You are on page 1of 14

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT TP. HỒ CHÍ MINH


KHOA HÌNH SỰ

BÀI THẢO LUẬN DÂN SỰ 2 LẦN 1:


HỢP ĐỒNG VÀ BỒI THƯỜNG THIỆT HẠI NGOÀI HỢP ĐỒNG
CHỦ ĐỀ: NGHĨA VỤ
GIẢNG VIÊN HƯỚNG DẪN: LÊ THỊ HỒNG VÂN

TÊN THÀNH VIÊN


HỌ VÀ TÊN MSSV
Lê Trịnh Công Hưng 2153801013107
Nguyễn Trịnh Nam Hưng 2153801013108
Đào Tuấn Kiệt 2153801013111
Huỳnh Văn Khải 2153801013114
Hồ Sỹ Duy Khương 2153801013120
Lưu Bá Lộc 2153801013139
Lê Tuấn Minh 2153801013150
Trần Công Minh 2153801013153
Y Thân MLô 2153801013154
Phan Thị Hà My 2153801013159
Nguyễn Thế Trí 2153801013276
LỚP: HS46A2 – NHÓM 5

THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH THÁNG 9/2022


MỤC LỤC

VẤN ĐỀ 1: THỰC HIỆN CÔNG VIỆC KHÔNG CÓ ỦY QUYỀN......................................................1

Câu 1: Thế nào là thực hiện công việc không có ủy quyền?.....................................................................1

Câu 2: Vì sao thực hiện công việc không có ủy quyền là căn cứ phát sinh nghĩa vụ?..............................1

Câu 3: Cho biết điểm mới của BLDS 2015 so với BLDS 2005 về chế định “thực hiện công việc không
có ủy quyền"............................................................................................................................................. 2

Câu 4: Các điều kiện để áp dụng chế định “thực hiện công việc không có ủy quyền" theo BLDS 2015?
Phân tích từng điều kiện........................................................................................................................... 3

Câu 5: Trong tình huống trên, sau khi xây dựng xong công trình, nhà thầu C có thể yêu cầu chủ đầu tư
A thực hiện những nghĩa vụ trên cơ sở các quy định của chế định “thực hiện công việc không có ủy
quyền” trong BLDS 2015 không? Vì sao? Nêu cơ sở pháp lý khi trả lời.................................................3

VẤN ĐỀ 2: THỰC HIỆN NGHĨA VỤ (THANH TOÁN 1 KHOẢN TIỀN)..........................................4

Câu 1: Thông tư trên cho phép tính lại giá trị khoản tiền phải thanh toán như thế nào? Qua trung gian là
tài sản gì?................................................................................................................................................. 5

Câu 2: Đối với tình huống thứ nhất, thực tế ông Quới sẽ phải trả cho bà Cô khoản tiền cụ thể là bao
nhiêu? Nêu rõ cơ sở pháp lý khi trả lời.....................................................................................................6

Câu 3: Thông tư trên có điều chỉnh việc thanh toán tiền trong hợp đồng chuyển nhượng bất động sản
như trong Quyết định số 15/2018/DS-GĐT không? Vì sao?....................................................................6

Câu 4: Đối với tình huống trong Quyết định số 15/2018/DS-GĐT, nếu giá trị nhà đất được xác định là
1.697.760.000đ như Tòa án cấp sơ thẩm đã làm thì, theo Tòa án nhân dân cấp cao tại Hà Nội, khoản
tiền bà Hường phải thanh toán cho cụ Bảng cụ thể là bao nhiêu? Vì sao?...............................................6

Câu 5: Hướng như trên của Tòa án nhân dân cấp cao tại Hà Nội có tiền lệ chưa? Nêu một tiền lệ (nếu
có)?........................................................................................................................................................... 7
VẤN ĐỀ 3: CHUYỂN GIAO NGHĨA VỤ THEO THỎA THUẬN........................................................7

Câu 1: Điểm giống và khác nhau cơ bản giữa chuyển giao quyền yêu cầu và chuyển giao nghĩa vụ theo
thỏa thuận?............................................................................................................................................... 7

Câu 2: Thông tin nào của bản án cho thấy bà Phượng có nghĩa vụ thanh toán cho bà Tú?......................9

Câu 3: Đoạn nào của bản án cho thấy nghĩa vụ trả nợ của bà Phượng đã được chuyển sang cho bà
Ngọc, bà Loan và ông Thạnh?.................................................................................................................. 9

Câu 4: Suy nghĩ của anh/chị về đánh giá trên của Tòa án?.......................................................................9

Câu 5: Nhìn từ góc độ văn bản, người có nghĩa vụ ban đầu có còn trách nhiệm đối với người có quyền
không khi người thế nghĩa vụ không thực hiện nghĩa vụ được chuyển giao? Nêu cơ sở pháp lý khi trả
lời........................................................................................................................................................... 10

Câu 6: Nhìn từ góc độ quan điểm các tác giả, người có nghĩa vụ ban đầu có còn trách nhiệm đối với
người có quyền không khi người thế nghĩa vụ không thực hiện nghĩa vụ được chuyển giao? Nêu rõ
quan điểm của các tác giả mà anh/chị biết..............................................................................................10

Câu 7: Đoạn nào của bản án cho thấy Tòa án theo hướng người có nghĩa vụ ban đầu không còn trách
nhiệm đối với người có quyền?..............................................................................................................11

Câu 8: Suy nghĩ của anh chị về hướng giải quyết trên của Tòa án.........................................................11

Câu 9: Trong trường hợp nghĩa vụ của bà Phượng đối với bà Tú có biện pháp bảo lãnh của người thứ ba
thì, khi nghĩa vụ được chuyển giao, biện pháp bảo lãnh có chấm dứt không? Nêu rõ cơ sở pháp lý khi
trả lời...................................................................................................................................................... 11
VẤN ĐỀ 1: THỰC HIỆN CÔNG VIỆC KHÔNG CÓ ỦY QUYỀN
Tình huống
Chủ đầu tư A lập Ban quản lý dự án B để tiến hành xây dựng một công trình công cộng. Khi triển khai, B
đã ký hợp đồng với nhà thầu C mà không nêu rõ trong hợp đồng B đại diện A và cũng không có ủy quyền
của A trong khi đó, theo quy định, B không được tự ký hợp đồng với C vì đây là công việc của chủ đầu tư
A (thực tế Ban quản lý dự án B không có nhiều tài sản để thanh toán cho C).
Câu hỏi:
Câu 1: Thế nào là thực hiện công việc không có ủy quyền?
Theo Điều 574 BLDS 2015 quy định thực hiện công việc không có ủy quyền: “Thực hiện công việc
không có ủy quyền là việc một người không có nghĩa vụ thực hiện công việc nhưng đã tự nguyện thực hiện
công việc đó vì lợi ích của người có công việc được thực hiện khi người này không biết hoặc biết mà
không phản đối.”
Câu 2: Vì sao thực hiện công việc không có ủy quyền là căn cứ phát sinh nghĩa vụ?
Thực hiện công việc không có ủy quyền là một trong 6 căn cứ phát sinh nghĩa vụ được quy định tại khoản
3 Điều 275 BLDS 2015:
❖ Căn cứ phát sinh quan hệ nghĩa vụ dân sự là những sự kiện pháp lý xảy ra trong thực tế, được pháp
luật dân sự dự liệu và thừa nhận là có giá trị pháp lý làm phát sinh nghĩa vụ dân sự. Cơ sở pháp lý
tại:
- Khoản 8 Điều 8 BLDS 2015: “Căn cứ làm phát sinh quyền và nghĩa vụ dân sự là thực hiện
công việc không có ủy quyền”
- Khoản 3 Điều 275 BLDS 2015: “Căn cứ làm phát sinh nghĩa vụ dân sự là thực hiện công
việc không có ủy quyền”
❖ Trong thực tế, có những trường hợp một người hoàn toàn tự nguyện làm thay công việc cho người
khác trên tinh thần tương thân, tương trợ để giúp đỡ lẫn nhau khi gặp khó khăn tạm thời nên giữa
họ không có mối quan hệ pháp lý nào về công việc được thực hiện. Người thực hiện công việc của
người khác tự coi đó là nghĩa vụ của mình, họ thực hiện một cách tự giác như thực hiện công việc
cho chính mình. Trong quá trình thực hiện, họ phải tự tổ chức thực hiện công việc, tự chi phí để
thực hiện tốt công việc và được yêu cầu bên có công việc phải thanh toán các chi phí hợp lý.
❖ Thực hiện công việc không có ủy quyền theo Điều 574 BLDS 2015 là căn cứ phát sinh nghĩa vụ
dân sự vì khi thực hiện sẽ làm phát sinh một trong các nghĩa vụ được quy định tại Điều 274 BLDS
2015 giữa 2 bên chủ thể thực hiện nghĩa vụ. Ngoài ra bên thực hiện còn có thể có nghĩa vụ thanh
toán hay bồi thường thiệt hại theo Điều 576, 577 BLDS 2015
❖ Các sự kiện pháp lý này chính là nguyên nhân làm phát sinh, thay đổi, chấm dứt căn cứ nghĩa vụ
giữa các bên chủ thể. Do đó, ta có thể nói thực hiện công việc không có ủy quyền là căn cứ phát
sinh nghĩa vụ
❖ Việc quy định chế định này tạo nên sự ràng buộc pháp lý giữa người thực hiện công việc và người
có công việc được thực hiện, nâng cao tinh thần trách nhiệm và bảo đảm quyền lợi đối với 2 bên.

1
Câu 3: Cho biết điểm mới của BLDS 2015 so với BLDS 2005 về chế định “thực hiện công việc không
có ủy quyền".

BLDS 2005 BLDS 2015

Chủ thể người có công việc được thực hiện Chủ thể người có công việc được thực hiện
Chủ thể chỉ có cá nhân bao gồm cả cá nhân và pháp nhân (Mở rộng
phạm vi chủ thể)
Điều 595. Nghĩa vụ thực hiện công việc
không có ủy quyền
Điều 575. Nghĩa vụ thực hiện công việc
3. Người thực hiện công việc không có ủy không có ủy quyền
quyền phải báo cho người có công việc được
thực hiện về quá trình, kết quả thực hiện 3. Người thực hiện công việc không có ủy
công việc nếu có yêu cầu, trừ trường hợp quyền phải báo cho người có công việc được
người có công việc đã biết hoặc người thực thực hiện về quá trình, kết quả thực hiện công
hiện công việc không có ủy quyền không biết việc nếu có yêu cầu, trừ trường hợp người có
nơi cư trú của người đó công việc đã biết hoặc người thực hiện công
việc không có ủy quyền không biết nơi cư trú
4. Trong trường hợp người có công việc hoặc trụ sở của người đó.
được thực hiện chết thì người thực hiện công
việc không có ủy quyền phải tiếp tục thực 4. Trường hợp người có công việc được thực
hiện công việc cho đến khi người thừa kế hiện chết, nếu là cá nhân hoặc chấm dứt tồn
hoặc người đại diện của người có công việc tại, nếu là pháp nhân thì người thực hiện
được thực hiện đã tiếp nhận... công việc không có ủy quyền phải tiếp tục
thực
Điều 598. Chấm dứt thực hiện công việc
không có ủy quyền Việc thực hiện công việc hiện công việc cho đến khi người thừa kế
không có ủy quyền chấm dứt trong các hoặc người đại diện của người có công việc
trường hợp sau đây: được thực hiện đã tiếp nhận

4. Người thực hiện công việc không có ủy Điều 578. Chấm dứt thực hiện công việc
quyền chết. không có ủy quyền Việc thực hiện công việc
không có ủy quyền chấm dứt trong trường
hợp sau đây:

4. Người thực hiện công việc không có

ủy quyền chết, nếu là cá nhân hoặc chấm dứt


tồn tại, nếu là pháp nhân.

Điều 594 BLDS 2005 quy định về người Điều 574 BLDS 2015 quy định về người
Mục thực hiện công việc “hoàn toàn vì lợi ích thực hiện công việc “thực hiện công việc đó
đích của người có công việc được thực hiện” vì lợi ích của người có công việc được thực
thực hiện”
hiện (Hoàn toàn vì lợi ích của người có công việc (Vì lợi ích của người có công việc được thực
được thực hiện, không có mục đích khác)
2
hiện nhưng cũng có thể vì mục đích khác tuy
nhiên không được làm trái với lợi ích của
người có công việc được thực hiện và các chủ
thể khác)

→ BLDS 2015 có sự thay đổi rõ rệt về chủ thể. Việc bổ sung thêm pháp nhân là chủ thể là hoàn toàn hợp
lý. Bởi lẽ có rất nhiều các mối quan hệ phát sinh giữa cá nhân và pháp nhân. Nếu bộ luật không quy định
pháp nhân thì có lẽ rất khó để giải quyết các vấn đề xảy ra liên quan đến pháp nhân.
→ BLDS 2015 đã bỏ đi cụm từ “hoàn toàn” thay vì là “hoàn toàn vì lợi ích của người có công việc được
thực hiện” như BLDS 2005, để đảm bảo tính công bằng hơn giữa 2 bên thực hiện nghĩa vụ
Câu 4: Các điều kiện để áp dụng chế định “thực hiện công việc không có ủy quyền" theo BLDS
2015? Phân tích từng điều kiện.

Theo Điều 574 BLDS 2015 quy định về Thực hiện công việc không có ủy quyền:

“Thực hiện công việc không có ủy quyền là việc một người không có nghĩa vụ thực hiện công việc nhưng
đã tự nguyện thực hiện công việc đó vì lợi ích của người có công việc được thực hiện khi người này không
biết hoặc biết mà không phản đối.”

=> Qua đó, cần phải thỏa mãn 4 điều kiện sau để áp dụng chế định “thực hiện công việc không có ủy
quyền”:

- Thứ nhất, người thực hiện công việc không có nghĩa vụ thực hiện công việc đó. Nghĩa vụ ở đây là nghĩa
vụ pháp lý do luật định hoặc do các bên thỏa thuận.

- Thứ hai, người thực hiện công việc thực hiện công việc một cách tự nguyện, dù pháp luật không quy định
và chủ công việc không yêu cầu. Việc làm này là tự nguyện, trên tinh thần tương trợ, giúp đỡ lẫn nhau
trong lúc gặp khó khăn tạm thời nên giữa họ không có mối quan hệ pháp lý nào về công việc được thực
hiện trước đó.

- Thứ ba, việc thực hiện công việc phải thực sự cần thiết. Sự cần thiết của việc thực hiện công việc thể
hiện ở chỗ nếu công việc không được thực hiện kịp thời sẽ gây thiệt hại cho người có công việc.

- Thứ tư, người thực hiện công việc thực hiện công việc vì lợi ích của người có công việc được thực hiện.
Người thực hiện công việc không có ủy quyền tự ý thức rằng nếu không có ai thực hiện công việc này thì
người có công việc sẽ bị thiệt hại một số lợi ích vật chất nhất định.

- Thứ năm, người có công việc được thực hiện không biết hoặc biết mà không phản đối. Nếu người có
công việc phản đối mà bên kia vẫn tiếp tục thực hiện thì không thuộc chế định này.

Câu 5: Trong tình huống trên, sau khi xây dựng xong công trình, nhà thầu C có thể yêu cầu chủ
đầu tư A thực hiện những nghĩa vụ trên cơ sở các quy định của chế định “thực hiện công việc không
có ủy quyền” trong BLDS 2015 không? Vì sao? Nêu cơ sở pháp lý khi trả lời.

Trong tình huống nêu trên, sau khi xây dựng xong công trình, nhà thầu C có thể yêu cầu chủ đầu tư
A thực hiện những nghĩa vụ trên cơ sở các quy định của chế định “thực hiện công việc không có ủy

3
quyền” theo BLDS năm 2015, vì nhà thầu C đã thỏa mãn các điều kiện để phát sinh nghĩa vụ do thực hiện
công việc không có ủy quyền. Cụ thể như sau:

+ Nhà thầu C thỏa mãn điều kiện “người thực hiện công việc không có nghĩa vụ thực hiện” tại Điều 574
BLDS 2015. Vì nhà thầu C thực hiện công việc là do đã ký hợp đồng với B. Đối với A, nhà thầu C không
có nghĩa vụ nào vì giữa A và C không có hợp đồng và cũng không có quy định buộc C phải làm việc cho
A. B đã ký hợp đồng với nhà thầu C mà không nêu rõ trong hợp đồng B đại diện A và cũng không có ủy
quyền của A. Căn cứ vào Khoản 1 Điều 142 thì giao dịch dân sự do người không có quyền đại diện xác
lập (ở đây là B) không làm phát sinh nghĩa vụ đối với người được đại diện (A), A không tham gia vào hợp
đồng nên nghĩa vụ chỉ phát sinh giữa bên thứ 3 (tức B) và C. Không hề có sự ràng buộc về nghĩa vụ của C
đối với A.

+ Nhà thầu C thực hiện công việc này không có sự ép buộc hay cưỡng ép nào từ A.

+ Trường hợp nếu A không biết về vụ việc cho đến khi C đã xây dựng xong công trình thì A đã thỏa mãn
điều kiện “không biết” tại Điều 574 BLDS 2015. Nhưng A với vai trò là chủ đầu tư thì hoàn toàn phải
biết về việc thi công công trình của C, nếu C xây dựng xong công trình thì có nghĩa A đã thỏa mãn điều
kiện “biết mà không phản đối” tại Điều 574 BLDS 2015

+ Nhà thầu C xây dựng công trình này thì chủ đầu tư A vẫn được nhiều lợi ích nhất, mặc dù C vẫn có một
phần lợi từ hợp đồng với B nhưng nếu lợi ích cho người có công việc (A) chiếm phần lớn thì vẫn được
công nhận, thỏa mãn điều kiện “vì lợi ích của người có công việc” tại Điều 574 BLDS 2015.

VẤN ĐỀ 2: THỰC HIỆN NGHĨA VỤ (THANH TOÁN 1 KHOẢN TIỀN)


Tình huống:
Ngày 15/11/1973, ông Quới cho bà Cô thuê nhà và nhận tiền thế chân của bà Cô 50.000đ. Nay, ông Quới
yêu cầu bà Cô trả nhà. Bà Cô đồng ý trả nhà và yêu cầu ông Quới hoàn trả tiền thế chân (Lưu ý: giá gạo
trung bình vào năm 1973 là 137đ/kg và giá gạo trung bình hiện nay theo Sở tài chính Tp. HCM là
18.000đ/kg).
Tóm tắt Quyết định số 15/2018/DS-GĐT ngày 15/3/2018 của Tòa án nhân dân cấp cao tại Hà Nội:
Nguyên đơn: Cụ Ngô Quang Bảng, sinh năm 1932.
Bị đơn: Bà Mai Hương, sinh năm 1963.
Nội dung:
Theo đơn khởi kiện ngày 03/6/2014 và quá trình tố tụng: Diện tích 1.010m2 thuộc thửa đất số 49, tờ bản
đồ số 13 (nay là 137, tờ bản đồ số p9), tại số 49A phố Trần Hưng Đạo, thị trấn Quảng Yên, Huyện Hưng
Yên (nay là phường Quảng Yên, thị xã Quảng Yên) Tỉnh Quảng Ninh, được ông Ngô Quang Phục chuyển
nhượng cho vợ chồng cụ Ngô Quang Bảng vào 20/10/1982. Vào ngày 26/11/1991, cụ Bảng chuyển
nhượng nhà đất trên cho vợ chồng bà Mai Hương với giá 5.000.000 đồng nhưng bà Hương chỉ mới trả cho
cụ Bảng 4.000.000 đồng, còn nợ 1.000.000 đồng, tương đương 1/5 giá trị thửa đất chưa thanh toán. Cụ đã
nhiều lần yêu cầu bà Hương thanh toán, nhưng bà Hương không trả với lý do chồng ốm đau, không có
tiền. Ngày 28/06/1996, bà Hương đã chuyển nhượng toàn bộ nhà đất trên cho vợ chồng ông Hoàng Văn
Chinh và bà Phạm Thị Sáu Nhưng vẫn không trả tiền cho cụ. Cụ đã nhiều lần đòi bà Hương trả số tiền còn
thiếu, nhưng bà Hương không trả nên Cụ đã khởi kiện. Tại bản án dân sự sơ thẩm số 03/2015/DS-ST ngày
08/06/2015 quyết định: buộc bà Hương phải trả số tiền 2.710.000 đồng trong đó tiền gốc là 1.000.000
4
đồng và tiền lãi là 1.710.000 đồng. Tại bản án phúc thẩm số 38/2015/DS-PT ngày 22/9/2015 quyết định:
giữ nguyên bản án sơ thẩm. Tại phiên tòa giám đốc thẩm nhận định: tòa án cấp sơ thẩm và tòa án cấp phúc
thẩm cho rằng hợp đồng chuyển nhượng đất của cụ Bảng và bà Hương đã được giải quyết bằng bản án có
hiệu lực pháp luật để xác định khoản tiền 1.000.000 đồng tiền chuyển nhượng nhà đất mà bà Hương chưa
thanh toán cho cụ Bảng là khoản tiền nợ buộc bà Hương phải trả số tiền này cùng lãi suất cao theo quy
định là không đúng và không đảm bảo được quyền lợi của đương sự.
Quyết định: căn cứ vào điểm a khoản 1 Điều 337; Khoản 3 Điều 343 và Điều 345 Bộ Luật tố tụng dân sự
2015: hủy bản án dân sự sơ thẩm và bản án dân sự phúc thẩm và giao hồ sơ vụ án cho Tòa án nhân dân thị
xã Quảng Yên, tỉnh Quảng Ninh để xét xử lại theo thủ tục sơ thẩm.
Câu hỏi:
Câu 1: Thông tư trên cho phép tính lại giá trị khoản tiền phải thanh toán như thế nào? Qua trung
gian là tài sản gì?
Theo Thông tư liên tịch số 01/TTLT của TANDTC, VKSNDTC, Bộ Tư pháp, Bộ Tài chính hướng dẫn
việc xét xử và thi hành án về tài sản quy định về trường hợp đối tượng của nghĩa vụ tài sản là các khoản
tiền, vàng thì giá trị khoản tiền phải thanh toán được tính lại như sau:
“1. Đối với nghĩa vụ là các khoản tiền bồi thường, tiền hoàn trả, tiền công, tiền lương, tiền chia tài sản,
tiền đền bù công sức, tiền cấp dưỡng, tiền vay không có lãi, tiền truy thu thuế, tiền truy thu do thu lợi bất
chính thì giải quyết như sau:
a) Nếu việc gây thiệt hại hoặc phát sinh nghĩa vụ dân sự xảy ra trước ngày 1-7-1996 và trong thời gian từ
thời điểm gây thiệt hại hoặc phát sinh nghĩa vụ đến thời điểm xét xử sơ thẩm mà giá gạo tăng từ 20% trở
lên, thì Tòa án quy đổi các khoản tiền đó ra gạo theo giá loại trung bình ở địa phương (từ đây trở đi gọi
tắt là “giá gạo”) tại thời điểm gây thiệt hại hoặc phát sinh nghĩa vụ, rồi tính số lượng gạo đó thành tiền
theo giá gạo tại thời điểm xét xử sơ thẩm để buộc bên có nghĩa vụ về tài sản phải thanh toán và chịu án
phí theo số tiền đó.
b) Nếu việc gây thiệt hại hoặc phát sinh nghĩa vụ xảy ra sau ngày 1-7-1996 hoặc tuy xảy ra trước ngày 1-
7-1996, nhưng trong khoảng thời gian từ thời điểm gây thiệt hại hoặc phát sinh nghĩa vụ đến thời điểm
xét xử sơ thẩm mà giá gạo không tăng hay tuy có tăng nhưng ở mức dưới 20%, thì Tòa Án chỉ xác định
các khoản tiền đó để buộc bên có nghĩa vụ phải thanh toán bằng tiền. Trong trường hợp người có nghĩa
vụ có lỗi thì ngoài khoản tiền nói trên còn phải trả lãi đối với số tiền chậm trả theo lãi suất nợ quá hạn do
Ngân hàng Nhà Nước quy định tương ứng với thời gian chậm trả tại thời điểm xét xử sơ thẩm theo quy
định tại khoản 2 Điều 313 BLDS 2015, trừ trường hợp có thỏa thuận khác hoặc pháp luật có quy định
khác.
2. Đối với các khoản tiền tịch thu, tiền phạt, tiền án phí thì khi xét xử Tòa án chỉ quyết định mức tiền cụ
thể mà không áp dụng cách tính đã hướng dẫn tại khoản 1 nói trên.
3. Đối với các khoản tiền vay, gửi ở tài sản Ngân hàng, tín dụng, do giá trị của các khoản tiền đó đã được
bảo đảm thông qua các mức lãi suất do Ngân hàng Nhà nước quy định, cho nên khi xét xử, trong mọi
trường hợp Tòa án đều không phải quy đổi các khoản tiền đó ra gạo, mà quyết định ràng buộc bên có
nghĩa vụ về tài sản phải thanh toán số tiền thực tế đã vay, gửi cùng với khoản tiền lãi, kể từ ngày khi giao
dịch cho đến khi thi hành án xong, theo mức lãi suất tương ứng do Ngân hàng Nhà nước quy định
4. Đối với các khoản vay có lãi (kể cả loại có kỳ hạn và loại không có kỳ hạn) ở ngoài tổ chức Ngân hàng,
tín dụng, giá trị của các khoản tiền đó cũng đã được đảm bảo thông qua việc chịu lãi của bên vay tài sản,

5
cho nên trong mọi trường hợp tòa án đều không phải quy đổi số tiền đó ra gạo,mà chỉ buộc người vay
phải trả số tiền nợ gốc chưa trả cùng với số tiền lãi chưa trả.
5. Trong trường hợp đối tượng hợp đồng vay tài sản là vàng,thì lãi suất chỉ được chấp nhận khi Ngân
hàng Nhà nước có quy định và cách tính lãi suất không phân biệt như các trường hợp đã nêu tại khoản 4
trên đây, mà chỉ tính bằng mức lãi suất do Ngân hàng Nhà nước quy định.”
Theo đó, trong Thông tư việc tính lại khoản tiền phải thanh toán tại khoản 2, 3, 4 và 5 đều được quy định
bằng mức tiền cụ thể hoặc được đảm bảo bằng mức lãi suất Ngân hàng nên không phải thanh toán thông
qua một trung gian như khoản 1. Bên cạnh đó khoản 2, 3, 4 và 5 đều đã thể hiện đúng như tinh thần của
khoản 2 Điều 280 BLDS 2015 về “Thực hiện nghĩa vụ trả tiền” như sau:“Nghĩa vụ trả tiền bao gồm cả
tiền lãi trên nợ gốc, trừ trường hợp có thỏa thuận khác”. Đối với khoản 1 thì việc tính lại giá trị khoản
tiền được thực hiện thông qua trung gian là “gạo”, nghĩa là khoản tiền đó sẽ được quy đổi ra gạo theo giá
gạo loại trung bình (giá gạo) tại thời điểm gây thiệt hại hoặc phát sinh nghĩa vụ, sau đó tính số lượng gạo
đó thành tiền tại thời điểm x.
Câu 2: Đối với tình huống thứ nhất, thực tế ông Quới sẽ phải trả cho bà Cô khoản tiền cụ thể là bao
nhiêu? Nêu rõ cơ sở pháp lý khi trả lời.
Đối với tình huống thứ nhất, thực tế ông Quới sẽ phải trả cho bà Cô khoản tiền cụ thể là 6.570.000 (đồng).
Căn cứ vào Thông tư 01/TTLT ngày 19/6/1997 của TANDTC, VKSNDTC , Bộ Tư pháp, Bộ Tài chính
hướng dẫn việc xét xử và thi hành án về tài sản:
Thời điểm phát sinh nghĩa vụ dân sự giữa ông Quới và bà Cô trước ngày 1/7/1997. Trong thời gian gây ra
thiệt hại và phát sinh nghĩa vụ đến thời điểm xét xử sơ thẩm giá gạo đã tăng quá 20%.
Quy đổi khoản tiền thế chân 50.000 (đồng) ra gạo với giá trị tại thời điểm phát sinh nghĩa vụ: 50.000 : 137
= 365 (kg).
Giá gạo trung bình hiện nay là 18.000 đồng/ kg nên số tiền ông Quới phải trả cho bà Cô là: 365 x 18.000 =
6.570.000 (đồng).
Câu 3: Thông tư trên có điều chỉnh việc thanh toán tiền trong hợp đồng chuyển nhượng bất động
sản như trong Quyết định số 15/2018/DS-GĐT không? Vì sao?

Thông tư trên không điều chỉnh tiền trong hợp đồng chuyển nhượng bất động sản như trong Quyết định số
15/2018/DS-GĐT. Theo Thông tư liên tịch số 01/TTLT của TANDTC, VKSNDTC, Bộ Tư pháp, Bộ Tài
chính thì ở khoản 1 có thể xét thấy rằng:

1. Đối với nghĩa vụ là các khoản tiền bồi thường, tiền hoàn trả, tiền công, tiền lương, tiền chia tài sản,
tiền đền bù công sức, tiền cấp dưỡng, tiền vay không có lãi, tiền truy thu thuế, tiền truy thu do thu lợi bất
chính

Ở trong khoản 1 đối với các nghĩa vụ trên thì không có đề cập đến việc thanh toán tiền trong hợp đồng
chuyển nhượng bất động sản vì vậy nên thông tư trên không có điều chỉnh việc thanh toán tiền trong hợp
động chuyển nhượng bất động sản.
Câu 4: Đối với tình huống trong Quyết định số 15/2018/DS-GĐT, nếu giá trị nhà đất được xác định
là 1.697.760.000đ như Tòa án cấp sơ thẩm đã làm thì, theo Tòa án nhân dân cấp cao tại Hà Nội,
khoản tiền bà Hường phải thanh toán cho cụ Bảng cụ thể là bao nhiêu? Vì sao?
Căn cứ vào điểm b2, ở mục 2, phần II Nghị Quyết số 02/2004/NQ-HĐTP ngày 10-8-2004 của Hội đồng
thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao.
6
b.2) Nếu bên nhận chuyển nhượng đã trả đủ tiền chuyển nhượng đất; bên chuyển nhượng đã giao toàn bộ
diện tích đất, thì Toà án công nhận hợp đồng chuyển nhượng đất đó. Trong trường hợp bên nhận chuyển
nhượng mới trả một phần tiền chuyển nhượng đất, bên chuyển nhượng mới giao một phần diện tích đất,
thì có thể công nhận phần hợp đồng đó căn cứ vào diện tích đất đã nhận. Nếu công nhận phần hợp đồng
trong trường hợp bên chuyển nhượng giao diện tích đất có giá trị lớn hơn số tiền mà họ đã nhận, thì Toà
án buộc bên nhận chuyển nhượng thanh toán cho bên chuyển nhượng phần chênh lệch giữa số tiền mà
bên nhận chuyển nhượng đã trả so với diện tích đất thực tế mà họ đã nhận tại thời điểm giao kết hợp
đồng theo giá trị quyền sử dụng đất tính theo giá thị trường tại thời điểm xét xử sơ thẩm. Đồng thời buộc
các bên phải làm thủ tục chuyển quyền sử dụng đất đối với diện tích đất mà bên nhận chuyển nhượng đã
nhận. Trong trường hợp bên nhận chuyển nhượng đã giao số tiền lớn hơn giá trị diện tích đất đã nhận mà
Toà án chỉ công nhận phần hợp đồng tương ứng với diện tích đất mà họ đã nhận thì bên chuyển nhượng
phải thanh toán khoản tiền đã nhận vượt quá giá trị diện tích đất đã giao tính theo giá trị quyền sử dụng
đất theo giá thị trường tại thời điểm xét xử sơ thẩm.
Nếu giá trị nhà đất được xác định là 1.697.760.000đ như Tòa án cấp sơ thẩm đã làm thì theo Tòa án nhân
dân cấp cao tại Hà Nội, khoản tiền bà Hương phải thanh toán cho bà cụ Bảng là: 1.697.760.000đ x ⅕ =
339.552.000đ cùng với lãi suất theo quy định của pháp luật.
Câu 5: Hướng như trên của Tòa án nhân dân cấp cao tại Hà Nội có tiền lệ chưa? Nêu một tiền lệ
(nếu có)?
Hướng như trên, Tòa án nhân dân cấp cao tại Hà Nội đã có tiền lệ. Đó là Quyết định Giám đốc thẩm số
09/HĐTP-DS ngày 24/02/2005 về “Vụ án tranh chấp nhà đất và đòi nợ”. Nếu có đủ căn cứ xác định việc
mua bán chuyển nhượng nhà và đất là hợp pháp và công nhận hợp đồng mua bán nhà đất giữa các bên thì
phải lấy giá nhà, đất thỏa thuận trong hợp đồng trừ đi số tiền nợ của gốc và lãi, trường hợp bên mua chưa
trả đủ thì số còn thiếu bên mua phải thanh toán cho bên bán theo giá thị trường tại thời điểm xét xử sơ
thẩm lại.

VẤN ĐỀ 3: CHUYỂN GIAO NGHĨA VỤ THEO THỎA THUẬN


Tóm tắt bản án số 148/2007/DSST ngày 26/9/2007 của Tòa án nhân dân thị xã Châu Đốc, tỉnh An
Giang.

Bà Tú và bà Phượng xác lập quan hệ vay tiền, có thỏa thuận lãi suất. Bà Tú nhận tiền lãi đến tháng 5/2005
thì bên vay không trả tiền lãi như đã thỏa thuận. Tuy nhiên, phía bà Tú đã chấp nhận cho bà Phượng
chuyển giao nghĩa vụ trả nợ cho bà Ngọc, bà Loan và ông Thạnh vì thực chất bà Phượng chỉ giới thiệu
cho 3 người vay tiền. Sau đó hai bên xảy ra tranh chấp, tại phiên hòa giải bà Tú đồng ý cho chuyển nghĩa
vụ trả nợ từ bà Phượng cho bà Ngọc. Bà Ngọc sau đó thông báo không trả được nợ. Bà Tú yêu cầu bà
Phượng và bà Ngọc phải liên đới chịu trách nhiệm cho khoản nợ đó. Tòa xét rằng, kể từ thời điểm bà Tú
xác lập hợp đồng vay với bà Ngọc, bà Loan và ông Thạnh thì nghĩa vụ trả nợ vay của bà Phượng với bà
Tú chấm dứt, làm phát sinh nghĩa vụ của bên thế nghĩa vụ theo hợp đồng vay tiền đã ký. Tòa quyết định
bác yêu cầu của bà Tú, nghĩa vụ thanh toán nợ sẽ do bà Ngọc thực hiện.

Câu hỏi:

7
Câu 1: Điểm giống và khác nhau cơ bản giữa chuyển giao quyền yêu cầu và chuyển giao nghĩa vụ
theo thỏa thuận?

Giống nhau: Trong trường hợp chuyển giao quyền yêu cầu, chuyển giao nghĩa vụ dân sự đều dẫn tới hậu
quả pháp lý là làm thay đổi chủ thể trong quan hệ nghĩa vụ. Theo đó, pháp luật Dân sự quy định chấm dứt
tư cách chủ thể của chủ thể đã chuyển giao, xác lập tư cách chủ thể cho người nhận chuyển giao.

Chủ thể đã xác lập quyền hoặc chủ thể có nghĩa vụ trước sẽ chấm dứt mối quan hệ dân sự với chủ thể có
nghĩa vụ, chủ thể có quyền và không phải chịu trách nhiệm về khả năng thực hiện nghĩa vụ của người có
nghĩa vụ trong trường hợp với việc chuyển giao quyền yêu cầu hay của người thế nghĩa vụ trong trường
với hành vi chuyển giao nghĩa vụ dân sự.
Khác nhau:
Nội dung: Chuyển giao yêu cầu Chuyển giao nghĩa vụ theo thỏa thuận

Khái niệm Là sự thỏa thuận giữa người có quyền Là sự thỏa thuận giữa người có nghĩa vụ
trong quan hệ nghĩa vụ dân sự với với người khác trên cơ sở đồng ý của
người thứ ba nhằm chuyển giao quyền người có quyền nhằm chuyển nghĩa vụ
yêu cầu cho người đó. Người thứ ba cho người khác. Trường hợp này, người
gọi là người thế quyền yêu cầu người thứ và gọi là người thế nghĩa vụ. Người
có nghĩa vụ phải thực hiện nghĩa vụ thế nghĩa vụ dân sự trở thành người có
cho mình. nghĩa vụ mới phải thực hiện nghĩa vụ vì
lợi ích của người có quyền.

Cơ sở pháp lý Điều 365 đến Điều 369 BLDS 2015 Điều 370 đến Điều 371 Bộ luật Dân sự
2015

Chủ thể có quyền Trong quan hệ nghĩa vụ dân sự, bên có Đối với chuyển giao nghĩa vụ dân sự thì
chuyển giao quyền là bên có quyền chuyển giao bên có nghĩa vụ là người có quyền
nghĩa vụ dân sự. chuyển giao.

Điều kiện chuyển + Bên có quyền không cần sự đồng ý + Việc chuyển giao nghĩa vụ phải được
giao của bên có nghĩa vụ Bởi vì trong mọi bên có quyền đồng ý. Bời vì việc đó sẽ
trường hợp người có nghĩa vụ đều ảnh hưởng trực tiếp đến việc hưởng
phải thực hiện đúng nội dung của quyền của bên có quyền. Ai sẽ là người
nghĩa vụ đã được xác định. thay thế thực hiện nghĩa vụ, điều kiện,
+ Bên có quyền sẽ phải thông báo khả năng, ý thức của người đó như nào là
bằng văn bản cho bên có nghĩa vụ. những vấn đề mà người có quyền luôn
Trong trường hợp này, văn bản thông luôn phải quan tâm vì nó ảnh hưởng một
báo này là căn cứ để chứng minh cách trực tiếp đến việc hưởng quyền của
người có nghĩa vụ đã chấm dứt nghĩa họ.
vụ với bên có quyền đồng thời là cơ sở
+ Kể từ thời điểm việc chuyển giao nghĩa
để người có nghĩa vụ biết được họ sẽ
vụ có hiệu lực, người có quyền chỉ được
phải thực hiện nghĩa vụ đó với người
phép yêu cầu người thế nghĩa vụ thực
thứ ba. hiện nghĩa vụ dân sự. Người đã chuyển
+ Trường hợp nghĩa vụ có biện nghĩa vụ hoàn toàn không phải chịu trách
pháp đảm bảo: nếu quyền yêu cầu nhiệm về khả năng thực hiện nghĩa vụ

8
thực hiện nghĩa vụ có biện pháp bảo của người thế nghĩa vụ.
đảm đi kèm theo thì người chuyển Đối với chuyển giao nghĩa vụ có một lưu
giao yêu cầu phải chuyển giao luôn ý rằng: Việc chuyển giao nghĩa vụ có
biện pháp bảo đảm đó và thế quyền trở biện pháp bảo đảm thì biện pháp bảo
thành bên nhận bảo đảm. đảm đó đương nhiên chấm dứt (trừ
Đối với chuyển giao quyền yêu cầu Trường hợp có thỏa thuận khác ).
có một lưu ý rằng, quyền gắn liền với
nhân thân của bên có quyền không thể
chuyển giao. Ví dụ cụ thể trong trường
hợp yêu cầu cấp dưỡng bồi thường
thiệt hại do xâm phạm tính mạng thì
những quyền găn liền với nhân thân
của bên có quyền sẽ không thể chuyển
giao. Trường hợp đã thỏa thuận không
được chuyển giao quyền trong hợp
đồng, thì bên có quyền cũng sẽ không
được chuyển giao quyền cho bên thứ
ba.

Câu 2: Thông tin nào của bản án cho thấy bà Phượng có nghĩa vụ thanh toán cho bà Tú?
Những thông tin của bản án cho thấy bà Phượng có nghĩa vụ thanh toán cho bà Tú cụ thể là:
“ Theo các biên nhận tiền do phía bà Tú cung cấp thì chính bà Phượng là người trực tiếp nhận tiền của
bà Tú vào năm 2003 với tổng số tiền 555 triệu đồng và theo biên nhận ngày 27/4/2004 thể hiện bà
Phượng nhận của bà Lê Thị Nhan số tiền 615 triệu đồng. Phía bà Phượng không cung cấp được chứng cứ
xác định bà Ngọc thỏa thuận vay tiền của bà Tú. Cũng theo lời khai của bà Phượng, tháng 4/2014 do bà
Loan, ông Thạnh, bà Ngọc không có tiền trả cho bà Tú để trả Ngân Hàng nên bà Phượng cùng bà Tú vay
nóng bên ngoài để trả Ngân Hàng. Xác định bà Phượng là người xác lập quan hệ vay tiền với bà Tú.”
“Xét hợp đồng vay tiền giữa bà Phượng với bà Tú, phía bà Phượng đã vi phạm nghĩa vụ thanh toán nợ
vay, không trả vốn, lãi cho bà Tú.”
Câu 3: Đoạn nào của bản án cho thấy nghĩa vụ trả nợ của bà Phượng đã được chuyển sang cho bà
Ngọc, bà Loan và ông Thạnh?

Đoạn của bản án cho thấy nghĩa vụ trả nợ của bà Phượng đã được chuyển sang cho bà Ngọc và ông Thạnh
là: “…phía bà Tú đã chấp nhận cho bà Phượng chuyển giao nghĩa vụ trả nợ cho bà Ngọc, bà Loan và ông
Thạnh thể hiện qua việc bà Tú đã lập hợp đồng cho bà Ngọc vay số tiền 465.000.000 đồng và hợp đồng
cho bà Loan, ông Thạnh vay số tiền 150.000.000 đồng vào ngày 12/5/2005. Như vậy kể từ thời điểm bà
Tú xác lập hợp đồng vay với bà Ngọc, bà Loan và ông Thạnh thì nghĩa vụ trả nợ vay của bà Phượng với
bà Tú đã chấm dứt, làm phát sinh nghĩa vụ với bà Ngọc, bà Loan và ông Thạnh đối với bà Tú Theo hợp
đồng vay tiền đã ký”
Câu 4: Suy nghĩ của anh/chị về đánh giá trên của Tòa án?

Theo nhóm em, đánh giá trên của Tòa án là đúng. Bởi vì:

9
Theo quy định tại khoản 1 Điều 370 BLDS 2015 quy định về việc chuyển giao nghĩa vụ thì “bên có
nghĩa vụ có thể chuyển giao nghĩa vụ cho người thế nghĩa vụ nếu được bên có quyền đồng ý” . Mặc dù
trong BLDS 2015 không cho biết sự đồng ý này cần được thể hiện theo hình thức nào. Tuy nhiên, theo
một số nhà bình luận thì sự đồng ý này có thể được thể hiện theo bất kỳ hình thức nào, không phụ thuộc
vào hình thức của thỏa thuận chuyển giao nghĩa vụ giữa người có nghĩa vụ ban đầu và người thế nghĩa vụ.
Nhận thấy, vào ngày 12/05/2005, bà Ngọc ký hợp đồng vay với bà Tú trên vốn vay là 465.000.000đ và
tiền lãi theo thoả thuận 1,3%/tháng, thế chấp tài sản là diện tích đất toạ lạc tổ 34, khóm Châu Long 6,
phường Vĩnh Mỹ, thị xã Châu Đốc. Tương tự, Bà Tú cũng đã lập hợp đồng vay với vợ chồng bà Loan,
ông Thạnh trên vốn vay 150.000.000đ. Bởi các lẽ trên, ta thấy rằng bà Tú đã đồng ý việc bà Phượng
chuyển giao nghĩa vụ trả nợ cho bà Ngọc, bà Loan và ông Hạnh. Vì vậy bà Tú không thể yêu cầu việc liên
đới trả nợ giữa bà Ngọc và bà Phượng.
Câu 5: Nhìn từ góc độ văn bản, người có nghĩa vụ ban đầu có còn trách nhiệm đối với người có
quyền không khi người thế nghĩa vụ không thực hiện nghĩa vụ được chuyển giao? Nêu cơ sở pháp lý
khi trả lời.

Điều 370. Chuyển giao nghĩa vụ:

1. Bên có nghĩa vụ có thể chuyển giao nghĩa vụ cho người thế nghĩa vụ nếu được bên có quyền đồng ý, trừ
trường hợp nghĩa vụ gắn liền với nhân thân của bên có nghĩa vụ hoặc pháp luật có quy định không được
chuyển giao nghĩa vụ.

2. Khi được chuyển giao nghĩa vụ thì người thế nghĩa vụ trở thành bên có nghĩa vụ.

=> Vậy trừ trường hợp nghĩa vụ gắn liền với nhân thân của bên có nghĩa vụ hoặc pháp luật có quy định
không được chuyển giao nghĩa vụ thì người có nghĩa vụ ban đầu không còn trách nhiệm đối với người có
quyền khi người thế nghĩa vụ không thực hiện nghĩa vụ được chuyển giao.

Điều 371. Chuyển giao nghĩa vụ có biện pháp bảo đảm: “Trường hợp nghĩa vụ có biện pháp bảo đảm
được chuyển giao thì biện pháp bảo đảm đó chấm dứt, trừ trường hợp có thỏa thuận khác”.

=> Vậy trừ trường hợp có thỏa thuận khác giữa người có nghĩa vụ ban đầu và người thế nghĩa vụ thì
người có nghĩa vụ ban đầu không còn trách nhiệm đối với người có quyền khi người thế nghĩa vụ không
thực hiện nghĩa vụ được chuyển giao.
Câu 6: Nhìn từ góc độ quan điểm các tác giả, người có nghĩa vụ ban đầu có còn trách nhiệm đối với
người có quyền không khi người thế nghĩa vụ không thực hiện nghĩa vụ được chuyển giao? Nêu rõ
quan điểm của các tác giả mà anh/chị biết.

Nhìn từ góc độ quan điểm các tác giả, người có nghĩa vụ ban đầu không còn trách nhiệm đối với người có
quyền khi người thế ngĩa vụ không thực hiện nghĩa vụ được chuyển giao. Quan điểm của tác giả Đỗ Văn
Đại về vấn đề này là: “Khi có chuyển giao nghĩa vụ theo thỏa thuận, người có nghĩa vụ ban đầu không
còn trách nhiệm với người có quyền nên người có quyền không thể yêu cầu người có nghĩa vụ ban đầu
thực hiện nghĩa vụ khi người thế nghĩa vụ không thực hiện nghĩa vụ được chuyển giao. Nếu có nghĩa vụ
chuyển giao theo pháp luật mà khi chuyển giao người có nghĩa vụ ban đầu chết hay chấm dứt (như do sáp
nhập hay hợp nhất) thì hiển nhiên người có quyền cũng sẽ không thể yêu cầu người có nghĩa vụ ban đầu
thực hiện nghĩa vụ”.1 Theo quan điểm của tác giả Chế Mỹ Phương Đài trong giáo trình pháp luật về hợp
đồng và bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng thì: “Sau khi việc chuyển giao nghĩa vụ có hiệu lực, người có

1
Đỗ Văn Đại, Luật nghĩa vụ Việt Nam - Bản án và Bình luận bản án, Nxb. Hồng Đức - Hội Luật gia Việt Nam 2020 (xuất
bản lần thứ tư).
10
quyền chỉ được phép yêu cầu người thế nghĩa vụ thực hiện nghĩa vụ nên người đã chuyển giao nghĩa vụ
không phải chịu trách nhiệm về việc thực hiện nghĩa vụ của bên thế nghĩa vụ.”
Câu 7: Đoạn nào của bản án cho thấy Tòa án theo hướng người có nghĩa vụ ban đầu không còn
trách nhiệm đối với người có quyền?

“Như vậy, kể từ thời điểm bà Tú xác lập hợp đồng vay với bà Ngọc, bà Loan, ông Thạnh thì nghĩa vụ trả
nợ vay của bà Phượng với bà Tú đã chấm dứt, làm phát sinh nghĩa vụ của bà Ngọc, bà Loan, ông Thạnh
đối với bà Tú theo hợp đồng vay tiền đã ký.”
Câu 8: Suy nghĩ của anh chị về hướng giải quyết trên của Tòa án.

Hướng giải quyết trên của tòa án là hoàn toàn thuyết phục, phù hợp với quy định trong BLDS 2015. Theo
Điều 370 BLDS quy định về chuyển giao nghĩa vụ như sau:

“ 1. Bên có nghĩa vụ có thể chuyển giao nghĩa vụ cho người thế nghĩa vụ nếu được bên có quyền đồng ý,
trừ trường hợp nghĩa vụ gắn liền với nhân thân của bên có nghĩa vụ hoặc pháp luật có quy định không
được chuyển giao nghĩa vụ.

2. Khi được chuyển giao nghĩa vụ thì người thế nghĩa vụ trở thành bên có nghĩa vụ.”.

Trong vụ việc trên bà Tú (người có quyền) đã đồng ký với bà Phượng (người có nghĩa vụ) và bà Ngọc
(người thế nghĩa vụ) rằng bà Ngọc sẽ là bên thanh toán phần nợ còn lại, Việc này được xác nhận trong
buổi hòa giải ngày 06/09/2007 khi bà Tú đồng ý với việc bà Ngọc sẽ là người trả nợ cho mình. Theo Luật
định muốn chuyển giao nghĩa vụ thì phải có sự đồng ý của bên có quyền và bên có nghĩa vụ trước đó sẽ
chấm dứt nghĩa vụ. Bên có quyền đã đồng ý, các biện pháp bảo đảm của bà Phượng cũng hoàn trả đầy đủ,
hai bên cũng không có thỏa thuận nào khác và cũng không có luật nào quy định về vấn đề này.Như vậy bà
Phượng hiện tại đã không còn trách nhiệm gì đối với bà Tú, Bà Ngọc mới là người có nghĩa vụ với bà Tú
và việc bà Ngọc không trả được nợ không liên quan đến bà Phượng Hướng giải quyết của tòa án bát bỏ
yêu cầu của bà Tú rằng bà Phượng và bà Ngọc phải liên đới chịu trách nhiệm là hợp lý.
Câu 9: Trong trường hợp nghĩa vụ của bà Phượng đối với bà Tú có biện pháp bảo lãnh của người
thứ ba thì, khi nghĩa vụ được chuyển giao, biện pháp bảo lãnh có chấm dứt không? Nêu rõ cơ sở
pháp lý khi trả lời.

Cơ sở pháp lý: Điều 335 BLDS năm 2015, Điều 343 BLDS năm 2015, Điều 371 BLDS năm 2015 (Điều
317 BLDS năm 2005). -Trong trường hợp nghĩa vụ của bà Phượng đối với bà Tú có biện pháp bảo lãnh
của người thứ ba thì nghĩa vụ khi được chuyển giao biện pháp bảo lãnh cũng chấm dứt theo, theo điều
317 BLDS năm 2005: “Trong trường hợp nghĩa vụ dân sự có biện pháp bảo đảm được chuyển giao thì
biện pháp bảo đảm đó chấm dứt, nếu không có thỏa thuận khác”. Việc bà Phượng chuyển giao nghĩa vụ
cho bên thế nghĩa vụ sẽ làm quan hệ nghĩa vụ ban đầu chấm dứt. Chuyển giao nghĩa vụ là bên có nghĩa vụ
chuyển giao toàn bộ nghĩa vụ của mình cho bên thế nghĩa vụ, mà trong đó, hợp đồng dựa trên sự thỏa
thuận của cả ba bên. Khi đó, bên thế nghĩa vụ trở thành bên có nghĩa vụ trong quan hệ nghĩa vụ mới với
bà Tú.

11

You might also like