You are on page 1of 10

BUỔI THẢO LUẬN THỨ BA: QUYỀN SỞ HỮU.

I. Phần thứ nhất: Khái niệm tài sản :

Câu 1: Thế nào là giấy tờ có giá? Nêu cơ sở pháp lý khi trả lời.

- Theo Điều 4, Quy chế phát hành giấy tờ có giá trong nước của tổ chức tín dụng
ban hành kèm theo Quyết định số 07/2008/QĐ-NHNN ngày 24/3/2008 (được sửa
đổi bởi Thông tư 16/2009/TT-NHNN ngày 11/8/2009) của Thống đốc Ngân hàng
nhà nước “Giấy tờ có giá là chứng nhận của tổ chức tín dụng phát hành để huy
động vốn, trong đó xác nhận có nghĩa vụ trả nợ một khoản tiền trong một thời hạn
nhất định, điều kiện trả lãi và các điều khoản cam kết khác giữa tổ chức tín dụng
và người mua”.

- Giấy tờ có giá được hiểu là giấy tờ trị giá được bằng tiền hoặc chuyển giao được
trong giao lưu dân sự. Giấy tờ có giá tồn tại dưới nhiều dạng khác nhau như cổ
phiếu, trái phiếu, tín phiếu, kỳ phiếu,…

- Theo Điểm 8, Điều 6 Luật Ngân hàng Nhà nước Việt Nam năm 2010, giấy tờ có
giá là “bằng chứng xác nhận nghĩa vụ trả nợ giữa tổ chức phát hành giấy tờ có giá
với người sở hữu giấy tờ có giá trong một thời hạn nhất định, điều kiện trả lãi và
các điều kiện khác”.

- Căn cứ vào các quy định của pháp luật hiện hành thì giấy tờ có giá bao gồm:

+ Hối phiếu đòi nợ, hối phiếu nhận nợ, séc, công cụ chuyển nhượng khác được
quy định tại Điều 1 Luật Các công cụ chuyển nhượng năm 2005;

+ Trái phiếu Chính phủ, trái phiếu công ty, kỳ phiếu, cổ phiếu được quy định tại
Điểm c, Khoản 1, Điều 4 Pháp lệnh ngoại hối năm 2005;

+ Tín phiếu, hối phiếu, trái phiếu, công trái và các công cụ khác làm phát sinh
nghĩa vụ trả nợ được quy định tại Khoản 16, Điều 3 Luật Quản lý nợ công 2009;

+ Các loại chứng khoán (Cổ phiếu, trái phiếu, chứng chỉ quỹ; Quyền mua cổ phần,
chứng quyền, quyền chọn mua, quyền chọn bán, hợp đồng tương lai, nhóm chứng
khoán hoặc chỉ số chứng khoán; Hợp đồng góp vốn đầu tư; Các loại chứng khoán
khác do Bộ Tài chính quy định) được quy định tại Khoản 3, Điều 1 Luật Sửa đổi,
bổ sung một số điều của Luật Chứng khoán năm 2010
+ Trái phiếu doanh nghiệp được quy định tại Khoản 1, Điều 2, Nghị định số
90/2011/NĐ-CP của Chính phủ về phát hành trái phiếu doanh nghiệp.

Câu 2: Trong thực tiễn xét xử, “giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, giấy chứng
nhận sở hữu nhà” có là được coi là giấy tờ có giá không? Quyết định số 06 và Bản
án số 39 có cho câu trả lời không?

- Trong thực tiên xét xử, “giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, giấy chứng nhận sở
hữu nhà” không là giấy tờ có giá.

- Một đoạn của Quyết định 16 đã nêu: “Hơn nữa, pháp luật cũng không xác định
Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, Giấy chứng nhận quyền sở hữu nhà ở là giấy
tờ có giá nên theo quy định tại Điều 163, Bộ luật Dân sự thì các loại giấy tờ trên
không phải là tài sản và không được phép giao dịch, trao đổi.”

- Một đoạn của Bản án số 11 đã nêu: “Xét thấy, giấy chứng nhận quyền sử dụng
đất không phải giấy tờ có giá theo quy định tại Điều 163 BLDS 2005 và Điều 6
Luật Ngân hàng nhà nước năm 2010 và công văn số 141 TANDTC-KHXX ngày
21/9/2011 của Toà án nhân dân tối cao”.

Câu 3: Trong thực tiễn xét xử, “giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, giấy chứng
nhận sở hữu nhà” có là tài sản không? Quyết định số 06 và Bản án số 39 có cho
câu trả lời không?

- Trong thực tiên xét xử, “giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, giấy chứng nhận sở
hữu nhà” không là tài sản. - Một đoạn của Quyết định 16 đã nêu: “Hơn nữa, pháp
luật cũng không xác định Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, Giấy chứng nhận
quyền sở hữu nhà ở là giấy tờ có giá nên theo quy định tại Điều 163, Bộ luật Dân
sự thì các loại giấy tờ trên không phải là tài sản và không được phép giao dịch, trao
đổi.”

- Một đoạn của Bản án số 11 đã nêu: “Xét thấy, giấy chứng nhận quyền sử dụng
đất không phải giấy tờ có giá theo quy định tại Điều 163 BLDS 2005 và Điều 6
Luật Ngân hàng nhà nước năm 2010 và công văn số 141 TANDTC-KHXX ngày
21/9/2011 của Toà án nhân dân tối cao”. Vì giấy chứng nhận quyền sử dụng đất
không phải là giấy tờ có giá, cho nên theo Điều 163 BLDS 2005 thì cũng không
phải là tài sản.
Câu 4: Suy nghĩ của anh/chị về hướng giải quyết trong Quyết định liên quan đến
“giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, giấy chứng nhận sở hữu nhà” nhìn từ khái
niệm tài sản (về nếu có điều kiện, đối chiếu thêm với pháp luật nước ngoài).

- Tòa án đã căn cứ vào các quy định của pháp luật hiện hành để khẳng định giấy
chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền chứng nhận sở hữu nhà không phải là giấy
tờ có giá. Do đó, nó không trở thành tài sản.

- Xét ở góc độ lí luận thì suy nghĩ của bản thân đồng tình với phán quyết của Tòa.
Vì thực chất giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, giấy chứng nhận sở hữu nhà chỉ
là một văn bản chứng quyền cho nên không thể coi nó là tài sản và cũng không thể
xem nó là loại giấy tờ có giá trong thanh toán, trao đổi. Trong thực tiễn đời sống,
khi chúng ta mất giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, giấy chứng nhận sở hữu nhà
thì phải làm đơn trình báo và làm các thủ tục liên quan để cơ quan quản lý nhà
nước có thẩm quyền tiến hành làm thủ tục cấp lại. Nếu xem giấy chứng nhận
quyền sử dụng đất là tài sản thì khi tài sản này bị mất và chỉ với các thủ tục trình
báo xin cấp lại thông thường như trên mà được cơ quan có thẩm quyền cấp lại tài
sản đã mất là hoàn toàn vô lý. Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, giấy chứng
nhận sở hữu nhà do không phải là tài sản, vì thế khi tờ giấy này bị mất trộm thì
không được coi là bị mất tài sản nên cơ quan Điều tra không khởi tố vụ án với tội
danh trộm cắp tài sản quy định tại Điều 138 Bộ luật Hình sự năm 1999.

- Tuy nhiên, xét ở góc độ thực tiễn thì giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, giấy
chứng nhận sở hữu nhà ở là một trong những vật rất phổ biến dùng để thế chấp vay
tiền ngân hàng. Việc thế chấp giấy này ở ngân hàng để vay tiền được xem là một
loại giao dịch dân sự hợp pháp, đối tượng của giao dịch này là thế chấp quyền sử
dụng đất hoặc quyền sở hữu nhà ở.

- Theo ISO (Insurance Services Office) thì “giấy tờ có giá bao gồm văn bản viết,
bản in, hoặc các tài liệu ghi chép và các hồ sơ, bao gồm sách, bản đồ, phim ảnh,
hình vẽ, tóm tắt, thành tích, văn tự thế chấp, và bản thảo”.2 Từ đó, ta thấy giấy tờ
có giá theo sự liệt kê trên rộng hơn, nhiều hơn và hầu như bao gồm tất cả các loại
giấy tờ có giá đối với chủ thể thực hiện giao dịch. Như vậy, để đánh giá đúng khả
năng cho phép dùng giấy tờ có giá để đảm bảo thực hiện giao dịch dân sự không
chỉ căn cứ vào góc độ pháp lí mà còn có thể căn cứ vào thực tiễn đời sống với từng
trường hợp cụ thể nhằm đưa ra những phán quyết đúng đắn trong xét xử phù hợp
với bản chất từng vụ việc.

Câu 5: Nếu áp dụng BLDS 2015, giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, giấy chứng
nhận sở hữu nhà có là tài sản không? Vì sao?

- Nếu áp dụng BLDS 2015, giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, giấy chứng nhận
sở hữu nhà không được coi là giấy tờ có giá, do vậy không là tài sản.

- Vì theo Điều 105, BLDS 2015 quy định về tài sản thì:

“1. Tài sản là vật, tiền, giấy tờ có giá và quyền tài sản.

2. Tài sản bao gồm bất động sản và động sản. Bất động sản và động sản có thể là
tài sản hiện có và tài sản hình thành trong tương lai”. Và theo các Luật và Văn bản
khác thì giấy chứng nhận quyền sử dụng đất và giấy chứng nhận sở hữu nhà ở
không nằm trong danh mục liệt kê các loại giấy tờ được coi là giấy tờ có giá. Như
vậy, giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, giấy chứng nhận sở hữu nhà không được
coi là giấy tờ có giá, do vậy không là tài sản.

Câu 6: Suy nghĩ anh/chị về hướng giải quyết trong Bản án số 39 liên quan đến
“giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, giấy chứng nhận sở hữu nhà”

-Theo tôi, hướng giải quyết trong Bản án số 39 liên quan đến “giấy chứng nhận
quyền sử dụng đất, giấy chứng nhận sở hữu nhà” rất hợp lý và rõ ràng.

-Vì “giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, giấy chứng nhân sở hữu nhà “ không phụ
thuộc quyền tài sản mà chỉ là giấy chứng nhận cho quyền tài sản và không phụ
thuộc vào giấy tờ có giá

Câu 7: Bitcoin là gì?

-Bitcoin( ký hiệu BTC, XBT,   ) là một loại tiền mã hóa, được phát minh bởi
Satoshi Nakamoto dưới dạng phần mềm mã nguồn mở từ năm 2009. Bitcoin có thể
được trao đổi trực tiếp bằng thiết bị kết nối Internet mà không cần thông qua một
tổ chức tài chính trung gian nào. Do đó không cần có lệ phí giao dịch cũng không
cần phải cung cấp tên thật.
-Bitcoin không thể in như tiền mặt – chúng được tạo ra bởi một hệ thống máy tính
trên toàn cầu. Quy mô mạng lưới này ngày càng mở rộng với sức mạnh từ những
siêu máy tính tham gia.

Câu 8: Theo tòa án. Bitcoin có là tài sản theo pháp luật Vệt Nam không?

-Theo Tòa án, Bitcoin không là tài sản theo pháp luật Việt Nam

Câu 9: Pháp luật nước ngoài có coi Bitcoin là tài sản không? Nếu có, nêu hệ thống
pháp luật mà anh/chị biết?

Câu 10: Suy nghĩ của anh/chị về quan điểm của Tòa án đối với Bitcoin trong mối
quan hệ với khái niệm tài sản ở Việt Nam.

-Theo tôi, quan điểm của Tòa án đối với Bitcoin trong mối quan hệ với khái niệm
tài sản ở Việt Nam là hợp lý.

-Vì hiện tại chưa có bất kì quy đinh pháp lý nào quản lý việc giao dịch Bitcoin từ
Chính phủ Việt Nam. Tháng 2/2014, Ngân hàng Nhà nước Việt Nam ra thông cáo
báo chí, trong đó ghi rằng việc sử dụng Bitcoin làm phương tiện thanh toán không
được pháp luật thừa nhận và bảo vệ. Khi không công nhận Bitcoin là tiện tệ hay
phương tiện thanh toán, Ngân hàng Nhà nước Việt Nam đã phủ nhận thẩm quyền
của mình đối với Bitcoin. Ngoài ra, Bộ công thương hiện tại vẫn chưa công nhận
Bitcoin là hàng hóa hay dịch vụ, phủ nhận thẩm quyền của mình đối với Bitcoin.
Việc này cũng bãi bỏ cơ sở để thu thuế Bitcoin vì không thể đưa Bitcoin vào danh
mục hàng hóa hay dịch vụ để thu thuế. Ngày 21/8/2017, Thủ tướng Chính phủ đã
kí phê duyệt hoàn thiện đề án khung pháp lý để quản lý các loại tài sản ảo, tiền
điện tử, tiền ảo, trong đó có Bitcoin. Đây là tín hiệu trực tiếp từ phía Chính phủ
rằng các giao dịch Bitcoin sẽ được hợp pháp hóa vào tháng 8/2018 với khả năng
phân loại Bitcoin vào danh mục tiền ảo.

-Như vậy, việc sở hữu, giao dịch, đào tạo Bitcoin tại Việt Nam không phải là vi
phạm pháp luật mà là chưa có luật điều chỉnh, Việc thanh toán, sử dụng Bitcoin
cung không vi phạm pháp luật. Bởi khi công nhận Bitcoin là phương tiện thanh
toán thì cũng đồng nghĩa với việc trao đổi hàng hóa với Bitcoin không phải là
thanh toán theo đúng định nghĩa của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam.

Câu 11: Quyền tài sản là gì?


-Quyền tài sản là quyền trị giá bằng tiền, bao gồm quyền tài sản đối với đối tượng
quyền sở hữu trí tuệ, quyền sử dụng đất và quyền tài sản khác

Câu 12: Có quy định nào cho phép khẳng định quyền thuê, quyền mua tài sản là
quyền tài sản không?

II. Phần thứ hai: Căn cứ xác lập quyền sở hữu.

Câu 1: Đoạn nào của Quyết định trên cho thấy Toà án khẳng định gia đình chị Vân
đã chiếm hữu nhà đất có tranh chấp trên 30 năm và cho biết suy nghĩ của anh/chị
về khẳng định này của Toà án?

- Đoạn của Quyết định trên cho thấy Toà án khẳng định gia đình chị Vân đã chiếm
hữu nhà đất có tranh chấp trên 30 năm: “Gia đình chị Nhữ Thị Vân ở tại nhà số 2
Hàng Bút đã nhiều thế hệ, tuy chị Vân có lời khai thừa nhận gia đình chị thuê nhà
của cụ Hảo và nộp tiền thuê nhà cho ông Chính (con cụ Hảo), nhưng cụ Hảo đi vào
miền Nam sinh sống từ năm 1954, ông Chính cũng không xuất trình được tài liệu
cụ Hảo uỷ quyền cho ông Chính quản lý căn nhà”.

- Khẳng định này của Toà án là đúng với thực tế và đã có chứng minh là gia đình
chị Vân đã chiếm hữu nhà đất có tranh chấp trên 30 năm.

Câu 2: Đoạn nào của Quyết định trên cho thấy Toà án khẳng định gia đình chị Vân
đã chiếm hữu ngay tình nhà đất có tranh chấp trên 30 năm và cho biết suy nghĩ của
anh/chị về khẳng định này của Toà án?

- Đoạn của Quyết định trên cho thấy Toà án khẳng định gia đình chị Vân đã chiếm
hữu ngay tình nhà đất có tranh chấp trên 30 năm: “Gia đình chị Vân đã ở tại căn
nhà này trên 30 năm là chiếm hữu ngay tình, liên tục, công khai theo quy định tại
Khoản 1, Điều 247, Bộ luật dân sự về xác lập quyền sở hữu theo thời hiệu…”.

- Khẳng định này của Toà án là hợp lý, gia đình chị Vân đã thuê nhà của cụ Hảo
và nộp tiền thuê nhà cho ông Chính (con cụ Hảo), sau đó gia đình cụ Hảo đã đi nơi
khác sinh sống và ông Chính cũng không xuất trình được tài liệu cụ Hảo ủy quyền
cho ông quản lý căn nhà. Gia đình chị Vân đã ở đó liên tục và công khai trong trên
30 năm nên có thể thấy gia đình chị Vân đã chiêm hữu ngay tình nhà đất đó.

Câu 3: Đoạn nào của Quyết định trên cho thấy Toà án khẳng định gia đình chị Vân
đã chiếm hữu liên tục nhà đất có tranh chấp trên 30 năm và cho biết suy nghĩ của
anh/chị về khẳng định này của Toà án?

- Đoạn của Quyết định trên cho thấy Toà án khẳng định gia đình chị Vân đã chiếm
hữu liên tục nhà đất có tranh chấp trên 30 năm: “Gia đình chị Vân đã ở tại căn nhà
này trên 30 năm là chiếm hữu ngay tình, liên tục, công khai theo quy định tại
Khoản 1, Điều 247, Bộ luật dân sự về xác lập quyền sở hữu theo thời hiệu… .”

- Khẳng định này của Toà án là đúng với thực tế và đã có chứng minh là gia đình
chị Vân đã chiếm hữu liên tục nhà đất có tranh chấp trên 30 năm.

Câu 4: Đoạn nào của Quyết định trên cho thấy Toà án khẳng định gia đình chị Vân
đã chiếm hữu công khai nhà đất có tranh chấp trên 30 năm và cho biết suy nghĩ của
anh/chị về khẳng định này của Toà án?

- Đoạn của Quyết định trên cho thấy Toà án khẳng định gia đình chị Vân đã chiếm
hữu công khai nhà đất có tranh chấp trên 30 năm: “Gia đình chị Vân đã ở tại căn
nhà này trên 30 năm là chiếm hữu ngay tình, liên tục, công khai theo quy định tại
Khoản 1, Điều 247, Bộ luật dân sự về xác lập quyền sở hữu theo thời hiệu… .”

- Khẳng định này của Toà án là đúng với thực tế và đã có chứng minh là gia đình
chị Vân đã chiếm hữu công khai nhà đất có tranh chấp trên 30 năm.

Câu 5: Đoạn nào của Quyết định trên cho thấy Toà án khẳng định cụ Hảo không
còn là chủ sở hữu nhà đất có tranh chấp và cho biết suy nghĩ của anh/chị về khẳng
định này của Toà án?

- Đoạn của Quyết định trên cho thấy Toà án khẳng định cụ Hảo không còn là chủ
sở hữu nhà đất có tranh chấp: “Mặc dù phía nguyên đơn khai có đòi nhà đối với gia
đình chị Vân từ sau năm 1975 nhưng không có tài liệu chứng minh (chỉ có biên
bản hoà giải tại Uỷ ban nhân dân phường Hàng Bồ năm 2001); đến năm 2004 cụ
Hảo mới có đơn khởi kiện ra Toà án yêu cầu chị Vân trả nhà là không có căn cứ vì
thực tế cụ Hảo không còn là chủ sở hữu nhà đất nêu trên”.
- Khẳng định này của Toà án là thoả đáng, đảm bảo được lợi ích của các bên liên
quan.

Theo quy định tại khoản 1 Điều 247 Bộ luật Dân sự: “Người chiếm hữu, người
được lợi về tài sản không có căn cứ pháp luật nhưng ngay tình, liên tục, công khai
trong thời hạn 10 năm đối với động sản, 30 năm đối với bất động sản thì trở thành
chủ sở hữu tài sản đó kể từ thời điểm bắt đầu chiếm hữu”. Do vậy, gia đình gia
đình chứng minh được là đã chiếm hữu, sử dụng thửa đất đó ngay tình, liên tục,
công khai từ 30 năm trở lên nên gia đình chị Vân trở thành chủ sở hữu tài sản kể từ
thời điểm bắt đầu chiếm hữu.

Mặt khác, theo quy định của pháp luật tố tụng dân sự, người kiện đòi tài sản phải
đưa ra chứng cứ để chứng minh cho yêu cầu đòi tài sản của mình là có căn cứ và
hợp pháp. Do vậy, kể cả trường hợp gia đình chị Vân không chứng minh được là
đã chiếm hữu, sử dụng thửa đất đó ngay tình, liên tục, công khai từ 30 năm trở lên
thì điều đó cũng không có nghĩa là gia đình chị Vân phải trả lại thửa đất cho người
khởi kiện.

Câu 6: Theo anh/chị gia đình chị Vân có được xác lập quyền sở hữu đối với nhà
đất có tranh chấp trên cơ sở quy định về thời hiệu hưởng quyền không? Vì sao?

- Gia đình chị Vân được xác lập quyền sở hữu đối với nhà đất có tranh chấp trên
cơ sở quy định về thời hiệu hưởng quyền.

- Vì theo Khoản 1, Điều 247, BLDS 2005 và Điều 236, BLDS 2015: “Người
chiếm hữu, người được lợi về tài sản không có căn cứ pháp luật nhưng ngay tình,
liên tục, công khai trong thời hạn 10 năm đối với động sản, 30 năm đối với bất
động sản thì trở thành chủ sở hữu tài sản đó, kể từ thời điểm bắt đầu chiếm hữu, trừ
trường hợp Bộ luật này, luật khác có liên quan quy định khác.”

Gia đình chị Vân đã ở tại nhà đất có tranh chấp trên từ năm 1954 đến năm 2004
(thời điểm cụ Hảo đưa khởi kiện ra Toà yêu cầu chị Vân trả nhà) thì đã được 50
năm. Vì vậy, theo quy định thì chị Vân đã chiếm hữu bất động sản trên 30 năm nên
trở thành chủ sở hữu của tài sản này.

III. Phần thứ ba: Chuyển rủi ro đối với tài sản.
Câu 1: Ai phải chịu rủi ro đối với tài sản theo quy định của BLDS? Nêu cơ sở pháp
lý khi trả lời.

- Theo Điều 166, BLDS 2005 thì: “Chủ sở hữu phải chịu rủi ro khi tài sản bị tiêu
huỷ hoặc bị hư hỏng do sự kiện bất khả kháng, trừ trường hợp có thoả thuận khác
hoặc pháp luật có quy định khác.”

- Theo Điều 162, BLDS 2015 thì:

“1. Chủ sở hữu phải chịu rủi ro về tài sản thuộc sở hữu của mình, trừ trường hợp có
thỏa thuận khác hoặc Bộ luật này, luật khác có liên quan quy định khác.

2. Chủ thể có quyền khác đối với tài sản phải chịu rủi ro về tài sản trong phạm vi
quyền của mình, trừ trường hợp có thỏa thuận khác với chủ sở hữu tài sản hoặc Bộ
luật này, luật khác có liên quan quy định khác.”

Câu 2: Tại thời điểm cháy chợ, ai là chủ sở hữu số xoài? Nêu cơ sở pháp lý khi trả
lời.

- Tại thời điểm cháy chợ, Bà Dung là chủ sở hữu số xoài.

- Theo Điều 234, BLDS 2005: “Người được giao tài sản thông qua hợp đồng mua
bán, tặng cho, trao đổi, cho vay có quyền sở hữu tài sản đó, kể từ thời điểm chuyển
giao tài sản, nếu các bên không có thoả thuận khác hoặc pháp luật không có quy
định khác.”

Ta thấy thời điểm cháy chợ xảy ra sau khi bà Dung nhận hàng do vậy bà Dung là
chủ sở hữu của số xoài.

Câu 3: Bà Dung có phải thanh toán tiền mua ghe xoài trên không? Vì sao? Nêu cơ
sở pháp lý khi trả lời.

- Bà Dung phải thanh toán tiền mua ghe xoài cho bà Thuỷ.

- Vì theo Điều 234, thì tại thời điểm cháy chợ, bà Dung đã là chủ sở hữu của ghe
xoài, điều đó có nghĩa là giao dịch mua bán của bà Dung và bà Thuỷ đã hoàn tất.
Do đó, bà Dung phải có trách nhiệm thanh toán tiền mua ghe xoài cho bà Thuỷ.

You might also like