You are on page 1of 24

TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT TP.

HỒ CHÍ MINH
KHOA QUẢN TRỊ
LỚP QUẢN TRỊ - LUẬT 46A1

MÔN: HỢP ĐỒNG VÀ BỒI THƯỜNG THIỆT HẠI NGOÀI HỢP ĐỒNG
BUỔI THẢO LUẬN THỨ NĂM: TRÁCH NHIỆM DÂN SỰ, VI PHẠM
HỢP ĐỒNG
GIẢNG VIÊN: ThS. ĐẶNG THÁI BÌNH

DANH SÁCH NHÓM 6

STT HỌ TÊN MSSV


1 Nguyễn Ngọc Ánh 2153401020027
2 Phạm Thị Ngọc Bích 2153401020031
3 Nguyên Việt Đức 2153401020052
4 Nguyễn Tuấn Dũng 2153401020058
5 Nguyễn Thị Kiều Duyên 2153401020065
6 Bùi Thị Trà Giang 2153401020068
7 Phạm Thị Hương Giang 2153401020071
8 Nguyễn Đức Hân 2153401020080
MỤC LỤC
VẤN ĐỀ 1: BỒI THƯỜNG THIỆT HẠI DO KHÔNG THỰC HIỆN ĐÚNG HỢP
ĐỒNG GÂY RA..................................................................................................................1
Tình huống:......................................................................................................................1
Câu 1: Căn cứ phát sinh trách nhiệm bồi thường thiệt hại trong hợp đồng theo pháp
luật Việt Nam? Nêu rõ những thay đổi trong BLDS 2015 so với BLDS 2005 về Căn
cứ phát sinh trách nhiệm bồi thường thiệt hại trong hợp đồng....................................1
Câu 2: Trong tình huống trên, có việc xâm phạm tới yếu tố nhân thân của bà
Nguyễn không? Căn cứ phát sinh trách nhiệm bồi thường thiệt hại cho bà Nguyễn
đã hội đủ chưa? Vì sao?...................................................................................................2
Câu 3: Theo quy định hiện hành, những thiệt hại vật chất nào do vi phạm hợp đồng
gây ra được bồi thường? Nêu rõ cơ sở pháp lý khi trả lời.............................................3
Câu 4: BLDS có cho phép yêu cầu bồi thường tổn thất về tinh thần phát sinh do vi
phạm hợp đồng không? Nêu rõ cơ sở pháp lý khi trả lời...............................................3
Câu 5: Theo quy định hiện hành, bà Nguyễn có được bồi thường tổn thất về tinh
thần không? Vì sao? Nêu rõ cơ sở pháp lý khi trả lời....................................................4
VẤN ĐỀ 2: PHẠT VI PHẠM HỢP ĐỒNG.....................................................................4
Tóm tắt Bản án số 121/2011/KDTM-PT ngày 26/12/2011 của Tòa án nhân dân TP.
Hồ Chí Minh.....................................................................................................................4
Tóm tắt Quyết định số 10/2020/KDTM-GĐT ngày 14/8/2020 của Hội đồng thẩm
phán Toà án nhân dân tối cao.........................................................................................5
Câu 1: Điểm mới của BLDS 2015 so với BLDS 2005 về phạt vi phạm hợp đồng........5
Câu 2: Điểm giống nhau giữa đặt cọc và phạt vi phạm hợp đồng................................6
Câu 3: Khoản tiền trả trước 30% được Tòa án xác định là tiền đặt cọc hay là nội
dung của phạt vi phạm hợp đồng?..................................................................................7
Câu 4: Suy nghĩ của anh/chị về hướng giải quyết của Tòa án liên quan đến khoản
tiền trả trước 30%.............................................................................................................7
Câu 5: Cho biết điểm giống nhau và khác nhau giữa thỏa thuận phạt vi phạm hợp
đồng và thỏa thuận về mức bồi thường thiệt hại do vi phạm hợp đồng........................7
Câu 6: Theo Tòa án cấp phúc thẩm, thỏa thuận được nêu tại mục 4 phần Nhận định
của Tòa án trong Quyết định số 10 là thỏa thuận phạt vi phạm hợp đồng hay thỏa
thuận về mức bồi thường thiệt hại do vi phạm hợp đồng? Vì sao?...............................9
Câu 7: Theo Tòa giám đốc thẩm (Hội đồng thẩm phán), thỏa thuận được nêu tại
mục 4 phần Nhận định của Tòa án trong Quyết định số 10 là thỏa thuận phạt vi
phạm hợp đồng hay thỏa thuận về mức bồi thường thiệt hại do vi phạm hợp đồng?
Vì sao?.............................................................................................................................10
Câu 8: Cho biết suy nghĩ của anh/chị về hướng xác định nêu trên của Hội đồng
thẩm phán?.....................................................................................................................10
VẤN ĐỀ 3: SỰ KIỆN BẤT KHẢ KHÁNG....................................................................11
Tình huống:....................................................................................................................11
Câu 1: Những điều kiện để một sự kiện được coi là bất khả kháng? Và cho biết các
bên có thể thỏa thuận với nhau về trường hợp có sự kiện bất khả kháng không? Nêu
rõ cơ sở khi trả lời...........................................................................................................11
Câu 2: Những hệ quả pháp lý trong trường hợp hợp đồng không thể thực hiện được
do sự kiện bất khả kháng trong BLDS và Luật thương mại sửa đổi...........................11
Câu 3: Số hàng trên có bị hư hỏng do sự kiện bất khả kháng không? Phân tích các
điều kiện hình thành sự kiện bất khả kháng với tình huống trên...............................12
Câu 4: Nếu hàng bị hư hỏng do sự kiện bất khả kháng, anh Văn có phải bồi thường
cho anh Bình về việc hàng bị hư hỏng không? Nêu cơ sở pháp lý khi trả lời............13
Câu 5: Nếu hàng bị hư hỏng do sự kiện bất khả kháng và anh Văn thỏa thuận bồi
thường cho anh Bình giá trị hàng bị hư hỏng thì anh Văn có được yêu cầu Công ty
bảo hiểm thanh toán khoản tiền này không? Tìm câu trả lời nhìn từ góc độ văn bản
và thực tiễn xét xử..........................................................................................................13
VẤN ĐỀ 4: THỰC HIỆN HỢP ĐỒNG KHI HOÀN CẢNH THAY ĐỔI CƠ BẢN. 15
Tóm tắt Bản án số 133/2021/DS-PT ngày 8/7/2021 của Toà án nhân dân tỉnh Cà
Mau..................................................................................................................................15
Câu 1: Điểm giống và khác nhau giữa sự kiện bất khả kháng và hoàn cảnh thay đổi
khi thực hiện hợp đồng (về sự tồn tại và hệ quả pháp lý của hai trường hợp này)....15
Câu 2: Quy định về thực hiện hợp đồng khi hoàn cảnh thay đổi cơ bản trong một số
hệ thống pháp luật nước ngoài......................................................................................17
Câu 3: Trong vụ việc nêu trên, theo Toà án, việc chấm dứt hợp đồng là do sự kiện
bất khả kháng hay do hoàn cảnh thay đổi cơ bản? Vì sao?........................................18
Câu 4: Suy nghĩ của anh/chị về hướng giải quyết nêu trên của Tòa án (đặc biệt là
liên quan đến hoàn cảnh thay đổi cơ bản)....................................................................19
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO.............................................................................
A. Văn bản quy phạm pháp luật....................................................................................
B. Tài liệu tham khảo......................................................................................................
VẤN ĐỀ 1: BỒI THƯỜNG THIỆT HẠI DO KHÔNG THỰC HIỆN
ĐÚNG HỢP ĐỒNG GÂY RA

Tình huống:
Ông Lại (bác sĩ chuyên khoa phẫu thuật thẩm mỹ) và bà Nguyễn thỏa thuận
phẫu thuật ngực với 4 yêu cầu: Lấy túi ngực ra, Thâu nhỏ ngực lại, Bỏ túi nhỏ vào,
Không được đụng đến núm vú. Ba ngày sau phẫu thuật, bà Nguyễn phát hiện thấy
núm vú bên phải sưng lên, đau nhức và đen như than. Qua 10 ngày, vết mổ hở hết
phần vừa cắt chỉ, nhìn thấy cả túi nước đặt bên trong và ông Lại tiến hành mổ may lại.
Được vài ngày thì vết mổ bên tay phải chữ T lại hở một lỗ bằng ngón tay, nước dịch
tuôn ướt đẫm cả người. Sau đó ông Lại mổ lấy túi nước ra và may lại lỗ hổng và thực
tế bà Nguyễn mất núm vú phải.

Câu 1: Căn cứ phát sinh trách nhiệm bồi thường thiệt hại trong hợp đồng theo
pháp luật Việt Nam? Nêu rõ những thay đổi trong BLDS 2015 so với BLDS 2005
về Căn cứ phát sinh trách nhiệm bồi thường thiệt hại trong hợp đồng.
CSPL: Điều 584 Bộ Luật Dân sự 2015, Điều 604 Bộ Luật Dân sự 2005.
Theo Điều 584 Bộ Luật Dân sự 2015 tại khoản 1 có quy định về căn cứ phát
sinh trách nhiệm bồi thường thiệt hại trong hợp đồng khi 1 trong 2 bên chủ thể theo
hợp đồng có hành vi vi phạm tới tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm, uy tín, tài
sản, quyền, lợi ích hợp pháp khác của bên kia mà gây thiệt hại thì phải bồi thường, trừ
trường hợp được Bộ luật này quy định khác.
Về căn cứ phát sinh trách nhiệm bồi thường thường thiệt hại trong 2 Bộ luật
Dân sự:
- Bộ luật Dân sự 2005: Theo Điều 604: “Căn cứ phát sinh trách nhiệm bồi thường
thiệt hại:
1. Người nào do lỗi cố ý hoặc lỗi vô ý xâm phạm tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân
phẩm, uy tín, tài sản, quyền, lợi ích hợp pháp khác của cá nhân, xâm phạm danh dự,
uy tín, tài sản của pháp nhân hoặc chủ thể khác mà gây thiệt hại thì phải bồi thường.
2. Trong trường hợp pháp luật quy định người gây thiệt hại phải bồi thường cả trong
trường hợp không có lỗi thì áp dụng quy định đó.”
- Bộ luật Dân sự 2015: Theo Điều 584: “Căn cứ phát sinh trách nhiệm bồi thường
thiệt hại:
1. Người nào có hành vi xâm phạm tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm, uy tín,
tài sản, quyền, lợi ích hợp pháp khác của người khác mà gây thiệt hại thì phải bồi
thường, trừ trường hợp Bộ luật này, luật khác có liên quan quy định khác.
2. Người gây thiệt hại không phải chịu trách nhiệm bồi thường thiệt hại trong trường
hợp thiệt hại phát sinh là do sự kiện bất khả kháng hoặc hoàn toàn do lỗi của bên bị
thiệt hại, trừ trường hợp có thỏa thuận khác hoặc luật có quy định khác.
3. Trường hợp tài sản gây thiệt hại thì chủ sở hữu, người chiếm hữu tài sản phải chịu
trách nhiệm bồi thường thiệt hại, trừ trường hợp thiệt hại phát sinh theo quy định tại
khoản 2 Điều này.”

1
Theo đó, BLDS 2015 có những điểm mới sau:
Thứ nhất: Loại bỏ yếu tố “Lỗi”: nếu như trong BLDS 2005, yếu tố lỗi (kể cả lỗi
cố ý hoặc lỗi vô ý) được sử dụng như là căn cứ đầu tiên để xác định TNBTTH ngoài
hợp đồng thì trong BLDS 2015, căn cứ xác định TNBTTH đầu tiên lại là hành vi xâm
phạm của người gây thiệt hại. Thay đổi này được hiểu là BLDS 2015 đã quy định theo
hướng người bị thiệt hại không có nghĩa vụ chứng minh lỗi của bên gây thiệt hại nữa,
họ chỉ cần xác định được hành vi xâm phạm của người gây thiệt hại là đã có thể yêu
cầu bồi thường (Trách nhiệm chứng minh lỗi giờ đây sẽ thuộc về người gây thiệt hại
trong trường hợp muốn được miễn trách nhiệm BTTH (Khoản 2 Điều 585 BLDS
2015) hoặc được giảm mức bồi thường (Khoản 2, 4 Điều 586 BLDS 2015).
Thứ hai: Bổ sung căn cứ “tài sản gây thiệt hại”. BLDS 2015 đã bổ sung thêm
căn cứ phát sinh trách nhiệm BTTH là “tài sản gây thiệt hại”. Cụ thể, theo Khoản 3
Điều 584 BLDS 2015: Chủ sở hữu, người chiếm hữu tài sản phải chịu trách nhiệm bồi
thường thiệt hại do tài sản của mình gây ra. Đây là một sự bổ sung hoàn toàn hợp lý
bởi trên thực tế, trách nhiệm BTTH ngoài hợp đồng cũng có thể phát sinh khi có sự
kiện tài sản gây ra thiệt hại.
Thứ ba: Bao quát định nghĩa về chủ thể được bồi thường. Khi xác định chủ thể
được BTTH, BLDS 2015 đã quy định theo hướng khái quát hơn, không còn chia ra
trường hợp cá nhân và pháp nhân hoặc chủ thể khác như BLDS 2005 nữa. Khoản 1
Điều 584 BLDS 2015 chỉ quy định: “Người nào có hành vi xâm phạm tính mạng, sức
khỏe, danh dự, nhân phẩm, uy tín, tài sản, quyền, lợi ích hợp pháp khác của người
khác mà gây thiệt hại thì phải bồi thường”. “Người khác” ở đây có thể được hiểu theo
nghĩa rộng, bao gồm cả cá nhân, pháp nhân hoặc chủ thể khác và như vậy đã bao hàm
được tất cả các loại chủ thể được BTTH như quy định tại BLDS 2005 trước đây.
Thứ tư: Mở rộng chủ thể chịu trách nhiệm bồi thường. BLDS 2005 quy định
người nào thực hiện hành vi trái pháp luật gây thiệt hại cho người khác thì phải chịu
trách nhiệm bồi thường. Tuy nhiên, BLDS 2015 lại quy định thêm trường hợp ngoại
lệ, đó là “trừ trường hợp Bộ luật này, luật khác có liên quan quy định khác”. Đây là
một quy định rất phù hợp, bởi vì trách nhiệm BTTH ngoài hợp đồng về nguyên tắc là
được đặt ra cho chính chủ thể có hành vi gây thiệt hại, nhưng có khi lại là người khác.

Câu 2: Trong tình huống trên, có việc xâm phạm tới yếu tố nhân thân của bà
Nguyễn không? Căn cứ phát sinh trách nhiệm bồi thường thiệt hại cho bà Nguyễn
đã hội đủ chưa? Vì sao?
Trong tình huống trên, đã có sự xâm phạm tới yếu tố nhân thân của bà Nguyễn,
cụ thể là quyền được bảo đảm về sức khỏe, thân thể theo Điều 33 Bộ Luật Dân sự
2015 do bà Nguyễn sau khi phẫu thuật đã bị tổn hại nghiêm trọng về sức khỏe (mất
núm vú phải).
Căn cứ phát sinh trách nhiệm của ông Lại bồi thường cho bà Nguyễn đã hội tụ
đủ căn cứ theo Điều 360 Bộ Luật Dân sự 2015
Bởi vì Ông Lại đã vi phạm nghĩa vụ đã thỏa thuận. Trong thỏa thuận bà
Nguyễn đã nêu không được đụng đến núm vú nhưng kết quả cuối cùng bà Nguyễn đã
bị mất núm vú phải. Có nghĩa là ông Lại đã gây tổn thương núm vú của bà khi phẫu
thuật, tức đã vi phạm thỏa thuận hợp đồng.

2
Đã có thiệt hại thực tế xảy ra. Cụ thể, núm vú bên phải của bà Nguyễn sau 3
ngày phẫu thuật đã sưng lên, đau nhức và đen như than, ông Lại có mổ lấy túi nước ra
và may lại lỗ hổng và thực tế bà Nguyễn mất núm vú phải.
Vi phạm nghĩa vụ là nguyên nhân dẫn đến thiệt hại thực tế. Ở đây trong quá
trình phẫu thuật ông Lại đã vi phạm nghĩa vụ nên sau cùng dẫn đến bà Nguyễn bị mất
núm vú. Việc vi phạm của ông Lại chính là nguyên nhân trực tiếp dẫn đến thiệt hại
của bà Nguyễn.

Câu 3: Theo quy định hiện hành, những thiệt hại vật chất nào do vi phạm hợp
đồng gây ra được bồi thường? Nêu rõ cơ sở pháp lý khi trả lời.
Theo khoản 2 Điều 361 Bộ Luật Dân sự 2015 quy định về thiệt hại vật chất như
sau: “Thiệt hại về vật chất là tổn thất vật chất thực tế xác định được, bao gồm tổn thất
về tài sản, chi phí hợp lý để ngăn chặn, hạn chế, khắc phục thiệt hại, thu nhập thực tế
bị mất hoặc bị giảm sút.”
Khoản 2 Điều 419 BLDS 2015 quy định: “Người có quyền có thể yêu cầu bồi
thường thiệt hại cho lợi ích mà lẽ ra mình sẽ được hưởng do hợp đồng mang lại.
Người có quyền còn có thể yêu cầu người có nghĩa vụ chi trả chi phí phát sinh do
không hoàn thành nghĩa vụ hợp đồng mà không trùng lặp với mức bồi thường thiệt
hại cho lợi ích mà hợp đồng mang lại”.
Như vậy, thiệt hại được bồi thường do vi phạm hợp đồng bao gồm: Thiệt hại
vật chất thực tế xác định được, bao gồm tổn thất về tài sản, chi phí hợp lý để ngăn
chặn, hạn chế, khắc phục thiệt hại, thu nhập thực tế bị mất hoặc bị giảm sút; khoản lợi
ích mà lẽ ra bên có quyền yêu cầu bồi thường thiệt hại được hưởng do hợp đồng mang
lại; chi phí phát sinh do không hoàn thành nghĩa vụ hợp đồng mà không trùng lặp với
mức bồi thường thiệt hại cho lợi ích mà hợp đồng mang lại.

Câu 4: BLDS có cho phép yêu cầu bồi thường tổn thất về tinh thần phát sinh do vi
phạm hợp đồng không? Nêu rõ cơ sở pháp lý khi trả lời.
BLDS có cho phép yêu cầu bồi thường tổn thất về tinh thần phát sinh do vi
phạm hợp đồng. Cơ sở pháp lý:
- Khoản 3 Điều 419 BLDS 2015 về Thiệt hại được bồi thường do vi phạm hợp đồng
“Theo yêu cầu của người có quyền, Tòa án có thể buộc người có nghĩa vụ bồi thường
thiệt hại về tinh thần cho người có quyền. Mức bồi thường do Tòa án quyết định căn
cứ vào nội dung vụ việc”.
- Khoản 1 Điều 361 BLDS 2015 về Thiệt hại do vi phạm nghĩa vụ “Thiệt hại do vi
phạm nghĩa vụ bao gồm thiệt hại về vật chất và thiệt hại về tinh thần”; khoản 3 Điều
361 BLDS 2015 về Thiệt hại do vi phạm nghĩa vụ “Thiệt hại về tinh thần là tổn thất
về tinh thần do bị xâm phạm đến tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm, uy tín và
các lợi ích nhân thân khác của một chủ thể” và khoản 1 Điều 584 BLDS 2015 về Căn
cứ phát sinh trách nhiệm bồi thường thiệt hại “Người nào có hành vi xâm phạm tính
mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm, uy tín, tài sản, quyền, lợi ích hợp pháp khác
của người khác mà gây thiệt hại thì phải bồi thường, trừ trường hợp Bộ luật này, luật
khác có liên quan quy định khác”.

3
Câu 5: Theo quy định hiện hành, bà Nguyễn có được bồi thường tổn thất về tinh
thần không? Vì sao? Nêu rõ cơ sở pháp lý khi trả lời.
Bà Nguyễn được bồi thường tổn thất về tinh thần. Vì ông Lại và bà Nguyễn
thỏa thuận phẫu thuật ngực với 4 yêu cầu: Lấy túi ngực ra, thâu nhỏ ngực lại, bỏ túi
nhỏ vào, không được đụng đến núm vú. Nhưng sau khi được ông Lại làm phẫu thuật
thẩm mỹ, bà Nguyễn đã nhiều lần may rồi mổ lại vì bị đau nhức, vết mổ hở… và đã
xảy ra nhiều bất cập làm cho bà Nguyễn mất đi núm vú phải.
Ông Lại đã vi phạm hợp đồng và gây thiệt hại sức khỏe của bà Nguyễn. Căn cứ
Điều 360 BLDS 2015 về Trách nhiệm bồi thường thiệt hại do vi phạm nghĩa vụ
“Trường hợp có thiệt hại do vi phạm nghĩa vụ gây ra thì bên có nghĩa vụ phải bồi
thường toàn bộ thiệt hại...” mà “Thiệt hại do vi phạm nghĩa vụ bao gồm thiệt hại về
vật chất và thiệt hại về tinh thần” theo khoản 1 Điều 161 BLDS 2015 về Thiệt hại do
vi phạm nghĩa vụ, biết:
- Khoản 3 Điều 361 BLDS 2015 “Thiệt hại về tinh thần là tổn thất về tinh thần do bị
xâm phạm đến tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm, uy tín và các lợi ích nhân
thân khác của một chủ thể”.
- Khoản 1 Điều 584 BLDS 2015 “Người nào có hành vi xâm phạm tính mạng, sức
khỏe, danh dự, nhân phẩm, uy tín, tài sản, quyền lợi, lợi ích hợp pháp của người khác
mà gây thiệt hại thì phải bồi thường, trừ trường hợp Bộ luật này, luật khác có liên
quan quy định khác”.
Ta có thể cho rằng BLDS đã ghi nhận vi phạm nghĩa vụ có thể làm dẫn đến
thiệt hại về mặt tinh thần nên trong trường hợp này bà Nguyễn có quyền yêu cầu được
bồi thường thiệt hại về mặt tinh thần, ông Lại phải chịu trách nhiệm bồi thường do vi
phạm nghĩa vụ đã thỏa thuận, dẫn đến hậu quả là làm cho bà Nguyễn bị mất núm vú
phải, khiến cho tinh thần của bà bị ảnh hưởng nghiêm trọng.s

VẤN ĐỀ 2: PHẠT VI PHẠM HỢP ĐỒNG

Tóm tắt Bản án số 121/2011/KDTM-PT ngày 26/12/2011 của Tòa án nhân dân TP.
Hồ Chí Minh
Công ty Tân Việt và Công ty Tường Long đã ký Hợp đồng số 01-10/TL-TV và
phụ lục hợp đồng để mua vải thành phẩm. Công ty Tân Việt thanh toán trước 30%
đơn hàng gọi là tiền đặt cọc, thanh toán 40% giá trị đơn hàng ngày sau khi bên Công
ty Tường Long giao hàng hoàn tất và 30% còn lại thanh toán trong vòng 30 ngày kể từ
ngày thanh toán cuối cùng. Ngày 19/10/2010 Công ty Tân Việt đã thanh toán 30%,
ngày 12/11/2010 Công ty Tường Long giao lô hàng mẫu. Sau đó, Công ty Tường
Long có công văn gửi cho Công Ty Tân Việt yêu cầu tăng giá hàng lên nhưng Công ty
Tân Việt không đồng ý và đã gửi công văn phản hồi. Ngày 3/12/2010, Công ty Tường
Long thông báo về việc hủy bỏ hợp đồng. Do hai bên không thương lượng cách giải
quyết được nên Công ty Tân Việt khởi kiện yêu cầu Công ty Tường Long thanh toán
tiền phạt cọc và phạt hợp đồng là 509.769.640 đồng. Trong quá trình giải quyết vụ án,
Toà án cho rằng khoản tiền 30% trên là khoản tiền đặt cọc, không phải là phạt vi

4
phạm nhưng không áp dụng phạt cọc do hợp đồng đã đi vào thực hiện, chỉ áp dụng
phạt cọc khi Công ty Tường Long từ chối thực hiện hợp đồng.

Tóm tắt Quyết định số 10/2020/KDTM-GĐT ngày 14/8/2020 của Hội đồng thẩm
phán Toà án nhân dân tối cao.
Tháng 10/2010, Công ty Yến Sào và Công ty Yến Việt ký Hợp đồng nguyên
tắc số 02/HĐNT về việc "Phân phối độc quyền ra phía Bắc". Theo đó, Công ty Yến
Việt đồng ý cho Công ty Yến Sào là nhà phân phối độc quyền trong thời hạn 10 năm
đối với sản phẩm từ yến mang nhãn hiệu Yến Việt tại khu vực phía Bắc từ Nghệ An
trở ra. Tại Điều 11 của Hợp đồng, hai bên thỏa thuận: "Nếu trong quá trình thực hiện
hợp đồng, bên nào vi phạm các điều đã cam kết trong hợp đồng thì bên vi phạm phải
chịu trách nhiệm bồi thường cho bên kia với số tiền là 10.000.000.000 đồng". Tuy
nhiên Công ty Yến Việt đã thành lập chi nhánh tại Hà Nội và thiết lập các cửa hàng để
phân phối sản phẩm trên thị trường phía Bắc mà không trao đổi với Công ty Yến Sào,
vi phạm Hợp đồng số 02 và gây thiệt hại nghiêm trọng đến hoạt động sản xuất kinh
doanh của Công ty Yến Sào. Vì vậy, Công ty Yến Sào đề nghị Tòa án phải buộc Công
ty Yến Việt bồi thường do vi phạm Hợp đồng nguyên tắc số 02/HĐNT; bồi thường
thiệt hại ngoài hợp đồng; hoàn trả số tiền mà Công ty Yến Sào ứng trước tiền đặt hàng
và yêu cầu Công ty Yến Việt chấm dứt các hoạt động phân phối sản phẩm từ yến
mang nhãn hiệu Yến Việt tại thị trường phía Bắc. Trong quá trình giải quyết vụ án,
Toà giám đốc thẩm cho rằng số tiền bồi thường mà các bên đã thoả thuận ở trên thực
chất là thỏa thuận về phạt vi phạm hợp đồng chứ không phải là thỏa thuận về bồi
thường thiệt hại bởi lẽ không có thỏa thuận rõ về căn cứ phát sinh trách nhiệm bồi
thường, mức độ, tổn thất, khoản lợi trực tiếp bị vi phạm,… nên chưa đủ cơ sở để xem
đây là thỏa thuận về bồi thường thiệt hại mà chỉ là thỏa thuận về phạt vi phạm (khi
thỏa thuận cho thấy bản chất là bên nào vi phạm thì phải đưa cho bên kia một số tiền
cụ thể).

Câu 1: Điểm mới của BLDS 2015 so với BLDS 2005 về phạt vi phạm hợp đồng.
Những điểm mới của BLDS 2015 so với BLDS 2005 về phạt vi phạm hợp
đồng là:
Thứ nhất, về mức phạt vi phạm, BLDS 2015 quy định tại khoản 2 Điều 418
như sau: “Mức phạt vi phạm do các bên thỏa thuận, trừ trường hợp luật liên quan có
quy định khác.”. Còn ở BLDS 2005 quy định tại khoản 2 Điều 422 “Mức phạt vi
phạm do các bên thỏa thuận.”. Có thể thấy, BLDS 2015 đã bổ sung thêm cụm từ “trừ
trường hợp luật liên quan có quy định khác.” nhằm phù hợp hơn với Luật Thương
mại 2005. Vì tại Điều 301 Luật Thương mại 2005 quy định “Mức phạt đối với vi
phạm nghĩa vụ hợp đồng hoặc tổng mức phạt đối với nhiều vi phạm do các bên thoả
thuận trong hợp đồng, nhưng không quá 8% giá trị phần nghĩa vụ hợp đồng bị vi
phạm, trừ trường hợp quy định tại Điều 266 của Luật này.”. Nếu theo BLDS 2005 thì
mức phạt vi phạm được các bên tự ý lựa chọn mà không bị giới hạn bởi quy định pháp
luật nào. Điều này xuất phát từ nguyên tắc tự do thỏa thuận. Tuy nhiên, do có sự khác

5
biệt giữa hai văn bản khi điều chỉnh một vấn đề 1, cụ thể ở đây là Luật Thương mại
2005 đã điều chỉnh mức phạt vi phạm bị hạn chế ở mức 8%, nên sẽ gây khó khăn
trong việc sẽ áp dụng Bộ luật nào cho phù hợp. Vì vậy, BLDS 2015 đã có sự bổ sung
nhằm khắc phục khuyết điểm của Bộ luật cũ và chúng ta phải phân biệt quan hệ nào
được luật thương mại hay BLDS điều chỉnh để có thể áp dụng một cách chính xác và
hợp lý.
Thứ hai, về mối quan hệ giữa phạt vi phạm và bồi thường thiệt hại, BLDS 2015
quy định tại khoản 3 Điều 418 như sau: “Các bên có thể thỏa thuận về việc bên vi
phạm nghĩa vụ chỉ phải chịu phạt vi phạm mà không phải bồi thường thiệt hại hoặc
vừa phải chịu phạt vi phạm và vừa phải bồi thường thiệt hại.
Trường hợp các bên có thỏa thuận về phạt vi phạm nhưng không thỏa thuận về việc
vừa phải chịu phạt vi phạm và vừa phải bồi thường thiệt hại thì bên vi phạm nghĩa vụ
chỉ phải chịu phạt vi phạm.” Còn ở BLDS 2005 quy định tại khoản 3 Điều 422 “Các
bên có thể thỏa thuận về việc bên vi phạm nghĩa vụ chỉ phải nộp tiền phạt vi phạm mà
không phải bồi thường thiệt hại hoặc vừa phải nộp phạt vi phạm và vừa phải bồi
thường thiệt hại; nếu không có thỏa thuận trước về mức bồi thường thiệt hại thì phải
bồi thường toàn bộ thiệt hại.
Trong trường hợp các bên không có thoả thuận về bồi thường thiệt hại thì bên vi
phạm nghĩa vụ chỉ phải nộp tiền phạt vi phạm”.
BLDS 2015 đã bỏ đi quy định “nếu không có thỏa thuận trước về mức bồi
thường thiệt hại thì phải bồi thường toàn bộ thiệt hại.” vì vấn đề bồi thường thiệt hại
này đã được có quy định khác điều chỉnh là Điều 13 và Điều 360 BLDS 2015.

Câu 2: Điểm giống nhau giữa đặt cọc và phạt vi phạm hợp đồng.
Đối với đặt cọc: Theo khoản 2 Điều 328 BLDS 2015 thì: “Nếu bên đặt cọc từ
chối việc giao kết, thực hiện hợp đồng thì tài sản đặt cọc thuộc về bên nhận đặt cọc;
nếu bên nhận đặt cọc từ chối việc giao kết, thực hiện hợp đồng thì phải trả cho bên
đặt cọc tài sản đặt cọc và một khoản tiền tương đương giá trị tài sản đặt cọc, trừ
trường hợp có thỏa thuận khác”. Nghĩa là sau khi đã giao tài sản cọc mà bên đặt cọc
từ chối việc giao kết, thực hiện hợp đồng thì tài sản ấy sẽ thuộc về bên nhận đặt cọc.
Trong trường hợp bên nhận đặt cọc từ chối việc giao kết, thực hiện hợp đồng thì sẽ
phải trả lại tài sản cọc cho bên đặt cọc, đồng thời mất một khoản tiền tương đương với
giá trị tài sản cọc, còn gọi là tiền phạt cọc.
Đối với phạt vi phạm hợp đồng: Theo Điều 418 BLDS 2015: “Phạt vi phạm là
sự thỏa thuận giữa các bên trong hợp đồng, theo đó bên vi phạm nghĩa vụ phải nộp
một khoản tiền cho bên bị vi phạm”. Theo đó, khi một bên vi phạm hợp đồng thì phải
trả cho bên còn lại một khoản tiền nhất định theo thỏa thuận đã được giao kết trong
hợp đồng nhằm có thể đảm bảo đầy đủ quyền lợi cho các bên.
Như vậy có thể rút ra một số điểm giống giữa đặt cọc và phạt vi phạm. Thứ
nhất, cả hai khoản tiền nêu trên chỉ tồn tại khi có thoả thuận giữa các bên. Về hậu quả
pháp lý, khi đó bên vi phạm đều bị mất một khoản tiền. Đối với đặt cọc thì bên đặt cọc
sẽ mất tiền cọc, bên nhận đặt cọc sẽ phải chịu phạt gấp đôi nếu các bên không có thỏa

1 Trường Đại học Luật Tp.HCM (2017), Giáo trình Pháp luật về hợp đồng và bồi thường thiệt hại ngoài hợp
đồng, Nxb. Hồng Đức - Hội Luật gia Việt Nam, tr.348.

6
thuận khác. Đối với phạt vi phạm thì bên vi phạm cam kết đã thoả thuận thì phải đưa
tiền phạt cho bên bị vi phạm.

Câu 3: Khoản tiền trả trước 30% được Tòa án xác định là tiền đặt cọc hay là nội
dung của phạt vi phạm hợp đồng?
Khoản tiền trả trước 30% được Tòa án xác định là tiền đặt cọc vì trong bản án
có đoạn: “Xét thấy, theo khoản 3 điều 4 Hợp đồng kinh tế số 01-10/TL-TV ngày
01/10/2010 các bên đã thỏa thuận: Ngay sau khi ký kết hợp đồng, bên mua (Công ty
Tân Việt) phải thanh toán trước cho bên bán (Công ty Tường Long) 30% giá trị đơn
hàng là tiền đặt cọc. ... Do vậy số tiền thanh toán đợt 1 là 30% giá trị đơn hàng
(406.920.000 đồng) được xác định là tiền đặt cọc. Việc đặt cọc này là phù hợp khoản
7 Điều 292 Luật Thương mại và Điều 358 BLDS. Việc đặt cọc này là việc đảm bảo
cho việc thực hiện hợp đồng.”.

Câu 4: Suy nghĩ của anh/chị về hướng giải quyết của Tòa án liên quan đến khoản
tiền trả trước 30%.
Hướng giải quyết của Tòa án liên quan đến khoản tiền trả trước 30% là hợp lý.
Khoản tiền trả trước 30% được Tòa án xác định là tiền đặt cọc là hoàn toàn phù hợp
theo thỏa thuận của các bên trong hợp đồng và quy định của BLDS 2015. Khoản 1
Điều 358 BLDS 2005 (khoản 1 Điều 328 BLDS 2015) quy định: “Đặt cọc là việc một
bên giao cho bên kia một khoản tiền hoặc kim khí quí, đá quý hoặc vật có giá trị khác
(sau đây gọi là tài sản đặt cọc) trong một thời hạn để bảo đảm giao kết hoặc thực
hiện hợp đồng dân sự”. Như vậy, số tiền trả trước này là do các bên thỏa thuận với
nhau là tiền đặt cọc để đảm bảo cho việc thực hiện hợp đồng. Để được coi là đặt cọc
thì bên đặt cọc phải giao tài sản đặt cọc trước khi có giao kết hoặc thực hiện hợp đồng
(tức trước khi có vi phạm) và đây là dấu hiệu để phân biệt với phạt vi phạm hợp
đồng.2
Theo khoản 2 Điều 328 BLDS 2015 “Trường hợp hợp đồng được giao kết,
thực hiện thì tài sản đặt cọc được trả lại cho bên đặt cọc hoặc được trừ để thực hiện
nghĩa vụ trả tiền; nếu bên đặt cọc từ chối việc giao kết, thực hiện hợp đồng thì tài sản
đặt cọc thuộc về bên nhận đặt cọc; nếu bên nhận đặt cọc từ chối việc giao kết, thực
hiện hợp đồng thì phải trả cho bên đặt cọc tài sản đặt cọc và một khoản tiền tương
đương giá trị tài sản đặt cọc, trừ trường hợp có thỏa thuận khác.”
Ta thấy, Công Ty Tường Long đã thực hiện hợp đồng theo đúng thỏa thuận và
đã giao hàng cho Công ty Tân Việt sau khi đã nhận tiền cọc. Do đó, bên nhận đặt cọc
tức là Công ty Tường Long không hề từ chối việc giao kết, thực hiện hợp đồng nên
Công ty Tân Việt yêu cầu Công ty Tường Long thanh toán tiền phạt cọc là không hợp
lý. Công ty Tường Long chỉ vi phạm vì đã tự ý chấm dứt hợp đồng mà không có sự
đồng ý của công ty Tân Việt nên phải thanh toán tiền phạt do vi phạm là đúng. Vì vậy,
trong trường hợp này hợp đồng đã được giao kết thì bên nhận tài sản đặt cọc không
phải trả lại cho bên đặt cọc theo thỏa thuận là 30% toàn bộ giá trị đơn hàng.

2 Đỗ Văn Đại (2021), Luật Hợp đồng Việt Nam – Bản án và bình luận bản án, Tập 2, Nxb. Đại học Quốc gia
TP. Hồ Chí Minh, tr.633

7
Câu 5: Cho biết điểm giống nhau và khác nhau giữa thỏa thuận phạt vi phạm hợp
đồng và thỏa thuận về mức bồi thường thiệt hại do vi phạm hợp đồng.
Giống nhau:
- Áp dụng với các hợp đồng có hiệu lực.
- Thể hiện trách nhiệm pháp lý của các bên tham gia hợp đồng.
- Phát sinh khi có hành vi vi phạm nghĩa vụ hợp đồng.
- Bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của các bên bị vi phạm.
- Đều là các quy định của pháp luật nhằm tác động vào ý thức tôn trọng pháp luật.
Khác nhau:
Tiêu chí Phạt vi phạm Bồi thường thiệt hại
Căn cứ Điều 418 BLDS 2015 và Điều 419 BLDS 2015 và
Điều 300 Luật Thương Điều 302 Luật Thương
mại 2005. mại 2005.
Khái niệm Phạt vi phạm là việc bên Bồi thường thiệt hại là
bị vi phạm yêu cầu bên vi việc bên vi phạm bồi
phạm trả một khoản tiền thường những tổn thất do
phạt do vi phạm hợp đồng hành vi vi phạm hợp đồng
nếu trong hợp đồng có gây ra cho bên bị vi phạm
thỏa thuận (tương tự). (tương tự).
Bên bị vi phạm chỉ được Được bồi thường thiệt hại
phạt bên vi phạm khi có ngay cả khi không có thỏa
thỏa thuận trong hợp thuận.
đồng.
Mục đích - Ngăn ngừa các hành vi - Bảo vệ lợi ích của bên bị
vi phạm có thể xảy ra khi vi phạm.
giao kết hợp đồng nhằm - Khắc phục hậu quả do
bảo vệ lợi ích của các bên hành vi vi phạm gây nên,
trong hợp đồng. bù đắp thiệt hại vật chất
- Nâng cao ý thức trách và tinh thần cho bên bị vi
nhiệm của mỗi bên khi phạm.
thực hiện hợp đồng.
Căn cứ áp dụng chế tài - Do thỏa thuận trong hợp Trách nhiệm bồi thường
đồng. thiệt hại phát sinh khi có
- Không cần có thiệt hại đủ 3 yếu tố:
thực tế xảy ra. - Có hành vi vi phạm hợp
- Chỉ cần chứng minh đồng.
được có vi phạm. - Có thiệt hại xảy ra (trong
bộ luật Thương mại là
thiệt hại thực tế).
- Hành vi vi phạm hợp
đồng là nguyên nhân trực
tiếp gây ra thiệt hại (Nói
cách khác giữa hành vi vi
phạm và thiệt hại có mối
quan hệ nhân quả).

8
Mức áp dụng chế tài - BLDS 2015 không quy - BLDS 2015: Giá trị bồi
định giới hạn mà do các thường thiệt hại bao gồm:
bên tự thỏa thuận. giá trị tổn thất đáng lẽ ra
- Luật Thương mại 2005 được hưởng do hợp đồng
mức phạt hoặc tổng mức mang lại, chi trả chi phí
phạt đối với nhiều vi phát sinh do không hoàn
phạm do các bên thỏa thành nghĩa vụ hợp đồng,
thuận trong hợp đồng, đồng thời có thể yêu cầu
nhưng không quá 8% giá Tòa án buộc bên có nghĩa
trị phần nghĩa vụ hợp vụ phải bồi thường thiệt
đồng bị vi phạm. hại về mặt tinh thần.
- Luật Thương mại 2005:
Giá trị bồi thường thiệt hại
gồm giá trị tổn thất thực
tế, trực tiếp mà bên bị vi
phạm phải chịu do bên vi
phạm gây ra và khoản lợi
trực tiếp mà bên bị vi
phạm đáng lẽ được hưởng
nếu không có hành vi vi
phạm.
- Theo giá trị thiệt hại
thực tế: lợi nhuận trực tiếp
(nếu không có hành vi vi
phạm).
Nghĩa vụ của các bên Thỏa thuận trong hợp Bên yêu cầu bồi thường
đồng về điều khoản phạt thiệt hại có nghĩa vụ:
vi phạm (tương tự). - Chứng minh tổn thất.
- Hạn chế tổn thất.
Mối quan hệ giữa Trường hợp có thỏa thuận phạt vi phạm thì bên bị vi
phạt vi phạm và bồi phạm có quyền áp dụng cả chế tài phạt vi phạm và bồi
thường thiệt hại thường thiệt hại theo thỏa thuận.
- Trường hợp không thỏa thuận phạt vi phạm thì bên bị
vi phạm chỉ có quyền yêu cầu bồi thường thiệt hại.

Câu 6: Theo Tòa án cấp phúc thẩm, thỏa thuận được nêu tại mục 4 phần Nhận
định của Tòa án trong Quyết định số 10 là thỏa thuận phạt vi phạm hợp đồng hay
thỏa thuận về mức bồi thường thiệt hại do vi phạm hợp đồng? Vì sao?
Theo Toà án cấp phúc thẩm, thoả thuận được nêu tại mục 4 phần Nhận định
của Toà án trong Quyết định số 10 là thỏa thuận về phạt vi phạm hợp đồng. Thông
qua đoạn: “Không chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của Công ty TNHH Yến Sào
Sài Gòn có nội dung: yêu cầu Công ty cổ phần Yến Việt bồi thường khoản tiền
10.000.000.000 đồng do vi phạm Hợp đồng nguyên tắc số 02/HĐTN về việc phân
phối độc quyền phía Bắc ký tháng 10/2010 giữa Công ty cổ phần Yến Việt và Công ty
TNHH Yến Sào Sài Gòn…”.

9
Câu 7: Theo Tòa giám đốc thẩm (Hội đồng thẩm phán), thỏa thuận được nêu tại
mục 4 phần Nhận định của Tòa án trong Quyết định số 10 là thỏa thuận phạt vi
phạm hợp đồng hay thỏa thuận về mức bồi thường thiệt hại do vi phạm hợp đồng?
Vì sao?
Theo Tòa giám đốc thẩm, thỏa thuận được nêu tại mục 4 phần Nhận định của
Tòa án trong Quyết định số 10 là thỏa thuận phạt vi phạm hợp đồng. Bởi vì tại mục 4
phần Nhận định có ghi: “Tòa án cấp sơ thẩm và Ủy ban Thẩm phán Tòa án nhân dân
cấp cao tại Thành phố Hồ Chí Minh nhận định Công ty Yến Sào và Công ty Yến Việt
có thỏa thuận về bồi thường thiệt hại là không đúng.” Toà giám đốc thẩm cho rằng
tuy hợp đồng giữa các bên tuy có thỏa thuận là nếu một trong các bên vi phạm cam
kết thì phải bồi thường cho bên kia 10.000.000.000 đồng nhưng do đây là bản chất của
phạt vi phạm. Toà giám đốc cho rằng để xác định có phải là thỏa thuận bồi thường
thiệt hại thì phải có thoả thuận về căn cứ phát sinh trách nhiệm bồi thường, về mức độ
bồi thường,…

Câu 8: Cho biết suy nghĩ của anh/chị về hướng xác định nêu trên của Hội đồng
thẩm phán?
Hướng xác định của Hội đồng thẩm phán trong trường hợp này là hợp lý. Điều
360 BLDS 2015 quy định: “Trường hợp có thiệt hại do vi phạm nghĩa vụ gây ra thì
bên có nghĩa vụ phải bồi thường toàn bộ thiệt hại, trừ trường hợp có thỏa thuận khác
hoặc luật có quy định khác”. Khoản 1 Điều 418 BLDS 2015 quy định: “Phạt vi phạm
là sự thỏa thuận giữa các bên trong hợp đồng, theo đó bên vi phạm nghĩa vụ phải nộp
một khoản tiền cho bên bị vi phạm”. Để xác định là thỏa thuận về bồi thường thiệt hại
thì phải làm rõ các căn cứ phát sinh trách nhiệm bồi thường thiệt hại gồm đủ các yếu
tố: có hành vi vi phạm hợp đồng, có thiệt hại thực tế, hành vi vi phạm hợp đồng là
nguyên nhân trực tiếp gây ra thiệt hại và bên yêu cầu bồi thường thiệt hại phải chứng
minh tổn thất, mức độ tổn thất do hành vi vi phạm gây ra và khoản lợi trực tiếp mà
bên bị vi phạm đáng lẽ được hưởng nếu không có hành vi vi phạm. Do đó, khi chưa
làm rõ được các yếu tố trên mà Tòa án cấp sơ thẩm buộc Công ty Yến Việt bồi thường
4.000.000.000 đồng, còn Ủy ban Thẩm phán Tòa án nhân dân cấp cao tại Thành phố
Hồ Chí Minh buộc Công ty Yến Việt bồi thường 10.000.000.000 đồng là đều không
có căn cứ.
Bên cạnh đó, cần phải phân biệt rõ giữa phạt vi phạm và thỏa thuận bồi thường
thiệt hại. Đối với phạt vi phạm thì chúng ta có thể xem đây là quy định nhằm mục
đích ràng buộc để thúc đẩy các bên phải thực nghĩa vụ của mình trong hợp đồng nếu
không thực hiện hoặc thực hiện không đúng thì phải chịu một khoản tiền phạt. Còn
thoả thuận về việc bồi thường thì đặt ra khi các bên dự liệu trước về căn cứ của trách
nhiệm bồi thường, lỗi, mức độ vi phạm để khi xảy ra việc vi phạm và phải có thiệt hại
xảy ra thì các bên có thể dựa trên cơ sở đó để tiến hành việc bồi thường thiệt hại cho
bên bị thiệt hại. Bản chất của hai nội dung trên là hoàn toàn khác nhau.
Trong tình huống trên, thì Toà án đã theo hướng phạt vi phạm đặt ra không
nhất thiết phải có thiệt hại xảy ra và để được xem là thỏa thuận bồi thường thì các bên
phải có thoả thuận về các căn cứ phát sinh trách nhiệm bồi thường, lỗi, tính chất, mức
độ và phải có thiệt hại xảy ra. Hướng giải quyết này là phù hợp với tinh thần trên khi

10
xác định bản chất cốt lõi của thỏa thuận bồi thường chính là thỏa thuận về phạt vi
phạm.

VẤN ĐỀ 3: SỰ KIỆN BẤT KHẢ KHÁNG

Tình huống:
Anh Văn nhận chuyển hàng cho anh Bình bằng đường thủy. Anh Văn có mua
bảo hiểm trách nhiệm dân sự cho việc vận chuyển bằng tàu của mình. Trên đường vận
chuyển, tàu bị gió nhấn chìm và hàng bị hư hỏng toàn bộ.

Câu 1: Những điều kiện để một sự kiện được coi là bất khả kháng? Và cho biết các
bên có thể thỏa thuận với nhau về trường hợp có sự kiện bất khả kháng không?
Nêu rõ cơ sở khi trả lời.
Dựa vào khoản 1 Điều 156 BLDS 2015 quy định “Sự kiện bất khả kháng là sự
kiện xảy ra một cách khách quan không thể lường trước được và không thể khắc phục
được mặc dù đã áp dụng mọi biện pháp cần thiết và khả năng cho phép.” thì các điều
kiện để một sự kiện được coi là bất khả kháng là:
Thứ nhất, đây phải là “sự kiện xảy ra một cách khách quan” (sự kiện này là
vượt qua sự kiểm soát của bên phải thực hiện hợp đồng, tồn tại bên ngoài phạm vi
kiểm soát của bên vi phạm hợp đồng như các hiểm họa thiên nhiên (động đất, sóng
thần, mưa lũ, sạt lở đất,…), các sự biến xã hội (đình công, bạo loạn, chiến tranh,..) và
các hiểm họa cháy nổ tự nhiên.)
Thứ hai, đây phải là sự kiện “không thể lường trước được” (tại thời điểm giao
kết hợp đồng, các bên không dự trù cách thức giải quyết khi gặp một sự kiện bất khả
kháng).
Thứ ba, sự việc xảy ra “không thể khắc phục được mặc dù đã áp dụng mọi
biện pháp cần thiết và khả năng cho phép” (việc xảy ra sự kiện khách quan và không
thể lường trước được vẫn chưa đủ để miễn trách, trong trường hợp gặp phải sự kiện
bất khả kháng, bên có nghĩa vụ phải áp dụng mọi biện pháp để khắc phục.)
Các bên có thể thỏa thuận với nhau cụ thể trong hợp đồng về trường hợp có sự
kiện bất khả kháng đã xảy ra trên thực tế để giảm thiểu thiệt hại. Khoản 2 Điều 351
BLDS 2015 quy định: “Trường hợp bên có nghĩa vụ không thực hiện đúng nghĩa vụ
do sự kiện bất khả kháng thì không phải chịu trách nhiệm dân sự, trừ trường hợp có
thỏa thuận khác hoặc pháp luật có quy định khác”. Khoản 3 Điều 488 BLDS 2015:
“Khi giao kết hợp đồng thuê khoán, các bên có thể thỏa thuận điều kiện về việc giảm
tiền thuê khoán; nếu hoa lợi, lợi tức bị mất ít nhất là một phần ba do sự kiện bất khả
kháng thì bên thuê khoán có quyền yêu cầu giảm hoặc miễn tiền thuê khoán, trừ
trường hợp có thỏa thuận khác”.
Trong trường hợp các bên không có thỏa thuận cụ thể về sự kiện bất khả kháng,
việc xác định về sự hiện diện của sự kiện này thường được xem xét trên cơ sở các điều
kiện nêu trên theo quy định tại khoản 1 Điều 156 BLDS 2015.

11
Câu 2: Những hệ quả pháp lý trong trường hợp hợp đồng không thể thực hiện
được do sự kiện bất khả kháng trong BLDS và Luật thương mại sửa đổi.
Đối với Luật thương mại sửa đổi:
Căn cứ theo điểm b khoản 1 Điều 294 Luật Thương mại 2005 (sửa đổi, bổ sung
2019) quy định các trường hợp miễn trách nhiệm đối với hành vi vi phạm thì trường
hợp xảy ra sự kiện bất khả kháng, bên vi phạm hợp đồng được miễn trách nhiệm.
Như vậy, tại Luật Thương mại 2005 (sửa đổi, bổ sung 2019) có quy định về hệ
quả pháp lý của việc không thực hiện được hợp đồng do sự kiện bất khả kháng là
miễn trách nhiệm nếu bên vi phạm (bên được miễn trách nhiệm) có thể chứng minh
được mình thuộc vào trường hợp không thể thực hiện hợp đồng vì sự kiện bất khả
kháng.
Đối với Bộ Luật Dân sự 2015:
Khoản 2 Điều 351 BLDS 2015 quy định về “Trách nhiệm dân sự do vi phạm
nghĩa vụ”: “Trường hợp bên có nghĩa vụ không thực hiện đúng nghĩa vụ do sự kiện
bất khả kháng thì không phải chịu trách nhiệm dân sự, trừ trường hợp có thỏa thuận
khác hoặc pháp luật có quy định khác.”
Khoản 3 Điều 541 BLDS 2015 quy định về “Trách nhiệm BTTH” trong Hợp
đồng vận chuyển tài sản như sau “3. Trường hợp bất khả kháng dẫn đến tài sản vận
chuyển bị mất mát, hư hỏng hoặc bị hủy hoại trong quá trình vận chuyển thì bên vận
chuyển không phải chịu trách nhiệm bồi thường thiệt hại, trừ trường hợp có thỏa
thuận khác hoặc pháp luật có quy định khác”.
Như vậy, lý do sự kiện bất khả kháng khiến bên có nghĩa vụ không thực hiện
đúng nghĩa vụ theo hợp đồng thì cũng không phải chịu trách nhiệm dân sự. Bởi như
theo Điều 156 BLDS 2015, sự kiện bất khả kháng là sự kiện không bên nào mong
muốn, xảy ra khách quan và không thể khắc phục được mặc dù đã áp dụng mọi biện
pháp và khả năng cho phép. Do đó, bên có nghĩa vụ không phải chịu trách nhiệm dân
sự vì không phải họ cố tình vi phạm hợp đồng, không phải do ý kiến chủ quan của họ
nên hoàn toàn hợp lý. Tuy nhiên, điều luật này cũng giới hạn rằng “trừ trường hợp có
thỏa thuận khác hoặc pháp luật có quy định khác”. Việc giới hạn này cũng có ý nghĩa
bảo vệ quyền lợi cho bên có quyền (bên còn lại) khi hợp đồng không thể thực hiện (ví
dụ việc không thể thực hiện hợp đồng làm ảnh hưởng lớn đến lợi ích của bên có quyền
thì từ ban đầu, hai bên có thể thỏa thuận về việc chịu trách nhiệm dân sự).

Câu 3: Số hàng trên có bị hư hỏng do sự kiện bất khả kháng không? Phân tích các
điều kiện hình thành sự kiện bất khả kháng với tình huống trên.
Số hàng trên có bị hư hỏng do sự kiện bất khả kháng. Theo đoạn 2 khoản 1
Điều 156 BLDS 2015 quy định về sự kiện bất khả kháng: “Sự kiện bất khả kháng là
sự kiện xảy ra một cách khách quan không thể lường trước được và không thể khắc
phục được mặc dù đã áp dụng mọi biện pháp cần thiết và khả năng cho phép.”
Như vậy, theo quy định của bộ luật hiện hành thì sự kiện đó được xem là bất
khả kháng khi đáp ứng đủ những điều kiện sau:
Thứ nhất, sự kiện đó gặp “trở ngại khách quan” (những yếu tố tự nhiên như: thiên tai,
động đất,…).

12
Thứ hai, đó là sự kiện “không thể lường trước được” (sự kiện xảy ra không nằm trong
ý chí chủ quan, không thể lường trước được sẽ có sự kiện bất khả kháng tác động
vào).
Thứ ba, đây là sự kiện “không thể khắc phục được” (dùng mọi cách thức khắc phục
nhưng vẫn không thể giải quyết được vấn đề).
Từ những điều trên, có thể thấy trong tình huống trên có xảy ra sự kiện bất khả
kháng như sau:
Thứ nhất, gió (yếu tố tự nhiên) là sự kiện xảy ra một cách khách quan.
Thứ hai, tàu bị gió nhấn chìm và hàng bị hư hỏng cũng được xem là sự kiện khách
quan tuy nhiên trong tình huống không nói rõ đây có phải sự kiện không thể lường
trước hay không. Nếu như theo thông tin dự báo thời tiết là có gió lớn nhưng anh Văn
vẫn vận chuyển thì điều kiện này không được thỏa mãn. Tuy nhiên, nếu việc gió lớn
khiến tàu bị nhấn chìm không có trong những dự báo thời tiết hay thông tin đại chúng
thì điều kiện này được thỏa mãn.
Thứ ba, tàu bị nhấn chìm và hàng bị hư hỏng toàn bộ theo như trong tình huống cũng
không nói rõ có khắc phục được hay không. Nếu có thể hạn chế được thiệt hại xảy ra
và khắc phục được một phần nào đó nhưng bên vận chuyển vẫn mặt cho thiệt hại xảy
ra thì điều kiện này không được thỏa mãn. Nhưng theo thông thường, khi tàu bị chìm
thì rất khó tránh được thiệt hại, tỉ lệ khắc phục được rất thấp nên cũng có thể coi đây
là sự kiện không thể khắc phục được.
Như vậy, dựa vào những phân tích trên thì đây là sự kiện bất khả kháng.

Câu 4: Nếu hàng bị hư hỏng do sự kiện bất khả kháng, anh Văn có phải bồi
thường cho anh Bình về việc hàng bị hư hỏng không? Nêu cơ sở pháp lý khi trả
lời.
Nếu hàng bị hư hỏng do sự kiện bất khả kháng, anh Văn không phải bồi thường
cho anh Bình về việc hàng bị hư hỏng.
Theo khoản 2 Điều 351 BLDS 2015 quy định: “Trường hợp bên có nghĩa vụ
không thực hiện đúng nghĩa vụ do sự kiện bất khả kháng thì không phải chịu trách
nhiệm dân sự, trừ trường hợp có thỏa thuận khác hoặc pháp luật có quy định khác.”
Theo khoản 3 Điều 541 BLDS 2015 quy định: “Trường hợp bất khả kháng dẫn
đến tài sản vận chuyển bị mất, hư hỏng hoặc bị hủy hoại trong quá trình vận chuyển
thì bên vận chuyển không phải chịu trách nhiệm bồi thường thiệt hại, trừ trường hợp
có thỏa thuận khác hoặc pháp luật có quy định khác.”
Ngoài ra, theo khoản 1 Điều 22 Nghị định 87/2009/NĐ-CP có quy định về
miễn trừ trách nhiệm đối với người kinh doanh vận tải đa phương thức:“Người kinh
doanh vận tải đa phương thức không phải chịu trách nhiệm về tổn thất do mất mát, hư
hỏng hoặc giao trả hàng chậm nếu chứng minh được việc gây nên mất mát, hư hỏng
hoặc giao trả hàng chậm trong quá trình vận chuyển thuộc một trong các trường hợp
sau đây:
1. Nguyên nhân bất khả kháng…”

13
Câu 5: Nếu hàng bị hư hỏng do sự kiện bất khả kháng và anh Văn thỏa thuận bồi
thường cho anh Bình giá trị hàng bị hư hỏng thì anh Văn có được yêu cầu Công ty
bảo hiểm thanh toán khoản tiền này không? Tìm câu trả lời nhìn từ góc độ văn bản
và thực tiễn xét xử.
Nếu hàng bị hư hỏng do sự kiện bất khả kháng và anh Văn thỏa thuận bồi
thường cho anh Bình giá trị hàng bị hư hỏng thì anh Văn được yêu cầu Công ty bảo
hiểm thanh toán khoản tiền này.
BLDS 2015 hiện hành không nêu rõ về bảo hiểm trách nhiệm dân sự. Tuy
nhiên, theo Điều 580 BLDS 2005 có quy định về điều này, cụ thể:
“1. Trong trường hợp bảo hiểm trách nhiệm dân sự đối với người thứ ba theo thoả
thuận hoặc theo quy định của pháp luật thì bên bảo hiểm phải trả tiền bảo hiểm cho
bên mua bảo hiểm hoặc cho người thứ ba theo yêu cầu của bên mua bảo hiểm đối với
thiệt hại mà bên mua bảo hiểm đã gây ra cho người thứ ba theo mức bảo hiểm đã
thỏa thuận hoặc theo quy định của pháp luật.
2. Trong trường hợp bên mua bảo hiểm đã bồi thường thiệt hại cho người thứ ba thì
có quyền yêu cầu bên bảo hiểm phải hoàn trả khoản tiền mà mình đã trả cho người
thứ ba, nhưng không vượt quá mức trả bảo hiểm mà các bên đã thoả thuận hoặc pháp
luật đã quy định.”
Trên thực tiễn xét xử thì có hai quan điểm trái ngược nhau. Cụ thể được nêu tại
hai bản án sau:
Bản án số 110/2006/DS-PT ngày 5/5/2006 của TAND tỉnh Trà Vinh:
Anh Lê Văn Khen nhận chở thuê hàng bằng đường thủy. Anh Khen có mua
bảo hiểm thân tàu, bảo hiểm trách nhiệm dân sự cho việc vận chuyển bằng tàu của
mình. Trên đường vận chuyển, tàu bị gió lốc nhấn chìm và gây thiệt hại đến tài sản
hàng hóa.Trong hợp đồng nhận chuyển hàng, anh Khen thỏa thuận chịu trách nhiệm
trường hợp này và đã bồi thường cho chủ hàng anh chở thuê số tiền 40.950.000 đồng.
Nay anh yêu cầu công ty Bảo Việt Trà Vinh phải bồi hoàn lại cho anh mà anh thay
Công ty bồi thường cho các chủ hàng anh chở thuê.
Tại bán án này, Tòa án nhân dân tỉnh Trà Vinh khẳng định việc gây thiệt hại
cho các chủ hàng là do hiện tượng bất khả kháng. Nhưng theo Tòa, anh Khen tự
nguyện nhận bồi thường nên anh phải gánh chịu hậu quả.
Quyết định số 105/GĐT-DS ngày 30/5/2003 của TANDTC tỉnh An Giang.
Ông Khóm nhận chuyển 2.600 con vịt cho ông Điền và ông Trình bằng tàu của
ông. Ông khóm tham gia bảo hiểm dân sự của chủ tàu và trong hợp đồng có nêu rõ
điều kiện bảo hiểm dân sự của chủ tàu, thuyền. Theo phạm vi trách nhiệm bảo hiểm
thì Bảo Việt nhận trách nhiệm bồi thường mất mát, hư hỏng hàng hóa, tài sản chuyên
chở trên tàu, thuyền được bảo hiểm. Trên đường vận chuyển, do mưa gió to, nước
chảy mạnh, tàu va vào chân cầu bị chìm làm tổn thất trị giá đến 79.100.000 đồng số
tiền vịt. Vì ông Khóm thỏa thuận trong hợp đồng với ông Trình, ông Điền nên đã bồi
thường số tiền trên. Nay ông Khóm yêu cầu Bảo Việt hoàn trả ông số tiền nói trên.
Về vụ việc trên, theo Tòa vì các bên có nêu rõ trong hợp đồng bảo hiểm nói
trên và theo Điều 546 BLDS 2005 vẫn cho phép người vận chuyển và bên thuê vận
chuyển được thỏa thuận về trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngay cả trong trường hợp
bất khả kháng. Do đó, thỏa thuận giữa ông Khóm và ông Trình, ông Điền là không trái
pháp luật, có hiệu lực và ràng buộc cả Bảo Việt An Giang. Mặt dù Bảo Việt cho rằng

14
theo Điều 30 quy định về thể lệ vận chuyển và xếp dỡ hàng hóa thủy nội địa thì bên
vận chuyển được miễn bồi thường trong trường hợp thiên tai, địch họa hay bất khả
kháng. Hơn thế nữa, theo Tòa cho thấy thế mạnh thuộc về bên Bảo Việt và các thuật
ngữ hay giải thích trong hợp đồng phải có lợi cho bên yếu thế. (Theo khoản 8 Điều
409 quy định: “Trong trường hợp bên mạnh thế đưa vào hợp đồng nội dung bất lợi
cho bên yếu thế thì khi giải thích hợp đồng phải theo hướng có lợi cho bên yếu thế.”).
Do đó, Bảo Việt phải có trách nhiệm bảo hiểm cho ông Khóm.
Như vậy, để tránh những sự việc như trên đồng thời tăng thêm sự uy tín trong
các mối quan hệ, tốt hơn hết thì các bên nên nêu rõ trong hợp đồng bảo hiểm khi xảy
ra những trường hợp thiệt hại do sự kiện bất khả kháng thì có bảo hiểm hay không cho
những sự việc đó.

VẤN ĐỀ 4: THỰC HIỆN HỢP ĐỒNG KHI HOÀN CẢNH THAY


ĐỔI CƠ BẢN

Tóm tắt Bản án số 133/2021/DS-PT ngày 8/7/2021 của Toà án nhân dân tỉnh Cà
Mau
Công ty M có thuê căn nhà của vợ chồng anh T để làm trung tâm dạy học. Đến
năm 2020 thì cả nước xảy ra đại dịch Covid-19 khiến cho Công ty M gặp khó khăn
trong hoạt động kinh doanh. Công ty M sau đó đã gửi đề nghị chấm dứt hợp đồng vì
lý do “trường hợp bất khả kháng” và không phải chịu phạt vi phạm. Anh T sau đó
không đồng ý và tiến hành khởi kiện và yêu cầu Công ty M phải chịu phạt vi phạm
hợp đồng. Toà án đã giải quyết theo hướng xác định trường hợp này là thực hiện hợp
đồng khi hoàn cảnh thay đổi cơ bản và các bên có thể thương lượng lại với nhau và
thực tế nguyên đơn cũng đã đồng ý cho bị đơn chấm dứt hợp đồng nên Toà án đã cho
phép Công ty M được chấm dứt hợp đồng với lý do chính đáng và đã thực hiện đúng
theo hợp đồng.

Câu 1: Điểm giống và khác nhau giữa sự kiện bất khả kháng và hoàn cảnh thay
đổi khi thực hiện hợp đồng (về sự tồn tại và hệ quả pháp lý của hai trường hợp
này).

Nội dung phân biệt Sự kiện bất khả kháng Hoàn cảnh thay đổi
cơ bản
Căn cứ pháp lý Khoản 1 Điều 156 BLDS Điều 420 BLDS 2015
2015
Điều kiện phát sinh - Sự kiện xảy ra một cách - Sự thay đổi hoàn cảnh do
khách quan (sự kiện xảy ra nguyên nhân khách quan
nằm ngoài phạm vi kiểm xảy ra sau khi giao kết hợp

15
soát, ý chí của bên vi đồng;
phạm); - Tại thời điểm giao kết
- Không thể lường trước hợp đồng, các bên không
được tại thời điểm giao kết thể lường trước được về
hợp đồng; sự thay đổi hoàn cảnh;
- Không thể khắc phục - Hoàn cảnh thay đổi lớn
được mặc dù đã áp dụng đến mức nếu như các bên
mọi biện pháp cần thiết. biết trước thì hợp đồng đã
không được giao kết hoặc
được giao kết nhưng với
nội dung hoàn toàn khác;
- Việc tiếp tục thực hiện
hợp đồng mà không có sự
thay đổi nội dung hợp
đồng sẽ gây thiệt hại
nghiêm trọng cho một
bên;
- Bên có lợi ích bị ảnh
hưởng đã áp dụng mọi
biện pháp cần thiết trong
khả năng cho phép, phù
hợp với tính chất của hợp
đồng mà không thể ngăn
chặn, giảm thiểu mức độ
ảnh hưởng đến lợi ích;
Hệ quả pháp lý - Các bên thỏa thuận kéo - Bên có bên có lợi ích bị
dài thời gian thực hiện ảnh hưởng có quyền yêu
nghĩa vụ hợp đồng; Nếu cầu bên kia đàm phán lại
các bên không có thỏa hợp đồng trong một thời
thuận hoặc không thỏa hạn hợp lý;
thuận được thì thời hạn - Yêu cầu Tòa án:
thực hiện nghĩa vụ hợp a) Chấm dứt hợp đồng tại
đồng được tính thêm một một thời điểm xác định;
thời gian xảy ra trường b) Sửa đổi hợp đồng để
hợp bất khả kháng cộng cân bằng quyền và lợi ích
với thời gian hợp lý để hợp pháp của các bên do
khắc phục; hoàn cảnh thay đổi cơ bản.
- Căn cứ chấm dứt hợp Tuy nhiên, Tòa án chỉ
đồng mà không phải chịu được quyết định việc sửa
trách nhiệm bồi thường đổi hợp đồng trong trường
thiệt hại; hợp việc chấm dứt hợp
- Bên có nghĩa vụ không đồng sẽ gây thiệt hại lớn
thực hiện đúng nghĩa vụ hơn so với các chi phí để
do sự kiện bất khả kháng thực hiện hợp đồng nếu
thì không phải chịu trách được sửa đổi. Trong quá

16
nhiệm dân sự; trình đàm phán sửa đổi,
- Không phải chịu trách chấm dứt hợp đồng, Tòa
nhiệm bồi thường thiệt hại án giải quyết vụ việc, các
trong trường hợp thiệt hại bên vẫn phải tiếp tục thực
phát sinh do sự kiện bất hiện nghĩa vụ của mình
khả kháng; theo hợp đồng;
Lưu ý: Trừ khi các bên có Lưu ý: Trừ khi các bên có
thỏa thuận khác hoặc pháp thỏa thuận khác hoặc pháp
luật có quy định khác. luật có quy định khác.

Như vậy cho ta thấy được: Sự kiện bất khả kháng được viện dẫn khi bên vi
phạm nghĩa vụ muốn bảo vệ mình trước các chế tài xử lý vi phạm, viện dẫn sự kiện
bất khả kháng để chứng minh cho việc không có lỗi khi để xảy ra vi phạm nghĩa vụ.
Trong khi đó, hoàn cảnh thay đổi cơ bản án là căn cứ để các bên trong hợp đồng thỏa
thuận lại các điều khoản đã ký kết hoặc thỏa thuận hủy bỏ hợp đồng vì việc tiếp tục
thực hiện hợp đồng mà không có chỉnh sửa, thay đổi sẽ ảnh hưởng nghiêm trọng đến
lợi ích của một bên.

Câu 2: Quy định về thực hiện hợp đồng khi hoàn cảnh thay đổi cơ bản trong một
số hệ thống pháp luật nước ngoài.
Quy định về thực hiện hợp đồng khi hoàn cảnh thay đổi cơ bản trong một hệ
thống pháp luật một số nước trên thế giới như:
BLDS Pháp trong lần sửa đổi năm 2016 tại Điều 1195 quy định:
“Nếu xảy ra sự thay đổi của hoàn cảnh mà không thể lường trước được vào thời điểm
ký kết hợp đồng và khiến cho việc thực hiện nghĩa vụ của một bên trở nên khó khăn
quá mức, và bên đó đã không thỏa thuận về gánh chịu rủi ro này, thì bên đó có thể đề
nghị bên còn lại đàm phán lại hợp đồng. Bên đưa ra yêu cầu vẫn phải tiếp tục thực
hiện nghĩa vụ hợp đồng trong suốt quá trình đàm phán lại.
Nếu bên kia từ chối đàm phán lại hoặc đàm phán lại không thành thì các bên có thể
thỏa thuận chấm dứt hợp đồng, trong đó các bên thỏa thuận về ngày chấm dứt và các
điều khoản chấm dứt, hoặc cùng thỏa thuận yêu cầu tòa án sửa đổi hợp đồng. Trong
một khoảng thời gian hợp lý, nếu các bên không đạt được sự thỏa thuận này thì theo
yêu cầu của một bên, Tòa án có thể chỉnh sửa hoặc chấm dứt hợp đồng vào ngày theo
các điều khoản do Tòa án xác định.” ;
Điều 313, BLDS Đức (Bürgerliches Gesetzbuch - BGB bản sửa đổi năm 2002)
quy định rằng:
“Khi hoàn cảnh thay nghiêm trọng tới mức làm mất đi căn cứ của nó thì bên bị ảnh
hưởng bất lợi được yêu cầu bên kia điều chỉnh hợp đồng hoặc chấm dứt hợp đồng” ;
Tại Hà Lan có Điều 6.285, BLDS 1992 quy định: “Tòa án có thể, dựa theo lý
trí và lẽ công bằng, điều chỉnh hiệu lực của hợp đồng, hoặc chấm dứt một phần hoặc
toàn bộ hợp đồng khi hoàn cảnh thay đổi tới mức làm cho một bên không còn có thể
tiếp tục thực hiện hợp đồng”;
Điều 1432, BLDS Peru năm 1984 thì lại ưu tiên việc điều chỉnh hợp đồng. Việc
chấm dứt hợp đồng chỉ được tính đến khi việc tiếp tục thực hiện hợp đồng là không

17
thể, đồng thời quy định rằng: “Việc chấm dứt hợp đồng không làm ảnh hưởng đến các
nghĩa vụ đã được hoàn thành”;
Ngoài ra, còn có hai bộ nguyên tắc về hợp đồng khi hoàn cảnh thay đổi cơ bản
ở quốc tế và có ảnh hưởng nhiều đến thế giới là: Bộ nguyên tắc Unidroit về Hợp đồng
thương mại quốc tế (PICC) và Bộ nguyên tắc châu Âu về Hợp đồng (PECL). Cả hai
Bộ nguyên tắc này đều có quy định cho phép điều chỉnh hợp đồng khi hoàn cảnh thay
đổi. Cụ thể, Điều 6.2.3 PICC quy định khi hoàn cảnh thay đổi bên bị bất lợi “có
quyền yêu cầu tiến hành đàm phán lại hợp đồng. Yêu cầu này phải được đưa ra không
chậm trễ và phải có căn cứ”.
Tương tự, khoản 2 Điều 6: 111 của PECL quy định “nếu việc thực hiện hợp
đồng trở nên quá khó khăn do có sự thay đổi về hoàn cảnh, thì các bên buộc phải tiến
hành thỏa thuận lại nhằm chỉnh sửa hợp đồng hoặc chấm dứt hợp đồng”

Câu 3: Trong vụ việc nêu trên, theo Toà án, việc chấm dứt hợp đồng là do sự kiện
bất khả kháng hay do hoàn cảnh thay đổi cơ bản? Vì sao?
Trong vụ việc nêu trên, theo Toà án, việc chấm dứt hợp đồng là do hoàn cảnh
thay đổi cơ bản. Đoạn thể hiện:
“Theo khoản 1 Điều 156 BLDS 2015: Sự kiện bất khả kháng là sự kiện xảy ra
một cách khách quan không thể lường trước được và không thể khắc phục được mặc
dù đã áp dụng mọi biện pháp cần thiết và khả năng cho phép. Tòa án đã xác định:
“Phía nguyên đơn cho rằng có dịch bệnh Covid-19 nhưng bị đơn chưa tận dụng hết
khả năng để khắc phục mà mục đích chuyển đến địa điểm mới tiếp tục kinh doanh cho
nên không xem là bất khả kháng”.
Và đoạn: “Qua xem xét toàn diện chứng cứ, Hội đồng xét xử nhận thấy, dịch
Covid-19 xảy ra thì các đương sự không lường trước được, trên thực tế dịch bệnh đã
gây ra hậu quả hết sức nặng nề, làm ảnh hưởng đến cuộc sống bình thường, ảnh
hưởng đến sản xuất kinh doanh từ đó dẫn đến ảnh hưởng đến thu nhập của mọi người
là sự thật xảy ra mà cụ thể trong vụ án này đã ảnh hưởng đến nguyên đơn, bị đơn.
Hiện tại nhà của nguyên đơn vẫn chưa có người thuê mà nguyên đơn còn phải đóng
tiền vay Ngân hàng; về phía bị đơn, sau khi cả nước thực hiện Chỉ thị 16 vào năm
2020 thì số học sinh đến lớp bị hạn chế dẫn đến doanh thu thấp nhưng phải chi trả
lương nhân viên và các chi phí khác...; Tại cấp phúc thẩm, nguyên đơn cung cấp
chứng cứ bị đơn vẫn tiếp tục kinh doanh sau khi chấm dứt thuê nhà, đó là bị đơn vẫn
nộp thuế hàng tháng, có phiếu thu tiền học phí, tuy vậy hồ sơ không thể hiện thu nhập
của bị đơn từ hoạt động kinh doanh”. Qua đó cho thấy Tòa án xác định đây là trường
hợp có hoàn cảnh thay đổi cơ bản dựa theo các điều kiện ở Khoản 1 Điều 420 BLDS
2015.
“Trong trường hợp này, quá trình thực hiện hợp đồng khi hoàn cảnh thay đổi
cơ bản thì các bên có thể thương lượng với nhau, tại khoản 2 Điều 420 Bộ luật dân sự
quy định: “Trong trường hợp hoàn cảnh thay đổi cơ bản, bên có lợi ích bị ảnh hưởng
có quyền yêu cầu bên kia đàm phán lại hợp đồng trong một thời gian hợp lý”; phía bị
đơn cũng có các văn bản gửi nguyên đơn về việc xin chấm dứt hợp đồng và trên thực
tế về ý thức nguyên đơn cũng có thiện chí cho bị đơn chấm dứt hợp đồng thuê nhà,
bởi vì nếu không đồng ý nhận lại nhà thì nguyên đơn không yêu cầu bị đơn phải sơn
sửa lại nhà đúng như hiện trạng ban đầu và hẹn ngày giao nhận nhà và tại phiên tòa

18
phúc thẩm nguyên đơn trình bày nếu tại thời điểm tháng 6/2020 bị đơn đáp ứng đúng
yêu cầu về sửa nhà như thỏa thuận của hợp đồng thì nguyên đơn sẽ không yêu cầu bồi
thường 01 năm tiền nhà”. Tòa án đã áp dụng khoản 2 Điều 420 nghĩa là công nhận
đây là trường hợp có hoàn cảnh thay đổi cơ bản.
Tòa cho rằng đây là do hoàn cảnh thay đổi cơ bản là bởi lẽ dịch bệnh là một
thời gian kéo dài mà lúc giao kết hợp đồng các bên không biết hoặc không thể biết
được sẽ xảy ra và điều này đã dẫn đến việc tiếp tục thực hiện hợp đồng sẽ dẫn đến
thiệt hại nặng nề cho một bên (tiếp tục thuê nhà trong khi các biện pháp giãn cách xã
hội được áp dụng sẽ gây thiệt hại cho Công ty) và các bên cũng đã có những yếu tố
cho thấy đã đàm phán, yêu cầu sửa đổi, thay đổi hợp đồng để cân bằng lợi ích nên Toà
xác định đây là hoàn cảnh thay đổi cơ bản.

Câu 4: Suy nghĩ của anh/chị về hướng giải quyết nêu trên của Tòa án (đặc biệt là
liên quan đến hoàn cảnh thay đổi cơ bản).
Hướng giải quyết của Tòa án trong trường hợp trên theo nhóm chúng em đánh
giá là thuyết phục, hợp lý, phù hợp với quy định của pháp luật.
Thứ nhất, chúng ta phải xác định dịch bệnh diễn ra trong một khoảng thời gian
tương đối dài, diễn biến cũng hết sức phức tạp, Chính phủ phải liên tục gia hạn các
biện pháp hạn chế, giãn cách xã hội để phòng chống dịch bệnh nên trường hợp này
xác định là hoàn cảnh đã thay đổi thì sẽ hợp lý hơn so với sự kiện bất khả kháng.
Thứ hai, nội dung của hợp đồng là thỏa thuận về việc thuê nhà, đại dịch
Covid19 là sự kiện khách quan, không thể lường trước. Tuy nhiên, điểm mấu chốt của
học thuyết sự kiện bất khả kháng là mối liên hệ giữa sự kiện đó với việc thực hiện
nghĩa vụ. Tại đây, nghĩa vụ thanh toán của bên thuê không bị ảnh hưởng bởi đại dịch,
có chăng là khả năng thanh toán của bên thuê do bị mất đi một phần thu nhập mà vấn
đề này không nằm trong phạm vi điều chỉnh của chế định sự kiện bất khả kháng 3.
Trong trường hợp này có thể xác định ảnh hưởng của tình hình dịch bệnh Covid-19 là
không đến mức bên thuê nhà không thể thực hiện được nghĩa vụ đối với chủ nhà được
nữa mà chỉ dừng lại ở mức các bên có thể đàm phán hoặc thay đổi hợp đồng để cân
bằng lợi ích của các bên.
Thứ ba, sự kiện bất khả kháng có thể được xem là trường hợp miễn trách nhiệm
dân sự cho bên vi phạm. Bởi vì do yếu tố khách quan mà không lường trước được nên
lỗi hoàn toàn không phải do bên vi phạm thực hiện nên phải miễn trách nhiệm cho bên
vi phạm. Còn trong tình huống trên thì trách nhiệm dân sự của Công ty M vẫn còn nên
nếu áp dụng sự kiện bất khả kháng là không đảm bảo được quyền, lợi ích hợp pháp
của vợ chồng anh T. Bên cạnh đó, các bên cũng đã có những yếu tố cho thấy đã đàm
phán, yêu cầu sửa đổi, thay đổi hợp đồng để cân bằng lợi ích nên Toà án áp dụng quy
định về thực hiện hợp đồng trong hoàn cảnh thay đổi cơ bản trong tình huống trên là
phù hợp.
Việc xác định này là cần thiết, phù hợp với quy định của pháp luật quốc tế cũng
như góp phần duy trì, đảm bảo lợi ích của các bên trong hợp đồng 4. Vì vậy nhóm
chúng em cho rằng hướng giải quyết trên của Tòa án khi xác định trường hợp trên là
3 Đỗ Giang Nam – Trần Quang Cường, “Thiên nga đen” - Covid-19 và cơ chế điều chỉnh của pháp luật hợp
đồng Việt Nam, Tạp chí Nghiên cứu lập pháp, Số 13(437), tháng 7/2021, tr.29.
4 Đỗ Văn Đại (chủ biên), Bình luận khoa học những điểm mới của BLDS năm 2015, Nxb. Hồng Đức - Hội
Luật gia Việt Nam, 2017, tr.424.

19
hoàn cảnh thay đổi cơ bản mà không phải là sự kiện bất khả kháng đã đáp ứng được
tinh thần của các nhà làm luật khi tạo điều kiện cho một quy định linh hoạt, không
cứng nhắc trong mối quan hệ dân sự luôn luôn phát sinh, thay đổi không ngừng và
cũng qua đó, thể hiện việc tôn trọng ý chí, thoả thuận giữa các bên.

20
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
A. Văn bản quy phạm pháp luật
1. Bộ Luật Dân sự 2015 (Luật số 91/2015/QH13) ngày 24 tháng 11 năm 2015.
2. Bộ Luật Dân sự 2005 (Luật số 33/2005/QH11) ngày 14 tháng 06 năm 2005.
3. Luật Thương mại 2005 (Luật số 36/2005/QH11) ngày 14 tháng 06 năm 2005.
4. Nghị định 87/2009/NĐ-CP ngày 19 tháng 10 năm 2009 của Chính phủ về Vận
tải đa phương thức.

B. Tài liệu tham khảo


1. Trường Đại học Luật Tp.HCM (2017), Giáo trình Pháp luật về hợp đồng và
bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng, Nxb. Hồng Đức - Hội Luật gia Việt Nam.
2. Đỗ Văn Đại (2021), Luật Hợp đồng Việt Nam – Bản án và bình luận bản án,
Tập 2, Nxb. Đại học Quốc gia TP. Hồ Chí Minh.
3. Đỗ Giang Nam – Trần Quang Cường, “Thiên nga đen” - Covid-19 và cơ chế
điều chỉnh của pháp luật hợp đồng Việt Nam, Tạp chí Nghiên cứu lập pháp, Số
13(437), tháng 7/2021.
4. Đỗ Văn Đại (chủ biên), Bình luận khoa học những điểm mới của BLDS năm
2015, Nxb. Hồng Đức - Hội Luật gia Việt Nam.

You might also like