You are on page 1of 20

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH


KHOA LUẬT HÀNH CHÍNH – NHÀ NƯỚC


THẢO LUẬN
Môn học:
NHỮNG QUY ĐỊNH CHUNG VỀ LUẬT DÂN SỰ ;
TÀI SẢN VÀ THỪA KẾ.

Buổi 6:
QUY ĐỊNH VỀ DI CHÚC

Nhóm: 2 Lớp: HC46B1


1. Nguyễn Hoàng Phúc – 2153801014198
2. Nguyễn Phạm Mai Phương – 2153801014202
3. Lê Ngọc Cẩm Quỳnh – 2153801014210
4. Lê Ngọc Quỳnh Sương – 2153801014215
5. Phạm Thị Sương – 2153801014216
6. Bùi Thanh Tú – 2153801014227
7. Hà Văn Tuấn – 2153801014232
8. Phạm Hoàng Tuấn – 2153801014233

Thành phố Hồ Chí Minh, 4/2022


MỤC LỤC
Vấn đề 1: HÌNH THỨC CỦA DI CHÚC ................................................................................... 1
Câu 1: Điều kiện về hình thức để di chúc tự viết tay có giá trị pháp lý? Nêu cơ sở pháp lý........... 2
Câu 2: Nếu di chúc của ông Này là di chúc phải có người làm chứng thì những người đã làm
chứng di chúc của ông Này có là người làm chứng hợp pháp không? Nêu cơ sở pháp lý. ............. 3
Câu 3: Di chúc của ông Này có là di chúc do ông Này tự viết tay không? Vì sao? ........................ 3
Câu 4: Suy nghĩ của anh/chị về hướng giải quyết trên của Tòa án liên quan đến hình thức di chúc
của ông Này khi đây là di chúc do ông Này tự viết tay. .................................................................. 4
Câu 6: Cụ Hựu có biết chữ không? Đoạn nào của Quyết định số 874 cho câu trả lời? .................. 5
Câu 7: Di chúc của người không biết chữ phải thỏa mãn các điều kiện nào để có hình thức phù
hợp với quy định của pháp luật? ...................................................................................................... 5
Câu 8: Các điều kiện nào nêu trên đã được đáp ứng đối với di chúc của cụ Hựu? ......................... 6
Câu 9: Các điều kiện nào nêu trên đã không được đáp ứng đối với di chúc của cụ Hựu? .............. 6
Câu 10: Theo anh/chị, di chúc nêu trên có thỏa mãn điều kiện về hình thức không? Vì sao? ........ 6
Câu 11: Suy nghĩ của anh/chị về các quy định trong BLDS liên quan đến hình thức di chúc của
người không biết chữ. ...................................................................................................................... 7

VẤN ĐỀ 2: TÀI SẢN ĐƯỢC ĐỊNH ĐOẠT THEO DI CHÚC .........................................8


Câu 1: Cụ Hương đã định đoạt tài sản nào? Đoạn nào của Quyết định số 359 cho câu trả lời? ..... 8
Câu 2: Đoạn nào của Quyết định số 359 cho thấy tài sản cụ Hương định đoạt trong di chúc là tài
sản chung của vợ chồng cụ Hương? ................................................................................................ 9
Câu 3: Tòa án đã công nhận phần nào của di chúc? Đoạn nào của Quyết định cho câu trả lời? .... 9
Câu 4: Suy nghĩ của anh/chị về hướng giải quyết trên của Tòa giám đốc thẩm. ............................ 9
Câu 5: Nếu cụ Quý chết trước cụ Hương phần nào của di chúc có giá trị pháp lý? Nêu cơ sở pháp
lý khi trả lời.................................................................................................................................... 10
Câu 6: Nếu tài sản được định đoạt trong di chúc chỉ thuộc sở hữu của cụ Hương vào đầu tháng
4/2009 thì di chúc của cụ Hương có giá trị pháp lý không? Vì sao? ............................................. 11
Câu 7: Quyết định số 58, đoạn nào cho thấy quyền sử dụng đất của cụ C và cụ D đã bị thu hồi
trước khi hai cụ chết?..................................................................................................................... 11
Câu 8: Đoạn nào của Quyết định số 58 cho thấy Tòa giám đốc thẩm xác định di sản của cụ C và
cụ D là quyền sử dụng đất? Nêu suy nghĩ về hướng xác định vừa nêu của Tòa giám đốc thẩm?. 11
Câu 9: Đoạn nào của Quyết định số 58 cho thấy Tòa giám đốc thẩm theo hướng cụ C và cụ D
được định đoạt theo chi chúc giá trị quyền sử dụng đất bị Nhà nước thu hồi? Suy nghĩ của
anh/chị về hướng vừa nêu của Tòa giám đốc thẩm. ...................................................................... 12

i
Vấn đề 3: DI CHÚC CHUNG CỦA VỢ CHỒNG ............................................................13
Câu 1: Đoạn nào của bản án cho thấy di chúc có tranh chấp là di chúc chung của vợ chồng? ..... 13
Câu 2: Theo Tòa án, di chúc của vợ chồng có giá trị pháp lý khi áp dụng BLDS năm 2015
không? Đoạn nào của bản án cho câu trả lời. ................................................................................ 13
Câu 3: Suy nghĩ của anh/chị về hướng giải quyết trên của Tòa án về di chúc chung của vợ chồng
trong mối quan hệ với BLDS 2015. ............................................................................................... 14

Vấn đề 4: DI SẢN DÙNG VÀO VIỆC THỜ CÚNG.........................................................15


Câu 1: Trong điều kiện nào di sản dùng vào việc thờ cúng có giá trị pháp lý? Nêu cơ sở pháp lý
khi trả lời........................................................................................................................................ 15
Câu 2: Đoạn nào cho thấy di sản có tranh chấp được di chúc dùng vào việc thờ cúng? ............... 15
Câu 3: Các điều kiện để di sản dùng vào việc thờ cúng một cách hợp pháp có được thỏa mãn
trong vụ việc đang nghiên cứu không? .......................................................................................... 16
Câu 4: Ai đồng ý và ai không đồng ý chia di sản dùng vào việc thờ cúng trong vụ tranh chấp
này? Đoạn nào của bản án cho câu trả lời?.................................................................................... 16
Câu 5: Cuối cùng Tòa án có chấp nhận chia di sản đã được di chúc dùng vào việc thờ cúng
không? Đoạn nào của bản án cho câu trả lời? ............................................................................... 16
Câu 6: Suy nghĩ của anh/chị về chế định di sản dùng vào việc thờ cúng trong BLDS và giải pháp
của Tòa án trong vụ việc đang được nghiên cứu. .......................................................................... 16

ii
Vấn đề 1: HÌNH THỨC CỦA DI CHÚC

 Tóm tắt Bản án số 83/2009/DSPT ngày 28/12/2009:


- Nguyên đơn: Ông Nguyễn Thành Hiếu sinh năm 1986.
- Bị đơn: Bà Đặng Thị Trọng sinh năm 1951.
- Nội dung: Ông Nguyễn Này và bà Nguyễn Thị Tâm có 3 người con chung đó là:
Hiếu, Trung, Việt. Ông Này và bà Trọng kết hôn vào năm 1970. Ngày 19/12/2007
ông Nguyễn Này có lập di chúc cho ông Hiếu được toàn quyền thừa kế sử dụng lô
đất có giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đứng tên ông Này, bà Trọng. Ngày
16/11/2008, ông Này qua đời, ông Nguyễn Văn Hùng là anh cùng cha khác mẹ với
ông Hiếu đưa ra toàn bộ di chúc gồm: 01 quyền sổ đỏ, 01 sổ hộ khẩu, 01 giấy thừa
kế quyền sử dụng đất, 01 giấy ủy quyền sử dụng đất do ông Này viết giao đất cho
ông Hiếu. TAND tối cao cho rằng di chúc của ông Này là di chúc hợp pháp vì do ông
Này viết không được chính quyền địa phương công chứng chứng thực nhưng được
lập trong lúc ông Này còn minh mẫn, sáng suốt không bị lừa dối, đe dọa hoặc cưỡng
ép và có nhiều người làm chứng.
- Tại Bản án dân sự sơ thẩm số 11/2009/DSST ngày 15/10/2009 của TAND huyện
Sông Hinh đã tuyên xử. Bà Đặng Thị Trọng được nhận toàn bộ tài sản, nhà và đất có
giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, có trách nhiệm thối chênh lệch cho ông Nguyễn
Thành Hiếu số tiền 78.795.000đ được chia và được nhận từ tài sản theo di chúc.
- Tại Bản án số 83/2009/DSPT ngày 28/12/2009 của TAND Phú Yên quyết định: Bác
kháng cáo của nguyên đơn ông Nguyễn Thành Hiếu, giữ nguyên như quyết định của
bản án sơ thẩm.

 Tóm tắt Quyết định số 874/2011/DS-GĐT ngày 22/11/2011 của Tòa dân
sự TAND tối cao:
- Nguyên đơn: Ông Đỗ Văn Quang.
- Bị đơn: Bà Hoàng Thị Ngâm.
- Nội dung: Cụ Hựu chết ngày 06/02/2005. Di sản của cụ để lại gồm thửa đất 56 diện
tích 210m2, thửa đất 54 diện tích 462m2 và thửa đất 57 diện tích 526m2 tại thôn Lê
Xá, Mai Lâm, Đông Anh Hà Nội, trên thửa đất 57 có 1 ngôi nhà cấp 4 năm gian và
một giếng nước. Hiện tại bà Ngâm quản lý, sử dụng và được cấp giấy chứng nhận
quyền sử dụng đất đối với các thửa đất nêu trên. Khi kê khai đăng ký quyền sử dụng
đất bà Ngâm đã xuất trình 1 bản di chúc của cụ Hựu lập năm 1998 với nội dung cụ
Hựu để lại tài sản nhà đất cho bà Ngâm và bà Lựu. Di chúc đề ngày 25/11/1998 do
cụ Hựu đọc cho ông Vũ viết, cụ Hựu điểm chỉ, ông Vũ và cụ Đỗ Thị Quý (mẹ của

1
ông Vũ) ký tên làm chứng. 4/1/1999 bà Lựu mang di chúc đến cho trưởng thôn và
UBND xã xác nhận. Ông Quang xác định cụ Hựu là người không biết chữ.
- Tại Bản án dân sự sơ thẩm số 28/2007/DSST ngày 24/12/2007, TAND huyện Đông
Anh quyết định: Hủy một phần di chúc của cụ Hựu phán quyết quá quyền của cụ là
tài sản chung của dòng họ Đỗ trị giá 1.191.475.100đ, chấp nhận một phần di chúc
của cụ Hựu để lại (phần tài sản của cụ Hựu trị giá 322.426.400đ) đã di chúc cho bà
Ngâm và bà Lựu thừa hưởng, bác yêu cầu chia thừa kế di sản cụ Hựu để lại theo pháp
luật của ông Quang.
- Tại bản án dân sự phúc thẩm số 41/2008/DSPT ngày 12/9/2008, TAND thành phố
Hà Nội quyết định: bác yêu cầu kháng cáo của ông Đỗ Văn Quang, giữ nguyên bản
án sơ thẩm, bác tất cả các yêu cầu khác của đương sự.
- Tại quyết định số 874/2011/DS-GĐT ngày 22/11/2011 của TAND tối cao quyết
định: hủy bản án dân sự phúc thẩm số 41/2008/DSPT ngày 12/9/2008 của TAND
thành phố Hà Nội và hủy bản án dân sự sơ thẩm số 28/2007/DSST ngày 24/12/2007
của TAND huyện Đông Anh, thành phố Hà Nội. Giao hồ sơ vụ án cho TAND huyện
Đông Anh, thành phố Hà Nội xét xử sơ thẩm lại theo đúng quy định của pháp luật.

Câu 1: Điều kiện về hình thức để di chúc tự viết tay có giá trị pháp lý? Nêu cơ
sở pháp lý khi trả lời.
- Để di chúc tự viết tay có giá trị pháp lý thì “người lập di chúc phải tự viết và ký vào
bản di chúc” (Điều 633 BLDS năm 2015). Người lập di chúc không được đánh máy
bởi nếu đánh máy thì sẽ không xác định được rằng những gì thể hiện trong di chúc có
đúng với ý chí của người lập di chúc hay không. Đồng thời, người lập di chúc cũng
không được điểm chỉ thay cho việc ký vào bản di chúc bởi hiển nhiên người tự viết
được thì họ cũng có khả năng ký được, hơn nữa chữ ký cũng là một trong những cơ sở
để đối chứng việc có phải đúng người lập di chúc là người đã ký vào di chúc hay không.
- “Di chúc không được viết tắt hoặc viết bằng ký hiệu, nếu di chúc gồm nhiều trang
thì mỗi trang phải được ghi số thứ tự và có chữ ký hoặc điểm chỉ của người lập di
chúc. Trường hợp di chúc có sự tẩy xóa, sửa chữa thì người tự viết di chúc hoặc
người làm chứng di chúc phải ký tên bên cạnh chỗ tẩy xóa, sửa chữa” (Khoản 3 Điều
631 BLDS năm 2015). Đây là những nguyên tắc cơ bản để đảm bảo tính trung thực
của một văn bản, đặc biệt là những văn bản có giá trị pháp lý quan trọng như di chúc,
tránh những trường hợp thay đổi nội dung của bản di chúc với những bản di chúc có
nhiều trang.
- Căn cứ theo Điều 635 BLDS năm 2015 thì “người lập di chúc có thể yêu cầu công
chứng hoặc chứng thực bản di chúc”.

2
Câu 2: Nếu di chúc của ông Này là di chúc phải có người làm chứng thì những
người đã làm chứng di chúc của ông Này có là người làm chứng hợp pháp
không? Nêu cơ sở pháp lý khi trả lời.
- Nếu di chúc của ông Này là di chúc phải có người làm chứng thì những người đã
làm chứng di chúc của ông Này không phải là người làm chứng hợp pháp. Bởi vì,
căn cứ theo Điều 632 BLDS năm 2015 có quy định như sau:
Mọi người đều có thể làm chứng cho việc lập di chúc, trừ những người sau đây:
1. Người thừa kế theo di chúc hoặc theo pháp luật của người lập di chúc;
2. Người có quyền, nghĩa vụ tài sản liên quan tới nội dung di chúc;
3. Người chưa thành niên, người mất năng lực hành vi dân sự, người có khó
khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi.
Kết hợp với Điều 651 BLDS năm 2015 có quy định về người thừa kế theo
pháp luật như sau:
1. Những người thừa kế theo pháp luật được quy định theo thứ tự sau đây:
a) Hàng thừa kế thứ nhất gồm: vợ, chồng, cha đẻ, mẹ đẻ, cha nuôi, mẹ nuôi,
con đẻ, con nuôi của người chết;
b) Hàng thừa kế thứ hai gồm: ông nội, bà nội, ông ngoại, bà ngoại, anh ruột,
chị ruột, em ruột của người chết; cháu ruột của người chết mà người chết là ông nội,
bà nội, ông ngoại, bà ngoại;
c) Hàng thừa kế thứ ba gồm: cụ nội, cụ ngoại của người chết; bác ruột, chú
ruột, cậu ruột, cô ruột, dì ruột của người chết; cháu ruột của người chết mà người
chết là bác ruột, chú ruột, cậu ruột, cô ruột, dì ruột; chắt ruột của người chết mà
người chết là cụ nội, cụ ngoại.
➔ Như vậy, trong trường hợp này cha, em gái, em trai của ông Này là người làm
chứng cho ông Này thuộc trường hợp là người thừa kế theo pháp luật của ông Này
(trong đó cha ông Này thuộc hàng thừa kế thứ nhất, em gái và em trai ông Này thuộc
hàng thừa kế thứ hai) nên sẽ không được làm chứng theo quy định tại Khoản 1 Điều
632 BLDS năm 2015. Luật quy định như vậy để đảm bảo được tính công bằng và
tính khách quan của di chúc. Bởi trên thực tế, nếu để những người này can thiệp vào
việc làm chứng cho di chúc thì ít nhiều cũng sẽ có những ảnh hưởng cá nhân, có lợi
cho họ hàng của họ.

Câu 3: Di chúc của ông Này có là di chúc do ông Này tự viết tay không? Vì sao?
- Di chúc của ông Này là di chúc do Ông Này tự viết tay. Bởi vì, dựa trên sự ghi nhận
của Tòa án tại phần xét thấy của bản án có nêu:

3
[…] Trước khi qua đời, vào ngày 19/12/2007 ông Nguyễn Này lập giấy giao
quyền thừa kế toàn bộ nhà đất thuộc quyền sở hữu chung của ông với bà Trọng cho
Nguyễn Thành Hiếu là con riêng của ông Này, được cha, em gái, em trai ông Này
điểm chỉ và ký tên làm chứng. Xét thấy, giấy thừa kế do ông Nguyễn Này viết không
được chính quyền địa phương công chứng, chứng thực nhưng được lập trong lúc ông
Này còn minh mẫn, sáng suốt không bị lừa dối, đe dọa hoặc cưỡng ép và có nhiều
người làm chứng nên được coi là di chúc hợp pháp.
- Có quan điểm cho rằng, bản di chúc này không do ông Này tự viết tay bởi trong
phần xét thấy của Hội đồng xét xử không nhắc đến việc người lập di chúc đã ký vào
di chúc hay chưa. Tuy nhiên, theo quan điểm của nhóm, trong tình huống này Tòa án
đã tuyên rằng đây là bản di chúc hợp pháp. Tức khi cầm bản di chúc trong tay thì Tòa
án đã có đủ những bằng chứng chứng minh được giá trị pháp lý của di chúc, bao gồm
giám định chữ viết, cũng như đã có chữ ký của ông Này.
- Cơ sở pháp lý: Điều 633 BLDS năm 2015 quy định: “Người lập di chúc phải tự viết
và ký vào bản di chúc. Việc lập di chúc bằng văn bản không có người làm chứng phải
tuân theo quy định tại Điều 631 của Bộ luật này”.

Câu 4: Suy nghĩ của anh/chị về hướng giải quyết trên của Tòa án liên quan đến
hình thức di chúc của ông Này khi đây là di chúc do ông Này tự viết tay.
- Khi đây là di chúc do ông Này tự viết tay, thì hướng giải quyết của Tòa án là hoàn
toàn hợp lý. Mặc dù di chúc viết tay của ông Này không được cơ quan có thẩm quyền
công chứng hay chứng thực nhưng vẫn phải được cho là hợp pháp vì 5 lý do sau:
+ Thứ nhất, tại thời điểm lập di chúc ông Này là người có năng lực hành vi dân sự
đầy đủ;
+ Thứ hai, bản di chúc được lập lúc ông Này minh mẫn, sáng suốt, không bị lừa
dối, đe dọa hoặc cưỡng ép, hoàn toàn tự nguyện;
+ Thứ ba, nội dung của bản di chúc không vi phạm điều cấm của luật, không trái
đạo đức xã hội;
+ Thứ tư, hình thức di chúc không trái với quy định của luật, tức do ông Này tự
viết và tự ký;
+ Và thứ năm, việc công chứng, chứng thực không phải là yêu cầu bắt buộc của
một bản di chúc.
- Cơ sở pháp lý:
+ Khoản 4 Điều 630 BLDS năm 2015: “Di chúc bằng văn bản không có công
chứng, chứng thực chỉ được coi là hợp pháp, nếu có đủ các điều kiện được quy định
tại khoản 1 Điều này” ;

4
+ Khoản 1 Điều 630 BLDS năm 2015: “Di chúc hợp pháp phải có đủ các điều
kiện sau đây: a) Người lập di chúc minh mẫn, sáng suốt trong khi lập di chúc; không
bị lừa dối, đe doạ, cưỡng ép; b) Nội dung của di chúc không vi phạm điều cấm của
luật, không trái đạo đức xã hội; hình thức di chúc không trái quy định của luật” ;
+ Điều 635 BLDS năm 2015: “Người lập di chúc có thể yêu cầu công chứng hoặc
chứng thực bản di chúc”.

Câu 5: Di chúc của cụ Hựu đã được lập như thế nào?


Di chúc của cụ Hựu đã được lập như sau: Ngày 25/11/1998, di chúc là do cụ
Hựu đọc cho ông Vũ viết, cụ Hựu điểm chỉ, ông Vũ và cụ Đỗ Thị Quy (là mẹ của
ông Vũ) ký tên, làm chứng. Sau đó ngày 04/01/1999 bà Lựu mang di chúc đến cho
ông Hoàng Văn Thưởng (là Trưởng thôn) và Ủy ban nhân dân xã Mai Lâm xác nhận.

Câu 6: Cụ Hựu có biết chữ không? Đoạn nào của Quyết định cho câu trả lời?
Cụ Hựu không biết chữ. Trong Quyết định 874 tại phần xét thấy của Hội đồng
xét xử có ghi nhận: “Ông Quang xác định cụ Hựu là người không biết chữ”.

Câu 7: Di chúc của người không biết chữ phải thỏa mãn các điều kiện nào để có
hình thức phù hợp với quy định của pháp luật?
“Di chúc của người bị hạn chế về thể chất hoặc của người không biết chữ phải
được người làm chứng lập thành văn bản và có công chứng hoặc chứng thực” (Khoản
3 Điều 630 BLDS năm 2015).
Trong đó việc công chứng, chứng thực được quy định tại Điều 636 BLDS năm
2015 như sau:
Việc lập di chúc tại tổ chức hành nghề công chứng hoặc Ủy ban nhân dân cấp
xã phải tuân theo thủ tục sau đây:
1. Người lập di chúc tuyên bố nội dung của di chúc trước công chứng viên
hoặc người có thẩm quyền chứng thực của Ủy ban nhân dân cấp xã. Công chứng viên
hoặc người có thẩm quyền chứng thực của Ủy ban nhân dân cấp xã phải ghi chép lại
nội dung mà người lập di chúc đã tuyên bố. Người lập di chúc ký hoặc điểm chỉ vào
bản di chúc sau khi xác nhận bản di chúc đã được ghi chép chính xác và thể hiện
đúng ý chí của mình. Công chứng viên hoặc người có thẩm quyền chứng thực của Ủy
ban nhân dân cấp xã ký vào bản di chúc.
2. Trường hợp người lập di chúc không đọc được hoặc không nghe được bản
di chúc, không ký hoặc không điểm chỉ được thì phải nhờ người làm chứng và người
này phải ký xác nhận trước mặt công chứng viên hoặc người có thẩm quyền chứng

5
thực của Ủy ban nhân dân cấp xã. Công chứng viên hoặc người có thẩm quyền chứng
thực của Ủy ban nhân dân cấp xã chứng nhận bản di chúc trước mặt người lập di
chúc và người làm chứng.

Câu 8: Các điều kiện nào nêu trên đã được đáp ứng đối với di chúc của cụ Hựu?
Các điều kiện đã được đáp ứng đối với di chúc của ông Hựu là: di chúc đã được
lập thành văn bản và có ít nhất 2 người làm chứng (di chúc do cụ Hựu đọc cho ông Vũ
viết, cụ Hựu điểm chỉ, sau đó đưa cho ông Vũ và cụ Đỗ Thị Quý ký tên làm chứng).

Câu 9: Các điều kiện nào nêu trên đã không được đáp ứng đối với di chúc của
cụ Hựu?
Theo Khoản 3 Điều 630 BLDS 2015 quy định : “Di chúc của người bị hạn
chế về thể chất hoặc của người không biết chữ phải được người làm chứng lập thành
văn bản và có công chứng hoặc chứng thực” thì cụ Hựu trong bản án này là người
không biết chữ, di chúc của cụ Hựu không được tự tay cụ Hựu mang đi công chứng
hoặc chứng thực (mà do bà Lựu mang đi), trên di chúc cũng không xác định được
dấu vân tay có phải là của cụ Hựu hay không, vì vậy không đủ căn cứ để khẳng định
di chúc trên thể hiện ý chí của cụ Hựu trước khi chết. Trong khi đó, thủ tục công
chứng, chứng thực phải thực hiện theo Khoản 2 Điều 636 BLDS năm 2015.

Câu 10: Theo anh/chị, di chúc nêu trên có thỏa mãn điều kiện về hình thức
không? Vì sao?
Di chúc nêu trên chưa thỏa mãn điều kiện về hình thức. Bởi vì, mặc dù di chúc
đã được lập thành văn bản và có người làm chứng nhưng về yêu cầu có công chứng,
chứng thực do cụ Hựu là người không biết chữ thì chưa thỏa mãn yêu cầu của BLDS.
Theo quy định tại Điều 636 BLDS năm 2015:
1. Người lập di chúc tuyên bố nội dung của di chúc trước công chứng viên
hoặc người có thẩm quyền chứng thực của Ủy ban nhân dân cấp xã. Công chứng viên
hoặc người có thẩm quyền chứng thực của Ủy ban nhân dân cấp xã phải ghi chép lại
nội dung mà người lập di chúc đã tuyên bố. Người lập di chúc ký hoặc điểm chỉ vào
bản di chúc sau khi xác nhận bản di chúc đã được ghi chép chính xác và thể hiện
đúng ý chí của mình. Công chứng viên hoặc người có thẩm quyền chứng thực của Ủy
ban nhân dân cấp xã ký vào bản di chúc.
2. Trường hợp người lập di chúc không đọc được hoặc không nghe được bản
di chúc, không ký hoặc không điểm chỉ được thì phải nhờ người làm chứng và người
này phải ký xác nhận trước mặt công chứng viên hoặc người có thẩm quyền chứng

6
thực của Ủy ban nhân dân cấp xã. Công chứng viên hoặc người có thẩm quyền chứng
thực của Ủy ban nhân dân cấp xã chứng nhận bản di chúc trước mặt người lập di
chúc và người làm chứng.
Nhưng ở đây cụ Hựu chỉ đọc cho ông Vũ viết và bà Lựu mang di chúc đến cho
ông Hoàng Văn Thưởng (là Trưởng thôn) và Ủy ban nhân dân xã Mai Lâm xác nhận.
Điều đó là không phù hợp.

Câu 11: Suy nghĩ của anh/chị về các quy định trong BLDS liên quan đến hình
thức di chúc của người không biết chữ.
Theo quy định tại Khoản 3 Điều 630 BLDS năm 2015: “Di chúc của người bị
hạn chế về thể chất hoặc của người không biết chữ phải được người làm chứng lập
thành văn bản và có công chứng hoặc chứng thực”.
Trong đó việc công chứng, chứng thực được quy định tại Điều 636 BLDS năm
2015 như sau:
Việc lập di chúc tại tổ chức hành nghề công chứng hoặc Ủy ban nhân dân cấp
xã phải tuân theo thủ tục sau đây:
1. Người lập di chúc tuyên bố nội dung của di chúc trước công chứng viên
hoặc người có thẩm quyền chứng thực của Ủy ban nhân dân cấp xã. Công chứng viên
hoặc người có thẩm quyền chứng thực của Ủy ban nhân dân cấp xã phải ghi chép lại
nội dung mà người lập di chúc đã tuyên bố. Người lập di chúc ký hoặc điểm chỉ vào
bản di chúc sau khi xác nhận bản di chúc đã được ghi chép chính xác và thể hiện
đúng ý chí của mình. Công chứng viên hoặc người có thẩm quyền chứng thực của Ủy
ban nhân dân cấp xã ký vào bản di chúc.
2. Trường hợp người lập di chúc không đọc được hoặc không nghe được bản
di chúc, không ký hoặc không điểm chỉ được thì phải nhờ người làm chứng và người
này phải ký xác nhận trước mặt công chứng viên hoặc người có thẩm quyền chứng
thực của Ủy ban nhân dân cấp xã. Công chứng viên hoặc người có thẩm quyền chứng
thực của Ủy ban nhân dân cấp xã chứng nhận bản di chúc trước mặt người lập di
chúc và người làm chứng.
Từ đó, cho thấy những quy định về hình thức di chúc của người không biết
chữ tại BLDS năm 2015 rất rõ ràng, nghiêm ngặt, nhiều thủ tục nhằm đảm bảo di
chúc thể hiện đúng ý chí của người để lại di sản. Bên cạnh đó, giảm thiểu trường hợp
có người lợi dụng những khiếm khuyết của người để lại di sản để lừa dối, đe dọa hay
cưỡng ép họ.

7
VẤN ĐỀ 2: TÀI SẢN ĐƯỢC ĐỊNH ĐOẠT THEO DI CHÚC

 Tóm tắt Quyết định số 58/2018/DS-GĐT ngày 27-9-2018 của Tòa án nhân
dân cấp cao tại Hà Nội.
Cụ Nguyễn Văn D và cụ Nguyễn Thị C có tài sản chung là thửa đất số 38, tỉnh
Vĩnh Phúc. Trước khi mất hai cụ có lập di chúc để lại thửa đất nêu trên cho ông D1.
Tuy nhiên, trước khi lập di chúc, cụ thể là vào năm 1998 cụ C đã làm giấy tờ chuyển
nhượng thửa đất trên cho ông Y với giá 140.000.000 đồng. Do đó, nguyên đơn là ông
Trần Văn Y yêu cầu tuyên bố Văn bản Công chứng Di chúc và Văn bản Công chứng
Văn bản công bố di chúc của Phòng công chứng M tỉnh Vĩnh Phúc vô hiệu vì cho
rằng việc công chứng này không đúng pháp luật và làm ảnh hưởng đến quyền, lợi ích
hợp pháp của gia đình ông. Chánh án Tòa án nhân dân cấp cao tại Hà Nội bác quyết
định của Tòa sơ thẩm và Tòa phúc thẩm tỉnh Vĩnh Phúc chấp nhận yêu cầu vô hiệu
hai văn bản trên của ông Y, giao hồ sơ vụ án cho Tòa án nhân dân thành phố Vĩnh
Yên xét xử sơ thẩm lại theo đúng quy định của pháp luật.

 Tóm tắt Quyết định số 359/2013/DS-GĐT ngày 28/8/2013 của Tòa án dân
sự Tòa án nhân dân tối cao.
Vụ án về “tranh chấp thừa kế” giữa nguyên đơn là cụ Quý, bị đơn là ông Dũng
và ông Lộc, được biết hai vợ chồng cụ Quý và cụ Hương có tài sản chung gồm nhà
và đất tại 25D/19 Nguyễn Văn Đậu. Ngày 06/04/2019, cụ Hương chết và để lại di
chúc với nội dung chia toàn bộ nhà đất cho 5 người con, biết thời điểm lập di chúc,
cụ Hương hoàn toàn minh mẫn. Nhưng nội dung này không phù hợp vì đây là tài sản
chung của cụ Quý và cụ Hương nên phải có sự đồng ý của cụ Quý, đồng thời theo
pháp luật, cụ Quý sẽ được hưởng 2/3 một suất tài sản theo pháp luật và 1/2 diện tích
đất còn lại. Nhưng vì Tòa án cấp sơ thẩm lại chưa yêu cầu ông Lộc giao trả nhà đất
mà ông Lộc sử dụng, dẫn đến giải quyết chưa triệt để và cần xét xử lại. Ngoài ra, còn
phải xem xét công sức giữ gìn tài sản của ông Lộc.

Câu 1: Cụ Hương đã định đoạt tài sản nào? Đoạn nào của Quyết định số 359
cho câu trả lời?
- Cụ Hương đã định đoạt tài sản chung của cụ Hương và cụ Quý gồm nhà và đất.
- Trích Quyết định số 359:
Ngày 06/04/2009 cụ Nguyễn Văn Hương chết, để lại di chúc có nội dung chia
toàn bộ căn nhà và đất số 302 Nguyễn Thượng Hiền, phường 5, quận Phú Nhuận cho
5 người con là: Nguyễn Ngọc Đức, Nguyễn Hữu Nghĩa, Nguyễn Ngọc Hiếu, Nguyễn

8
Hữu Dũng, Quảng Thị Kiều (vợ Nguyễn Hữu Trí), di chúc đã được công chứng tại
Phòng công chứng số 4 thành phố Hồ Chí Minh ngày 16/01/2009.

Câu 2: Đoạn nào của Quyết định số 359 cho thấy tài sản cụ Hương định đoạt
trong di chúc là tài sản chung của vợ chồng cụ Hương?
Trích Quyết định số 359:
Tuy nhiên, về nội dung thì di chúc chỉ có giá trị một phần bởi nhà đất trên là
tài sản chung của vợ chồng cụ Hương và cụ Quý. Việc cụ Hương lập di chúc cho toàn
bộ nhà đất cho 5 người con trong khi không có sự đồng ý của cụ Quý là không đúng.

Câu 3: Tòa án đã công nhận phần nào của di chúc? Đoạn nào của Quyết định số
359 cho câu trả lời?
- Tòa án công nhận: 1/2 căn nhà số 302 Nguyễn Thượng Hiền, phường 5, quận Phú
Nhuận có diện tích đất 340,3m2 là phần di chúc có hiệu lực.
- Trích Quyết định số 359:
Vì vậy, Tòa án cấp sơ thẩm xét xử di chúc của cụ Nguyễn Văn Hương có hiệu
lực một phần đối với phần tài sản của cụ Hương (1/2 nhà đất) nên được chia đều cho
5 người con là các ông bà Nguyễn Ngọc Đức, Nguyễn Hữu Nghĩa, Nguyễn Ngọc Hiếu,
Nguyễn Hữu Dũng, Quảng Thị Kiều (vợ ông Nguyễn Hữu Trí) sau khi đã chia cho cụ
Quý 2/3 suất thừa kế theo pháp luật; còn 1/2 diện tích đất còn lại được chia cho cụ
Quý; phần giá trị căn nhà theo kết quả định giá của hội đồng định giá thì được chia
cho cụ Quý 1/2 và thêm 2/3 suất thừa kế theo pháp luật và phần còn lại chia đều cho
5 người con được hưởng thừa kế theo di chúc của cụ Hương là có căn cứ.

Câu 4: Suy nghĩ của anh/chị về hướng giải quyết trên của Tòa giám đốc thẩm.
- Theo nhóm thảo luận, hướng giải quyết trên của Tòa giám đốc thẩm là hợp lý
- Căn cứ vào Điều 634 của BLDS năm 2005 có quy định về di sản: “Di sản bao gồm
tài sản riêng của người chết, phần tài sản của người chết trong tài sản chung với
người khác”. Trong trường hợp của cụ Quý và cụ Hương, thì tài sản thuộc sở hữu
chung của cả hai người. Trước khi chết, cụ Hương cũng không có tài sản riêng nên
chỉ có phần tài sản trong tài sản chung với cụ Quý mới được coi là di sản. Di chúc
của cụ Hương được lập hợp pháp về hình thức nhưng về nội dung thì di sản được
định đoạt là tài sản chung của cụ Hương và cụ Quý, nên Tòa án quyết định chỉ công
nhận một phần tài sản của cụ Hương (1/2 nhà đất), phần di sản của cụ được chia cho
5 người con theo di chúc sau khi đã chia cho cụ Quý 2/3 suất thừa kế theo pháp luật

9
là hoàn toàn hợp lý. Và cụ Quý được hưởng 1/2 tài sản nhà đất trong phần tài sản
chung của hai cụ là hoàn toàn đúng theo quy định của pháp luật.
- Khoản 1 Điều 669 BLDS năm 2005 cũng có quy định về Người thừa kế không phụ
thuộc vào nội dung của di chúc:
Những người sau đây vẫn được hưởng phần di sản bằng hai phần ba suất của
một người thừa kế theo pháp luật, nếu di sản được chia theo pháp luật, trong trường
hợp họ không được người lập di chúc cho hưởng di sản hoặc chỉ cho hưởng phần di
sản ít hơn hai phần ba suất đó, trừ khi họ là những người từ chối nhận di sản theo
quy định tại Điều 642 hoặc họ là những người không có quyền hưởng di sản theo quy
định tại khoản 1 Điều 643 của Bộ luật này:
1. Con chưa thành niên, cha, mẹ, vợ, chồng;
2. Con đã thành niên mà không có khả năng lao động.
- Cụ Quý không thuộc trường hợp tại Điều 642 và Khoản 1 Điều 643 của BLDS năm
2005. Khi cụ Hương chết, cụ Quý là vợ của cụ Hương cũng không được cụ Hương
(người lập di chúc) cho hưởng di sản. Vì thế, việc Tòa án xác định chia cho cụ Quý
2/3 suất thừa kế theo pháp luật là hợp lý.

Câu 5: Nếu cụ Quý chết trước cụ Hương phần nào của di chúc có giá trị pháp
lý? Nêu cơ sở pháp lý khi trả lời.
- Trong trường hợp cụ Quý chết trước cụ Hương, phần di chúc của cụ Hương sẽ có
hiệu lực pháp lý toàn bộ, ngoài ra cụ Hương có thể được nhận thêm một phần tài sản
từ cụ Quý theo pháp luật hoặc theo di chúc và phần tài sản của cụ Quý có thể được
chia theo các trường hợp sau:
+ Trường hợp 1, nếu cụ Quý chết và để lại di chúc không bao gồm cụ Hương mà
chỉ chia cho các con thì vẫn căn cứ theo Điều 669 BLDS 2005 quy định về 2/3 suất
tài sản mà người thừa kế không phụ thuộc vào pháp luật được hưởng. Cụ Hương sẽ
được hưởng thêm 2/3 giá trị tài sản trong 1/2 giá trị tài sản chung với cụ Quý. Như
vậy, phần tài sản theo di chúc của cụ Hương sẽ được tăng thêm một phần như trên.
+ Trường hợp 2, nếu cụ Quý để lại di sản cho cụ Hương theo di chúc, thì phần tài
sản theo di chúc mà của cụ Hương để lại cho các con cũng sẽ được tăng lên một phần
tùy thuộc vào mức tài sản mà cụ Quý để lại cho cụ Hương, căn cứ vào Điều 631
BLDS năm 2005.
+ Trường hợp 3, nếu cụ Quý chết mà không để lại di chúc, thì phần tài sản của cụ
Quý sẽ được chia căn cứ theo Điều 676 BLDS năm 2005 quy định về hàng thừa kế
theo pháp luật. Như vậy, giá trị phần di sản mà cụ Hương để lại cho các con trong di

10
chúc cũng sẽ tăng lên một phần. Như vậy, có thể nói rằng, nếu cụ Quý chết trước cụ
Hương, toàn bộ di chúc của cụ Hương sẽ có giá trị pháp lý.

Câu 6: Nếu tài sản được định đoạt trong di chúc chỉ thuộc sở hữu của cụ Hương
vào đầu tháng 4/2009 thì di chúc của cụ Hương có giá trị pháp lý không? Vì sao?
- Nếu tài sản được đinh đoạt trong di chúc chỉ thuộc sở hữu của cụ Hương vào đầu
tháng 4/2009 nhưng nếu đó là tài sản được đảm bảo hình thành trong tương lại, cụ
thể theo khoản 2 Điều 320 về vật đảm thực hiên nghĩa vụ dân sự: “2. Vật dùng để
bảo đảm thực hiện nghĩa vụ dân sự là vật hiện có hoặc được hình thành trong tương
lai. Vật hình thành trong tương lai là động sản, bất động sản thuộc sở hữu của bên
bảo đảm sau thời điểm nghĩa vụ được xác lập hoặc giao dịch bảo đảm được giao
kết”. Vậy, nếu trong trường hợp, cụ Hương có thể đảm bảo vào lúc bản di chúc được
công chứng, phần tải sản trong di chúc sẽ thuộc quyền sở hữu của cụ trong tương lại
thì di chúc vẫn có giá trị pháp lý.
- Xét trong BLDS năm 2015, về tài sản hình thành trong tương lai, theo Khoản 1 Điều
108 BLDS năm 2015 quy định: “1. Tài sản hiện có là tài sản đã hình thành và chủ
thể đã xác lập quyền sở hữu, quyền khác đối với tài sản trước hoặc tại thời điểm xác
lập giao dịch”. Như vậy, nhằm để đảm bảo quyền lợi và ý chí của người mất cũng
như tài sản của họ, nếu người lập di chúc có căn cứ về tài sản hình thành trong tương
lai, di chúc của họ vẫn có giá trị pháp lý.

Câu 7: Quyết định số 58, đoạn nào cho thấy quyền sử dụng đất của cụ C và cụ
D đã bị thu hồi trước khi hai cụ chết?
- Theo quyết định số 58 ở đoạn nhận định của Tòa án cho thấy quyền sử dụng đất của
cụ C và cụ D đã bị thu hồi trước khi hai cụ chết: “Ngoài ra, di sản của cụ D, cụ C để
lại là quyền sử dụng đất tại thửa đất số 38, Tờ bản đồ số 13 đã bị thu hồi theo Quyết
định số 1208/QĐ-UBND ngày 21-7-2010 của Ủy ban nhân dân thành phố Vĩnh Yên”.
- Theo đó, ngày cụ D chết là ngày 21/01/2011 và ngày cụ C chết là ngày 07/09/2010
➔ Đều sau ngày Ủy ban nhân dân thu hồi lại quyền sử dụng đất là ngày 21/7/2010.

Câu 8: Đoạn nào của Quyết định số 58 cho thấy Tòa giám đốc thẩm xác định di
sản của cụ C và cụ D là quyền sử dụng đất? Suy nghĩ của anh chị về hướng xác
định vừa nêu của Tòa giám đốc thẩm?
- Ở đoạn nhận định của Tòa án trong Quyết định số 58 đã cho thấy Tòa giám đốc
thẩm xác định di sản của cụ C và cụ D là quyền sử dụng đất: “Ngoài ra, di sản của
cụ D, cụ C để lại là quyền sử dụng đất tại thửa đất số 38, Tờ bản đồ số 13 đã bị thu

11
hồi theo quyết định số 1208/QĐ-UBND ngày 21-7-2010 của Ủy ban nhân dân thành
phố Vĩnh Yên nhưng giá trị quyền sử dụng đất của người có đất bị thu hồi vẫn được
pháp luật bảo đảm theo quy định của Luật Đất đai nên hai cụ có quyền lập di chúc
định đoạt tài sản trên cho ông D1”.
- Theo nhóm thảo luận, hướng xác định vừa nêu của Tòa giám đốc thẩm là hợp lý.
Bởi vì, thửa đất tại xứ M là tài sản chung của cụ C và cụ D nhưng các tài liệu do ông
Y xuất trình thể hiện chỉ có cụ C chuyển nhượng cho ông Y mà chưa có ý kiến của
cụ D. Trường hợp chỉ cụ C tự ý định đoạt tài sản chung của hai cụ mà không có sự
đồng ý của cụ D thì cần xem xét tính hợp pháp của hợp đồng chuyển nhượng giữa cụ
C và ông Y.
➔ Toà giám đốc thẩm làm vậy là có căn cứ xác thực, có giấy tờ chứng cứ rõ ràng,
không thể chối cãi.

Câu 9: Đoạn nào của Quyết định số 58 cho thấy Tòa giám đốc thẩm theo hướng
cụ C và cụ D được định đoạt theo chi chúc giá trị quyền sử dụng đất bị Nhà nước
thu hồi? Suy nghĩ của anh/chị về hướng vừa nêu của Tòa giám đốc thẩm.
- Ở đoạn nhận định của Tòa án trong Quyết định số 58 đã cho thấy Toà giám đốc
thẩm theo hướng cụ C và cụ D được định đoạt theo di chúc giá trị quyền sử dụng đất
được Nhà nước thu hồi: “Ngoài ra, di sản của cụ D, cụ C để lại là quyền sử dụng đất
tại thửa đất số 38, Tờ bản đồ số 13 đã bị thu hồi theo Quyết định số 1208/QĐ-UBND
ngày 21-7-2010 của 13 Ủy ban nhân dân thành phố V nhưng giá trị quyền sử dụng
đất của người có đất bị thu hồi vẫn được pháp luật bảo đảm theo quy định của Luật
Đất đai nên hai cụ có quyền lập di chúc định đoạt tài sản trên cho ông D1”.
- Theo nhóm 2, hướng vừa nêu của Tòa giám đốc thẩm là hợp lý. Tòa giám đốc thẩm
theo hướng của cụ C và cụ D được định đoạt theo di chúc giá trị quyền sử dụng đất
bị nhà nước thu hồi là hoàn toàn hợp lý. Bởi vì, mặc dù quyền sử dụng đất tại thửa
đất số 38, Tờ bản đồ số 13 đã bị thu hồi theo Quyết định số 1208/QĐ-UBND ngày
21-7-2010 của Ủy ban nhân dân thành phố V nhưng theo khoản 2 Điều 42 Luật đất
đai: “Người bị thu hồi loại đất nào thì được bồi thường bằng việc giao đất mới có
cùng mục đích sử dụng, nếu không có đất để bồi thường thì được bồi thường bằng
giá trị quyền sử dụng đất tại thời điểm có quyết định thu hồi”
➔ Vậy ta có thể kết luận rằng hai cụ C và D vẫn có quyền lập di chúc định đoạt giá
trị quyền sử dụng đất tại thửa đất số 38 cho ông D1.

12
Vấn đề 3: DI CHÚC CHUNG CỦA VỢ CHỒNG

 Tóm tắt bản án:


- Nguyên đơn: bà Hoàng Thị H.
- Bị đơn: anh Hoàng Tuyết H.
- Nội dung vụ án: Vợ chồng ông X có khôi tài sản chung là quyền sử dụng đất số 76
tờ bản đồ số 18 ở khu 2, thị trấn S, huyện C, tỉnh Phú Thọ, diện tích đất là 967,4m2
và các tài sản khác đã được Hội đồng thẩm định và định giá tài sản ngày 21/8/2017.
Vợ chồng ông Hoàng Minh X và bà Hoàng Thị H cùng nhau lập di chúc vào ngày
10/8/2015, 12/1/2016 ông X chết, Anh H, anh H2, anh H3 không công nhận di chúc
trên là hợp pháp, bà H yêu cầu tòa án công nhận di chúc của chồng bà là hợp pháp.
Tòa án công nhận di chúc chung của ông X và bà H viết ngày 10/8/2015 là hợp pháp,
không chấp nhận yêu cầu của anh Hoàng Tuyết H và anh Hoàng Quốc H2 đòi chia di
sản của ông X.

Câu 1: Đoạn nào của bản án số 14 cho thấy di chúc có tranh chấp là di chúc
chung của vợ chồng?
Tại phần Nhận định của Tòa án có nêu rằng:
“Ngày 10/8/2015 ông X viết di chúc chung của vợ chồng, bà H cùng ký với
nội dung:
“Nay hai chúng tôi nhất trí giao lại căn nhà 4 gian, sân gạch, giếng nước ăn và
toàn bộ tài sản trong nhà từ cái nhỏ nhất, đến cái to nhất cho con trai Hoàng Hồng
H1 có số chứng minh nhân dân là số vì Hoàng Hồng H1 là người có công nuôi dưỡng
cha mẹ trong khi ốm yếu. Khi cha mẹ qua đời H1 có trách nhiệm chôn cất và thờ cúng.
Số đất thổ cư và vườn đổi H1 được hưởng thụ, còn những người con khác đã phân
chia. Nay không còn gì để cho. Vì bất hiếu với cha mẹ… Khi tôi gia đi trước vợ thì bản
di chúc này sẽ giao lại cho vợ là Hoàng Thị H. Sau khi bà Hoàng Thị H. mất sẽ giao
cho con trai Hoàng Hồng H1 sẽ quản lý sổ đất của gia đình từ trong nhà đến ngoài
đồng là H1 phải chịu trách nhiệm. Vậy kính mong UBND Thị trấn xác nhận”.

Câu 2: Theo Tòa án, di chúc của vợ chồng có giá trị pháp lý khi áp dụng BLDS
năm 2015 không? Đoạn nào của bản án cho câu trả lời.
- Di chúc của vợ chồng hoàn toàn có giá trị pháp lý khi áp dụng BLDS năm 2015.
Tại phần Quyết định của bản án có nêu rằng:
“Áp dụng điều 627, 630 Bộ luật dân sự năm 2015; khoản 1, 5 Điều 147 Bộ
luật tố tụng dân sự; điểm đ khoản 1 Điều 12, điểm a khoản 7 điều 27 Nghị quyết số:

13
326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp
quản lý và sử dụng án lệ, lệ phí Tòa án và Điều 26 Luật thi hành án dân sự.
1. Xử: Công nhận di chúc chung của ông Hoàng Minh X và bà Hoàng Thị H
viết ngày 10/8/2015 là hợp pháp”.

Câu 3: Suy nghĩ của anh/chị về hướng giải quyết trên của Tòa án về di chúc
chung của vợ chồng trong mối quan hệ với BLDS 2015.
- Theo nhóm thảo luận, hướng giải quyết của Tòa án về di chúc của vợ chồng ông X
là hợp lý. Vì căn cứ vào Điều 630 BLDS năm 2015:
“1. Di chúc hợp pháp phải có đủ các điều kiện sau đây:
a) Người lập di chúc minh mẫn, sáng suốt trong khi lập di chúc; không bị lừa
dối, đe doạ, cưỡng ép;
b) Nội dung của di chúc không vi phạm điều cấm của luật, không trái đạo đức
xã hội; hình thức di chúc không trái quy định của luật.
2. Di chúc của người từ đủ mười lăm tuổi đến chưa đủ mười tám tuổi phải
được lập thành văn bản và phải được cha, mẹ hoặc người giám hộ đồng ý về việc lập
di chúc.
3. Di chúc của người bị hạn chế về thể chất hoặc của người không biết chữ
phải được người làm chứng lập thành văn bản và có công chứng hoặc chứng thực.
4. Di chúc bằng văn bản không có công chứng, chứng thực chỉ được coi là
hợp pháp, nếu có đủ các điều kiện được quy định tại khoản 1 Điều này.
5. Di chúc miệng được coi là hợp pháp nếu người di chúc miệng thể hiện ý chí
cuối cùng của mình trước mặt ít nhất hai người làm chứng và ngay sau khi người di
chúc miệng thể hiện ý chí cuối cùng, người làm chứng ghi chép lại, cùng ký tên hoặc
điểm chỉ. Trong thời hạn 05 ngày làm việc, kể từ ngày người di chúc miệng thể hiện
ý chí cuối cùng thì di chúc phải được công chứng viên hoặc cơ quan có thẩm quyền
chứng thực xác nhận chữ ký hoặc điểm chỉ của người làm chứng”.
- Tuy di chúc không có chứng thực nhưng bản án nêu rằng ông X khi viết di chúc
hoàn toàn tỉnh táo, minh mẫn không có dấu hiệu của ép buộc. Ngoài ra anh H khi cho
rằng bản di chúc không phải do ông X viết lại không thể đưa ra chứng cứ để chứng
minh được điều anh H nói là chính xác và trong quá trình điều tra các cơ quan thẩm
quyền đã đối chiếu xác nhận bản di chúc là do ông X viết. Vậy nên bản di chúc của
vợ chồng ông X là hoàn toàn hợp pháp.

14
Vấn đề 4: DI SẢN DÙNG VÀO VIỆC THỜ CÚNG

 Tóm tắt Bản án số 211/2009/DSPT ngày 16/9/2009 của Tòa án nhân dân
Huyện Long Thành, tỉnh Đồng Nai.
- Nguyên đơn: Anh Phan Văn Được.
- Bị đơn: Anh Phan Văn Tân và Chị Phan Thị Hương.
- Nội dung vụ án: Ông Mười (chết năm 1972) và bà Lùng (chết năm 2005) có 07
người con là Thảo, Tân, Xuân, Nhành, Hoa, Được và Hương. Năm 2004, bà Lùng
lập di chúc để lại nhà đất cho 07 anh chị em đồng thừa hưởng để thờ cúng cha mẹ,
hiện tại người quản lý di sản hợp pháp là anh Được. Nay nguyên đơn yêu cầu chia di
sản thừa kế của mẹ anh cho 07 anh chị em (có 5/7 anh chị em đồng ý), anh Được sở
hữu sử dụng nhà đất và chia bằng tiền cho 06 anh chị em giá trị tương ứng với phần
di sản được hưởng.
- Quyết định của Tòa án: Chấp nhận yêu cầu của nguyên đơn với bị đơn và những
người có nghĩa vụ liên quan.

Câu 1: Trong điều kiện nào di sản dùng vào việc thờ cúng có giá trị pháp lý?
Nêu cơ sở pháp lý khi trả lời.
- Điều kiện di sản dùng vào việc thờ cúng có giá trị pháp lý khi:
+ Người lập di chúc để lại một phần di sản dùng vào việc thờ cúng;
+ Di sản không được chia thừa kế;
+ Do người được chỉ định trong di chúc quản lý để thực hiện việc thờ cúng;
+ Trường hợp không có người được chỉ định để quản lý di sản thờ cúng thì những
người thừa kế cử người quản lý;
+ Trường hợp tất cả những người thừa kế theo di chúc đều đã chết thì phần di sản
thờ cúng thuộc về người đang quản lý hợp pháp di sản trong số những người thừa kế
theo pháp luật.
- Cơ sở pháp lý: Khoản 1 Điều 645 BLDS năm 2015.

Câu 2: Đoạn nào của bản án cho thấy di sản có tranh chấp được di chúc dùng
vào việc thờ cúng?
- Trích Bản án: “Tại tờ di chúc ngày 08 tháng 7 năm 2004 bà Lùng để lại nhà đất
cho 7 người con đồng thừa hưởng để thờ cúng cha mẹ, anh Được là người quản lý
di sản, hiện tại 5/7 anh chị em của anh Được đồng ý chia di sản và giao cho anh
Được sở hửu di sản là có cơ sở chấp nhận”.

15
Câu 3: Các điều kiện để di sản dùng vào việc thờ cúng một cách hợp pháp có
được thỏa mãn trong vụ việc đang nghiên cứu không?
- Dựa trên cơ sở pháp lý tại Khoản 1 Điều 645 BLDS năm 2015: “Trường hợp người
để lại di sản không chỉ định người quản lý di sản thờ cúng thì những người thừa kế
cử người quản lý di sản thờ cúng” thì các điều kiện để di sản dùng vào việc thờ cúng
một cách hợp pháp có được thỏa mãn trong vụ việc đang nghiên cứu.
- Bởi vì theo tờ di chúc được bà Lùng lập vào năm 2004 có ghi nhận để lại nhà đất
cho 07 người con đồng thừa hưởng để thờ cúng cha mẹ nhưng không chỉ định ai là
người quản lý di sản. Hiện nay, đã có 5/7 anh chị em của anh Được đồng ý cho anh
sở hữu di sản nên việc anh là người quản lý di sản hợp pháp là đúng theo quy định
của pháp luật.

Câu 4: Ai đồng ý và ai không đồng ý chia di sản dùng vào việc thờ cúng trong
vụ tranh chấp này? Đoạn nào của bản án cho câu trả lời?
- Trích Bản án: “Ngày 08 tháng 7 năm 2004 mẹ anh lập di chúc để lại nhà đất cho
07 anh chị em, hiện tại anh quản lý nhà đất, năm 2005 năm anh chị em họp lại chia
di sản của mẹ anh, nhưng anh Tân và chị Hương không đồng ý”.
- Như vậy, ngoài anh Tân và chị Hương thì 05 anh chị em còn lại đều đồng ý chia di
sản dùng vào việc thờ cúng trong vụ tranh chấp này.

Câu 5: Cuối cùng Tòa án có chấp nhận chia di sản đã được di chúc dùng vào
việc thờ cúng không? Đoạn nào của bản án cho câu trả lời?
- Trích Bản án:
Tại tờ di chúc ngày 08 tháng 7 năm 2004 bà Lùng để lại nhà đất cho 7 người
con đồng thừa hưởng để thờ cúng cha mẹ, anh Được là người quản lý di sản, hiện tại
5/7 anh chị em của anh Được đồng ý chia di sản và giao cho anh Được sở hửu di sản
là có cơ sở chấp nhận.
[…] Vì vậy anh Được được sở hữu phần của anh Thảo, anh Xuân, anh Nhành,
chị Hoa và phần của anh Được tổng số là 187.120.000đ, anh Được phải thanh toán
cho anh Tân, chị Hương mỗi người là 37.424.000đ.
- Như vậy, Tòa án đã chấp nhận chia di sản đã được di chúc dùng vào việc thờ cúng.

Câu 6: Suy nghĩ của anh/chị về chế định di sản dùng vào việc thờ cúng trong
BLDS và giải pháp của Tòa án trong vụ việc đang được nghiên cứu.
- BLDS hiện hành quy định về chế định di sản dùng vào việc thờ cúng còn khá chung
chung, vẫn chưa cụ thể. Điển hình, ở việc xác định “một phần di sản” để lại là bao

16
nhiêu thì phụ thuộc vào mỗi Tòa án, chưa có sự thống nhất trong hệ thống pháp luật
hiện hành. Từ lý do trên, chúng ta hoàn toàn có thể hiểu rằng ngoại trừ việc người lập
di chúc minh định ý chí của mình là để lại toàn bộ tài sản cho việc thờ cúng thì những
trường hợp còn lại đều được xác định là “một phần”. Nếu không khắc phục được
tình trạng này thì có thể sẽ dẫn đến những tranh chấp về di sản, bởi trong một số tình
huống bên cạnh bất động sản được để lại cho việc thờ cúng vẫn sẽ có những động sản
với giá trị không đáng kể khác thuộc quyền sở hữu của người lập di chúc.
- Nhận xét về giải pháp của Tòa án trong Bản án trên như sau:
+ Từ Bản án, khẳng định được rằng Tòa án đã chấp nhận phần di sản đang tranh
chấp là được dùng vào việc thờ cúng, đảm bảo tôn trọng ý chí của người lập di chúc.
Đây là điểm tiến bộ của vụ án.
+ Tuy nhiên, bên cạnh đó vẫn có sự hạn chế trong quyết định của Tòa án. Bởi nếu
đã xác định đây là di sản dùng vào việc thờ cúng thì đáng ra Tòa không được chia
thừa kế di sản trên. Điều này đã được quy định rất rõ trong Khoản 1 Điều 670 BLDS
năm 2005 như sau: “Trong trường hợp người lập di chúc có để lại một phần di sản
dùng vào việc thờ cúng thì phần di sản đó không được chia thừa kế…” (được BLDS
năm 2015 kế thừa và quy định trong Khoản 1 Điều 645). Bên cạnh đó, Tòa cũng đảm
bảo được tính tôn trọng ý chí của người lập di chúc.
+ Từ Bản án, có thể thấy rằng Tòa án đã thiếu kĩ càng trong bước ban đầu khi xác
định di sản của bà Lùng để lại có nên được xem là di sản được dùng vào việc thờ
cúng hay không. Bởi theo quy định của BLDS năm 2005 thì người lập di chúc chỉ
được phép để lại “một phần” di sản của mình dành cho việc thờ cúng. Nếu hiểu di
sản với nghĩa là toàn bộ tài sản thuộc quyền sở hữu của một người để lại sau khi chết
thì theo cách ghi của Tòa án trong phần xét thấy, chúng ta có thể hiểu rằng Tòa đã
xác định đây là toàn bộ di sản của bà Lùng đã để lại. Mà nếu đã xác định đây là toàn
bộ di sản của bà Lùng thì đã trái với quy định của pháp luật về di sản dùng vào việc
thờ cúng. Và nếu trái với quy định thì việc 5/7 người con yêu cầu chia tài sản thừa kế
là hợp lý theo Điểm a Khoản 1 Điều 676 BLDS năm 2005 (Điểm a Khoản 1 Điều
651 BLDS năm 2015).

17

You might also like