhận
sở hữu nhà có là tài sản không? Vì sao?

Nếu áp dụng BLDS 2015, giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, giấy chứng nhận
sở hữu nhà không phải là tài sản. Vì nó không là vật, tiền, giấy tờ có giá đồng thời
cũng không phải là quyền tài sản mà nó chỉ là tờ công chứng của các cơ quan có thẩm
quyền nhằm bảo vệ quyền lợi về tài sản của chủ thể. Trường hợp nếu chủ thể bị mất
giấy chứng nhận thì có thể yêu cầu cấp lại. Nó không làm ảnh hưởng gì đến quyền lọi
của chủ sở hữu.

- Suy nghĩ của anh/chị về hướng giải quyết trong Bản án số 39 liên quan đến
“giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, giấy chứng nhận sở hữu nhà”.

- Bitcoin là gì?

Bitcoin là một loại tiền kỹ thuật số (tiền mã hóa) hoạt động dựa trên các thuật toán
cao cấp, được phân cấp dựa trên mã nguồn mở phát hành bởi Satoshi Nakamoto vào
năm 2009. Thực chất, Bitcoin chỉ là một dãy các chữ số và chữ cái. Mọi giao dịch
bằng Bitcoin đều được thực hiện qua Internet mà không phải qua bên trung gian nào.
Loại tiền này sẽ được sử dụng theo luật riêng của nó và không bị kiểm soát bởi bất kì
ngân hàng trung gian nào.

Để thực hiện các giao dịch bằng Bitcoin thì đầu tiên người dùng phải có một ví
Bitcoin, mỗi ví này là một địa chỉ riêng gồm chuỗi chữ và số, sau đó người dùng có
thể mua Bitcoin bằng thẻ tín dụng, tiền mặt, hoặc chuyển khoản, bỏ vào ví và bắt đầu
thực hiện giao dịch. Cứ 10 phút, mọi giao dịch được ghi vào blockchain (như một
cuốn sổ cái) và lúc đó giao dịch sẽ được xác nhận. Thêm nữa, không thể gian lận

1
Đỗ Thành Công, Vai trò của Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất và vấn đề kiện đòi giấy chứng nhận quyền
sử dụng đất, in Đỗ Văn Đại (chủ biên)

Page 3
Bitcoin vì blockchain là một kho dữ liệu công khai nên bất kì ai cũng có thể theo dõi
và thực hiện giao dịch.2

- Theo Tòa án, Bitcoin có là tài sản theo pháp luật Việt Nam không?

Theo Tòa án, Bitcoin không được coi là tài sản theo pháp luật Việt Nam. Căn cứ
Điều 163 BLDS 2005 quy định “Tài sản bao gồm vật, tiền, giấy tờ có giá và các
quyền tài sản” và theo Điều 3 Luật Thương mại 2005 quy định: “Hàng hóa bao gồm
tất cả các loại động sản, kể cả động sản hình thành trong tương lai; những vật gắn liền
với đất đai.” Trong khi đó Ngân hàng Nhà nước Việt Nam không chấp nhận tiền ảo là
tiền tệ, phương tiện thanh toán hợp pháp, đồng thời Nghị định số 96/2014/NĐ-CP
ngày 17/10/2014 của Chính Phủ quy định chế tài xử phạt vi phạm hành chính đối với
hành vi phát hành, cung cấp và sử dụng phương tiện thanh toán không hợp pháp như
Bitcoin và các loại tiền ảo tương tự.

- Pháp luật nước ngoài có coi Bitcoin là tài sản không? Nếu có, nêu hệ thống
pháp lý mà anh/chị biết.

- Suy nghĩ của anh/chị về quan điểm của Tòa án đối với Bitcoin trong mối quan
hệ với khái niệm tài sản ở Việt Nam.

Quan điểm của Tòa án đối với Bitcoin trong mối quan hệ với khái niệm tài sản ở
Việt Nam là hoàn toàn hợp lý.

Vì theo Điều 163 BLDS 2005 quy định: “Tài sản bao gồm vật, tiền, giấy tờ có giá
và các quyền tài sản.” Vật trong luật dân sự phải thỏa mãn những điều kiện sau: là bộ
phận của thế giới vật chất, con người chiếm hữu được, mang lại lợi ích cho chủ thể, có
thể đang tồn tại hoặc sẽ hình thành trong tương lai; một tài sản được coi là tiền hiện
nay khi nó có giá trị lưu hành thực tế; giấy tờ có giá được hiểu là giấy tờ trị giá được
bằng tiền và chuyển giao trong giao lưu dân sự, kể cả quyền sở hữu trí tuệ. 3 Như vậy,
Bitcoin không thuộc loại tài sản nào được liệt kê trong BLDS 2005. Ngoài ra, Ngân
hàng Nhà nước Việt Nam cũng không chấp nhận tiền ảo là tiền tệ, phương tiện thanh
toán hợp pháp.

- Quyền tài sản là gì?

Tại Điều 115 Bộ luật Dân sự năm 2015 có quy định: Quyền tài sản là quyền trị giá
tính bằng tiền, gồm có quyền tài sản đối với đối tượng quyền sử dụng đất, quyền sở
hữu trí tuệ và các quyền tài sản khác. Theo đó:

 Quyền tài sản là quyền trị giá được tính bằng tiền, không đòi hỏi có sự chuyển
giao trong giao dịch dân sự. Đối với quyền tài sản là đối tượng phải đáp ứng

2
Theo taichinh.online, Bitcoin là gì và giá trị đích thực của nó.
3
Nguyễn Minh Oanh, Các loại tài sản trong Luật dân sự Việt Nam, Tạp chí Luật học số 1/2009, tr.14 và tr.15

Page 4
được hai yêu cầu là trị giá được tính bằng tiền và được chuyển giao cho người
khác trong giao dịch dân sự. Quyền tài sản gồm có: quyền sử dụng tài sản thuê,
quyền thực hiện hợp đồng, quyền đòi nợ, quyền trị giá bằng tiền, quyền sở hữu
trí tuệ. Các quyền tài sản khác gắn với nhân thân thì không thể chuyển giao
như: quyền cấp dưỡng, quyền thừa kế, quyền yêu cầu bồi thường thiệt hại về
sức khỏe.
 Quyền tài sản gồm có quyền sử dụng đất, quyền tài sản đối với quyền sở hữu
trí tuệ và các quyền tài sản khác. Quyền tài sản có thể được chia thành hai loại:
quyền đối nhân và quyền đối vật. Quyền đối vật là quyền chủ thể được tác
động trực tiếp vào vật nhằm thỏa mãn nhu cầu của mình như quyền cầm cố,
quyền sở hữu, quyền hưởng hoa lợi, quyền thế chấp, … Quyền đối nhân là
quyền chủ thể này đối với chủ thể khác. Quyền đối nhân được đáp ứng nếu bên
có nghĩa vụ thực hiện đúng và đủ nghĩa vụ theo yêu cầu của bên có quyền.

- Có quy định nào cho phép khẳng định quyền thuê, quyền mua tài sản là quyền
tài sản không?

Có, theo Điều 450 BLDS 2015 có quy định: “1. Trường hợp mua bán quyền tài
sản thì bên bán phải chuyển giấy tờ và làm thủ tục chuyển quyền sở hữu cho bên mua,
bên mua phải trả tiền cho bên bán. 2. Trường hợp quyền tài sản là quyền đòi nợ và bên
bán cam kết bảo đảm khả năng thanh toán của người mắc nợ thì bên bán phải liên đới
chịu trách nhiệm thanh toán, nếu khi đến hạn mà người mắc nợ không trả. 3. Thời
điểm chuyển quyền sở hữu đối với quyền tài sản là thời điểm bên mua nhận được giấy
tờ về quyền sở hữu đối với quyền tài sản đó hoặc từ thời điểm đăng ký việc chuyển
quyền sở hữu, nếu pháp luật có quy định.”

- Đoạn nào của Quyết định số 05 cho thấy Tòa án nhân dân tối cao theo hướng
quyền thuê, quyền mua tài sản?

“Theo quy định tại Điều 188 và Điều 634 Bộ luật Dân sự 1995, quyền thuê, mua
hóa giá nhà của cụ T là quyền tài sản (trị giá được bằng tiền) và được chuyển giao cho
các thừa kế của cụ T. Do đó, bà H và ông T1 được hưởng thừa kế quyền thuê, mua
hóa giá nhà của cụ T”

- Suy nghĩ của anh/chị về hướng giải quyết của Tòa án nhân dân tối cao trong Quyết
định số 05 về quyền thuê, quyền mua (trong mối quan hệ với khái niệm tài sản)?

Căn cứ xác lập quyền sở hữu

- Đoạn nào của Quyết định trên cho thấy Toàn án khẳng định gia đình chị Vân
đã chiếm hữu nhà đất có tranh chấp trên 30 năm và cho biết suy nghĩ của
anh/chị về khẳng định này của Toàn án?

Page 5
Trong Quyết định của Tòa án có đoạn cho rằng: “Năm 1968, vợ chồng ông Chính,
bà Châu đi công tác tại tỉnh Thái Nguyên nên cho Nhữ Duy Hải thuê nhà; tuy nhiên,
theo lời khai của chị Nhữ Thị Vân (bị đơn) thì chị có nghe ông nội (ông Hải) nói là
thuê nhà của cụ Hải từ năm 1954”

Xét thấy, tuy chưa rõ thực tế gia đình chị Vâm đã chiếm hữu căn nhà từ năm
1968 (35 năm tính đến thời điểm đơn khởi kiện đầu tiên năm 2004) hay năm 1954 (60
năm tính đến thời điểm đơn khởi kiện đầu tiên năm 2004) nhưng suy cho cùng thì dù
lấy mốc thời gian nào cũng đã quá 30 năm. Vì vậy, khẳng định này của Tòa án là hoàn
toàn hợp lý.

- Đoạn nào của Quyết định trên cho thấy Tòa án khẳng định gia đình chị Vân đã
chiếm hữu ngay tình nhà đất có tranh chấp trên 30 năm và cho biết suy nghĩ của
anh/chị về khẳng định này của Tòa án?

Trong Quyết định của Tòa án có đoạn cho rằng: “chị Vân có lời khai thừa nhận
gia đình chị thuê nhà của cụ Hảo và nộp tiền thuê cho ông Chính (con cụ Hảo), nhưng
cụ Hảo vào miền Nam sinh sống từ năm 1954, ông Chính cũng cũng không xuất trình
được tài liệu cụ Hảo ủy quyền cho ông Chính quản lý căn nhà.”

Quyết định này của Tòa án là hợp lý nếu dựa trên quy định của pháp luật hiện hành
vào thời điểm đó vì:

 Xét thấy, Điều 189 BLDS 2005 có quy định về việc chiếm hữu không có căn
cứ pháp luật nhưng ngay tình cho trường hợp:
 Việc chiếm hữu tài sản không phù hợp với quy định tại Điều 183 của Bộ
luật này là chiếm hữu không có căn cứ pháp luật.
 Người chiếm hữu tài sản không có căn cứ pháp luật nhưng ngay tình là
người chiếm hữu mà không biết và không thể biết việc chiếm hữu tài
sản đó là không có căn cứ pháp luật.
 Việc gia đình chị Vân thuê căn nhà từ gia đình cụ Hảo thực chất là chuyển giao
quyền chiếm hữu thông qua giao dịch dân sự nên để được xem là chiếm hữu có
căn cứ pháp luật thì phải phù hợp với khoản 3 Điều 183 BLDS 2005: “Người
được chuyển giao quyền chiếm hữu thông qua giao dịch dân sự phù hợp với
quy định của pháp luật”.
 Hợp đồng cho thuê nhà ở theo Điều 492 BLDS 2005 phải được lập thành văn
bản, nếu thời hạn thuê từ sáu tháng trở lên thì phải có công chứng hoặc chứng
thực và phải đăng ký, trừ trường hợp pháp luật có quy định khác.

Việc không có căn cứ nào cho biết chính xác thời điểm ông Hải cho thuê căn nhà
số 2 Hàng Bút cho thấy tại thời điểm thuê không có văn bản nào được xác lập giữa 2
bên. Nói cách khác, hợp đồng cho thuê căn nhà số 2 Hàng Bút là không phù hợp với
quy định của pháp luật.
Page 6
Vì vậy, việc chiếm hữu căn nhà sô 2 Hàng Bút của gia đình chị Vân là không có
căn cứ pháp luật. Hơn nữa, chị Vân hoàn toàn có thể biết được việc chiếm hữu này
không có căn cứ pháp luật.

 Tuy nhiên, suy cho cùng thì Quyết định này không hợp tình vì:
 Xét về thời điểm, hợp đồng cho thuê nhà giữa ông Hải và ông Chính
được xác lập vào giao đoạn trước năm 1975, tức trước khi nước ta cho
ra đời BLDS đầu tiên vào năm 1995 và Pháp lệnh về Hợp đồng Dân sự
năm 1991.
 Hơn nữa, gia đình chị Vân vẫn đóng tiền thuê nhà đầy đủ cho tới khi
thời điểm ông Hải mất (năm 1995).

Xét thấy, việc yêu cầu hợp đồng cho thuê căn nhà số 2 Hàng Bút được lập thành
văn bản và có công chứng theo quy định của pháp luật hơn 30 năm sau là không sát
với thực tiễn. Hơn nữa, chị Vân nhận thức được rằng tồn tại một hợp đồng cho thuê
nhà giữa gia đình chị và ông Chính qua việc thừa nhận việc thực hiện nghĩa vụ trả tiền
nhà trong suốt thời gian ông Hải còn sống.

Vì vậy, Quyết định của Tòa án về việc gia đình chị Vân chiếm hữu ngay tình căn
nhà số 2 Hàng Bút chỉ phù hợp với pháp luật hiện hành chứ chưa hợp tình hợp lý.

- Đoạn nào của Quyết định trên cho thấy Tòa án khẳng định gia đình chị Vân đã
chiếm hữu liên tục nhà đất có tranh chấp trên 30 năm và cho biết suy nghĩ của
anh/chị về khẳng định này của Tòa án?

 Trích án:
 “Trong khi đó gia đình chị Vân ở tại nhà số 2 Hàng Bút từ năm 1954,
lúc đầu là ông nội chị Vân, sau này là bố chị vân và chị Vân vẫn tiếp tục
sống.”
 Mặc dù phía nguyên đơn khai có đòi đối với gia đình chị Vân từ sau
năm 1975 nhưng không có tài liệu chứng minh (chỉ có biên bản hòa giải
tại Ủy ban nhân dân phường Hàng Bồ năm 2001), nghĩa là căn nhà vẫn
không có tranh chấp trên thực tế.

Căn cứ pháp lý: Điều 190 BLDS 2005: “Việc chiếm hữu tài sản được thực hiện
trong một khoảng thời gian mà không có tranh chấp về tài sản đó là chiếm hữu liên
tục, kể cả khi tài sản được giao cho người khác chiếm hữu.”:

 Theo Tòa án, thời gian trễ nhất gia đình chị Vân có thể bắt đầu ở là vào năm
1968, từ mốc thời gian đó đến thời điểm khởi kiện năm 2004 đã là 36 năm liên
tục, thì trong thời gian 36 năm trên phía nguyên đơn đã có đòi nhà, cụ thể là từ
sau năm 1975, nhưng không có tài liệu pháp lý phù hợp để chứng thực điều
này, từ đó thiếu cơ sở để xác minh căn nhà có tranh chấp giữa 2 bên.

Page 7
 Các tình tiết vụ án đã cho thấy gia đình chị Vân chiếm hữu ngôi nhà trong một
khoảng thời gian dài mà không có tranh chấp.

Từ đây có thể thấy Tòa án khẳng định gia đình chị Vân đã chiếm hữu liên tục nhà
đất trên 30 năm là hợp lý.

- Đoạn nào của Quyết định tren cho thấy Tòa án khẳng định gia đình chị Vân đã
chiếm hữu công khai nhà đất có tranh chấp trên 30 năm và cho biết suy nghĩ của
anh/chị về khẳng định này của Tòa án?

 Trích án:
 “Trong khi đó chị Vân khai gia đình chị Vân ở tại nhà số 2 Hàng Bút từ
năm 1945, lúc đầu là ông nội chị Vân ở, sau này bố chị Vân và chị Vân
tiếp tục ở.”
 “Sau khi ông nội chết (năm 1995) thì gia đình chị không đóng tiền thuê
nhà cho ông Chính nữa. Sau đó bố chị (ông Nhữ Duy Lân) và chị tiếp
tục quản lý. Năm 1997, bố chị chết thì chị tiếp tục ở tại nhà số 2 Hàng
Bút (tầng 1), chị không trả tiền thuê nhà cho ai, quá trình ở thì bố chị có
nâng cao nền nhà, thay cửa, còn chị không sửa chữa gì thêm.”
 Căn cứ pháp lý: Điều 191 BLDS năm 2005: “Việc chiếm hữu tài sản được coi
là chiếm hữu công khai khi thực hiện một cách minh bạch, không giấu giếm;
tài sản đang chiếm hữu được sử dụng theo tính năng, công dụng và được người
khác chiếm hữu bảo quản, giữ gìn như tài sản của mình.”
 Gia đình chị Vân đã sử dụng ngôi nhà tranh chấp với mục đích chủ đạo
là làm nơi sinh sống và sinh hoạt. Đồng thời đã có sửa chữa, nâng cấp
ngôi nhà trong quá trình sinh sống ở đó. Ngôi nhà số 2 Hàng Bút đã
được sử dụng theo đúng tính năng công dụng và được người chiếm hữu
(gia đình chị Vân) bảo quản giữ gìn như tài sản của mình.

Từ đây có thể thấy Tòa án khẳng định gia đình chị Vân đã chiếm hữu công khai
nhà đất là hoàn toàn có căn cứ.

- Đoạn nào của Quyết định trên cho thấy Tòa án khẳng định cụ Hảo không còn là
chủ sở hữu nhà đất có tranh chấp và cho biết suy nghĩ của anh/chị về khẳng định
này của Tòa án?

Tòa án khẳng định cụ Hảo không còn là chủ sở hữu nhà đất có tranh chấp trên tại
đoạn: “Mặc dù phía nguyên đơn khai có đòi nhà đối với gia đình chị Vân từ sau năm
1975 nhưng không có tài liệu chứng minh (chỉ có biên bản hòa giải tại Ủy ban nhân
dân phường Hàng Bồ năm 2001), đến năm 2004 cụ Hảo mới có đơn kiện ra Tòa án
yêu cầu chị Vân trả nhà là không có căn cứ vì thực tế cụ Hảo không còn là chủ sở hữu
nhà đất nêu trên”.

Page 8
 Việc Tòa án khẳng định cụ Hảo không còn là chủ sở hữu nhà đất có tranh chấp
dựa vào lời khai của nguyên đơn và bị đơn là chưa chính xác:
 Thứ nhất, nhà số 2 Hàng Bút, quận Hoàn Kiếm, Hà Nội có bằng khoán
điền thổ số 25, tập 2, tờ số 55, đăng ký trước bạ tại Hà Nội ngày
4/11/1946. Nghĩa là bà Hảo đã xác lập quyền sở hữu đối với căn nhà từ
năm 1946. Dù cụ Hảo có vào Nam sinh sống nhưng chưa từ bỏ quyền sở
hữu đối với căn nhà đó, không có chứng minh nào cho thấy cụ không
còn là chủ sở hữu căn nhà.
 Thứ hai, năm 2004, cụ Hảo có di chúc giao quyền bất động sản số 2
Hàng Bút cho bà Nguyễn Thị Châu toàn quyền sở hữu (di chúc có xác
nhận của Ủy ban nhân dân xã Kim Chung). Di chúc có xác nhận của
UBND xã là di chúc hợp pháp theo quy định của Điều 655 BLDS 1995.
Tại điểm b khoản 1 Điều 655 có quy định nội dung di chúc không trái
pháp luật hình thức di chúc không quy định của pháp luật. Tại thời điểm
2004, khi cụ Hảo lập di chúc tại UBND xã chắc chắn có yêu cầu chứng
minh việc cụ Hảo có quyền đối với di sản căn nhà số 2 Hàng Bút thông
qua bằng khoán điền thổ, giấy đăng ký trước bạ...
 Thứ ba,việc chị Vân bán căn nhà số 2 Hàng Bút cho vợ chồng anh Sơn
chị Lan là không phù hợp với quy định của pháp luật hiện hành tại thời
điểm này. Cụ thể, Điều 443 BLDS 1995 có quy định: “Hợp đồng mua
bán nhà ở phải được lập thành văn bản, có chứng nhận của Công chứng
nhà nước hoặc chứng thực của Ủy ban nhân dân cấp có thẩm quyền”.
Giấy mua bán giữa chị Vân và vợ chồng anh Sơn, chị Lan không hề có
xác nhận của cơ quan có thẩm quyền nên không có giá trị về mặt pháp
lý.

- Theo anh/chị, gia đình chị Vân có được xác lập quyền sở hữu đối với nhà đất có
tranh chấp trên cơ sở quy định về thời hiệu hưởng quyền không? Vì sao?

Gia đình chị Vân không được quyền xác lập sở hữu đối với nhà đất có tranh chấp
trên cơ sở quy định về thời hiệu hưởng quyền. Bởi lẽ dù khoản 1 Điều 247 BLDS
2005 đã quy định “Người chiếm hữu... không có căn cứ pháp luật nhưng ngay tình,
liên tục, công khai trong thời gian hơn ... 30 năm đối với bất động sản thì trở thành
chủ sở hữu tài sản đó”. Trước tiên là do chị Vân không phải là người chiếm hữu
không có căn cứ pháp lý nhưng ngay tình (như đã chứng minh ở trên). Và dù cho chị
có là người như thế thì không thể trở thành chủ sở hữu của tài sản. Vì theo quy định
tại khoản 3 Điều 186: “Người được giao tài sản không thể trở thành chủ sở hữu đối
với tài sản được giao theo căn cứ về thời hiệu quy định tại khoản 1 Điều 247 của Bộ
luật này. Trong trường hợp này, gia đình chị Vân đã được giao tài sản thông qua giao
dịch dân sự (cho thuê nhà) nên chiếu theo đó, gia đình chị Vân không thể xác lập được
quyền sở hữu với tài sản đang tranh chấp.

Page 9
Chuyển rủi ro đối với tài sản

- Ai phải chịu rủi ro đối với tài sản theo quy định của BLDS? Nêu cơ sở pháp lý
khi trả lời.

Bà Dung đã nhận được ghe xoài trước thời điểm chợ cháy nên bà Dung là người
phải chịu rủi ro.Theo khoản 1 Điều 441 BLDS 2015

- Tại thời điểm cháy chợ, ai là người chủ sở hữu số xoài? Nêu cơ sở pháp lý khi
trả lời.

Tại thời điểm cháy chợ, bà Dung là chủ sở hữu số xoài. Vì sau khi bà Dung nhận
được ghe xoài thì chợ mới cháy. Theo Điều 223 BLDS 2015.

- Bà Dung có phải thanh toán tiền mua ghe xoài trên không? Vì sao? Nêu cơ sở
pháp lý khi trả lời.

Bà Dung phải thanh toán tiền mua ghe xoài. Vì Bà Dung nhận ghe xoài trước khi
chợ cháy nên phải có nghĩa vụ trả tiền cho bà Thủy. Theo khoản 1 Điều 441 BLDS
2015.

Page 10

You might also like