You are on page 1of 20

TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT TP.

HỒ CHÍ MINH
KHOA QUẢN TRỊ
LỚP QUẢN TRỊ - LUẬT 46A1

MÔN: HỢP ĐỒNG VÀ BỒI THƯỜNG THIỆT HẠI NGOÀI HỢP ĐỒNG
BUỔI THẢO LUẬN THỨ NHẤT: NGHĨA VỤ
GIẢNG VIÊN: ThS. ĐẶNG THÁI BÌNH

DANH SÁCH NHÓM 6

STT HỌ TÊN MSSV


1 Nguyễn Ngọc Ánh 2153401020027
2 Phạm Thị Ngọc Bích 2153401020031
3 Nguyên Việt Đức 2153401020052
4 Nguyễn Tuấn Dũng 2153401020058
5 Nguyễn Thị Kiều Duyên 2153401020065
6 Bùi Thị Trà Giang 2153401020068
7 Phạm Thị Hương Giang 2153401020071
8 Nguyễn Đức Hân 2153401020080
MỤC LỤC
VẤN ĐỀ 1: THỰC HIỆN CÔNG VIỆC KHÔNG CÓ UỶ QUYỀN.......................1
Tóm tắt tình huống:..................................................................................................1
Câu 1: Thế nào là thực hiện công việc không có ủy quyền?...................................1
Câu 2: Vì sao thực hiện công việc không có ủy quyền là căn cứ phát sinh nghĩa
vụ?............................................................................................................................. 1
Câu 3: Cho biết điểm mới của BLDS 2015 so với BLDS 2005 về chế định “thực
hiện công việc không có ủy quyền”..........................................................................2
Câu 4: Các điều kiện để áp dụng chế định “thực hiện công việc không có ủy
quyền” theo BLDS 2015? Phân tích từng điều kiện................................................3
Câu 5: Trong tình huống trên, sau khi xây dựng xong công trình, nhà thầu C có
thể yêu cầu chủ đầu tư A thực hiện những nghĩa vụ trên cơ sở các quy định của
chế định “thực hiện công việc không có ủy quyền” trong BLDS 2015 không? Vì
sao? Nếu cơ sở pháp lý khi trả lời............................................................................5
VẤN ĐỀ 2: THỰC HIỆN MỘT NGHĨA VỤ (THANH TOÁN MỘT ĐIỀU
KHOẢN)...................................................................................................................... 7
Tóm tắt tình huống:..................................................................................................7
Tóm tắt Quyết định số 15/2018/DS-GĐT ngày 15/3/2018 của Tòa án nhân dân
cấp cao tại Hà Nội....................................................................................................7
Câu 1: Thông tư trên cho phép tính lại giá trị khoản tiền phải thanh toán như
thế nào? Qua trung gian là tài sản gì?.....................................................................7
Câu 2: Đối với tình huống thứ nhất, thực tế ông Quới sẽ phải trả cho bà Cô
khoản tiền cụ thể là bao nhiêu? Nêu rõ cơ sở pháp lý khi trả lời...........................8
Câu 3: Thông tư trên có điều chỉnh việc thanh toán tiền trong hợp đồng chuyển
nhượng bất động sản như trong Quyết định số 15/2018/DS-GĐT không? Vì sao?
................................................................................................................................... 9
Câu 4: Đối với tình huống trong Quyết định số 15/2018/DS-GĐT, nếu giá trị nhà
đất được xác định là 1.697.760.000đ như Tòa án cấp sơ thẩm đã làm thì, theo
Tòa án nhân dân cấp cao tại Hà Nội, khoản tiền bà Hường phải thanh toán cho
cụ Bảng cụ thể là bao nhiêu? Vì sao?......................................................................9
Câu 5: Hướng như trên của Tòa án nhân dân cấp cao tại Hà Nội có tiền lệ
chưa? Nêu một tiền lệ (nếu có)?..............................................................................9
VẤN ĐỀ 3: CHUYỂN GIAO NGHĨA VỤ THEO THOẢ THUẬN......................10
Tóm tắt bản án số 148/2007/DSST ngày 26/9/2007 của Tòa án nhân dân thị xã
Châu Đốc, tỉnh An Giang.......................................................................................10
Câu 1: Điểm giống và khác nhau cơ bản giữa chuyển giao quyền yêu cầu và
chuyển giao nghĩa vụ theo thỏa thuận?.................................................................11
Câu 2: Thông tin nào của bản án cho thấy bà Phượng có nghĩa vụ thanh toán
cho bà Tú?..............................................................................................................11
Câu 3: Đoạn nào của bản án cho thấy nghĩa vụ trả nợ của bà Phượng đã được
chuyển sang cho bà Ngọc, bà Loan và ông Thạnh?..............................................12
Câu 4: Suy nghĩ của anh/chị về đánh giá trên của Tòa án?.................................12
Câu 5: Nhìn từ góc độ văn bản, người có nghĩa vụ ban đầu còn có trách nhiệm
đối với người có quyền không khi người thế nghĩa vụ không thực hiện nghĩa vụ
được chuyển giao? Nêu cơ sở pháp lý khi trả lời?.................................................13
Câu 6: Nhìn từ góc độ quan điểm các tác giả, người có nghĩa vụ ban đầu có còn
trách nhiệm đối với người có quyền không khi người thế nghĩa vụ không thực
hiện nghĩa vụ được chuyển giao? Nêu rõ quan điểm của tác giả mà anh/chị biết?
................................................................................................................................. 13
Câu 7: Đoạn nào của bản án cho thấy Tòa án theo hướng người có nghĩa vụ ban
đầu không còn trách nhiệm đối với người có quyền?............................................14
Câu 8: Suy nghĩ của anh chị về hướng giải quyết trên của Tòa án......................15
Câu 9: Trong trường hợp nghĩa vụ của bà Phượng đối với bà Tú có biện pháp
bảo lãnh của người thứ ba thì, khi nghĩa vụ được chuyển giao, biện pháp bảo
lãnh có chấm dứt không? Nêu rõ cơ sở pháp lý khi trả lời...................................16
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO.....................................................................
A. Văn bản quy phạm pháp luật.............................................................................
B. Tài liệu tham khảo..............................................................................................
VẤN ĐỀ 1: THỰC HIỆN CÔNG VIỆC KHÔNG CÓ UỶ QUYỀN

Tóm tắt tình huống:


Chủ đầu tư A lập Ban quản lý dự án B để tiến hành xây dựng một công trình
công cộng. Khi triển khai, B đã ký hợp đồng với nhà thầu C mà không nêu rõ trong
hợp đồng B đại diện A và cũng không có ủy quyền của A trong khi đó, theo quy định,
B không được tự ký hợp đồng với C vì đây là công việc của chủ đầu tư A (thực tế Ban
quản lý dự án B không có nhiều tài sản để thanh toán cho C).

Câu 1: Thế nào là thực hiện công việc không có ủy quyền?


Theo Điều 574 BLDS 2015 thì thực hiện công việc không có ủy quyền là việc
một người không có nghĩa vụ thực hiện công việc nhưng đã tự nguyện thực hiện công
việc đó vì lợi ích của người có công việc được thực hiện khi người này không biết
hoặc biết mà không phản đối.

Câu 2: Vì sao thực hiện công việc không có ủy quyền là căn cứ phát sinh nghĩa vụ?
Điều 275 BLDS 2015 có quy định nghĩa vụ phát sinh từ những căn cứ sau:
“1. Hợp đồng;
2. Hành vi pháp lý đơn phương;
3. Thực công việc không có ủy quyền;
4. Chiếm hữu, sử dụng tài sản hoặc được lợi về tài sản không có căn cứ pháp luật;
5. Gây thiệt hại do hành vi trái pháp luật;
6. Căn cứ khác do pháp luật quy định”.
Ta thấy tại khoản 3 điều này quy định thực hiện công việc không có ủy quyền
là một trong những căn cứ làm phát sinh nghĩa vụ. Sỡ dĩ, có quy định như vậy vì việc
thực hiện công việc không có uỷ quyền là hoàn toàn tự nguyện, vì lợi ích của người có
công việc cần thực hiện, đây chính là một trong những truyền thống đạo đức tốt đẹp
của dân tộc ta nhằm tương trợ, giúp đỡ lẫn nhau trong lúc gặp khó khăn hoặc không
thể tự mình thực hiện được1. Tuy nhiên, việc quy định chế định này tạo nên sự ràng
buộc pháp lý giữa người thực hiện công việc và người có công việc được thực hiện và
nâng cao tinh thần trách nhiệm, đảm bảo quyền lợi của người thực hiện công việc
cũng như đối với người có công việc được thực hiện2.

1 Hoàng Thế Liên (chủ biên), Bình luận khoa học Bộ luật Dân sự năm 2005, NXB. Chính trị quốc gia,
2012, Tập 2, tr.699.
2 Chế Mỹ Phương Đài, Giáo trình Pháp luật về hợp đồng và bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng,
NXB. Hồng Đức-Hội Luật gia Việt Nam, 2017, chương I, tr.37.

1
Câu 3: Cho biết điểm mới của BLDS 2015 so với BLDS 2005 về chế định “thực
hiện công việc không có ủy quyền”.
Thứ nhất, về khái niệm: Điều 594 BLDS 2005 quy định: “Thực hiện công việc
không có ủy quyền là việc một người không có nghĩa vụ thực hiện công việc nhưng đã
tự nguyện thực hiện công việc đó, hoàn toàn vì lợi ích của người có công việc được
thực hiện khi người này không biết hoặc biết mà không phản đối”. Tuy nhiên, Điều
574 BLDS 2015 đã bỏ đi chữ “hoàn toàn”. Thay đổi trên là hoàn toàn hợp lý vì trong
thực tế, có nhiều trường hợp một người thực hiện công việc không có ủy quyền không
chỉ hoàn toàn vì lợi ích của người có công việc được thực hiện mà còn để đảm bảo
cho lợi ích của bản thân.

Thứ hai, về nghĩa vụ thực hiện công việc không có ủy quyền:


Khoản 3 Điều 575 BLDS 2015 quy định các trường hợp người thực hiện công
việc không có ủy quyền không cần phải báo cho người có công việc được thực hiện về
quá trình và kết quả thực hiện công việc bao gồm cả “không biết nơi cư trú” và không
biết trụ sở của người có công việc được thực hiện. Còn Khoản 3 Điều 595 BLDS 2005
thì chỉ quy định về “không biết nơi cư trú”. Sự bổ sung trên là hoàn toàn hợp lý vì chủ
thể của luật dân sự ngoài cá nhân thì còn có pháp nhân. Theo đó, với một pháp nhân
thì lại không tồn tại khái niệm “nơi cư trú” mà lại là khái niệm “trụ sở”, tức nơi đặt cơ
quan điều hành của pháp nhân đó.
Khoản 4 Điều 575 BLDS 2015 quy định rõ ràng về trường hợp người có công
việc được thực hiện chết, nếu là cá nhân và chấm dứt tồn tại nếu là pháp nhân thì
người thực hiện công việc phải tiếp tục thực hiện công việc..., trong khi Khoản 4 Điều
595 BLDS năm 2005 thì lại không quy định đối với pháp nhân. Sự bổ sung trên là
hoàn toàn hợp lý vì chủ thể của luật dân sự không chỉ có cá nhân mà còn bao gồm
pháp nhân. Mà đối với pháp nhân, khái niệm “chết” không tồn tại mà thay vào đó là
“chấm dứt tồn tại”.

Thứ ba, về chấm dứt thực hiện công việc không có ủy quyền:
Khoản 4 Điều 578 BLDS quy định rõ ràng một trong các trường hợp chấm dứt
thực hiện công việc không có ủy quyền là “người thực hiện công việc không có ủy
quyền chết, nếu là cá nhân hoặc chấm dứt tồn tại, nếu là pháp nhân” trong khi Khoản
4 Điều 598 BLDS 2005 chỉ quy định: “người thực hiện công việc không có ủy quyền
chết”. Sự thay đổi này hoàn toàn hợp lý vì có bổ sung thêm quy định đối với pháp
nhân. Theo đó, đối với một pháp nhân thì không có khái niệm “chết” mà chỉ có “chấm
dứt tồn tại”.

2
Câu 4: Các điều kiện để áp dụng chế định “thực hiện công việc không có ủy
quyền” theo BLDS 2015? Phân tích từng điều kiện.
BLDS 2015 không có điều khoản riêng để quy định về điều kiện áp dụng chế
định “thực hiện công việc không có ủy quyền”. Tuy nhiên, từ khái niệm được nêu ra ở
Điều 574 BLDS 2015, chúng ta có thể suy ra những điều kiện cơ bản sau đây:
1. Đối với người thực hiện công việc.
Người thực hiện công việc không có nghĩa vụ:
Khi quy định người thực hiện công việc không có ủy quyền là “người không có
nghĩa vụ thực hiện công việc”, BLDS 2015 đã tạo ra hai hướng giải thích khác nhau.
Có quan điểm cho rằng, quy định này nói đến “người hoàn toàn không có nghĩa vụ
phải thực hiện công việc đó nhưng đã thực hiện công việc đó. Nghĩa vụ ở đây là nghĩa
vụ pháp lý hoặc nghĩa vụ do các bên thỏa thuận”.
Song, cách hiểu này lại dẫn đến những bất cập nhất định trong thực tiễn xét
xử.Đơn cử như trường hợp “công việc được thực hiện theo yêu cầu của người thứ ba
hay theo thỏa thuận của người thứ ba, hay theo luật định”, thì chúng ta có được áp
dụng chế định này hay không?Trong nhiều vụ việc xảy ra trong thực tế, khi xảy ra
trường hợp như trên, Tòa án vẫn áp dụng chế định này để tiến hành xét xử. Như vậy,
cách hiểu phù hợp nhất cho điều kiện này phải là không có nghĩa vụ thực hiện “giữa
người thực hiện công việc và người có công việc được thực hiện”, mà không xét đến
sự tồn tại nghĩa vụ giữa người thực hiện với bên thứ ba hay theo luật định (nếu có).
Mặt khác, chúng ta cũng cần làm rõ rằng, nếu trong một số trường hợp người
thực hiện nghĩa vụ có căn cứ pháp luật, nhưng không biết về quy định pháp luật tương
ứng mà làm vì sự tự nguyện, lòng nhân ái, thì điều kiện “không có nghĩa vụ” này còn
được đảm bảo hay không? Có ý kiến cho rằng, BLDS 2015 đã có quy định về bồi
thường thiệt hại do tình thế cấp thiết để “tạo cơ chế ràng buộc người gây ra thiệt hại
phải bồi thường cho thiệt hại mà họ gây ra.”(ở đây là người có công việc được thực
hiện với người thực hiện công việc). Song, giả sử như không thể chứng minh được
yếu tố “tình huống cấp thiết”, và thực hiện công việc đó vẫn được xem là nghĩa vụ
theo quy định của pháp luật, thì trong khi tổ chức, thực hiện công việc nếu có tốn kém
chi phí, việc đơn phương tạm ứng tiền riêng của mình để trả chi phí cũng có thể coi
được là thực hiện công việc không có ủy quyền.
Thực hiện công việc một cách tự nguyện:
Một trong những điều kiện chủ chốt để xác định có nghĩa vụ phát sinh từ thực
hiện công việc không ủy quyền, là khi một chủ thể thực hiện công việc của người
khác. Xét trong tương quan với hành vi pháp lý đơn phương (cùng là hành động xuất
phát từ một phía), BLDS 2015 không đặt ra yêu cầu về năng lực chủ thể cho người
thực hiện công việc không có ủy quyền. Trong khi đó, để hành vi pháp lý đơn phương
được pháp luật công nhận, nó phải đảm bảo thỏa điều kiện có hiệu lực của một giao
dịch dân sự (điểm a khoản 1 Điều 117 BLDS 2015). Như vậy, “ai cũng có thể là người
thực hiện công việc không có ủy quyền”.

3
Mặt khác, thực hiện công việc không có ủy quyền lại đòi hỏi về tính “tự
nguyện”, tương tự như quy định tại điểm b khoản 1 Điều 117 BLDS 2015 về điều kiện
có hiệu lực của giao dịch dân sự: “chủ thể tham gia giao dịch dân sự hoàn toàn tự
nguyện”. Điểm cần lưu ý ở đây là, nếu người thực hiện công việc một cách “ngẫu
nhiên, không có chủ ý, hoặc thiếu tự nguyện (ví dụ do bị ép buộc hay nhầm lẫn)”, thì
sẽ không được xem là thực hiện công việc không có ủy quyền. Trong trường hợp đó,
nghĩa vụ thanh toán của người có công việc được thực hiện cho người thực hiện công
việc chỉ được phát sinh nếu người có công việc nhận được lợi ích (trong trường hợp
này được xem là không có căn cứ pháp luật). Đây là nghĩa vụ hoàn trả theo khoản 2
Điều 579 BLDS 2015, khác biệt với nghĩa vụ thanh toán của người có công việc được
thực hiện không có ủy quyền, được quy định tại Điều 576 Bộ luật này.

2. Đối với người có công việc được thực hiện.


Không yêu cầu đối phương thực hiện công việc.
Điều kiện này có thể hiểu rằng giữa người thực hiện công việc và người có
công việc được thực hiện “không tồn tại một hợp đồng, không có ủy quyền”. Nếu giữa
hai bên đã có sự thỏa thuận trước đó, hoặc có thể hiện sự đồng ý song phương thì “vẫn
được xem như có sự tạo lập hợp đồng”. Mặt khác, trong trường hợp ban đầu người có
công việc không ủy quyền cho bên thứ ba nhân danh họ xác lập giao dịch với người
được thực hiện công việc, mà bên thứ ba vẫn xác lập giao dịch, sau đó người có công
việc mới biết và đồng ý, thì không được xem là “thực hiện công việc không có ủy
quyền”. Đây là trường hợp “xác lập giao dịch do không có quyền đại diện”, làm phát
sinh quyền, nghĩa vụ với người được đại diện (mà ở đây là người có công việc được
thực hiện) theo khoản 1 Điều 142 BLDS 2015.
Không biết hoặc biết mà không phản đối.
Đây là điều kiện được suy ra từ khái niệm ở Điều 574 BLDS 2015. Điều kiện
này tương ứng với khoản 1 Điều 578 Bộ luật này về Chấm dứt thực hiện công việc
không có ủy quyền theo yêu cầu của người có công việc được thực hiện. Trong trường
hợp bị phản đối mà vẫn tiếp tục thực hiện thì “không thuộc chế độ này”. Khi đó, việc
cố tình tiếp tục thực hiện có thể bị xem là hành vi “trái pháp luật”, phải bồi thường
thiệt hại dựa trên quy định tại khoản 7 Điều 8 BLDS 2015.
Bên cạnh đó, việc quy định “không phản đối” ở đây không đồng nghĩa với
“đồng ý”, vì không được quy định trong pháp luật dân sự hiện hành. Cần phân biệt
rằng, trong trường hợp xác lập giao dịch do không có quyền đại diện, luật quy định
“người được đại diện biết mà không phản đối trong thời hạn hợp lý” thì vẫn được xem
là “đồng ý”, “tức làm phát sinh hệ quả pháp lý với hành vi đại diện”. Như vậy, khác
với trường hợp “thực hiện công việc không có uỷ quyền” (chỉ cần có sự phản đối thì
phải chấm dứt thực hiện); việc phản đối một “giao dịch do không có quyền đại diện”
nhưng quá thời hạn (khi công việc đã được thực hiện gần xong hoặc xong) thì không
được chấp nhận, và giao dịch đó vẫn được xem là có hiệu lực. Có thể thấy rằng, điều

4
kiện “không phản đối” trong chế định “thực hiện công việc không có uỷ quyền” có
tính tuyệt đối cao hơn hẳn các chế định khác.

3. Đối với công việc: “vì lợi ích của người có công việc”.
Như đã phân tích ở câu 3, điểm mới khi quy định về vấn đề này giữa BLDS
2015 so với BLDS 2005 (bỏ đi chữ “hoàn toàn”), đã mở rộng phạm vi đối tượng nhận
được lợi ích từ việc “thực hiện công việc không có thẩm quyền”. Ở đây, pháp luật dân
sự không hạn chế sự lợi ích (nếu có) của người thực hiện công việc, bên thứ ba hoặc
cộng đồng. Tức là, chỉ cần đảm bảo “khi thực hiện công việc chủ yếu là vì lợi ích của
người có công việc, thì hành vi đó được coi là thực hiện công việc không có uỷ
quyền”.
Mặt khác, căn cứ xác định có tồn tại yếu tố lợi ích ở đây, không cần là một kết
quả xác định, phù hợp với mong muốn của người có công việc được thực hiện. Nói
cách khác, chỉ cần việc thực hiện công việc này xuất phát từ sự tự nguyện, nhằm đem
lại lợi ích cho người có công việc cần thực hiện, đảm bảo các quy định về nghĩa vụ
thực hiện công việc (quy định tại Điều 575 BLDS 2015), thì người có công việc phải
thực hiện nghĩa vụ thanh toán của mình, kể cả khi “công việc không đạt được kết quả
theo ý muốn của mình” (khoản 1 Điều 576 BLDS 2015).

Câu 5: Trong tình huống trên, sau khi xây dựng xong công trình, nhà thầu C có
thể yêu cầu chủ đầu tư A thực hiện những nghĩa vụ trên cơ sở các quy định của
chế định “thực hiện công việc không có ủy quyền” trong BLDS 2015 không? Vì
sao? Nếu cơ sở pháp lý khi trả lời.
Trong tình huống này, nhóm chúng em có tồn tại hai quan điểm.
Quan điểm thứ nhất cho rằng sau khi xây dựng xong công trình, nhà thầu C
không thể yêu cầu chủ đầu tư A thực hiện những nghĩa vụ trên cơ sở các quy định của
chế định “Thực hiện công việc không có uỷ quyền” trong BLDS 2015 bởi lẽ:
Một là, theo quy định của BLDS 2015 thì để được xem là thực hiện công việc
không có uỷ quyền thì người thực hiện công việc không có ủy quyền phải là người
không có nghĩa vụ thực hiện công việc. Trong tình huống mà đề bài đã nêu, xét thấy
nhà thầu C thực hiện công việc trên là phát sinh từ thoả thuận với một chủ thể khác là
Ban Quản lý dự án B, theo đó xác định nhà thầu C có nghĩa vụ phải thực hiện công
việc như hai bên đã thoả thuận. Vì vậy là không có cơ sở để xác định nhà thầu C thực
hiện công việc là dựa trên cơ sở tự nguyện, vì lợi ích của chủ đầu tư A.
Hai là, thực hiện công việc không có uỷ quyền đặt ra yêu cầu một bên thực
hiện công việc với ý thức giúp đỡ bên kia, vì lợi ích của bên kia 3. Trên cơ sở đó, nhà
thầu C thực hiện công việc là xuất phát từ mục đích của chính mình, để đạt được lợi

3 Lê Minh Hùng, Sách tình huống Pháp luật hợp đồng và bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng, NXB
Hồng Đức – Hội Luật gia Việt Nam, 2019, Vấn đề 1, tr.24

5
nhuận trong hoạt động kinh doanh chứ không phải dựa trên việc tự nguyện muốn thực
hiện công việc để giúp đỡ, tương trợ nhà đầu tư A.
Ba là, trong trường hợp này nếu xác định việc thực hiện công việc không có uỷ
quyền thì phải đề cập đến mối quan hệ giữa Ban Quản lý dự án B và chủ đầu tư A.
Bởi lẽ, việc Ban Quản lý dự án B thoả thuận với nhà thầu C là tự nhân danh mình xác
lập hợp đồng vì lợi ích của chủ đầu tư A, gián tiếp thực hiện công việc thông qua nhà
thầu.
Trên các cơ sở đã phân tích ở trên, cho thấy không phát sinh mối quan hệ thực
hiện công việc không có uỷ quyền giữa nhà thầu C và chủ đầu tư A nên chúng ta có
thể kết luận không có cơ sở để nhà thầu C yêu cầu chủ đầu tư A thực hiện các nghĩa
vụ theo chế định thực hiện công việc không có uỷ quyền.

Tuy nhiên, ở quan điểm thứ hai cho rằng sau khi xây dựng xong công trình, nhà
thầu C có thể yêu cầu chủ đầu tư A thực hiện những nghĩa vụ trên cơ sở các quy định
của chế định “Thực hiện công việc không có uỷ quyền” trong BLDS 2015 bởi vì:
Đầu tiên, về phía nhà thầu C, hợp đồng ký kết giữa B và C không nêu rõ B đại
diện cho A và A cũng không ủy quyền cho B thực hiện việc giao kết hợp đồng với C.
Vì vậy kể cả khi C và B cùng nhau thiết lập hợp đồng xây dựng thì hợp đồng này chỉ
phát sinh nghĩa vụ giữa B (bên thứ ba) với C, không có sự ràng buộc nghĩa vụ của C
đối với A theo khoản 1 Điều 142 BLDS 2015 nên thoả mãn yếu tố: “người thực hiện
công việc không có nghĩa vụ thực hiện công việc” nếu cho rằng “không có nghĩa vụ
thực hiện công việc” chỉ xem xét trong quan hệ giữa người thực hiện công việc với
người có công việc cần phải thực hiện.
Đồng thời, nhà thầu C thực hiện công việc này không có bất kỳ sự ràng buộc,
cưỡng ép từ A nên cũng có cơ sở để nói rằng trong quan hệ với A thì nhà thầu C đã
thực hiện công việc một cách tự nguyện. Và khi kí kết hợp đồng, nhà thầu C biết hoặc
buộc phải biết chủ thể đang kí kết hợp đồng với mình là ai, ai là chủ đầu tư của dự án
đó cũng như là phải biết được việc mình làm là cũng góp phần vì lợi ích của chủ đầu
tư A. Nên cũng có căn cứ để cho rằng nhà thầu C thực hiện công việc một cách tự
nguyện và vì lợi ích của chủ đầu tư A.
Thứ hai, về phía chủ đầu tư, A thành lập Ban Quản lý dự án B để tiến hành xây
dựng công trình công cộng, A không ủy quyền cho B nhân danh A để ký hợp đồng với
C do đó A chưa từng yêu cầu C xây dựng công trình cho mình. Nên không tồn tại
nghĩa vụ giữa A và nhà thầu C. Nếu A không biết sự việc này đến khi C xây xong
công trình thì A thoả mãn điều kiện" không biết" theo quy định tại Điều 574 BLDS.
Tuy nhiên, A với vai trò chủ đầu tư, A hoàn toàn có khả năng biết hoặc phải biết về
việc xây dựng công trình công cộng của C, kể cả trong trường hợp đó A cũng thoả
mãn điều kiện "biết mà không phản đối" tại Điều 574 BLDS. Bởi vì nếu có bất kì sự
phản đối nào từ A, C phải chấm dứt thực hiện công việc theo khoản 1 Điều 578
BLDS.

6
Thứ ba, về công việc mà C thực hiện. Đây là công việc mang lại lợi ích cho chủ
đầu tư A, kể cả khi C thực hiện công việc này vì phần lợi ích của mình thì lợi ích khi
công việc này hoàn thành vẫn thuộc về A nên đáp ứng điều kiện “vì lợi ích của người
có công việc” theo Điều 574 BLDS.
Như vậy nếu nhà thầu C hoàn thành công việc theo đúng nghĩa vụ của mình
theo hợp đồng với Ban Quản lý dự án B thì nhà thầu C vẫn có quyền yêu cầu A thực
hiện nghĩa vụ thanh toán theo Điều 576 BLDS khi nhà thầu C đã thực hiện công việc
không có uỷ quyền vì lợi ích của chủ đầu tư A.

VẤN ĐỀ 2: THỰC HIỆN MỘT NGHĨA VỤ (THANH TOÁN MỘT


ĐIỀU KHOẢN)

Tóm tắt tình huống:


Ông Quới cho bà Cô thuê nhà (15/11/1973) và nhận tiền thế chân của bà Cô là
50.000đ. Nay, ông Quới yêu cầu bà Cô trả nhà. Bà Cô đồng ý và yêu cầu ông Quới
hoàn trả tiền thế chân.

Tóm tắt Quyết định số 15/2018/DS-GĐT ngày 15/3/2018 của Tòa án nhân dân cấp
cao tại Hà Nội.
Ngày 26/11/1991, nguyên đơn là cụ Bảng có chuyển nhượng nhà, đất mà cụ
được hưởng thừa kế lại cho hai vợ chồng bà Hương, ông Thịnh với giá trị chuyển
nhượng là 5.000.000 đồng. Tuy đã nhận được nhà và đất nhưng hai vợ chồng bà
Hương, ông Thịnh chỉ mới thanh toán giá trị chuyển nhượng nhà, đất cho cụ Bảng số
tiền là 4.000.000 đồng (tương ứng với 4/5 giá trị chuyển nhượng). Sau đó, hai vợ
chồng ông bà lại tiếp tục chuyển nhượng cho người khác mà chưa thanh toán hết
nghĩa vụ đối với cụ Bảng. Chính vì vậy, đến năm 2015, cụ đã khởi kiện để yêu cầu vợ
chồng ông bà phải thanh toán phần còn lại cho cụ. Trong quá trình giải quyết vụ án,
Toà án cấp cao tại Hà Nội đã giải quyết theo hướng buộc bị đơn phải thanh toán số
tiền tương đương với 1/5 giá trị nhà, đất tại thời điểm xét xử sơ thẩm.

Câu 1: Thông tư trên cho phép tính lại giá trị khoản tiền phải thanh toán như thế
nào? Qua trung gian là tài sản gì?
Theo Thông tư 01/TTLT ngày 19/6/1997 của Tòa án nhân dân tối cao, Viện
kiểm sát nhân dân tối cao, Bộ Tư pháp, Bộ Tài chính hướng dẫn việc xét xử và thi
hành án về tài sản quy định về trường hợp đối tượng của nghĩa vụ về tài sản là các
khoản tiền, vàng như sau:

7
1- Đối với nghĩa vụ là các khoản tiền bồi thường, tiền hoàn trả, tiền công, tiền lương,
tiền chia tài sản, tiền đền bù công sức, tiền cấp dưỡng, tiền vay không có lãi, tiền truy
thu thuế, tiền truy thu do thu lợi bất chính thì giải quyết như sau:
a) Nếu việc gây thiệt hại hoặc phát sinh nghĩa vụ dân sự xảy ra trước ngày 1-7-1996
và trong thời gian từ thời điểm gây thiệt hại hoặc phát sinh nghĩa vụ đến thời điểm xét
xử sơ thẩm mà giá gạo tăng từ 20% trở lên, thì Toà án quy đổi các khoản tiền đó ra
gạo theo giá gạo loại trung bình ở địa phương (từ đây trở đi gọi tắt là "giá gạo") tại
thời điểm gây thiệt hại hoặc phát sinh nghĩa vụ, rồi tính số lượng gạo đó thành tiền
theo giá gạo tại thời điểm xét xử sơ thẩm để buộc bên có nghĩa vụ về tài sản phải
thanh toán và chịu án phí theo số tiền đó.
b) Nếu việc gây thiệt hại hoặc phát sinh nghĩa vụ xảy ra sau ngày 1-7-1996 hoặc tuy
xảy ra trước ngày 1-7-1996, nhưng trong khoảng thời gian từ thời điểm gây thiệt hại
hoặc phát sinh nghĩa vụ đến thời điểm xét xử sơ thẩm mà giá gạo không tăng hay tuy
có tăng nhưng ở mức dưới 20%, thì Toà án chỉ xác định các khoản tiền đó để buộc
bên có nghĩa vụ phải thanh toán bằng tiền. Trong trường hợp người có nghĩa vụ có
lỗi thì ngoài khoản tiền nói trên còn phải trả lãi đối với số tiền chậm trả theo lãi suất
nợ quá hạn do Ngân hàng Nhà nước quy định tương ứng với thời gian chậm trả tại
thời điểm xét xử sơ thẩm theo quy định tại khoản 2 Điều 313 Bộ luật dân sự, trừ
trường hợp có thoả thuận khác hoặc pháp luật có quy định khác.
Đối với Khoản 1 trong Thông tư, việc tính lại giá trị khoản tiền sẽ được thực
hiện qua trung gian là “giá gạo”. Theo như điều khoản này có nghĩa là khoản tiền đó
sẽ được quy đổi ra gạo theo giá gạo loại trung bình ở địa phương (giá gạo) tại thời
điểm gây thiệt hại hoặc phát sinh nghĩa vụ, rồi tính số lượng gạo đó thành tiền theo giá
gạo tại thời điểm xét xử sơ thẩm để buộc bên có nghĩa vụ về tài sản phải thanh toán và
chịu án phí theo số tiền đó.

Câu 2: Đối với tình huống thứ nhất, thực tế ông Quới sẽ phải trả cho bà Cô khoản
tiền cụ thể là bao nhiêu? Nêu rõ cơ sở pháp lý khi trả lời.
Đối với tình huống này, thực tế ông Quới sẽ phải trả cho bà Cô khoản tiền cụ
thể là 6.570.000 đồng.
Theo điểm a khoản 1 Thông tư 01/TTLT ngày 19/6/1997 của Tòa án nhân dân
tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Bộ Tư pháp, Bộ Tài chính hướng dẫn việc xét
xử và thi hành án về tài sản:
- Thời điểm phát sinh nghĩa vụ dân sự giữa ông Quới và bà Cô xảy ra trước ngày
1/7/1996 (cụ thể là ngày 15/11/1973). Trong thời gian từ thời điểm phát sinh nghĩa vụ
dân sự đến thời điểm xét xử sơ thẩm giá gạo đã quá 20%.
- Giá gạo trung bình vào năm 1973 là 137 đ/kg. Quy đổi khoản tiền thế chân của bà
Cô 50.000 đồng ra số lượng gạo sẽ là: 50.000 : 137 = 365 kg.
- Giá gạo trung bình hiện nay theo Sở tài chính TP.HCM là 18.000đ/kg. Vậy thực tế
khoản tiền mà ông Quới phải trả cho bà Cô là: 365 x 18.000 = 6.570.000 đồng.

8
Câu 3: Thông tư trên có điều chỉnh việc thanh toán tiền trong hợp đồng chuyển
nhượng bất động sản như trong Quyết định số 15/2018/DS-GĐT không? Vì sao?
Thông tư liên tịch 01/TTLT không điều chỉnh việc thanh toán tiền trong hợp
đồng chuyển nhượng bất động sản như trong Quyết định số 15/2018/DS-GĐT.
Giải thích: Vì Thông tư liên tịch 01/TTLT chỉ áp dụng đối với nghĩa vụ là các khoản
tiền, vàng như là vật bồi thường, tiền hoàn trả, tiền công, tiền lương, tiền chia tài sản,
tiền đền bù công sức, tiền cấp dưỡng, tiền vay không có lãi, tiền truy thu thuế, tiền
truy thu do thu lợi bất chính,... chứ không bao gồm việc thanh toán tiền trong hợp
đồng chuyển nhượng bất động sản.

Câu 4: Đối với tình huống trong Quyết định số 15/2018/DS-GĐT, nếu giá trị nhà
đất được xác định là 1.697.760.000đ như Tòa án cấp sơ thẩm đã làm thì, theo Tòa
án nhân dân cấp cao tại Hà Nội, khoản tiền bà Hường phải thanh toán cho cụ
Bảng cụ thể là bao nhiêu? Vì sao?
Đối với tình huống trong Quyết định số 15/2018/DS-GĐT, nếu giá trị nhà đất
được xác định là 1.697.760.000đ như Tòa án cấp sơ thẩm đã làm thì bà Hường phải
thanh toán theo giá trị quyền sử dụng đất tính theo giá thị trường tại thời điểm xét xử
sơ thẩm là 1.697.760.000đ x 1/5 = 339.552.000đ.
Vì Tòa án nhân dân cấp cao Hà Nội nhận định: “bà Hường phải thanh toán cho cụ
Bảng số tiền còn nợ tương đương 1/5 giá trị nhà, đất theo định giá tại thời điểm xét
xử sơ thẩm mới đúng với hướng dẫn tại điểm b2, tiểu mục 2.1, mục 2, phần II Nghị
Quyết số 02/2004/NQ-HĐTP ngày 10/8/2004 của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân
dân tối cao”.
Hướng dẫn tại điểm b2, tiểu mục 2.1, mục 2, phần II Nghị Quyết số 02/2004
của Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao quy định như sau: “Nếu công nhận
phần hợp đồng trong trường hợp bên chuyển nhượng giao diện tích đất có giá trị lớn
hơn số tiền mà họ đã nhận, thì Toà án buộc bên nhận chuyển nhượng thanh toán cho
bên chuyển nhượng phần chênh lệch giữa số tiền mà bên nhận chuyển nhượng đã trả
so với diện tích đất thực tế mà họ đã nhận tại thời điểm giao kết hợp đồng theo giá trị
quyền sử dụng đất tính theo giá thị trường tại thời điểm xét xử sơ thẩm....”.

Câu 5: Hướng như trên của Tòa án nhân dân cấp cao tại Hà Nội có tiền lệ chưa?
Nêu một tiền lệ (nếu có)?
Với hướng giải quyết như trên của Tòa án nhân dân cấp cao tại Hà Nội đã từng
có tiền lệ, Một tiền lệ có thể kể đến là: Quyết định Giám đốc thẩm số: 09/HĐTP-DS
ngày 24/02/2005 về “Vụ án tranh chấp nhà đất và đòi nợ”
Tóm tắt bản án:
- Nguyên đơn: Bà Phạm Thị Lai.
- Bị đơn: Ông Phạm Thanh Xuân.

9
- Người có quyền và nghĩa vụ liên quan: Bà Trần Thị Minh và ông Hoàng Minh Khoa.
* Diễn biến vụ việc:
- Năm 1994, bà Lai cho ông Xuân vay 11.500.000đ (giấy ghi nợ không ghi rõ ngày
tháng năm nhưng hai bên đều thống nhất thời gian cho vay là năm 1994).
- Ngày 12/02/1996, bà Lai cho ông Xuân vay tiếp 128.954.000đ.
- Ngày 08/8/1996, hai bên thống nhất số tiền nợ (lẫn lãi) là 188.600.000đ, đồng thời
thỏa thuận chuyển nhượng căn nhà số 19 Chu Văn An cho bà Lai với giá
188.600.000đ. Do vợ chồng ông Xuân không thanh toán nợ và không giao nhà mà vẫn
quản lý ngôi nhà nên bà Lai vẫn tính lãi của số tiền 188.600.000đ.
- Ngày 05/8/1997, vợ chồng ông Xuân và vợ chồng bà Lai tiếp tục chốt nợ gốc và lãi
từ 188.600.000đ lên 250.000.000đ; hai bên lập hợp đồng chuyển nhượng quyền sử
dụng đất với giá 250.000.000đ.
- Sau khi lập hợp đồng, bà Lai vẫn tính lãi số tiền 250.000.000đ trong thời gian 02
tháng thành 6.000.000đ để cộng dồn vào số tiền 44.000.000đ bà Lai đã cho ông Xuân
vay vào ngày 6/11/1997 thành 50.000.000đ.
* Nhận định của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao:
- Vụ tranh chấp phải giải quyết cả hai quan hệ vay nợ và quan hệ mua bán nhà đất.
- Xác minh, thu thập các chứng cứ chứng minh rằng liệu thủ tục làm giấy tờ mua bán
nhà, chuyển nhượng quyền sử dụng đất có theo quy trình pháp luật quy định hay
không.
- Trường hợp xác định được việc mua bán, chuyển nhượng nhà đất là hợp pháp và bên
mua chưa trả đủ tiền thanh toán thì phần còn thiếu sẽ được tính thông qua giá trị của
tài sản chuyển nhượng tại thị trường địa phương tại thời điểm xét xử.

VẤN ĐỀ 3: CHUYỂN GIAO NGHĨA VỤ THEO THOẢ THUẬN

Tóm tắt bản án số 148/2007/DSST ngày 26/9/2007 của Tòa án nhân dân thị xã
Châu Đốc, tỉnh An Giang.
Bà Phượng với bà Tú là hai bà có quen biết nhau. Bà Phượng có vay tiền của
bà Tú số tiền là 615.000.000 đồng. Sau đó bà Phượng lấy số tiền vay từ bà Tú cho bà
Loan, ông Thạnh và bà Ngọc vay lại. Bà Phượng thì cho rằng số tiền ấy không phải do
bà vay mà bà Loan, ông Thạnh, bà Ngọc mới là người vay từ bà Tú. Trong quá trình
giải quyết vụ án, Toà án đã xác định mối quan hệ vay mượn là được xác lập giữa bà
Tú và bà Phượng. Bà Phượng phải có nghĩa vụ trả lại số tiền đã vay cùng với lãi suất
cho bà Tú đúng như hai bên đã thoả thuận. Tuy nhiên, Toà án lại cho rằng giữa bà Tú
và bà Phượng không còn quan hệ nghĩa vụ nữa mà nghĩa vụ của bà Phượng đã được
chuyển giao cho bà Loan, ông Thạnh và bà Ngọc do được sự đồng ý của bà Tú thông
qua việc bà Tú xác lập hai hợp đồng cho vay khác đối với bà Loan, ông Thạnh và bà

10
Ngọc. Từ đó, Toà án đã bác yêu cầu khởi kiện của bà Tú để buộc bà Phượng phải thực
hiện nghĩa vụ.

Câu 1: Điểm giống và khác nhau cơ bản giữa chuyển giao quyền yêu cầu và
chuyển giao nghĩa vụ theo thỏa thuận?
Giống nhau:
- Đều là sự thỏa thuận giữa bên có quyền với bên có nghĩa vụ và người thứ ba
- Đều ngoại trừ trường hợp nghĩa vụ, quyền yêu cầu gắn liền với nhân thân hoặc pháp
luật có quy định không được chuyển giao quyền yêu cầu và nghĩa vụ.
- Hậu quả pháp lý: làm chấm dứt tư cách chủ thể của người chuyển giao, phát sinh tư
cách chủ thể cũng như các quyền và nghĩa vụ dân sự của người được chuyển giao
Khác nhau:

Tiêu chí Chuyển giao quyền yêu cầu Chuyển giao nghĩa vụ

Cơ sở pháp lý Điều 365, Điều 369 BLDS Điều 370, Điều 371 BLDS

Nguyên tắc Việc chuyển giao quyền yêu cầu Việc chuyển giao nghĩa vụ bắt
chuyển giao không cần có sự đồng ý của bên buộc phải được bên có quyền
có nghĩa vụ (khoản 2 Điều 365 đồng ý (khoản 1 Điều 370
BLDS 2015) BLDS 2015)

Hiệu lực của Trường hợp quyền yêu cầu thực Biện pháp bảo đảm chấm dứt
biện pháp bảo hiện nghĩa vụ có biện pháp bảo khi nghĩa vụ có biện pháp bảo
đảm đảm thì việc chuyển giao quyền đảm được chuyển giao, trừ
yêu cầu bao gồm cả biện pháp trường hợp có thỏa thuận khác
bảo đảm đó. (Điều 368 BLDS (Điều 371 BLDS 2015)
2015)

Câu 2: Thông tin nào của bản án cho thấy bà Phượng có nghĩa vụ thanh toán cho
bà Tú?
Thông tin của bản án cho thấy bà Phượng có nghĩa vụ thanh toán cho bà Tú là:
“Theo các biên nhận tiền do phía bà Tú cung cấp thì chính bà Phượng là người trực
tiếp nhận tiền của bà Tú vào năm 2003 với tổng số tiền 555.000.000đ và theo biên
nhận ngày 27/4/2004 thì thể hiện bà Phượng nhận của bà Lê Thị Nhan số tiền
615.000.000đ. Phía bà Phượng không cung cấp được chứng cứ xác định bà Ngọc
thỏa thuận vay tiền với bà Tú. Ngoài ra, cũng theo lời khai của bà Phượng thì vào
tháng 4 năm 2004, do phía bà Loan, ông Thạnh và bà Ngọc không có tiền trả cho bà

11
Tú để trả vốn vay ngân hàng nên bà đã cùng với bà Tú vay nóng bên ngoài để có tiền
trả cho ngân hàng. Xác định bà Phượng là người xác lập quan hệ vay tiền với bà
Tú.”

Câu 3: Đoạn nào của bản án cho thấy nghĩa vụ trả nợ của bà Phượng đã được
chuyển sang cho bà Ngọc, bà Loan và ông Thạnh?
Đoạn của bản án cho thấy nghĩa vụ trả nợ của bà Phượng đã được chuyển sang
cho bà Ngọc, bà Loan và ông Thạnh là: “Phía bà Tú đã chấp nhận cho bà Phượng
chuyển giao nghĩa vụ trả nợ cho bà Ngọc, bà Loan và ông Thạnh thể hiện qua việc bà
Tú đã lập hợp đồng cho bà Ngọc vay số tiền 465.000.000đ và hợp đồng cho bà Loan,
ông Thạnh vay số tiền 150.000.000đ vào ngày 12/5/2005. Như vậy, kể từ thời điểm bà
Tú xác lập hợp đồng vay với bà Ngọc, bà Loan và ông Thạnh thì nghĩa vụ trả nợ vay
của bà Phượng với bà Tú đã chấm dứt, làm phát sinh nghĩa vụ của bà Ngọc, bà Loan
và ông Thạnh đối với bà Tú theo hợp đồng vay tiền đã ký.”

Câu 4: Suy nghĩ của anh/chị về đánh giá trên của Tòa án?
Theo quan điểm của nhóm, đánh giá trên của Tòa án là hợp lý vì:
Tòa án xác định bà Phượng đã có hành vi pháp lý là chuyển giao nghĩa vụ trả
nợ là có căn cứ rõ ràng. Vì nghĩa vụ trả nợ của bà Phượng đã được chuyển sang cho
bà Ngọc, bà Loan và ông Thạnh và đã có sự chấp thuận của bà Tú. Điều này thể hiện
qua việc bà Tú đã lập hợp đồng cho bà Ngọc vay số tiền 465.000.000 đồng và hợp
đồng cho bà Loan ông Thạnh vay số tiền 150.000.000 đồng vào ngày 12/5/2005. Căn
cứ theo khoản 1 Điều 370 BLDS năm 2015: “Bên có nghĩa vụ có thể chuyển giao
nghĩa vụ cho người thế nghĩa vụ nếu được bên có quyền đồng ý, trừ trường hợp nghĩa
vụ gắn liền với nhân thân của bên có nghĩa vụ hoặc pháp luật có quy định không
được chuyển giao nghĩa vụ”. Thế nhưng, luật lại không quy định rõ về hình thức của
việc chấp nhận chuyển giao nghĩa vụ này là như thế nào (bằng văn bản, bằng miệng
hay thỏa thuận khác). Điều này có nghĩa rằng, pháp luật cũng không quy định sự đồng
ý phải được thể hiện dưới một hình thức bắt buộc nhất định 4. Do đó, ở trường hợp
được nêu trong vụ việc trên cho thấy bà Tú đã xác lập hai hợp đồng vay với bà Ngọc,
bà Loan và ông Thạnh thì cho thấy người có quyền là bà Tú đã biểu lộ ý chí của mình
là đồng ý với việc chuyển giao nghĩa vụ này. Vì vậy, bà Ngọc, bà Loan và ông Thanh
sẽ trở thành người thay thế nghĩa vụ, có trách nhiệm trả số nợ còn thiếu cho bà Tú.
Toà án đã xác định khi có chuyển giao nghĩa vụ theo thoả thuận bà Phượng
không cần phải thực hiện nghĩa vụ. Bằng chứng là Tòa án đã nói: "Như vậy, kể từ thời
điểm bà Tú xác lập hợp đồng vay với bà Ngọc, bà Loan và ông Thạnh thì nghĩa vụ trả

4 Đỗ Văn Đại, Luật Nghĩa vụ Việt Nam – Bản án và bình luận bản án, NXB. Hồng Đức-Hội Luật gia
Việt Nam (xuất bản lần thứ 4), 2020, bản án số 61-64, tr.428.

12
nợ vay của bà Phượng đối với bà Tú đã chấm dứt, làm phát sinh nghĩa vụ của bà
Ngọc, bà Loan và ông Thạnh đổi với bà Tú theo hợp đồng vay tiền đã ký. Việc bà Tú
yêu cầu bà Phượng có trách nhiệm thanh toán nợ cho bà là không có căn cứ chấp
nhận” và “Việc bà Tú giữ giấy chứng minh Hải quan của bà Phượng theo thỏa thuận.
Phía bà Phượng không có nghĩa vụ trả nợ cho bả Tú, buộc bà Tú hoàn trả lại bà
Phượng giấy chứng minh Hải quan". Điều đó cho thấy bà Phượng không còn bị ràng
buộc bởi các nghĩa vụ đã được chuyển giao, tức là bà Phượng không phải chịu trách
nhiệm về thực hiện nghĩa vụ trả nợ của bà Ngọc, bà Loan và ông Thạnh.

Câu 5: Nhìn từ góc độ văn bản, người có nghĩa vụ ban đầu còn có trách nhiệm đối
với người có quyền không khi người thế nghĩa vụ không thực hiện nghĩa vụ được
chuyển giao? Nêu cơ sở pháp lý khi trả lời?
Nhìn từ góc độ văn bản, người có nghĩa vụ ban đầu không còn trách nhiệm đối
với người có quyền khi người thế nghĩa vụ không thực hiện nghĩa vụ được chuyển
giao.
Trước khi chuyển giao nghĩa vụ thì người có nghĩa vụ ban đầu và người được chuyển
nghĩa vụ đã có thỏa thuận trước và phải được bên có quyền đồng ý (CSPL: khoản 1
Điều 370 BLDS 2015), trừ trường hợp các bên có thỏa thuận khác.
Khi được bên có quyền đồng ý, bên có nghĩa vụ có thể ủy quyền cho người thứ ba
thay mình thực hiện nghĩa vụ nhưng vẫn phải chịu trách nhiệm với bên có quyền, nếu
người thứ ba không thực hiện hoặc thực hiện không đúng nghĩa vụ (CSPL: Điều 283
BLDS 2015).
Việc người có nghĩa vụ ban đầu không còn trách nhiệm đối với bên có quyền
được thể hiện bằng phương thức bảo đảm, nếu phương thức bảo đảm còn sau khi
chuyển giao nghĩa vụ, bên có nghĩa vụ ban đầu không còn trách nhiệm gì với bên có
quyền (CSPL: Điều 371 BLDS 2015).

Câu 6: Nhìn từ góc độ quan điểm các tác giả, người có nghĩa vụ ban đầu có còn
trách nhiệm đối với người có quyền không khi người thế nghĩa vụ không thực hiện
nghĩa vụ được chuyển giao? Nêu rõ quan điểm của tác giả mà anh/chị biết?
Tác giả Đỗ Văn Đại đã đưa ra quan điểm về vấn đề này là: “Khi có chuyển
giao nghĩa vụ theo thỏa thuận, người có nghĩa vụ ban đầu không còn trách nhiệm với
người có quyền nên người có quyền không thể yêu cầu người có nghĩa vụ ban đầu
thực hiện nghĩa vụ khi người thế nghĩa vụ không thực hiện nghĩa vụ được chuyển
giao. Nếu có nghĩa vụ chuyển giao theo pháp luật mà khi chuyển giao người có nghĩa
vụ ban đầu chết hay chấm dứt (như do sáp nhập hay hợp nhất) thì hiển nhiên người
có quyền cũng sẽ không thể yêu cầu người có nghĩa vụ ban đầu thực hiện nghĩa vụ”.
Quan điểm của tác giả GS.TS. Đỗ Văn Đại nêu trong cuốn Luật Nghĩa vụ Việt
Nam – Bản án và bình luận bản án cho rằng: nếu người có nghĩa vụ ban đầu vẫn có
13
trách nhiệm đối với người có quyền thì chúng ta không thấy sự khác nhau giữa chuyển
giao nghĩa vụ với “thực hiện nghĩa vụ dân sự thông qua người thứ ba”. Do vậy, để
chuyển giao nghĩa vụ là một chế định độc lập với chế định thực hiện nghĩa vụ dân sự
thông qua người thứ ba, cần xác định rõ chuyển giao nghĩa vụ giải phóng người có
nghĩa vụ ban đầu, trừ khi có bên có thoả thuận khác. Tác giả đưa ra những ví dụ cụ thể
như hướng giải quyết của Trọng tài trong vụ việc Công ty Việt Nam và công ty Hồng
Kông hay quyết định của Toà án cấp sơ thẩm trong Bản án số 913/2006/DSPT ngày
06-09-2006 của Toà án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh. Theo đó, khi có chuyển
giao nghĩa vụ theo thoả thuận thì người có nghĩa vụ ban đầu không còn trách nhiệm
với người có quyền đối với nghĩa vụ hay phần nghĩa vụ được chuyển giao5.
Theo tác giả Chế Mỹ Phương Đài cho rằng việc chuyển giao nghĩa vụ là dựa
trên cơ sở thỏa thuận, với sự đồng ý của bên có quyền, người thứ ba thay thế người có
nghĩa vụ trước đó trở thành người có nghĩa vụ mới hay còn gọi là người thế nghĩa vụ.
Người có nghĩa vụ chấm dứt toàn bộ mối quan hệ nghĩa vụ với bên có quyền. Sau khi
việc chuyển giao nghĩa vụ có hiệu lực, người có quyền chỉ được phép yêu cầu người
thế nghĩa vụ thực hiện nghĩa vụ nên người đã chuyển giao nghĩa vụ không phải chịu
trách nhiệm về việc thực hiện nghĩa vụ của bên thế nghĩa vụ6.
Từ những quan điểm trên đây, cho ta thấy rõ các tác giả cho rằng người có
nghĩa vụ ban đầu không còn phải chịu trách nhiệm đối với bên có quyền khi hai bên
không có thỏa thuận gì thêm về việc thực hiện của người thế nghĩa vụ.
Như vậy, từ những góc độ quan điểm các tác giả, người có nghĩa vụ ban đầu
không còn trách nhiệm đối với người có quyền khi người thế nghĩa vụ không thực
hiện nghĩa vụ được chuyển giao.

Câu 7: Đoạn nào của bản án cho thấy Tòa án theo hướng người có nghĩa vụ ban
đầu không còn trách nhiệm đối với người có quyền?
Đoạn của bản án cho thấy Tòa án theo hướng người có nghĩa vụ ban đầu không
còn trách nhiệm đối với người có quyền là đoạn:
“Xét hợp đồng vay tiền giữa bà Phượng với bà Tú, phía bà Phượng đã vi phạm nghĩa
vụ thanh toán nợ vay, không trả vốn, lãi cho bà Tú, lẽ ra phía bà Phượng phải có
trách nhiệm thực hiện. Tuy nhiên, phía bà Tú đã chấp nhận cho bà Phượng chuyển
giao nghĩa vụ trả nợ cho bà Ngọc, bà Loan và ông Thạnh thể hiện qua việc bà Tú đã
lập hợp đồng cho bà Ngọc vay số tiền 465.000.000đ và hợp đồng cho bà Loan, ông
Thạmh vay số tiền 150.000.000đ vào ngày 12/5/2005. Như vậy, kể từ thời điểm bà Tú
xác lập hợp đồng vay với bà Ngọc, bà Loan và ông Thạnh thì nghĩa vụ trả nợ vay của
bà Phượng với bà Tú đã chấm dứt, làm phát sinh nghĩa vụ của bà Ngọc, bà Loan và

5 Đỗ Văn Đại, Luật Nghĩa vụ Việt Nam – Bản án và bình luận bản án, NXB. Hồng Đức-Hội Luật gia
Việt Nam, 2020, bản án số 61-64, tr.433-435.
6 Chế Mỹ Phương Đài, Giáo trình Pháp luật về hợp đồng và bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng,
NXB. Hồng Đức-Hội Luật gia Việt Nam, 2017, chương I, tr.64.

14
ông Thạnh đối với bà Tú theo hợp đồng vay tiền đã ký. Việc bà Tú yêu cầu bà Phượng
có trách nhiệm thanh toán nợ cho bà là không đủ căn cứ chấp nhận”.

Câu 8: Suy nghĩ của anh chị về hướng giải quyết trên của Tòa án.
Nhóm chúng em cho rằng hướng giải quyết trên của Toà án là thuyết phục, hợp
lý. Bởi vì:
Thứ nhất, BLDS không quy định rõ về hệ quả pháp lý của người có nghĩa vụ
ban đầu sau khi nghĩa vụ đã được chuyển giao cho người thế nghĩa vụ. Việc bỏ ngỏ
này có thể sẽ dẫn đến những cách hiểu khác nhau trong quá trình vận dụng pháp luật
để giải quyết các tranh chấp tại Toà án, cũng như tại các cơ quan tài phán. Hướng giải
quyết trên của Toà án nhân dân thị xã Châu Đốc, tỉnh An Giang đã theo hướng giải
phóng người có nghĩa vụ ban đầu khỏi quan hệ nghĩa vụ sau khi nghĩa vụ của họ được
chuyển giao cho người thế nghĩa vụ. Điều này là hợp lý vì pháp luật đặt ra yêu cầu để
một nghĩa vụ được chuyển giao có hiệu lực thì phải đáp ứng được điều kiện bắt buộc,
mà cũng là quan trọng nhất đó là phải có sự đồng ý của người có quyền. Việc này là
điều vô cùng cần thiết bởi vì đặc điểm của bên thế nghĩa vụ như tài sản cũng như nhân
thân của họ rất quan trọng để đảm bảo lợi ích cho bên có quyền 7. Việc đó cũng đặt ra
một vấn đề đó là nếu như bên có quyền đã đồng ý mà không có ý kiến gì thêm với
việc chuyển giao nghĩa vụ tức là bên có quyền đã chấp nhận các yếu tố tài sản và nhân
thân của bên thế nghĩa vụ và tin tưởng để bên thế nghĩa vụ có thể thực hiện thay nghĩa
vụ cho bên có nghĩa vụ ban đầu và cũng như thể hiện sự chấp nhận các rủi ro có thể
xảy ra. Vì vậy, cần thiết phải xác định bên có nghĩa vụ ban đầu được giải phóng khỏi
quan hệ nghĩa vụ ban đầu.
Thứ hai, sở dĩ hướng giải quyết trên là thuyết phục bởi vì nếu chúng ta vẫn xác
định người có nghĩa vụ ban đầu vẫn có trách nhiệm với người có quyền thì không còn
có sự khác nhau giữa chế định “chuyển giao nghĩa vụ” với “thực hiện nghĩa vụ dân sự
thông qua người thứ ba” theo đó bên có nghĩa vụ uỷ quyền lại cho người thứ ba thực
hiện nghĩa vụ thay cho mình vẫn phải chịu trách nhiệm với bên có quyền khi người
thứ ba không thực hiện hoặc thực hiện không đúng nghĩa vụ dân sự. Dựa trên cơ sở
đó, phải xác định trong mối quan hệ chuyển giao nghĩa vụ thì người thế nghĩa vụ phải
hoàn toàn độc lập và người có nghĩa vụ sau khi chuyển giao nghĩa vụ của mình thì
hoàn toàn có thể được giải phóng khỏi mối quan hệ nghĩa vụ đó.
Thứ ba, trong trường hợp bên có quyền vẫn mong muốn bên có nghĩa vụ ban
đầu phải chịu trách nhiệm nếu như bên thế nghĩa vụ không thể thực hiện tiếp nghĩa vụ
được nữa thì hoàn toàn yêu cầu bên có nghĩa vụ ban đầu đứng ra bảo lãnh việc thực
hiện nghĩa vụ của bên thế nghĩa vụ. Khi ấy, dù người có nghĩa vụ ban đầu không phải
là một bên trong nghĩa vụ chính nhưng lại là người thực hiện nghĩa vụ bảo lãnh người
thế nghĩa vụ thực hiện không đúng hoặc không thực hiện nghĩa vụ với bên có quyền.

7 Đỗ Văn Đại, Luật Nghĩa vụ Việt Nam – Bản án và bình luận bản án, NXB. Hồng Đức-Hội Luật gia
Việt Nam, 2020, bản án số 61-64, tr.426.

15
Vì vậy, nhóm chúng em một lần nữa cho rằng hướng giải quyết trên của Toà án
là thuyết phục, hợp tình, hợp lý, bảo vệ được quyền lợi bên có nghĩa vụ nhưng sau đó
đã chuyển giao nghĩa vụ của mình cho người khác.

Câu 9: Trong trường hợp nghĩa vụ của bà Phượng đối với bà Tú có biện pháp bảo
lãnh của người thứ ba thì, khi nghĩa vụ được chuyển giao, biện pháp bảo lãnh có
chấm dứt không? Nêu rõ cơ sở pháp lý khi trả lời.
Cơ sở pháp lý: khoản 7 Điều 292, khoản 1 Điều 335, Điều 371 BLDS 2015:
“Trường hợp nghĩa vụ có biện pháp bảo đảm được chuyển giao thì biện pháp đảm
bảo đó chấm dứt, trừ trường hợp có thỏa thuận khác”.
Theo đó, biện pháp bảo lãnh là một trong các biện pháp đảm bảo nên căn cứ
theo Điều 371 BLDS 2015 thì khi nghĩa vụ được chuyển giao có biện pháp bảo đảm
thì biện pháp bảo lãnh đó sẽ chấm dứt nếu không có thỏa thuận khác. Trong trường
hợp nghĩa vụ của bà Phượng đối với bà Tú có biện pháp bảo lãnh của người thứ ba thì
khi nghĩa vụ được chuyển giao, biện pháp bảo lãnh chấm dứt theo nếu các bên không
có thoả thuận nào khác.

16
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
A. Văn bản quy phạm pháp luật
1. Bộ Luật Dân sự 2015 (Luật số 91/2015/QH13) ngày 24 tháng 11 năm 2015.
2. Thông tư số 01/TTLT của Tòa án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối
cao, Bộ Tư pháp, Bộ Tài chính ngày 19/06/1997 hướng dẫn việc xét xử và thi
hành án về tài sản.
3. Nghị Quyết số 02/2004 của Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao ngày
10/08/2004 hướng dẫn áp dụng pháp luật trong việc giải quyết các vụ án dân
sự, hôn nhân gia đình.

B. Tài liệu tham khảo


1. Hoàng Thế Liên, Bình luận khoa học Bộ luật Dân sự năm 2005, NXB. Chính
trị quốc gia, 2012, Tập 2.
2. Chế Mỹ Phương Đài, Giáo trình Pháp luật về hợp đồng và bồi thường thiệt hại
ngoài hợp đồng, NXB. Hồng Đức-Hội Luật gia Việt Nam, 2017, chương I.
3. Lê Minh Hùng, Sách tình huống Pháp luật hợp đồng và bồi thường thiệt hại
ngoài hợp đồng, NXB Hồng Đức – Hội Luật gia Việt Nam, 2019, Vấn đề 1.
4. Đỗ Văn Đại, Luật Nghĩa vụ Việt Nam – Bản án và bình luận bản án, NXB.
Hồng Đức-Hội Luật gia Việt Nam (xuất bản lần thứ 4), 2020, bản án số 61-64.
5. Đỗ Văn Đại, Luật Nghĩa vụ Việt Nam – Bản án và bình luận bản án, NXB.
Hồng Đức-Hội Luật gia Việt Nam, 2020, bản án số 61-64.

You might also like