You are on page 1of 16

PHẦN I: DI SẢN THỪA KẾ

Tóm tắt Bản án số 08/2020/DSST ngày 28/8/2020 của Tòa án Nhân dân thành phố
Vĩnh Yên tỉnh Vĩnh Phúc:

- Nguyên đơn: Ông Trần Văn Hòa

- Bị đơn: Anh Trần Hoài Nam và Chị Trần Thanh Hương

- Nội dung: Bà Cao Thị Mai và ông Trần Văn Hòa kết hôn với nhau năm 1980. Quá
trình hôn nhân, hai ông bà có hai con chung là anh Nam và chị Hương. Tài sản của
ông Hòa, bà Mai gồm: 01 ngôi nhà 3 tầng, sân tường bao quanh và một lán bán hàng
xây dựng năm 2006, trên diện tích đất 169,5m2 (trong đó, diện tích được cấp giấy
chứng nhận quyền sử dụng đất mang tên ông Hòa là 84m2, còn lại 85,5m2 còn lại ông
Hòa sử dụng ổn định và không có tranh chấp), địa chỉ thửa đất tại số nhà 257 đường
Nguyễn Viết Xuân, phường Đống Đa, thành phố Vĩnh Yên, tỉnh Vĩnh Phúc. Theo
biên bản thẩm định tài sản và định giá tài sản ngày 21/02/2020, tổng tài sản có trị giá
là 6.127.665.000đ. Tài sản các đương sự có tranh chấp: tiền cho thuê nhà và lán bán
hàng từ tháng 3/2018 đến thời điểm xét xử do ông Hòa đang quản lý; tiền cho thuê lán
bán hàng của năm 2017, 2018 do chị Hương quản lý. Đối với đề nghị của anh Nam và
chị Hương, yêu cầu xác định diện tích đất 85,5m2 chưa được cấp giấy chứng nhận
quyền sử dụng đất là tài sản chung của gia đình, đề nghị này không được Hội đồng xét
xử chấp nhận. Đối với diện tích đất tăng 85,5m2 chưa được cấp giấy chứng nhận
quyền sử dụng đất Hội đồng xét xử xem xét các vấn đề để quyết định. Từ các lập luận,
tổng giá trị tài sản chung của ông Hòa và bà Mai là 6.151.614.500đ. Tài sản được hình
thành trong thời kỳ hôn nhân và được hình thành từ tài sản của hôn nhân nên được
chia đôi cho ông Hòa và bà Mai mỗi người ½ giá trị. Ngày 31/07/2017, bà Mai chết và
không để lại di chúc nên di sản của bà Mai được phân chia theo pháp luật. Hiện ông
Hòa đã lấy vợ mới, và đăng ký hộ khẩu tạm trú tại huyện Phú Ninh, tỉnh Phú Thọ, nhà
đất tranh chấp chủ yếu là cho thuê.

- Quyết định của Tòa án: Tòa án quyết định chia cho ông Hòa số tài sản tổng trị giá
2.220.664.000đ; diện tích đất 38,4 m2 ông Hòa có nghĩa vụ liên hệ cơ quan Nhà nước
có thẩm quyền cấp giấy chứng nhận sau khi đã thực hiện nghĩa vụ thuế; chia cho anh
Nam số tài sản tổng trị giá 4.207.001.000đ; diện tích đất 47,1 m2 anh Nam có nghĩa
vụ liên hệ cơ quan Nhà nước có thẩm quyền cấp giấy chứng nhận sau khi đã thực hiện
nghĩa vụ thuế; ông Hòa quản lý giấy chứng nhận quyền sử dụng đất; chia cho chị
Hương quyền sở hữu số tiền thuê 30.000.000đ; buộc anh Nam thanh toán chênh lệch
về tài sản cho ông Hòa số tiền 1.880.412.000đ.

Tóm tắt Án lệ số 16/2017/AL của Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao:

- Tên quyết định : Quyết định giám đốc thẩm 573/2013/DS-GĐT về vụ án dân sự
tranh chấp thừa kế tài sản.

- Nguyên đơn : Ông Phùng Thị H1

- Bị đơn : Phùng Văn T

- Người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan: Phùng Thị H3


- Nội dung: Bố mẹ nguyên đơn là ông Phùng Văn N và bà Phùng Thị G có tài sản
chung là 01 ngôi nhà cấp 4 cùng công trình phụ trên diện tích đất 398m2 ở tại khu L,
phường M, thành phố N, tỉnh Vĩnh Phúc. Ngày 07-7-1984 ông Phùng Văn N chết
(trước khi chết không để lại di chúc), bà Phùng Thị G và anh Phùng Văn T quản lý và
sử dụng nhà đất trên. Năm 1991, bà Phùng Thị G chuyển nhượng cho ông Phùng Văn
K diện tích 131m2; phần diện tích đất còn lại của thửa đất là 267,4m2. Năm 1999 bà
Phùng Thị G đã được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, diện tích 267,4m2, bà
Phùng Thị G cùng vợ chồng anh Phùng Văn T vẫn quản lý sử dụng nhà đất này. Việc
bà Phùng Thị G chuyển nhượng đất cho ông Phùng Văn K các con bà Phùng Thị G
đều biết, nhưng không ai có ý kiến phản đối gì, các con của bà Phùng Thị G có lời
khai bà Phùng Thị G bán đất để lo cuộc sống của bà và các con. Nay ông Phùng Văn
K cũng đã được cơ quan nhà nước cấp giấy chứng nhận quyền sửdụng đất. Tuy nhiên,
Tòa án cấp sơ thẩm lại xác định di sản là tổng diện tích đất 398m2 (bao gồm cả phần
đất đã bán cho ông Phùng Văn K) để chia. Tòa án cấp phúc thẩm xét xử lại, không
đưa diện tích đất bà Phùng Thị G đã bán cho ông Phùng Văn K vào khối tài sản để
chia. Tiếp đó, bà Phùng Thị G muốn cho con gái là chị Phùng Thị H1 một phần diện
tích đất của bà để làm nhà ở nhưng anh Phùng Văn T vẫn giữ giấy chứng nhận quyền
sử dụng đất sau khi đã được Tòa án yêu cầu trả. Chính vì vậy, bà Phùng Thị G không
tách đất cho chị Phùng Thị H1 được. Tháng 03/2010 bà Phùng Thị G đã lập di chúc
với nội dung: “Để lại cho chị Phùng Thị H1 diện tích đất 90m2 và toàn bộ cây cối lâm
lộc trên diện tích đất”. Ngày 19-12-2010 bà Phùng Thị G chết. Tuy nhiên, diện tích
267m2 đất đứng tên bà Phùng Thị G nhưng được xác định là tài sản chung của vợ
chồng ông Phùng Văn N và bà Phùng Thị G. Bà Phùng Thị G chỉ có quyền định đoạt
1/2 diện tích đất trong tổng diện tích 267m2 đất chung của vợ chồng bà. Ngoài ra, đối
với 1/2 diện tích đất trong tổng diện tích 267m2 đất chung của vợ chồng là phần di sản
của ông Phùng Văn N để lại nay đã hết thời hiệu chia thừa kế, anh Phùng Văn T là
một trong các thừa kế không đồng ý chia nên không đủ điều kiện để chia tài sản chung
nên phần diện tích đất này ai đang quản lý, sử dụng thì được tiếp tục quản lý, sử dụng.

Câu 1:Di sản là gì và có bao gồm nghĩa vụ của người quá cố hay không? Nêu cơ sở
pháp lý khi trả lời.

Theo Điều 612 BLDS 2015, di sản bao gồm "Tài sản riêng của người chết,
phần tài sản của người chết trong tài sản chung của người khác".

Theo Khoản 1 Điều 615 BLDS 2015 thì “Những người hưởng thừa kế có trách
nhiệm thực hiện nghĩa vụ tài sản trong phạm vi di sản do người chết để lại, trừ trường
hợp có thoả thuận khác". Có thể hiểu rằng trước khi chia di sản, những người thừa kế
phải thanh toán các nghĩa vụ không phải với tư cách là chủ thể của nghĩa vụ do họ xác
lập mà thực hiện các nghĩa vụ của người chết bằng chính tài sản của người chết. Như
vậy, di sản không bao gồm nghĩa vụ của người quá cố. 1

Câu 2: Khi tài sản do người quá cố để lại ở thời điểm mở thừa kế bị thay thế bởi
một tài sản mới sau đó thì tài sản mới có là di sản không? Vì sao?

Khi tài sản do người quá cố để lại ở thời điểm mở thừa kế bị thay thế bởi một
tài sản mới sau đó thì tài sản mới phải được xem xét nguyên nhân, mục đích thay thế
thì mới được coi là di sản. Cụ thể:
Nguyên nhân thay thế là nguyên nhân chủ quan: Nếu vì lý do chủ quan mà di
sản thừa kế bị làm hư hỏng hoặc bị bán mà không có sự đồng ý của các đồng thừa kế
thì giá trị phần di sản vẫn được coi là di sản thừa kế và người làm thất thoát di sản có
trách nhiệm trả lại phần giá trị làm thất thoát để chia thừa kế. Hướng giải quyết này
chưa được quy định trong văn bản nhưng rất thuyết phục và được áp dụng cả đối với
trường hợp di sản được thay thế bằng một khoản tiền như tiền đền bù. Thực tế còn cho
thấy, khi di sản bị bán cho người khác, Tòa án nhân dân tối cao cũng có định hướng
tiền từ việc bán (chuyển nhượng) là di sản và trong trường hợp Tòa án đã giao di sản
cho một người không được hưởng (và bản án đã có hiệu lực pháp luật), người được
giao sở hữu tài sản phải thanh toán giá trị tài sản và giá trị này cũng được chia như di
sản. Tương tự như vậy khi Tòa án giao di sản cho một người thừa kế và người thừa kế
chuyển nhượng di sản cho người khác nhưng sau đó quyết định giao di sản bị hủy thì
di sản được chuyển thành tiền và người nhận tiền phải chia cho những người thừa kế
tiền đã nhận. 2

Nguyên nhân thay thế là nguyên nhân khách quan như: bão, lũ, hỏa hoạn hoặc
các thảm họa tự nhiên. Ví dụ: Ông A chết để lại di sản thừa kế là ngôi nhà, nhưng do
hỏa hoạn làm cho ngôi nhà thiêu cháy rụi hoàn toàn và không còn giá trị sử dụng.
Trước thời điểm mở thừa kế ngôi nhà khác được xây dựng thay thế ngôi nhà này. Khi
đó ngôi nhà mới này sẽ được coi là di sản thừa kế mà ông A để lại. Tuy nhiên, nếu có
người bỏ công sức, tiền bạc ra để thay thế tài sản cũ thì cần phải ghi nhận công sức
này và chi trả cho họ ứng với phần họ đã bỏ ra.

Vì vậy, nên xem tài sản mới thay thế phần tài sản do người chết để lại là di sản
để chia thừa kế nhằm đảm bảo quyền lợi của người nhận thừa kế.

Câu 3: Để được coi là di sản, theo quy định pháp luật, quyền sử dụng đất của
người quá cố có cần phải đã được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất không?
Nêu cơ sở pháp lý khi trả lời.

Theo Điều 612 Bộ Luật Dân sự 2015: “Di sản bao gồm tài sản riêng của
người chết, phần tài sản của người chết trong tài sản chung với người khác.” Như
vậy, để được xem là di sản thì trước hết đó phải là tài sản của người chết lúc họ còn
sống.

Căn cứ theo quy định tại Khoản 16 Điều 3 Luật Đất đai 2013: “Giấy chứng
nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất là chứng
thư pháp lý để Nhà nước xác nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở, tài sản
khác gắn liền với đất hợp pháp của người có quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở
và quyền sở hữu tài sản khác gắn liền với đất.” Như vậy, người sử dụng đất đứng tên
giấy chứng nhận quyền sử dụng đất thì được nhà nước công nhận quyền sử dụng đất
về mặt pháp lý.

Theo Điều 168 Luật Đất đai 2013: “Người sử dụng đất được thực hiện các
quyền chuyển nhượng, cho thuê, cho thuê lại, tặng cho, thế chấp, góp vốn quyền sử
dụng đất khi có Giấy chứng nhận.” Như vậy, về nguyên tắc chỉ khi có Giấy chứng
nhận người sử dụng đất mới có đầy đủ quyền và nghĩa vụ của người sử dụng đất,
trong đó bao gồm quyền để lại di sản thừa kế. Hay nói cách khác, để được coi là di
sản, theo quy định pháp luật, quyền sử dụng đất của người quá cố cần phải đã được
cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất.
Câu 4: Trong bản án số 08, Tòa án có coi diện tích đất tăng 85,5m2 chưa được cấp
giấy chứng nhận quyền sử dụng đất là di sản không? Đoạn nào của bản án có câu
trả lời trên?

Trong bản án số 08, Tòa án coi diện tích đất tăng 85,5m2 chưa được cấp giấy
chứng nhận quyền sử dụng đất không phải là di sản. Đoạn trích của bản án cho thấy
câu trả lời trên là: “Đối với diện tích đất tăng 85,5m2 chưa được cấp giấy chứng nhận
quyền sử dụng đất: tại phiên tòa đại diện Viện kiểm sát nhận định và lập luận cho
rằng không được coi là di sản thừa kế, cần tiếp tục tạm giao cho ông Hòa có trách
nhiệm thực hiện nghĩa vụ tài chính với Nhà nước để được cấp giấy chứng nhận quyền
sử dụng đất...Đây vẫn là tài sản ông Hòa và bà Mai, chỉ có điều là các đương sự phải
thực hiện nghĩa vụ thuế đối với nhà nước, nếu không xác định là di sản thừa kế và
phân chia thì sẽ ảnh hưởng đến quyền và lợi ích hợp pháp của các bên đương sự.
Phần đề nghị này của đại diện viện kiểm sát không được hội đồng xét xử chấp nhận.
Các đề nghị khác đại diện Viện kiểm sát tại phiên toà là có căn cứ, được Hội đồng xét
xử xem xét và quyết định.”

Câu 5: Suy nghĩ của anh/chị về hướng xử lý nêu trên của Toà án trong Bản án số
08 về diện tích đất chưa được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất.

Theo hướng xử lý của Tòa án trong Bản án số 08 về diện tích đất chưa được
cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất như vậy là hoàn toàn phù hợp. Theo Điều 621
BLDS 2015: “Di sản bao gồm tài sản riêng của người chết, phần tài sản của người
chết trong tài sản chung với người khác.” Sau khi bà Mai mất thì phần đất này được
giao cho ông Hòa thực hiện nghĩa vụ tài chính với Nhà nước và được cấp giấy chứng
nhận quyền sở hữu cho ông Hoà. Do đó đây là tài sản riêng của ông Hòa chứ không
phải tài sản chung giữa ông Hòa và bà Mai, dẫn đến việc phần đất này không còn là di
sản của bà Mai.

Câu 6: Ở Án lệ số 16/2017/AL, trong diện tích 398m2 đất, phần di sản của Phùng
Văn N là bao nhiêu? Vì sao?
Ở Án lệ số 16/2017/AL, trong diện tích 398m2 đất, phần di sản của Phùng Văn
N là 133,5m2. Vì trong tổng diện tích 398m2 đất thì đã chuyển nhượng 131m2 đất
cho ông Phùng Văn K. Phần còn lại 267m2 đất là tài sản chung của vợ chồng ông N
và bà G nên được chia một nửa là 133,5m2 cho mỗi người.

Câu 7: Theo Án lệ trên, phần diện tích đất đã chuyển nhượng cho ông Phùng Văn
K có được coi là di sản để chia không? Vì sao?
Theo Án lệ trên, phần diện tích đất đã chuyển nhượng cho ông Phùng Văn K
không được coi là di sản vì phần đất tổng 398 m2 là tài sản chung của 2 vợ chồng ông
Phùng Văn N và bà Phùng Thị G, nhưng bà G đã chuyển nhượng quyền sử dụng đất
lại cho ông Phùng Văn K với diện tích là 131m2. Việc chuyển nhượng này các con
của bà G đều biết nhưng không phản đối và cơ quan nhà nước cũng đã cấp giấy chứng
nhận quyền sử dụng đất cho bà G với diện tích là 267,4 m2 và cho ông K với diện tích
đất là 131m2.
Đoạn văn trong Án lệ thể hiện câu trả lời là: “Năm 1991, bà Phùng Thị G
chuyển nhượng cho ông Phùng Văn K diện tích 131m2 trong tổng diện tích 398m2
của thửa đất trên; phần diện tích đất còn lại của thửa đất là 267,4m2. Năm 1999 bà
Phùng Thị G đã được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, diện tích 267,4m2, bà
Phùng Thị G cùng vợ chồng anh Phùng Văn T vẫn quản lý sử dụng nhà đất này. Việc
bà Phùng Thị G chuyển nhượng đất cho ông Phùng Văn K các con bà Phùng Thị G
đều biết, nhưng không ai có ý kiến phản đối gì, các con của bà Phùng Thị G có lời
khai bà Phùng Thị G bán đất để lo cuộc sống của bà và các con. Nay ông Phùng Văn
K cũng đã được cơ quan nhà nước cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất. Vì vậy, có
cơ sở để xác định các con bà Phùng Thị G đã đồng ý để bà Phùng Thị G chuyển
nhượng diện tích 131m2 nêu trên cho ông Phùng Văn K. Tòa án cấp phúc thẩm không
đưa diện tích đất bà Phùng Thị G đã bán cho ông Phùng Văn K vào khối tài sản để
chia là có căn cứ. Tòa án cấp sơ thẩm xác định di sản là tổng diện tích đất 398m2
(bao gồm cả phần đất đã bán cho ông Phùng Văn K) để chia là không đúng.”
Như vậy, phần đất đã chuyển nhượng là 131 m2 là tài sản của ông K và khi bà
G chết thì phần đất này không trở thành di sản của bà vì phần đất đã chuyển nhượng
đó không phải là tài sản riêng hay tài sản chung với người khác của bà G, căn cứ theo
Điều 612 BLDS 2015: “Di sản bao gồm tài sản riêng của người chết, phần tài sản
của người chết trong tài sản chung với người khác.”

Câu 8: Suy nghĩ của anh/chị về hướng giải quyết trong Án lệ trên liên quan đến
phần diện tích đã chuyển nhượng cho ông Phùng Văn K.
Theo em, hướng giải quyết của Án lệ trên là hợp lý khi quyết định không đưa
131m2 đất đã bán cho ông K vào phần di sản để chia thừa kế. Vì toà án đã nhận định
rằng việc bà Phùng Thị G chuyển nhượng đất cho ông Phùng Văn K là để lo cho cuộc
sống của bà và các con, đồng thời các con bà của bà đều biết nhưng không ai phản đối
gì. Ông K cũng đã được cơ quan nhà nước cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất.
Đó là cơ sở để xác nhận các con bà Phùng Thị G đã đồng ý để bà chuyển nhượng
phần đất nêu trên cho ông K. Vậy nên hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất
giữa bà G và ông K là hợp pháp và diện tích đất đã chuyển nhượng không còn trong
khối di sản để chia thừa kế mà thuộc quyền sử dụng của bên nhận chuyển là ông K.
Theo Điều 223 về việc xác lập quyền sở hữu theo hợp đồng như sau: “Người được
giao tài sản thông qua hợp đồng mua bán, tặng cho, trao đổi, cho vay hoặc hợp đồng
chuyển quyền sở hữu khác theo quy định của pháp luật thì có quyền sở hữu tài sản
đó”. Vì thế, lúc này ông K có quyền sở hữu tài sản trong hợp đồng là 131m2.

Câu 9: Nếu bà Phùng Thị G bán đất trên không để lo cuộc sống của các con mà
dùng cho tiền đó cho cá nhân bà Phùng Thị G thì số tiền đó có được coi là di sản
để chia không? Vì sao?
Nếu bà Phùng Thị G bán đất trên không để lo cuộc sống của các con mà dùng
cho tiền đó cho cá nhân bà Phùng Thị G thì số tiền đó không được coi là di sản để
chia. Bởi vì nếu xét tài sản chung của vợ chồng bà G và ông N là 398m2 đất, sau khi
ông N mất, không để lại di chúc thì tài sản chung này sẽ được chia đôi là 196m2 đất
theo quy định tại Điều 66 Luật Hôn nhân và Gia đình 2014:
“1. Khi một bên vợ, chồng chết hoặc bị Tòa án tuyên bố là đã chết thì bên còn sống
quản lý tài sản chung của vợ chồng, trừ trường hợp trong di chúc có chỉ định người
khác quản lý di sản hoặc những người thừa kế thỏa thuận cử người khác quản lý di
sản.
2. Khi có yêu cầu về chia di sản thì tài sản chung của vợ chồng được chia đôi, trừ
trường hợp vợ chồng có thỏa thuận về chế độ tài sản. Phần tài sản của vợ, chồng chết
hoặc bị Tòa án tuyên bố là đã chết được chia theo quy định của pháp luật về thừa kế.
3. Trong trường hợp việc chia di sản ảnh hưởng nghiêm trọng đến đời sống của vợ
hoặc chồng còn sống, gia đình thì vợ, chồng còn sống có quyền yêu cầu Tòa án hạn
chế phân chia di sản theo quy định của Bộ luật dân sự.
4. Tài sản của vợ chồng trong kinh doanh được giải quyết theo quy định tại các khoản
1, 2 và 3 Điều này, trừ trường hợp pháp luật về kinh doanh có quy định khác.”
Bà G, các con chung của 2 vợ chồng đều thuộc hàng thừa kế thứ nhất theo quy định
tại điểm a Khoản 1 Điều 651 BLDS 2015: “Hàng thừa kế thứ nhất gồm: vợ, chồng,
cha đẻ, mẹ đẻ, cha nuôi, mẹ nuôi, con đẻ, con nuôi của người chết” nên đều được chia
thừa kế như nhau.
Còn nếu bà G tự ý bán 131m2 đất cho ông K, không có sự đồng ý của các con
và dùng tiền đó cho cá nhân mình chứ không vì lợi ích của các con thì xem như bà đã
bán một phần đất của mình trong khối tài sản chung của hai vợ chồng. Việc mua bán
này sẽ không ảnh hưởng đến phần tài sản mà các đồng thừa kế khác được hưởng.

Câu 10: Ở thời điểm bà Phùng Thị G chết, di sản của bà Phùng Thị G trong diện
tích đất trên là bao nhiêu? Vì sao?

Ở thời điểm bà Phùng Thị G chết, di sản của bà Phùng Thị G trong diện tích
đất trên là 1/2 diện tích 267m2 đất (133,5m2) vì theo nhận định của Toà, tài sản tuy
mang tên của bà Phùng Thị G nhưng vì được hình thành trong thời kỳ hôn nhân nên
phải xác định đây là tài sản chung của ông Phùng Văn N và bà Phùng Thị G theo
Khoản 1 Điều 33 Luật hôn nhân gia đình 2014:

“1. Tài sản chung của vợ chồng gồm tài sản do vợ, chồng tạo ra, thu nhập do lao
động, hoạt động sản xuất, kinh doanh, hoa lợi, lợi tức phát sinh từ tài sản riêng và thu
nhập hợp pháp khác trong thời kỳ hôn nhân, trừ trường hợp được quy định tại khoản
1 Điều 40 của Luật này; tài sản mà vợ chồng được thừa kế chung hoặc được tặng cho
chung và tài sản khác mà vợ chồng thỏa thuận là tài sản chung.

Quyền sử dụng đất mà vợ, chồng có được sau khi kết hôn là tài sản chung của vợ
chồng, trừ trường hợp vợ hoặc chồng được thừa kế riêng, được tặng cho riêng hoặc
có được thông qua giao dịch bằng tài sản riêng.”

Vì vậy, bà Phùng Thị G chỉ có quyền định đoạt 1/2 diện tích đất trong tổng
diện tích 267m2 đất chung của vợ chồng bà và khi bà G chết, phần di sản của bà
Phùng Thị G chính là 1/2 diện tích đất trên là 133,5m2 căn cứ theo Điều 612 BLDS
2015: “Di sản bao gồm tài sản riêng của người chết, phần tài sản của người chết
trong tài sản chung với người khác.”

Câu 11: Việc Tòa án xác định phần còn lại của di sản của bà Phùng Thị G là
43,5m2 có thuyết phục không? Vì sao? Đây có là nội dung của Án lệ số 16 không?
Vì sao?
Việc Tòa án xác định phần còn lại của di sản của bà Phùng Thị G là 43,5m2 là
không thuyết phục vì di sản lúc này của ông N (đã trừ đi phần đất bán cho ông K) là
267m2 : 2 = 133,5m2 sẽ được chia đều cho hàng thừa kế thứ nhất căn cứ theo điểm a
Khoản 1 Điều 651 BLDS 2015: “Hàng thừa kế thứ nhất gồm: vợ, chồng, cha đẻ, mẹ
đẻ, cha nuôi, mẹ nuôi, con đẻ, con nuôi của người chết”. Bà G và 6 người con, nên
phần mà bà G nhận được là: 133,5 : 7 = ~19,07m2. Vậy trên thực tế, phần di sản mà
bà G để lại (trừ đi phần diện tích bà cho chị H1) là: 133,5m2 + 19,07m2 - 90m2 =
62,57m2

Đây không phải nội dung án lệ số 16 vì phần nội dung án lệ số 16 là xác nhận
phần di sản bà G chuyển nhượng cho ông K là hợp pháp do 1 trong các đồng thừa kế
chuyển nhượng. Hay nói cách khác thì án lệ này chỉ có nội dung xoay quanh việc
công nhận hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất là di sản thừa kế do một trong
các đồng thừa kế chuyển nhượng

Câu 12: Việc Tòa án quyết định “còn lại là 43,5m2 được chia cho 5 kỷ phần còn
lại” có thuyết phục không? Vì sao? Đây có là nội dung của Án lệ số 16 không? Vì
sao?

Việc Tòa án quyết định “còn lại 43,5m2 được chia cho 5 kỷ phần còn lại” là
không thuyết phục. Vì phần đất 43,5m2 còn lại là phần di sản được chia theo pháp
luật, đáng ra phải được chia đều cho 06 người con thuộc hàng thừa kế thứ nhất, tức
bao gồm cả chị Phùng Thị H1. Việc chị Phùng Thị H1 được bà Phùng Thị G chia di
sản theo di chúc không hề ảnh hưởng đến quyền thừa kế của chị, bởi vậy Tòa án quyết
định chỉ chia cho 05 người con còn lại là không đảm bảo quyền lợi cho chị Phùng Thị
H1.

Đây không phải là nội dung của Án lệ số 16/2017/AL. Vì nội dung của Án lệ
số 16 nằm ở đoạn 2 phần Nhận định của Tòa án, là về việc công nhận hợp đồng
chuyển nhượng quyền sử dụng đất là di sản thừa kế do một trong các đồng thừa kế
chuyển nhượng. Các đồng thừa kế khác biết và không phản đối việc chuyển nhượng
đó. Số tiền nhận chuyển nhượng đã được dùng để lo cuộc sống của các đồng thừa kế.
Bên nhận chuyển nhượng đã được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất. Tức là về
việc bà Phùng Thị G đã chuyển nhượng một phần quyền sử dụng đất cho ông Phùng
Văn K.

PHẦN II: QUẢN LÝ DI SẢN

Tóm tắt Bản án số 11/2020/DS-PT ngày 10/6/2020 của Tòa án nhân dân tỉnh Sơn
La:
- Nguyên đơn: Anh Phạm Tiến H

- Bị đơn: Anh Phạm Tiến N

- Nội dung: Quan hệ pháp luật tranh chấp giữa nguyên đơn Phạm Tiến H và bị đơn Phạm
Tiến N là: “Tranh chấp quyền quản lý di sản thừa kế”.

Bố mẹ của nguyên đơn Phạm Tiến H là ông Phạm Tiến Đ, bà Đoàn Thị T khi còn sống có tạo
dựng được một khối tài sản gồm diện tích 311m 2 đất và 01 ngôi nhà gỗ 4 gian; diện tích đất
đã được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất mang tên bà Đoàn Thị T tại tiểu khu C, thị
trấn nông trường M, huyện M, tỉnh Sơn La. Năm 1994, ông Đ chết, đến năm 2012 bà T chết;
cả hai ông bà đều không để lại di chúc đối với khối di sản thừa kế nêu trên và không giao
quyền quản lý di sản thừa kế cho ai. Các thành viên trong gia đình thay nhau trông coi, quản
lý khối di sản của ông Đ, bà T. Khi anh H được sự ủy quyền của các chị em trong gia đình,
đã tiến hành sửa chữa, tôn tạo lại ngôi nhà trên đất; thì bị đơn anh Phạm Tiến N là cháu của
ông Đ, bà T ngăn cản, không cho làm với lý do trước khi đi chấp hành án, anh N đã được bố
đẻ là ông Phạm Tiến T giao cho quản lý khối di sản của ông Đ bà T, nên anh N có trách
nhiệm trông coi, quản lý khối di sản này. Cả anh H và anh N đều không có yêu cầu chia di
sản thừa kế của ông Đ, bà T mà chỉ tranh chấp về quyền quản lý khối di sản của ông bà.

- Quyết định của Tòa án nhân dân tỉnh Sơn La: chấp nhận một phần kháng cáo của bị đơn anh
Phạm Tiến N; chấp nhận yêu cầu khởi kiện của anh Phạm Tiến H, giao cho anh Phạm Tiến H
được quyền quản lý di sản thừa kế của ông Phạm Tiến Đ và bà Đoàn Thị T gồm nhà, đất và
tài sản trên đất mang tên bà Đoàn Thị T số 0010/QSDĐ/323/QĐUB do UBND huyện M cấp
ngày 02/4/2004 tại tiểu khu C, thị trấn nông trường M, huyện M, tỉnh Sơn La.

BỘ LUẬT DÂN SỰ 2005

Điều 638. Người quản lý di sản

1. Người quản lý di sản là người được chỉ định trong di chúc hoặc do những người thừa kế
thoả thuận cử ra.

2. Trong trường hợp di chúc không chỉ định người quản lý di sản và những người thừa kế
chưa cử được người quản lý di sản thì người đang chiếm hữu, sử dụng, quản lý di sản tiếp tục
quản lý di sản đó cho đến khi những người thừa kế cử được người quản lý di sản.

3. Trong trường hợp chưa xác định được người thừa kế và di sản chưa có người quản lý thì di
sản do cơ quan nhà nước có thẩm quyền quản lý.

Điều 639. Nghĩa vụ của người quản lý di sản

1. Người quản lý di sản quy định tại khoản 1 và khoản 3 Điều 638 của Bộ luật này có các
nghĩa vụ sau đây:

a) Lập danh mục di sản; thu hồi tài sản thuộc di sản của người chết mà người khác đang
chiếm hữu, trừ trường hợp pháp luật có quy định khác;

b) Bảo quản di sản; không được bán, trao đổi, tặng cho, cầm cố, thế chấp và định đoạt tài sản
bằng các hình thức khác, nếu không được những người thừa kế đồng ý bằng văn bản;

c) Thông báo về di sản cho những người thừa kế;


d) Bồi thường thiệt hại, nếu vi phạm nghĩa vụ của mình mà gây thiệt hại;

đ) Giao lại di sản theo yêu cầu của người thừa kế.

2. Người đang chiếm hữu, sử dụng, quản lý di sản quy định tại khoản 2 Điều 638 của Bộ luật
này có các nghĩa vụ sau đây:

a) Bảo quản di sản; không được bán, trao đổi, tặng cho, cầm cố, thế chấp và định đoạt tài sản
bằng các hình thức khác;

b) Thông báo về di sản cho những người thừa kế;

c) Bồi thường thiệt hại, nếu vi phạm nghĩa vụ của mình mà gây thiệt hại;

d) Giao lại di sản theo thoả thuận trong hợp đồng với người để lại di sản hoặc theo yêu cầu
của người thừa kế.

Điều 640. Quyền của người quản lý di sản

1. Người quản lý di sản quy định tại khoản 1 và khoản 3 Điều 638 của Bộ luật này có các
quyền sau đây:

a) Đại diện cho những người thừa kế trong quan hệ với người thứ ba liên quan đến di sản
thừa kế;

b) Được hưởng thù lao theo thoả thuận với những người thừa kế.

2. Người đang chiếm hữu, sử dụng, quản lý di sản quy định tại khoản 2 Điều 638 của Bộ luật
này có các quyền sau đây:

a) Được tiếp tục sử dụng di sản theo thoả thuận trong hợp đồng với người để lại di sản hoặc
được sự đồng ý của những người thừa kế;

b) Được hưởng thù lao theo thoả thuận với những người thừa kế.

BỘ LUẬT DÂN SỰ 2015

Điều 616. Người quản lý di sản

1. Người quản lý di sản là người được chỉ định trong di chúc hoặc do những người thừa kế
thỏa thuận cử ra.

2. Trường hợp di chúc không chỉ định người quản lý di sản và những người thừa kế chưa cử
được người quản lý di sản thì người đang chiếm hữu, sử dụng, quản lý di sản tiếp tục quản lý
di sản đó cho đến khi những người thừa kế cử được người quản lý di sản.

3. Trường hợp chưa xác định được người thừa kế và di sản chưa có người quản lý theo quy
định tại khoản 1 và khoản 2 Điều này thì di sản do cơ quan nhà nước có thẩm quyền quản lý.

Điều 617. Nghĩa vụ của người quản lý di sản

1. Người quản lý di sản quy định tại khoản 1 và khoản 3 Điều 616 của Bộ luật này có nghĩa
vụ sau đây:
a) Lập danh mục di sản; thu hồi tài sản thuộc di sản của người chết mà người khác đang
chiếm hữu, trừ trường hợp pháp luật có quy định khác;

b) Bảo quản di sản; không được bán, trao đổi, tặng cho, cầm cố, thế chấp hoặc định đoạt tài
sản bằng hình thức khác, nếu không được những người thừa kế đồng ý bằng văn bản;

c) Thông báo về tình trạng di sản cho những người thừa kế;

d) Bồi thường thiệt hại nếu vi phạm nghĩa vụ của mình mà gây thiệt hại;

đ) Giao lại di sản theo yêu cầu của người thừa kế.

2. Người đang chiếm hữu, sử dụng, quản lý di sản quy định tại khoản 2 Điều 616 của Bộ luật
này có nghĩa vụ sau đây:

a) Bảo quản di sản; không được bán, trao đổi, tặng cho, cầm cố, thế chấp hoặc định đoạt tài
sản bằng hình thức khác;

b) Thông báo về di sản cho những người thừa kế;

c) Bồi thường thiệt hại nếu vi phạm nghĩa vụ của mình mà gây thiệt hại;

d) Giao lại di sản theo thỏa thuận trong hợp đồng với người để lại di sản hoặc theo yêu cầu
của người thừa kế.

Điều 618. Quyền của người quản lý di sản

1. Người quản lý di sản quy định tại khoản 1 và khoản 3 Điều 616 của Bộ luật này có quyền
sau đây:

a) Đại diện cho những người thừa kế trong quan hệ với người thứ ba liên quan đến di sản
thừa kế;

b) Được hưởng thù lao theo thỏa thuận với những người thừa kế;

c) Được thanh toán chi phí bảo quản di sản.

2. Người đang chiếm hữu, sử dụng, quản lý di sản quy định tại khoản 2 Điều 616 của Bộ luật
này có quyền sau đây:

a) Được tiếp tục sử dụng di sản theo thỏa thuận trong hợp đồng với người để lại di sản hoặc
được sự đồng ý của những người thừa kế;

b) Được hưởng thù lao theo thỏa thuận với những người thừa kế;

c) Được thanh toán chi phí bảo quản di sản.

3. Trường hợp không đạt được thỏa thuận với những người thừa kế về mức thù lao thì người
quản lý di sản được hưởng một khoản thù lao hợp lý.

Câu 1: Trong Bản án số 11, Tòa án xác định ai là người có quyền quản lý di sản của ông
Đ và bà T; việc xác định như vậy có thuyết phục không, vì sao?

Trong phần NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN có ghi:


“Theo hồ sơ vụ án và tại phiên tòa, các đương sự đều thừa nhận anh Phạm Tiến H thuộc
hàng thừa kế thứ nhất của ông Đ, bà T; ông Đ chết năm 1994, bà T chết năm 2012 không để
lại di chúc; anh Hiệu có các quyền, nghĩa vụ tài sản do người chết để lại theo quy định tại
Điều 636 của Bộ luật Dân sự 2005, trong đó có quyền quản lý di sản thừa kế theo quy định
tại các Điều 638, 640 của Bộ luật Dân sự 2005 (nay được quy định tại các Điều 614 và các
Điều 616, 618 Bộ luật Dân sự năm 2015).

Quá trình giải quyết vụ án, ngoài ông Thiện; những người còn lại ở hàng thừa kế thứ nhất
đều nhất trí giao cho anh Phạm Tiến H quản lý khối di sản của ông Đ, bà T. Xét thấy, các
ông bà Hiệu, Liền, Nhi, Nhường, Hoài, Hài đều có đủ năng lực hành vi dân sự; quyết định
dựa trên cơ sở hoàn toàn tự nguyện; không bị lừa dối, ép buộc; không vi phạm điều cấm của
pháp luật và không trái với đạo đức xã hội. Do đó, việc Tòa án cấp sơ thẩm giao quyền quản
lý di sản cho anh Phạm Tiến H là phù hợp.”

Như vậy, Tòa án đã xác định anh Phạm Tiến H là người có quyền quản lý di sản của
ông Đ và bà T.

Việc xác định trên của Tòa án là hoàn toàn thuyết phục, bởi vì theo quy định tại
Khoản 1 Điều 616 BLDS 2015 (tương ứng là Khoản 1 Điều 638 BLDS 2005) thì “Người
quản lý di sản là người được chỉ định trong di chúc hoặc do những người thừa kế thỏa thuận
cử ra”. Trong trường hợp này, do ông Đ và bà T chết mà không để lại di chúc; đồng thời,
những người thừa kế hợp pháp của ông Đ và bà T đều có đủ năng lực hành vi dân sự; đều
nhất trí quyết định cử ra người đại diện quản lý di sản của ông Đ và bà T là anh Phạm Tiến H
dựa trên cơ sở hoàn toàn tự nguyện; không bị lừa dối, ép buộc; không vi phạm điều cấm của
pháp luật và không trái với đạo đức xã hội. Cho nên, việc Tòa án xác định anh Phạm Tiến H
là người quản lý di sản do ông Đ và bà T để lại là hoàn toàn hợp lý, thuyết phục, phù hợp với
quy định của pháp luật dân sự.

Câu 2: Trong Bản án số 11, ông Thiện trước khi đi chấp hành án có là người quản lý di
sản không? Nêu cơ sở pháp lý khi trả lời.

Trong phần NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN có ghi:

“Năm 2012, sau khi bà T chết, ông Thiện là người đang trực tiếp sinh sống tại nhà và đất,
tiếp tục quản lý di sản của ông bà Đ T. Khi ông Thiện đi chấp hành án, có giao lại cho anh
Nghĩa trông coi di sản của ông bà. Tuy nhiên, theo quy định tại Điều 616 của Bộ luật Dân sự
2015 thì “Người quản lý di sản là người được chỉ định trong di chúc hoặc do những người
thừa kế thỏa thuận cử ra”. Ông Đ bà T chết, không để lại di chúc; việc quản lý di sản của
ông Thiện không có sự nhất trí bằng văn bản của các đồng thừa kế. Do đó, ông Thiện không
có quyền giao lại cho con trai là Phạm Tiến N trông coi, sử dụng di sản của ông bà Đ T.

Giấy ủy quyền cho con trai Phạm Tiến N đề ngày 15/8/2013 của ông Phạm Tiến T không có
giá trị pháp lý; không phải là cơ sở để phát sinh quyền quản lý di sản của anh Phạm Tiến N
đối với di sản của ông bà Đ T.”

Vậy Tòa án đã xác định rằng ông Thiện trước khi đi chấp hành án không là người
quản lý di sản hợp pháp đối với di sản do ông Đ và bà T để lại.

Việc xác định trên của Tòa án là hoàn toàn thuyết phục, bởi vì theo quy định tại
Khoản 1 Điều 616 BLDS 2015 (tương ứng là Khoản 1 Điều 638 BLDS 2005) thì “Người
quản lý di sản là người được chỉ định trong di chúc hoặc do những người thừa kế thỏa thuận
cử ra.” Trong trường hợp này, ông Đ, bà T chết và không để lại di chúc; ông Thiện lại không
có được sự đồng thuận, nhất trí cử ra bằng văn bản của các đồng thừa kế (như trong Bản án
số 11 đã đề cập). Cho nên, ông Thiện hoàn toàn không phải là người quản lý di sản hợp pháp
đối với di sản của ông Đ và bà T.
Câu 3: Trong Bản án số 11, việc Tòa án giao cho anh Hiếu (Tiến H) quyền quản lý di sản
có thuyết phục không? Nêu cơ sở pháp lý khi trả lời.

Việc Tòa án giao cho anh Hiếu (Tiến H) quyền quản lý di sản là hoàn toàn thuyết
phục, thỏa đáng, phù hợp với các quy định của pháp luật dân sự.

Bởi vì theo quy định tại Khoản 1 Điều 616 BLDS 2015 (tương ứng là Khoản 1 Điều 638
BLDS 2005) thì “Người quản lý di sản là người được chỉ định trong di chúc hoặc do những
người thừa kế thỏa thuận cử ra.”

Trong trường hợp này, do ông Đ và bà T không để lại di chúc nên không thể xác định
việc chỉ định người quản lý di sản theo di chúc là ai, cho nên người quản lý di sản sẽ xác định
theo hướng người quản lý di sản là người được những người thừa kế thỏa thuận cử ra. Như
trong phần NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN của Bản án số 11 đã có đề cập, những người thừa
kế hợp pháp của ông Đ và bà T là các ông bà Hiệu, Liền, Nhi, Nhường, Hoài, Hài đều có đủ
năng lực hành vi dân sự; đều nhất trí đồng ý quyết định cử ra người đại diện quản lý di sản
của ông Đ và bà T là anh Phạm Tiến H dựa trên cơ sở hoàn toàn tự nguyện; không bị lừa dối,
ép buộc; không vi phạm điều cấm của pháp luật và không trái với đạo đức xã hội.

Vì thế cho nên, việc Tòa án xác định anh Phạm Tiến H là người quản lý di sản do ông
Đ và bà T để lại là hoàn toàn hợp lý, thuyết phục, phù hợp với quy định của pháp luật dân sự.

Câu 4: Khi là người quản lý di sản, người quản lý di sản có quyền tôn tạo, tu sửa
lại di sản như trong Bản án số 11 không? Nêu cơ sở pháp lý khi trả lời.

Khi là người quản lý di sản, người quản lý di sản thì có quyền tôn tạo, tu sửa lại
di sản như trong Bản án số 11, tuy nhiên phải được những người thừa kế đồng ý bằng
văn bản. Tài sản có nguy cơ bị hư hỏng, mất giá trị nếu không được tu sửa; khi đó
người quản lý thực hiện nghĩa vụ của mình là bảo quản di sản sẽ phải tiến hành sửa
chữa tài sản để tránh mất mát. Tương tự như trong Bản án số 11, anh Phạm Tiến H tu
sửa, tôn tạo lại căn nhà đã cũ dựa trên sự ủy quyền của các chị em trong gia đình. Do
vậy, khi thực hiện nghĩa vụ bảo quản di sản thì người quản lí di sản có quyền tôn tạo,
tu sửa lại di sản nhằm đảm bảo trạng thái của di sản, tuy nhiên việc này phải được sự
đồng ý của những người thừa kế thể hiện bằng văn bản.

Cơ sở pháp lý: Căn cứ Khoản 1 Điều 617 BLDS 2015: “…Bảo quản di sản;
không được bán, trao đổi, tặng cho, cầm cố, thế chấp hoặc định đoạt tài sản bằng
hình thức khác, nếu không được những người thừa kế đồng ý bằng văn bản; …”

Câu 5: Khi là người quản lý di sản, người quản lý di sản có quyền giao lại cho
người khác quản lý di sản (như trong Bản án số 11 là ông Thiện giao lại cho con
trai) không? Nêu cơ sở pháp lý khi trả lời.

Khi là người quản lý di sản, người quản lý di sản có quyền giao lại cho người
khác quản lý di sản trong trường hợp bản thân không thể tiếp tục việc quản lí di sản
mà phải thông qua một người khác, việc này cũng cần sự đồng ý của người ủy người
ủy quyền, nghĩa là những người thừa kế. Trong Bản án số 11 ông Thiệu giao lại cho
con trai quyền quản lí di sản vì ông đang chấp hành án nên không thể đảm nhiệm công
việc của người quản lí di sản, vì vậy cần ủy quyền cho con trai để đảm bảo di sản
được quản lí, tuy nhiên trên thực tế, ông Thiệu tại thời điểm đó không phải là người
được ủy quyền trên văn bản là người quản lí di sản mà là ông H, hơn nữa việc ông
Thiệu ủy quyền cho con trai chưa có sự đồng ý của những người đồng thừa kế, do
vậy, trường hợp của ông Thiệu theo Bản án số 11 không có quyền giao lại cho người
khác quản lí di sản. Tóm lại, Khi là người quản lý di sản, người quản lý di sản có
quyền giao lại cho người khác quản lý di sản khi thỏa mãn các điều kiện của Điều 564
BLDS 2015:

“1. Bên được ủy quyền được ủy quyền lại cho người khác trong trường hợp sau đây:

a) Có sự đồng ý của bên ủy quyền;


b) Do sự kiện bất khả kháng nếu không áp dụng ủy quyền lại thì mục đích xác lập,
thực hiện giao dịch dân sự vì lợi ích của người ủy quyền không thể thực hiện được.
2. Việc ủy quyền lại không được vượt quá phạm vi ủy quyền ban đầu.
3. Hình thức hợp đồng ủy quyền lại phải phù hợp với hình thức ủy quyền ban đầu.”

Câu 6: Trong Quyết định số 147, Tòa án xác định người quản lý không có quyền tự
thỏa thuận mở lối đi cho người khác qua di sản có thuyết phục không? Nêu cơ sở
pháp lý khi trả lời.

Trong Quyết định số 147, Tòa án xác định người quản lý không có quyền tự
thỏa thuận mở lối đi cho người khác qua di sản là có thuyết phục. “Thửa 525 nêu trên
là tài sản chung của ông Ngót và bà Chơi tạo dựng trong thời kỳ hôn nhân. Ông Nhỏ
chỉ là người quản lý di sản của ông Ngót và phần diện tích đất thuộc quyền sử dụng
của bà Chơi, chứ không có quyền định đoạt. Tuy nhiên, ông Nhỏ lại tự ý thỏa thuận
cho ông Đạm mở lối đi khi không được sự đồng ý của bả Chơi cùng các đồng thừa kế
thứ nhất của ông Ngót là vì phạm quy định tại điểm b Khoản 1 Điều 617 BLDS 2015:
“Bảo quản di sản; không được bán, trao đổi, tặng cho, cầm cố, thế chấp hoặc định
đoạt tài sản bằng hình thức khác, nếu không được những người thừa kế đồng ý bằng
văn bản” . Như vậy, ông Nhỏ là người quản lí không có quyền tự thỏa thuận mở lối đi
cho người khác qua di sản, không có quyền tự định đoạt di sản nếu không có sự đồng
ý của chủ di sản.

PHẦN III: THỜI HIỆU TRONG LĨNH VỰC THỪA KẾ


Câu 1: Cho biết các loại thời hiệu trong lĩnh vực thừa kế ở Việt Nam.
Theo Điều 623 BLDS 2015 quy định 3 loại thời hiệu trong lĩnh vực thừa kế:
Thời hiệu chia di sản:
Khoản 1 Điều 623 BLDS 2015 quy định:
“Thời hiệu để người thừa kế yêu cầu chia di sản là 30 năm đối với bất động sản, 10
năm đối với động sản, kể từ thời điểm mở thừa kế. Hết thời hạn này thì di sản thuộc
về người thừa kế đang quản lý di sản đó. Trường hợp không có người thừa kế quản lý
di sản thì di sản được giải quyết như sau:
a) Di sản thuộc quyền sở hữu của người đang chiếm hữu theo quy định tại Điều 236
của Bộ luật này;
b) Di sản thuộc về Nhà nước, nếu không có người chiếm hữu quy định tại Điểm a
Khoản này”.
Thời hiệu yêu cầu xác nhận quyền thừa kế hoặc phản đối quyền thừa kế của
người khác:
Khoản 2 Điều 623 BLDS 2015 quy định:
“2. Thời hiệu yêu cầu người thừa kế thực hiện nghĩa vụ về tài sản của người chết để
lại là 03 năm, kể từ thời điểm mở thừa kế”.
Thời hiệu khởi kiện để yêu cầu người thừa kế thực hiện nghĩa vụ về tài sản của
người chết để lại:
Khoản 3 Điều 623 của BLDS 2015 quy định:
“3. Thời hiệu yêu cầu người thừa kế thực hiện nghĩa vụ về tài sản của người chết để
lại là 03 năm, kể từ thời điểm mở thừa kế”.

Câu 2: Pháp luật nước ngoài có áp đặt thời hiệu đối với yêu cầu chia di sản không?
Đối với pháp luật Campuchia - Quốc gia có áp đặt thời hiệu đối với yêu cầu
chia di sản, cụ thể ở Khoản 1 Điều 1248 BLDS Campuchia: “Người thừa kế phải có
sự chấp nhận đơn giản hoặc chấp nhận có giới hạn hoặc từ bỏ quyền thừa kế trong
vòng 3 tháng kể từ ngày biết được việc thừa kế của mình đã phát sinh. Tuy nhiên thời
gian này có thể kéo dài thêm theo yêu cầu của người thừa kế.”
Đối với pháp luật Pháp - Quốc gia không có sự áp đặt thời hiệu đối với yêu cầu
chia di sản, cụ thể ở Điều 815 BLDS Pháp: “Không ai có thể bị buộc phải chấp nhận
trong tình trạng di sản chưa chia và bất cứ lúc nào cũng có thể yêu cầu chia di sản
trừ trường hợp việc này được tạm hoãn theo bản án hoặc theo pháp luật.”

Câu 3: Thời điểm mở thừa kế đối với di sản của cụ T là năm nào? Đoạn nào của
Quyết định tạo lập thành Án lệ số 26/2018/AL cho câu trả lời?
Thời điểm mở thừa kế đối với di sản của cụ T là năm 1972. Trong Quyết định
tạo lập thành Án lệ số 26/2018/AL có đoạn: “Như vậy kể từ ngày Bộ luật Dân sự năm
2015 có hiệu lực thi hành, Tòa án áp dụng quy định tại Điều 623 Bộ luật Dân sự năm
2015 để xác định thời hiệu đối với trường hợp mở thừa kế ngày 01-01-2017. Căn cứ
quy định tại Khoản 4 Điều 36 Pháp lệnh thừa kế ngày 30-8-1990 và Bộ luật Dân sự
năm 2015, trong trường hợp này thời hiệu khởi kiện chia di sản của cụ T cho các
đồng thừa kế vẫn còn theo quy định của pháp luật”

Câu 4: Việc Án lệ số 26/2018/AL áp dụng thời hiệu 30 năm của BLDS 2015 cho di
sản của cụ T có cơ sở văn bản nào không? Có thuyết phục không? Vì sao?
Việc Án lệ số 26/2018/AL áp dụng thời hiệu 30 năm của BLDS 2015 cho di
sản của cụ T có cơ sở văn bản là các quy định tại điểm d Khoản 1 Điều 688 BLDS
2015 và Khoản 1 Điều 623 BLDS 2015. Cụ thể như sau:
Điểm d, Khoản 1, Điều 688 BLDS 2015 quy định:
“Đối với giao dịch dân sự được xác lập trước ngày Bộ luật này có hiệu lực thì việc
áp dụng pháp luật được quy định như sau: Thời hiệu được áp dụng theo quy định của
Bộ luật này.”
Khoản 1, Điều 623 BLDS 2015 quy định:
“Thời hiệu để người thừa kế yêu cầu chia di sản là 30 năm đối với bất động sản, 10
năm đối với động sản, kể từ thời điểm mở thừa kế”.
Xét thấy di sản của cụ T là bất động sản, theo quy định của pháp luật hiện hành
thì thời hiệu để người thừa kế yêu cầu chia di sản là 30 năm đối với bất động sản. Do
đó, việc Án lệ số 26/2018/AL áp dụng thời hiệu 30 năm của BLDS 2015 cho di sản
của cụ T rất thuyết phục vì cách giải quyết này phù hợp với những quy định của pháp
luật hiện hành.

Câu 5: Việc Án lệ số 26/2018/AL áp dụng thời hiệu 30 năm của BLDS 2015 cho di
sản của cụ T với thời điểm bắt đầu từ thời điểm Pháp lệnh thừa kế năm 1990 được
công bố có cơ sở văn bản nào không? Có thuyết phục không? Vì sao?
Việc Án lệ số 26/2018/AL áp dụng thời hiệu 30 năm của BLDS 2015 cho di
sản của cụ T với thời điểm bắt đầu từ thời điểm Pháp lệnh thừa kế năm 1990 được
công bố có cơ sở văn bản là quy định tại Khoản 4 Điều 36 Pháp lệnh thừa kế ngày
10/9/1990: “Đối với các việc thừa kế đã mở trước ngày ban hành Pháp lệnh này thì
thời hạn quy định tại khoản 1, khoản 2 Điều này được tính từ ngày công bố Pháp lệnh
này”.
Khoản 1, Điều 611 BLDS 2015 cũng có quy định: “Thời điểm mở thừa kế là
thời điểm người có tài sản chết. Trường hợp Tòa án tuyên bố một người là đã chết thì
thời điểm mở thừa kế là ngày được xác định tại khoản 2 Điều 71 của Bộ luật này”.
Theo như bản án, cụ T chết vào năm 1972, như vậy thời điểm mở thừa kế của
cụ T là năm 1972. Tuy nhiên, theo như Khoản 4 Điều 36 Pháp lệnh thừa kế năm 1990
quy định thì đối với các việc thừa kế đã mở trước ngày ban hành Pháp lệnh thì các
thời hạn sẽ được tính từ ngày công bố Pháp lệnh tức ngày 10/9/1990. Do đó, việc Án
lệ số 26/2018/AL áp dụng thời hiệu 30 năm của BLDS 2015 cho di sản của cụ T với
thời điểm bắt đầu từ thời điểm Pháp lệnh thừa kế năm 1990 được công bố là có thuyết
phục vì nó phù hợp với quy định của pháp luật hiện hành.

Câu 6: Suy nghĩ của anh/chị về án lệ số 26/2018/AL nêu trên.


Thứ nhất, vụ án đã được Tòa án thụ lý vào năm 2010 và xét xử phúc thẩm xong
vào ngày 5/4/2014 là thời điểm BLDS 2005 đang có hiệu lực pháp luật và Pháp lệnh
thừa kế năm 1990 đã hết hiệu lực kể từ năm 1996. Vì thế, việc áp dụng Pháp lệnh thừa
kế năm 1990 cho đến thời điểm này là không có căn cứ và không phù hợp.
Hội đồng Thẩm phán cũng đã nhận định tại đoạn [4] như sau:
“Tòa án cấp phúc thẩm xác định thời hiệu khởi kiện về thừa kế của cụ T đã hết và
không chấp nhận yêu cầu của các nguyên đơn về việc chia tài sản chung đối với phần
di sản của cụ T là đúng”.
Như vậy, Tòa án cấp phúc thẩm đã giải quyết quyền khởi kiện về thừa kế của cụ T đã
hết là phù hợp và đúng theo các quy định hiện hành tại thời điểm xét xử. Căn cứ vào
Khoản 2 Điều 688 BLDS 2015 quy định: “Không áp dụng Bộ luật này để kháng nghị
theo thủ tục giám đốc thẩm, tái thẩm đối với vụ việc mà Tòa án đã giải quyết theo quy
định của pháp luật về dân sự trước ngày Bộ luật này có hiệu lực”.
Thứ hai, về việc áp dụng Khoản 1 Điều 688 BLDS 2015, tại đoạn [6]: “Theo
quy định tại Điểm d Khoản 1 Điều 688 Bộ luật Dân sự năm 2015, đối với giao dịch
dân sự được xác lập trước ngày Bộ luật Dân sự này có hiệu lực, thì thời hiệu được áp
dụng theo quy định của Bộ luật này”. Điều khoản trên cho thấy, chỉ áp dụng đối với
giao dịch dân sự, căn cứ theo Điều 116 BLDS 2015 quy định: “Giao dịch dân sự là
hợp đồng hoặc hành vi pháp lý đơn phương làm phát sinh, thay đổi, hoặc chấm dứt
quyền, nghĩa vụ dân sự”.
Trong vụ án tranh chấp nêu trong Án lệ do Hội đồng Thẩm phán xem xét
không có giao dịch dân sự nào được xác lập. Do đó, vụ án này tranh chấp về thừa kế
không có di chúc, cũng không có hành vi pháp lý đơn phương (di chúc) nào để xem
xét.

PHẦN IV: TÌM KIẾM TÀI LIỆU

You might also like