You are on page 1of 34

MỤC LỤC

VẤN ĐỀ 1: THÔNG TIN TRONG GIAO KẾT HỢP ĐỒNG.....................................5


* Tóm tắt Bản án số 677/2020/DS-PT ngày 17/7/2020 của Toà án nhân dân TP. Hồ
Chí Minh.........................................................................................................................5
Câu 1: Đoạn nào của Bản án cho thấy Tòa án đã áp dụng quy định về cung cấp thông
tin trong giao kết hợp đồng?...........................................................................................5
Câu 2: Việc Tòa án áp dụng quy định về cung cấp thông tin trong giao kết hợp đồng
trong vụ việc này có thuyết phục không (về điều kiện áp dụng và hệ quả của việc áp
dụng) ? Vì sao?...............................................................................................................6
VẤN ĐỀ 2: HỢP ĐỒNG VÔ HIỆU MỘT PHẦN VÀ HẬU QUẢ HỢP ĐỒNG VÔ
HIỆU..................................................................................................................................8
* Tóm tắt Quyết định số 22/2020/DS-GĐT ngày 23/04/2020 của Hội đồng thẩm phán
Toà án nhân dân tối cao.................................................................................................8
* Tóm tắt Quyết định số 319/2011/DS-GĐT ngày 28/03/2011 của Tòa dân sự Tòa án
nhân dân tối cao.............................................................................................................8
Câu 1: Khi nào hợp đồng vô hiệu một phần, vô hiệu toàn bộ? Nêu cơ sở pháp lý khi
trả lời............................................................................................................................10
Câu 2: Đoạn nào cho thấy trong Quyết định số 22 đã có việc chuyển nhượng tài sản
chung của hộ gia đình mà không có sự đồng ý của tất cả các thành viên của hộ gia
đình? ............................................................................................................................10
Câu 3: Đoạn nào trong Quyết định số 22 cho thấy Hội đồng thẩm phán theo hướng
hợp đồng chuyển nhượng trên chỉ vô hiệu một phần?..................................................11
Câu 4: Suy nghĩ của anh/chị về việc Hội đồng thẩm phán theo hướng hợp đồng chuyển
nhượng trên chỉ vô hiệu một phần................................................................................11
Câu 5: Thay đổi về hậu quả của hợp đồng vô hiệu giữa BLDS 2005 và BLDS 2015. .12
Câu 6: Trong Quyết định số 319, lỗi của các bên được Tòa giám đốc thẩm xác định
như thế nào?.................................................................................................................14
Câu 7: Quyết định số 319, Tòa dân sự cho biết ông Vinh sẽ được bồi thường như thế
nào?..............................................................................................................................14
Câu 8: Suy nghĩ của anh/chị về hướng giải quyết trên của Tòa dân sự.......................15
Câu 9: Với các thông tin trong Quyết định số 319, ông Vinh sẽ được bồi thường khoản
tiền cụ thể là bao nhiêu? Vì sao?..................................................................................15
VẤN ĐỀ 3: BIỆN PHÁP BẢO ĐẢM THỰC HIỆN NGHĨA VỤ CÓ THỜI HẠN. .16
* Tóm tắt Quyết định số 05/2020/KDTM-GĐT ngày 26/02/2020 của HĐTP Tòa án
nhân dân tối cao...........................................................................................................16
Câu 1: Thư bảo lãnh của Ngân hàng có thời hạn như thế nào?..................................16
Câu 2: Nghĩa vụ của Cty Cửu Long đối với Cty KNV có phát sinh trong thời hạn bảo
lãnh của Ngân hàng không?.........................................................................................17
Câu 3: Theo Toà án nhân dân tối cao, khi người có quyền (Cty KNV) khởi kiện Ngân
hàng trả nợ thay sau khi thời hạn bảo lãnh kết thúc thì Ngân hàng có còn trách nhiệm
của người bảo lãnh không? Đoạn nào của Quyết định có câu trả lời?.......................18
Câu 4: Suy nghĩ của anh/chị về hướng giải quyết trên của Toà án nhân dân tối cao..18
VẤN ĐỀ 4: GIẢM MỨC BỒI THƯỜNG DO HOÀN CẢNH KINH TẾ KHÓ
KHĂN .............................................................................................................................20
Câu 1: Từng điều kiện được quy định trong BLDS để giảm mức bồi thường do thiệt hại
quá lớn so với khả năng kinh tế....................................................................................20
Câu 2: Trong tình huống nêu trên, việc Tòa án áp dụng các quy định về giảm mức bồi
thường do thiệt hại quá lớn so với khả năng kinh tế của anh Nam để ấn định mức bồi
thường có thuyết phục không? Vì sao?.........................................................................21
VẤN ĐỀ 5: BỒI THƯỜNG THIỆT HẠI DO NGUỒN NGUY HIỂM CAO ĐỘ
GÂY RA..........................................................................................................................23
* Tóm tắt Quyết định số 30/2010/DS-GĐT ngày 22/01/2010 của Tòa dân sự Tòa án
nhân dân tối cao...........................................................................................................23
Câu 1: Đoạn nào của Quyết định cho thấy Tòa án đã vận dụng chế định bồi thường
thiệt hại do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra?...............................................................24
Câu 2: Suy nghĩ của anh/chị về việc Tòa án xác định đây là bồi thường thiệt hại do
nguồn nguy hiểm cao độ gây ra....................................................................................24
Câu 3: Tòa dân sự có cho biết ai là chủ sở hữu đường dây điện hạ thế gây thiệt hại
không?...........................................................................................................................25
Câu 4: Theo anh/chị, ai là chủ sở hữu đường dây hạ thế gây thiệt hại?......................25
Câu 5: Theo Tòa dân sự, chủ thể nào sẽ chịu trách nhiệm bồi thường thiệt hại cho gia
đình nạn nhân?.............................................................................................................25
Câu 6: Suy nghĩ của anh/chị về hướng xử lý trên của Tòa dân sự Tòa án nhân dân tối
cao liên quan đến xác định chủ thể chịu trách nhiệm bồi thường thiệt hại cho gia đình
nạn nhân.......................................................................................................................25
VẤN ĐỀ 6: BỒI THƯỜNG THIỆT HẠI DO NGƯỜI THI HÀNH CÔNG VỤ GÂY
RA....................................................................................................................................27
* Tóm tắt Bản án số 02/2015/HSST ngày 15/4/2015 của Tòa án nhân dân tỉnh Phú Yên
..........................................................................................................................................27
Câu 1: Những khác biệt cơ bản về thiệt hại được bồi thường khi một cá nhân chết theo
Luật trách nhiệm bồi thường của Nhà nước và BLDS.....................................................27
Câu 2: Hoàn cảnh như trong vụ việc trên có được Luật trách nhiệm bồi thường của Nhà
nước điều chỉnh không? Vì sao?......................................................................................30
Câu 3: Nếu hoàn cảnh như trong vụ án trên xảy ra sau khi BLDS 2015 có hiệu lực,
hướng giải quyết có khác hướng giải quyết trong vụ án không? Vì sao?........................31

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO


5

VẤN ĐỀ 1: THÔNG TIN TRONG GIAO KẾT HỢP ĐỒNG


* Tóm tắt Bản án số 677/2020/DS-PT ngày 17/7/2020 của Toà án nhân dân TP. Hồ
Chí Minh.
- Nguyên đơn: Bà T1, sinh năm 1972, địa chỉ: 19/1E ấp M, xã T, huyện H, Thành phố Hồ
Chí Minh.
- Bị đơn (đồng thời là người kháng cáo): Bà T2, sinh năm 1980; Ông T3, sinh năm 1974.
Cùng địa chỉ: D6/8, ấp 4, xã L, huyện B, Thành phố Hồ Chí Minh.
- Nội dung: Ngày 30/05/2018 giữa bà T1 với bà T2, ông T3 đã ký kết “Giấy nhận cọc"
đối với phần đất có diện tích 1500m2 tại xã Lê Minh Xuân, huyện Bình Chánh, Thành
phố Hồ Chí Minh (có Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài
sản khác có gắn liền với đất) với giá chuyển nhượng là 2.500.000.000 đồng, đã nhận
cọc 200.000.000 đồng, bà T2 và ông T3 cam đoan phần đất trên không nằm trong quy
hoạch và nếu có thì sẽ hoàn toàn chịu trách nhiệm trước pháp luật. Ngày 01/10/2018, cả
hai bên có mặt ở văn phòng công chứng nhưng nguyên đơn cho rằng việc bà T2 không
cung cấp thông tin quy hoạch là không thực hiện đúng nghĩa vụ đã cam kết theo thoả T2
do đó bà T1 khởi kiện yêu cầu huỷ bỏ hợp đồng đã đặt cọc và buộc bị đơn trả lại số tiền
mà bà T1 đã đặt cọc. - Hướng giải quyết của Tòa án: Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của
bà T1, buộc bà T2 và ông T3 phải trả lại số tiền mà bà T1 đã đặt cọc là 200.000.000
đồng và nếu bị đơn thực hiện nghĩa vụ trả tiền chậm thì sẽ phải trả thêm lãi tương ứng
với số tiền trả chậm.

Câu 1: Đoạn nào của Bản án cho thấy Tòa án đã áp dụng quy định về cung cấp thông
tin trong giao kết hợp đồng?
Đoạn của Bản án cho thấy Tòa án đã áp dụng quy định về cung cấp thông tin trong giao
kết hợp đồng là:
“Cấp sơ thẩm căn cứ vào khoản 1 Điều 39 Luật Kinh doanh bất động sản năm 2014 quy
định bên chuyển nhượng quyền sử dụng đất có các nghĩa vụ cung cấp thông tin đầy đủ,
trung thực về quyền sử dụng đất và chịu trách nhiệm về thông tin do mình cung cấp, xác
định lỗi dẫn đến hợp đồng không được giao kết là của ông T3 và bà T2 là chưa chính
xác.” Và đoạn:
6

“Căn cứ quy định tại Điều 387 BLDS năm 2015 về “Thông tin trong giao kết hợp đồng”
thì:
“1. Trường hợp một bên có thông tin ảnh hưởng đến việc chấp nhận giao kết hợp đồng
của bên kia thì phải thông báo cho bên kia biết.
2. Trường hợp một bên nhận được thông tin bí mật của bên kia trong quá trình giao
kết hợp đồng thì có trách nhiệm bảo mật thông tin và không được sử dụng thông tin đó
cho mục đích riêng của mình hoặc cho mục đích trái pháp luật khác.
3. Bên vi phạm quy định tại khoản 1, khoản 2 Điều này mà gây thiệt hại thì phải bồi
thường.”
Cấp sơ thẩm nhận định “thông tin quy hoạch là có trước khi bà T2, ông T3 thỏa T2 giao
kết hợp đồng với bà T1” và việc “bà T2, ông T3 trình bày mình không biết thông tin quy
hoạch là không có căn cứ” là phù hợp. Việc bà T2, ông T3 không cung cấp thông tin quy
hoạch của phần đất thỏa T2 chuyển nhượng đã làm cho việc giao kết hợp đồng không thể
thực hiện. Xác định lỗi không giao kết hợp đồng là do bà T2, ông T3 gây ra.”

Câu 2: Việc Tòa án áp dụng quy định về cung cấp thông tin trong giao kết hợp đồng
trong vụ việc này có thuyết phục không (về điều kiện áp dụng và hệ quả của việc áp
dụng) ? Vì sao?
- Việc Tòa án quy định về cung cấp thông tin trong giao kết hợp đồng trong vụ việc
này là hoàn toàn thuyết phục.
- Theo Điều 387 BLDS năm 2015 quy định về “Thông tin trong giao kết hợp đồng”
như sau:
“1. Trường hợp một bên có thông tin ảnh hưởng đến việc chấp nhận giao kết hợp đồng
của bên kia thì phải thông báo cho bên kia biết.
2. Trường hợp một bên nhận được thông tin bí mật của bên kia trong quá trình giao
kết hợp đồng thì có trách nhiệm bảo mật thông tin và không được sử dụng thông tin đó
cho mục đích riêng của mình hoặc cho mục đích trái pháp luật khác.
3. Bên vi phạm quy định tại khoản 1, khoản 2 Điều này mà gây thiệt hại thì phải bồi
thường.”
Xét thấy, theo Quyết định số 2591/QĐ-UBND ngày 26/5/2014 của UBND Thành phố Hồ
Chí Minh, vị trí khu đất chuyển nhượng mà bà T2 chuyển nhượng cho bà T1 đang nằm
7

trong quy hoạch thuộc nút giao thông dự phóng. Bà T1 có yêu cầu bà T2 cung cấp cho bà
một bản sao Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất để cho bà T1 xin công văn bản quy
hoạch chính thức và nếu không có quy hoạch thì sẽ ký hợp đồng mua bán vào buổi chiều.
Tuy nhiên bà T2 không đồng ý cung cấp. Do đó có thể nhận định rằng bà T2, ông T3 đã
được thông tin về việc quy hoạch từ trước nhưng không thông báo cho bà T1 biết. Vì vậy,
việc giao kết hợp đồng mua bán không thể thực hiện được do lỗi của bà T2, ông T3 gây
ra vì không cung cấp thông tin quy hoạch như đã cam kết trong hợp đồng đặt cọc.
- Theo quy định tại khoản 3 Điều 387 BLDS năm 2015 thì bà T2, ông T3 có nghĩa vụ bồi
thường thiệt hại cho bà T1. Tuy nhiên phía nguyên đơn không yêu cầu bồi thường mà chỉ
yêu cầu trả lại tiền đặt cọc mà nguyên đơn đã nhận, thỏa thuận này là có lợi cho bị đơn.
Như vậy, Tòa án áp dụng các quy định về cung cấp thông tin trong giao kết hợp đồng đối
với trường hợp này là hoàn toàn hợp lý.
8

VẤN ĐỀ 2: HỢP ĐỒNG VÔ HIỆU MỘT PHẦN VÀ HẬU QUẢ


HỢP ĐỒNG VÔ HIỆU

* Tóm tắt Quyết định số 22/2020/DS-GĐT ngày 23/04/2020 của Hội đồng thẩm phán
Toà án nhân dân tối cao.
- Nguyên đơn: anh Vũ Ngọc Khánh, anh Vũ Ngọc Tuấn, chị Vũ Thị Tường Vy.
- Bị đơn: ông Trần Thiết Học, bà Đào Thị Mỹ.
- Nội dung: Năm 2002, bà Dung có đơn xin đăng ký quyền sử dụng đất tại tỉnh Bình
Phước do ông Long là chồng bà để lại sau khi mất, đơn được Uỷ ban nhân dân huyện
Lộc Ninh xác nhận vào năm 2003. Có căn cứ xác định đất diện tích 252,6m 2 là tài sản
chung của bà Dung cùng các con là nguyên đơn. Hợp đồng ủy quyền được Ủy ban nhân
dân thị trấn Lộc Ninh chứng thực năm 2011 thể hiện anh Khánh, anh Tuấn và chị Vy
cùng uỷ quyền cho bà Dung được làm thủ tục ký kết hợp đồng chuyển nhượng quyền sử
dụng đất và tài sản gắn liền với đất nhưng các anh chị không thừa nhận đã ký vào hợp
đồng uỷ quyền, do không đủ yếu tố giám định chữ ký nên hợp đồng uỷ quyền nêu trên
không có hiệu lực. Toà án cấp sơ thẩm xác định bà Dung và vợ chồng ông Học, bà Mỹ
đều biết tài sản chuyển nhượng là tài sản của hộ gia đình bà Dung nhưng hợp đồng
chuyển nhượng quyền sử dụng đất là vô hiệu do vi phạm về nội dung và hình thức.
Phần quyền sử dụng và quyền sở hữu của bà Dung đã chuyển nhượng cho vợ chồng ông
Học nếu đúng theo quy định của pháp luật thì sẽ có hiệu lực, còn quyền sở hữu, sử dụng
đất của các anh chị Khánh, Tuấn, Vy là vô hiệu.
- Hướng giải quyết của Toà án: Huỷ bản án dân sự phúc thẩm, bản án dân sự sơ thẩm và
quyết định giám đốc thẩm. Giao vụ án cho Toà án nhân huyện Lộc Ninh xét xử.
9

* Tóm tắt Quyết định số 319/2011/DS-GĐT ngày 28/03/2011 của Tòa dân sự Tòa án
nhân dân tối cao.
- Nguyên đơn: Ông Trịnh Văn Vinh.
- Bị đơn: Ông Đào Văn Lộc, bà Hoàng Thị Lan.
- Nội dung: Năm 2005, Ông Vinh cùng vợ chồng ông Lộc, bà Lan lập hợp đồng chuyển
nhượng quyền sử dụng diện tích 953m2 đất với giá thỏa thuận là 120.000.000 đồng, sau
đó vợ chồng ông Lộc thống nhất bớt cho ông Vinh 20.000.000 đồng và lập lại hợp đồng
chuyển nhượng vào năm 2006. Ông Vinh đã giao cho vợ chồng ông Lộc 45 triệu và vợ
chồng ông Lộc có nghĩa vụ giao sổ đỏ và đất cho ông. Do đất chuyển nhượng là đất
ruộng lúa, nhưng hợp đồng chuyển nhượng lại ghi là đất màu nên ông Lộc đã gửi hồ sơ
lên Phòng Tài nguyên và Môi trường để chuyển mục đích sử dụng. Đến năm 2007, ông
Vinh biết vợ chồng ông Lộc không có sổ đỏ để giao nên đã gặp vợ chồng ông Lộc trao
đổi, hẹn thời gian khác giao tiền, nhưng vợ chồng ông Lộc cho rằng thời gian trả tiền
kéo dài ảnh hưởng đến quyền lợi của họ nên không đồng ý chuyển nhượng nữa. Nay
ông Vinh yêu cầu tiếp tục thực hiện hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất đã ký
với ông Lộc, bà Lan.
- Hướng giải quyết của các cấp xét xử:
+ Cấp sơ thẩm: định giá thửa đất hiện nay có giá 333.550.000 đồng, như vậy giá chênh
lệch là 233.550.000đ; xác định lỗi là 50/50, nên mỗi bên chịu 116.775.000 đồng. Từ đó
quyết định: Hủy hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất giữa các bên; buộc vợ
chồng ông Lộc phải hoàn trả cho ông Vinh số tiền đã nhận là 45.000.000đ và phải bồi
thường thiệt hại cho ông Vinh là 116.775.000đ. Vợ chồng ông Lộc được quyền sử dụng
diện tích 953m2.
+ Tòa phúc thẩm: Hủy hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất giữa các bên. Buộc
vợ chồng ông Lộc phải hoàn trả cho ông Vinh số tiền đã nhận là 45.000.000đ và phải bồi
thường thiệt hại cho ông Vinh là 81.712.500đ. Vợ chồng ông Lộc được quyền sử dụng
diện tích 953m2.
+ Hội đồng giám đốc thẩm Tòa dân sự TANDTC: Hủy bản án dân sự sơ thẩm, phúc thẩm
vì cho rằng Tòa án cấp sơ thẩm và Tòa án cấp phúc thẩm chưa xác minh xác định chính
xác mức độ lỗi của các đương sự làm cho hợp đồng vô hiệu, việc xác định thiệt hại của
hợp đồng vô hiệu cũng không chính xác. Trong trường hợp này ông A mới được trả được
10

45.000.000 đồng trên tổng giá trị thửa đất 100.000.000 đồng tức là mới trả 45% giá trị
thửa đất, cả hai bên cùng có lỗi thì khi giải quyết hậu quả của hợp đồng vô hiệu ông A chỉ
được bồi thường thiệt hại là 1/2 chênh lệch giá của 45% giá trị thửa đất theo giá thị
trường, nhưng Tòa án cấp sơ thẩm, phúc thẩm lại buộc vợ chồng ông B bồi thường thiệt
hại 1/2 giá trị của toàn bộ thửa đất theo giá thị trường.

Câu 1: Khi nào hợp đồng vô hiệu một phần, vô hiệu toàn bộ? Nêu cơ sở pháp lý khi trả
lời.
- Theo quy định tại Điều 407 BLDS năm 2015: “Quy định về giao dịch dân sự vô
hiệu từ Điều 123 đến Điều 133 của Bộ luật này cũng được áp dụng đối với hợp đồng vô
hiệu”. - Theo quy định tại Điều 130 BLDS năm 2015 quy định về giao dịch dân sự vô
hiệu từng phần: “Giao dịch dân sự vô hiệu từng phần khi một phần nội dung của giao
dịch dân sự vô hiệu nhưng không ảnh hưởng đến hiệu lực của phần còn lại của giao
dịch.” Hợp đồng vô hiệu một phần khi một phần nội dung của giao dịch vô hiệu nhưng
không ảnh hưởng đến hiệu lực của phần còn lại của giao dịch. Thông thường, hợp đồng
vô hiệu một phần diễn ra khi các điều khoản trong nội dung của giao dịch độc lập với
nhau, phần nội dung bị vi phạm sẽ không làm ảnh hưởng đến các nội dung khác trong
hợp đồng.
- Theo BLDS năm 2015, hợp đồng vô hiệu toàn bộ khi có những căn cứ cho là toàn
bộ điều khoản của hợp đồng vô hiệu hoặc tuy chỉ có một phần nội dung vô hiệu nhưng
phần đó lại ảnh hưởng đến hiệu lực của toàn bộ hợp đồng. Căn cứ làm cho hợp đồng vô
hiệu có thể xuất phát từ sự vi phạm nội dung hợp đồng, nhưng cũng có thể là những căn
cứ khác như: mục đích, năng lực giao kết hợp đồng, hợp đồng giả tạo. Hợp đồng vô hiệu
toàn phần khi hợp đồng vi phạm các điều cấm của luật, trái đạo đức xã hội (Điều 123);
giao dịch dân sự vô hiệu do giả tạo (Điều 124); giao dịch dân sự vô hiệu do người chưa
thành niên, người mất năng lực hành vi dân sự, người có khó khăn trong nhận thức, làm
chủ hành vi, người bị hạn chế năng lực hành vi dân sự xác lập, thực hiện (Điều 125 – trừ
các trường hợp tại khoản 2 Điều này); giao dịch dân sự vô hiệu do bị nhầm lẫn (Điều
126); giao dịch dân sự vô hiệu do bị lừa dối, đe dọa, cưỡng ép (Điều 127); giao dịch dân
sự vô hiệu do người xác lập không nhận thức và làm chủ hành vi của mình (Điều 128); vi
phạm về hình thức nếu hình thức ấy là điều kiện có hiệu lực của giao dịch dân sự trong
trường hợp luật có quy định (Điều 129).
11

Câu 2: Đoạn nào cho thấy trong Quyết định số 22 đã có việc chuyển nhượng tài sản
chung của hộ gia đình mà không có sự đồng ý của tất cả các thành viên của hộ gia
đình?
- Trong Quyết định số 22 đã có việc chuyển nhượng tài sản chung của hộ gia đình mà
không có sự đồng ý của tất cả các thành viên hộ gia đình qua đoạn:
“[2] Hợp đồng ủy quyền được Ủy ban nhân dân thị trấn Lộc Ninh chứng thực ngày
27/7/2011 thể hiện các anh, chị Khánh, Tuấn, Vy cùng ủy quyền cho bà Dung được làm
thủ tục kí kết Hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền với đất tại
Tổ 2, khu phố Ninh Thành, nhưng các anh, chị Khánh, Tuấn, Vy không thừa nhận kí vào
Hợp đồng ủy quyền nêu trên”

Câu 3: Đoạn nào trong Quyết định số 22 cho thấy Hội đồng thẩm phán theo hướng
hợp đồng chuyển nhượng trên chỉ vô hiệu một phần?
- Đoạn trong Quyết định số 22 cho thấy Hội đồng thẩm phán theo hướng hợp đồng
chuyển nhượng trên chỉ vô hiệu một phần là Đoạn [3] phần Nhận định của Tòa án:
“ Tòa án cấp sơ thẩm xác định tại thời điểm chuyển nhượng, cả bà Dung và vợ chồng
ông Học, bà Mỹ đều nhận thức được tài sản chuyển nhượng là tài sản của hộ gia đình bà
Dung, việc chứng thực Hợp đồng ủy quyền ngày 27/7/2011 không đúng theo quy định
của pháp luật, nhưng hai bên vẫn ký kết Hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất
vào ngày 27/7/2011, làm cho hợp đồng vi phạm cả hình thức và nội dung, dẫn đến hợp
đồng vô hiệu là có căn cứ. Tuy nhiên, tại Điều 216, khoản 1 Điều 223 Bộ luật Dân sự
năm 2005 quy định: “ Sở hữu chung theo phần là sở hữu mà trong đó phần quyền sở hữu
của mỗi chủ sở hữu được xác định đối với tài sản chung; Mỗi chủ sở hữu chung theo
phần có quyền, nghĩa vụ đối với tài sản thuộc sở hữu chung tương ứng với phần quyền sở
hữu của mình, trừ trường hợp có thỏa thuận khác”; “Mỗi chủ sở hữu chung theo phần
có quyền định đoạt phần quyền sở hữu của mình theo thỏa thuận hoặc theo quy định của
pháp luật”. Trường hợp này, do các thành viên trong gia đình không có thỏa thuận về
quyền sử dụng đất và quyền sử dụng tài sản gắn liền với đất của các thành viên trong hộ
gia đình theo phần và áp dụng quy định về sở hữu chung theo phần để giải quyết. Theo
đó, phần quyền sử dụng, quyền sở hữu của bà Dung đã chuyển nhượng cho vợ chồng ông
Học nếu đúng quy định của pháp luật thì có hiệu lực. Còn phần quyền sử dụng, quyền sở
hữu của các anh, chị
Khánh, Tuấn, Vy là vô hiệu theo quy định tại Điều 135 Bộ luật dân sự năm 2005.”
12

Câu 4: Suy nghĩ của anh/chị về việc Hội đồng thẩm phán theo hướng hợp đồng
chuyển nhượng trên chỉ vô hiệu một phần.
- Theo nhóm, việc Hội đồng thẩm phán theo hướng hợp đồng chuyển nhượng trên
chỉ vô hiệu một phần là hợp lý.
- Theo quy định tại khoản 2 Điều 212 BLDS năm 2015 thì việc chiếm hữu, sử dụng,
định đoạt tài sản chung của các thành viên gia đình được thực hiện theo phương thức thỏa
thuận. Theo Điều 209 BLDS năm 2015: “Sở hữu chung theo phần là sở hữu chung mà
trong đó phần quyền sở hữu của mỗi chủ sở hữu được xác định đối với tài sản chung”.
Trong trường hợp này, các thành viên gia đình không có thỏa thuận về quyền sử dụng đất
và tài sản gắn liền với đất nên Tòa án áp dụng quy định về sở hữu chung theo phần để
giải quyết là hợp lý. Từ đó, Tòa án xác định phần quyền sử dụng, quyền sở hữu của bà
Dung đã chuyển nhượng cho vợ chồng ông Học nếu đúng quy định của pháp luật sẽ có
hiệu lực. Còn phần quyền sử dụng, quyền sở hữu của anh, chị Khánh, Tuấn, Vy là vô
hiệu.
- Việc Tòa án xác định hợp đồng chuyển nhượng vô hiệu một phần là thuyết phục
và mang tính linh hoạt, mềm dẻo có thể đảm bảo quyền và lợi ích hợp pháp của các bên
chủ thể trong trường hợp này là bà Dung và vợ chồng ông Học. Vì theo quy định tại
khoản 2 Điều 131 BLDS năm 2015 quy định hậu quả pháp lý của giao dịch dân sự vô
hiệu: “Khi giao dịch dân sự vô hiệu thì các bên khôi phục lại tình trạng ban ban đầu,
hoàn trả cho nhau những gì đã nhận”. Tuy nhiên, trong trường hợp này, phần đất đó
thuộc sở hữu chung của hộ gia đình nên áp dụng quy định về sở hữu tài sản theo phần để
giải quyết, phần nào thuộc quyền sở hữu của bà Dung thì bà được quyền tự do chuyển
nhượng, phần còn lại thuộc sở hữu của các thành viên khác sẽ bị vô hiệu và xử lý theo
pháp luật.

Câu 5: Thay đổi về hậu quả của hợp đồng vô hiệu giữa BLDS 2005 và BLDS 2015.
- Cơ sở pháp lý: Điều 137 BLDS năm 2005 và Điều 131 BLDS năm 2015.
- Khôi phục tình trạng ban đầu :
Theo khoản 2 Điều 137 BLDS năm 2005, “khi giao dịch dân sự vô hiệu thì các bên khôi
phục lại tình trạng ban đầu, hoàn trả cho nhau những gì đã nhận” [...] Ngày nay, bên
13

cạnh khoản 2 với nội dung “khi giao dịch dân sự vô hiệu thì các bên khôi phục lại tình
trạng ban đầu, hoàn trả cho nhau những gì đã nhận. Trường hợp không thể hoàn trả
được bằng hiện vật thì giá trị thành tiền để hoàn trả”, BLDS năm 2015 còn thêm khoản
5 với nội dung “Việc giải quyết hậu quả của giao dịch dân sự vô hiệu liên quan đến
quyền nhân thân do Bộ luật này, luật khác có liên quan quy định”. Việc bổ sung khoản 5
này là cần thiết và chủ yếu được lí giải bởi các quy định trong Luật Hôn nhân và gia đình
năm 2014. 1 - Hoa lợi, lợi tức:
Theo khoản 2 Điều 137 BLDS năm 2005, “Khi giao dịch dân sự vô hiệu thì các bên khôi
phục lại tình trạng ban đầu, hoàn trả cho nhau những gì đã nhận; nếu không hoàn trả
được bằng hiện vật thì phải hoàn trả bằng tiền, trừ trường hợp tài sản giao dịch, hoa lợi,

lợi tức thu được bị tịch thu theo quy định của pháp luật. Bên có lỗi gây thiệt hại phải bồi
thường”. Ngày nay, khoản 3 Điều 131 BLDS năm 2015 quy định “Bên ngay tình trong
việc thu hoa lợi, lợi tức không phải hoàn trả lại hoa lợi, lợi tức đó” . Điều đó có nghĩa là
việc trả hay không trả hoa lợi và lợi tức phụ thuộc vào sự ngay tình hay không ngay tình
của người nhận tài sản như các quy định về hoàn trả tài sản do chiếm hữu không có căn
cứ pháp luật.
- Bồi thường thiệt hại
Liên quan đến bồi thường thiệt hại, BLDS năm 2015 không có sự thay đổi so với BLDS
năm 2005 và vẫn theo hướng “bên có lỗi gây thiệt hại thì phải bồi thường”.
- Tịch thu tài sản
BLDS năm 2015 có sự thay đổi là bỏ hẳn quy định về tịch thu tài sản, hoa lợi, lợi tức
được quy định tại Điều 137 BLDS năm 2015. Việc sửa đổi này được tiến hành trong quá
trình chỉnh lý Dự thảo tại Quốc hội với lý do việc tịch thu tài sản, hoa lợi, lợi tức là việc
của pháp luật hành chính, hình sự và không là việc của Bộ luật Dân sự. 2
- Bảo vệ người thứ ba ngay tình
Sự khác biệt đầu tiên trong các quy định tại Điều 133 BLDS năm 2015 đó là việc ở khoản
1 điều này, các nhà làm luật đã thay thế cụm từ “tài sản giao dịch là động sản không
phải đăng ký quyền sở hữu” được sử dụng tại khoản 1 Điều 138 BLDS năm 2005 bằng
1 Đỗ Văn Đại, Bình luận khoa học những điểm mới của Bộ luật dân sự năm 2015, NXB Hồng Đức - Hội Luật gia
Việt Nam, tr. 184.
2 Đỗ Văn Đại, “Bình luận khoa học những điểm mới của Bộ luật dân sự năm 2015”, NXB Hồng Đức - Hội Luật gia
Việt Nam, tr. 184-185.
14

cụm từ “tài sản không phải đăng kí”. Ở khoản 2, tương tự như trên, thay vì sử dụng cụm
từ “bất động sản hoặc là động sản phải đăng kí quyền sở hữu” như ở khoản 2 Điều 138
BLDS năm 2005 thì tài sản ở đây được hiểu là “tài sản đăng ký”. Sở dĩ có sự thay đổi đó
3
là vì có những tài sản phải đăng kí nhưng không phải đăng ký quyền sở hữu.
- Bảo vệ chủ sở hữu
Trong BLDS năm 2005, liên quan đến phần giao dịch dân sự không có quy định về bảo
vệ quyền của chủ sở hữu khi tài sản đã được chuyển giao cho người thứ ba ngay tình
bằng một giao dịch dân sự được thừa nhận có hiệu lực.
BLDS năm 2015 đã có quy định theo hướng bảo vệ quyền của chủ sở hữu tài sản. Cụ thể,
theo khoản 3 Điều 133, “chủ sở hữu không có quyền đòi lại tài sản từ người thứ ba ngay
tình, nếu giao dịch dân sự với người này không bị vô hiệu theo quy định tại khoản 2 Điều
này nhưng có quyền yêu cầu khởi kiện, yêu cầu chủ thể có lỗi dẫn đến việc giao dịch
chưa

được xác lập với người thứ ba phải hoàn trả lại những chi phí hợp lý và bồi thường thiệt
hại”.
Điều 133 BLDS năm 2015 có hai điều khoản bảo vệ người thứ ba ngay tình bằng cách
thừa nhận giao dịch của người thứ ba: Khoản 1 đề cập tới “đối tượng của giao dịch là tài
sản không phải đăng ký” còn khoản 2 tới đối tượng là “tài sản phải đăng ký”. Khoản 3
bảo vệ quyền sở hữu nhưng chỉ đề cập tới giao dịch nêu tại khoản 2.4

Câu 6: Trong Quyết định số 319, lỗi của các bên được Tòa giám đốc thẩm xác định
như thế nào?
- Trong Quyết định số 319, Tòa giám đốc thẩm xác định cả hai bên đều có lỗi. Cụ thể, hai
bên đã lập hợp đồng với nội dung vợ chồng ông Lộc chuyển nhượng cho vợ chồng ông
Vinh diện tích đất 953m2 với giá 100.000.000 đồng, ông Vinh trả trước 45.000.000 đồng,
đợt hai trả tiếp 45.000.000 đồng, nếu sai hẹn thì bên chuyển nhượng có quyền hủy hợp
đồng, 10.000.000 đồng còn lại trả tiếp vào đợt ba. Nhưng đến thời hạn trả tiền đợt hai,
ông Vinh không giao tiền cho ông Lộc nên vợ chồng ông Lộc không đồng ý tiếp tục thực

3 Đỗ Văn Đại, “Bình luận khoa học những điểm mới của Bộ luật dân sự năm 2015”, NXB Hồng Đức - Hội Luật gia
Việt Nam, tr. 188.
4 Đỗ Văn Đại, “Bình luận khoa học những điểm mới của Bộ luật dân sự năm 2015”, NXB Hồng Đức - Hội Luật gia
Việt Nam, tr. 190.
15

hiện hợp đồng. Ngoài ra, cả hai hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất ngày
09/9/2005 và ngày 17/7/2006 đều chưa được cơ quan Nhà nước có thẩm quyền công
chứng, chứng thực. Do đó, dựa vào các cơ sở trên, Tòa án hủy hợp đồng là căn cứ vào
lỗi của cả hai bên.

Câu 7: Quyết định số 319, Tòa dân sự cho biết ông Vinh sẽ được bồi thường như thế
nào?
-Toà dân sự cho biết ông Vinh sẽ được bồi thường thiệt hại là ½ chênh lệch giá của 45%
giá trị của thửa đất theo giá của thị trường.
Căn cứ theo phần [Nhận thấy] của Quyết định: “Tuy nhiên, ông Vinh mới trả được
45.000đ trên trên tổng giá trị thửa đất 100.000.000đ tức là mới trả 45% giá trị thửa đất,
cả hai bên cùng có lỗi thì khi giải quyết hậu quả của hợp đồng vô hiệu ông vinh chỉ được
bồi thường thiệt hại ½ chênh lệch của 45% giá trị thửa đất theo giá trị thị trường, nhưng
Tòa án cấp sơ thẩm, phúc thẩm lại buộc vợ chồng ông Lộc bồi thường thiệt hại ½ giá trị
của toàn bộ thửa đất theo giá thị trường là không đúng”.

Câu 8: Suy nghĩ của anh/chị về hướng giải quyết trên của Tòa dân sự.
- Hậu quả pháp lý của giao dịch vô hiệu được quy định tại khoản 2 Điều 131 BLDS
năm 2015: “Khi giao dịch dân sự vô hiệu thì các bên khôi phục lại tình trạng ban đầu,
hoàn trả cho nhau những gì đã nhận. Trường hợp không thể hoàn trả được bằng hiện vật
thì trị giá thành tiền để hoàn trả.”
Và khoản 4 Điều 131 BLDS năm 2015 quy định như sau: “Bên có lỗi gây thiệt hại thì
phải bồi thường.”
- Theo nhóm, hướng giải quyết trên của Tòa dân sự là hợp lý. Bởi vì diện tích đất
mà vợ chồng ông Lộc, bà Lan chuyển nhượng cho ông Vinh là đất trồng lúa, và hợp đồng
chuyển nhượng quyền sử dụng đất nêu trên không được chính quyền địa phương cho
phép chuyển nhượng, nên Tòa án xác định hợp đồng trên vô hiệu là có căn cứ và hợp lý.
- Toà dân sự giải quyết theo hướng ông Vinh sẽ được bồi thường thiệt hại là ½
chênh lệch giá của 45% giá trị của thửa đất theo giá của thị trường. Việc Toà án xác định
mức độ lỗi của từng bên trong việc làm cho hợp đồng vô hiệu là rất quan trọng để xác
16

định trách nhiệm bồi thường thiệt hại: nếu mỗi bên đều có lỗi tương đương nhau thì mỗi
bên phải chịu ½ giá trị thiệt hại; nếu mức độ lỗi của họ không tương đương nhau thì
trách nhiệm bồi thường thiệt hại được xác định theo mức độ lỗi của mỗi bên. Tuy nhiên
hiện nay vấn đề xác định thiệt hại của hợp đồng dân sự vô hiệu nói chung chưa được
hướng dẫn cụ thể, vì vậy, trong tình huống trên Tòa đã áp dụng pháp luật một cách linh
hoạt và đảm bảo đúng tính chất của vụ việc. Trường hợp này, ông A mới được trả được
45.000.000 đồng trên tổng giá trị thửa đất 100.000.000 đồng tức là mới trả 45% giá trị
thửa đất, mà trong hợp đồng trên cả hai bên cùng có lỗi thì khi giải quyết hậu quả của
hợp đồng vô hiệu ông A chỉ bồi thường thiệt hại là ½ chênh lệch giá của 45% giá trị thửa
đất theo giá thị trường. Hướng giải quyết trên là hợp lí, khách quan và đảm bảo đúng
nghĩa vụ bồi thường thiệt hại của các bên.

Câu 9: Với các thông tin trong Quyết định số 319, ông Vinh sẽ được bồi thường khoản
tiền cụ thể là bao nhiêu? Vì sao?
Khoản tiền cụ thể ông Vinh được bồi thường là: ½ x 45% x 233.550.000 đồng =
52.548.750 đồng vì theo Quyết định của Tòa án thì ông Vinh chỉ được bồi thường thiệt
hại là ½ chênh lệch giá của 45% giá trị thửa đất theo giá thị trường mà theo thị trường
thửa đất 953m2 có giá là 333.550.000 đồng do đó giá chênh lệch là 233.550.000 đồng.

VẤN ĐỀ 3: BIỆN PHÁP BẢO ĐẢM THỰC HIỆN NGHĨA VỤ CÓ


THỜI HẠN
* Tóm tắt Quyết định số 05/2020/KDTM-GĐT ngày 26/02/2020 của HĐTP Tòa án
nhân dân tối cao.
- Nguyên đơn: Công ty TNHH K.N.V (Bên A).
- Bị đơn: Công ty TNHH sản xuất và thương mại phân bón Cửu Long Việt Nam (Bên B),
Ngân hàng TMCP Việt Á.
- Nội dung: Ngày 12/4/2016, hợp đồng số 1016/KNV - CLVN/2016 đã được ký bởi bên
A và bên B với nội dung bên A đồng ý mua lô hàng phân bón Urea của bên B. Thời
gian bên B giao hàng chậm nhất cho bên A sau 20 ngày kể từ ngày bên bán nhận tiền ký
17

quỹ tạm ứng của bên mua, tức là vào 9/5/2016, nếu không hoàn thành thì bên B phải
chịu phạt 5% giá trị hợp đồng và trả tiền ký quỹ. Ngày 15/4/2016, bên B đã nhận tiền
tạm ứng ký quỹ của bên A nhưng chưa giao hàng. Số tiền này được Ngân hàng Việt Á -
Chi nhánh Bình Dương phát hành “Thư bảo lãnh hoàn trả tiền ứng trước” (Thư bảo lãnh
hoàn tạm ứng) ngày 14/4/2016, sau đó Ngân hàng Việt Á có “Thư tu chỉnh bảo lãnh”
ngày 4/5/2016, tu chỉnh hiệu lực của Thư bảo lãnh chấm dứt hiệu lực vào lúc 17 giờ
ngày 9/5/2016. Bên B cho rằng không vi phạm hợp đồng vì thời hạn cuối giao hàng là
ngày 27/5/2016. Ngân hàng Việt Á từ chối thanh toán bảo lãnh cho bên A vì trong hạn
hiệu lực của Thư bảo lãnh, bên A không gửi bản gốc Thư bảo lãnh cho Ngân hàng Việt
Á mà sau đó mới gửi vào ngày 12/5/2016.
- Hướng giải quyết: Toà án sơ thẩm và Tòa án phúc thẩm chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi
kiện. TANDTC huỷ Quyết định giám đốc thẩm, giữ nguyên bản án phúc thẩm, chấp
nhận toàn bộ yêu cầu của nguyên đơn.

Câu 1: Thư bảo lãnh của Ngân hàng có thời hạn như thế nào?
- Thư bảo lãnh của Ngân hàng có thời hạn như sau:
Căn cứ theo Điều 20 Thông tư số 11/2022/TT-NHNN:
“Điều 20. Thời hạn hiệu lực của cam kết bảo lãnh, thỏa thuận cấp bảo lãnh
1. Thời hạn hiệu lực của cam kết bảo lãnh được xác định từ thời điểm phát hành cam
kết bảo lãnh hoặc sau thời điểm phát hành cam kết bảo lãnh theo thỏa thuận của các bên
liên quan cho đến thời điểm hết hiệu lực của nghĩa vụ bảo lãnh quy định tại Điều 23
Thông tư này.

2. Thời hạn hiệu lực của thỏa thuận cấp bảo lãnh do các bên thỏa thuận nhưng tối
thiểu phải bằng thời hạn hiệu lực của cam kết bảo lãnh.

3. Trường hợp ngày hết hiệu lực của cam kết bảo lãnh, thỏa thuận cấp bảo lãnh
trùng vào ngày nghỉ, ngày lễ, tết thì ngày hết hiệu lực được chuyển sang ngày làm việc
tiếp theo.

4. Việc gia hạn thời hạn hiệu lực của cam kết bảo lãnh, thỏa thuận cấp bảo lãnh do
các bên thỏa thuận phù hợp với quy định pháp luật liên quan.”
18

=>Theo đó, thời hạn hiệu lực của thư bảo lãnh được xác định từ thời điểm phát hành thư
bảo lãnh hoặc sau thời điểm phát hành thư bảo lãnh theo thỏa thuận của các bên liên quan
cho đến thời điểm hết hiệu lực của nghĩa vụ bảo lãnh quy định tại Điều 23 Thông tư này.
Điều 23 Thông tư số 11/2022/TT-NHNN quy định như sau:
- “Điều 23. Chấm dứt nghĩa vụ bảo lãnh
Nghĩa vụ bảo lãnh chấm dứt trong các trường hợp sau:
1. Nghĩa vụ của bên được bảo lãnh chấm dứt.
2. Nghĩa vụ bảo lãnh đã được thực hiện theo đúng cam kết bảo lãnh.
3. Việc bảo lãnh được hủy bỏ hoặc thay thế bằng biện pháp bảo đảm khác theo thỏa
thuận của bên nhận bảo lãnh và bên bảo lãnh, các bên liên quan khác (nếu có).
4. Cam kết bảo lãnh đã hết hiệu lực.
5. Bên nhận bảo lãnh miễn thực hiện nghĩa vụ bảo lãnh cho bên bảo lãnh.
6. Theo thỏa thuận của các bên.
7. Nghĩa vụ bảo lãnh chấm dứt trong các trường hợp khác theo quy định của pháp luật.”

Câu 2: Nghĩa vụ của Cty Cửu Long đối với Cty KNV có phát sinh trong thời hạn bảo
lãnh của Ngân hàng không?
- Nghĩa vụ của Công ty Cửu Long đối với Công ty K.N.V phát sinh trong thời hạn bảo
lãnh của Ngân hàng Việt Á. Theo bản án, do Công ty Cửu Long vi phạm nghĩa vụ giao
hàng nên trước 17 giờ 00 phút ngày 9/5/2016, Công ty K.N.V đã gửi Công văn yêu cầu
Ngân hàng Việt Á thực hiện trách nhiệm bảo lãnh. Tại Công văn số 04/TB/CNBD/16 mà
Ngân hàng Việt Á gửi cho Công ty K.N.V thông báo về việc Công ty Cửu Long đề nghị
Ngân hàng tạm thời ngưng việc hoàn trả tiền tạm ứng, Ngân hàng Việt Á hoàn toàn
không đề cập tới nội dung Ngân hàng từ chối trách nhiệm bảo lãnh do Công ty K.N.V
không gửi Thư bảo lãnh bản gốc và cũng không yêu cầu công ty K.N.V gửi Thư bảo lãnh
bản gốc cho Ngân hàng ngay trong ngày 9/5/2016. Điều đó cho thấy Ngân hàng Việt Á
chấp nhận đề nghị của Công ty Cửu Long trì hoãn thực hiện nghĩa vụ bảo lãnh như đã
cam kết. Cho đến khi hết hạn hiệu lực của Thư bảo lãnh thì ngân hàng mới gửi thông báo
cho công ty K.N.V về việc không thực hiện nghĩa vụ bảo lãnh với lý do chưa nhận được
Thư bảo lãnh gốc trước 17 giờ 00 ngày 09/05/2016. Qua đó cho thấy, các nghĩa vụ của
19

Công ty Cửu Long đối với Công ty K.N.V phát sinh trong thời hạn bảo lãnh của Ngân
hàng.

Câu 3: Theo Toà án nhân dân tối cao, khi người có quyền (Cty KNV) khởi kiện Ngân
hàng trả nợ thay sau khi thời hạn bảo lãnh kết thúc thì Ngân hàng có còn trách nhiệm
của người bảo lãnh không? Đoạn nào của Quyết định có câu trả lời?
- Khi người có quyền (Công ty KNV) khởi kiện Ngân hàng trả nợ thay sau khi thời hạn
bảo lãnh kết thúc thì Ngân hàng vẫn còn trách nhiệm của người bảo lãnh do Công ty
KNV đã gửi công văn đề nghị Ngân hàng thực hiện trách nhiệm bảo lãnh trước thời hạn
hết hiệu lực của Thư bảo lãnh là 17h00 ngày 09/05/2016.
Đoạn Quyết định có câu trả lời: “Tòa án cấp sơ thẩm và Tòa án cấp phúc thẩm buộc
Ngân hàng Việt Á phải thực hiện nghĩa vụ hoàn trả cho Công ty TNHH K.N.V số tiền tạm
ứng còn thiếu là 1.510.000.000 đồng là có căn cứ. Quyết định giám đốc thẩm của Ủy ban
Thẩm phán Tòa án nhân dân cấp cao tại Hà Nội chấp nhận ý kiến của Ngân hàng Việt Á
cho rằng Công ty K.N.V nộp bản gốc Thư bảo lãnh khi đã hết thời hạn hiệu lực nên Ngân
hàng Việt Á có quyền từ chối thực hiện nghĩa vụ bảo lãnh là không đúng với bản chất
của vụ án”

Câu 4: Suy nghĩ của anh/chị về hướng giải quyết trên của Toà án nhân dân tối cao.
- Tòa án không chấp nhận lý do từ chối thực hiện nghĩa vụ bảo lãnh của Ngân hàng Việt
Á, theo hướng buộc Ngân hàng Việt Á phải hoàn trả cho nguyên đơn số tiền tạm ứng còn
thiếu là 1.510.000.000 đồng. Theo quan điểm của nhóm, hướng giải quyết của Tòa án
nhân dân tối cao là hợp lý. Vì theo khoản 1 Điều 335 BLDS năm 2015: “Bảo lãnh là việc
người thứ ba (sau đây gọi là bên bảo lãnh) cam kết với bên có quyền (sau đây gọi là bên
nhận bảo lãnh) sẽ thực hiện nghĩa vụ thay cho bên có nghĩa vụ (sau đây gọi là bên được
bảo lãnh), nếu khi đến thời hạn thực hiện nghĩa vụ mà bên được bảo lãnh không thực
hiện hoặc thực hiện không đúng nghĩa vụ.”, theo đó thì Công ty Cửu Long đã vi phạm
nghĩa vụ giao hàng nên trước 17 giờ 00 phút ngày 09/5/2016, Công ty K.N.V đã có Công
văn số 01 đề nghị Ngân hàng Việt Á thực hiện trách nhiệm bảo lãnh. Trong cùng ngày,
Ngân hàng Việt Á cũng có Công văn số 04/TB/CNBD/16 gửi Công ty K.N.V thông báo
về việc Công ty Cửu Long đề nghị Ngân hàng Việt Á tạm thời ngưng việc hoàn trả tiền
20

tạm ứng nhưng Ngân hàng Việt Á không đề cập đến nội dung Ngân hàng từ chối trách
nhiệm bảo lãnh do Công ty K.N.V không gửi Thư bảo lãnh bản gốc và cũng không yêu
cầu Công ty K.N.V gửi Thư bảo lãnh bản gốc cho Ngân hàng ngay trong ngày 09/5/2016.
Điều đó cho thấy Ngân hàng Việt Á chấp nhận đề nghị của Công ty Cửu Long trì hoãn
thực hiện nghĩa vụ bảo lãnh như đã cam kết và đến ngày 11/5/2016, khi hết thời hạn hiệu
lực của Thư bảo lãnh thì Ngân hàng Việt Á mới có Thông báo gửi Công ty K.N.V về việc
không thực hiện nghĩa vụ bảo lãnh với lý do chưa nhận được Thư bảo lãnh bản gốc trước
17 giờ 00 phút ngày 09/5/2016. Sau khi nhận được thông báo của Ngân hàng thì ngày
12/5/2016, Công ty K.N.V đã gửi Thư bảo lãnh bản gốc cho Ngân hàng. Vậy nên lý do từ
chối thực hiện nghĩa vụ bảo lãnh của Ngân hàng Việt Á là không thể chấp nhận. Tòa án
buộc Ngân hàng Việt Á phải thực hiện nghĩa vụ hoàn trả cho Công ty K.N.V số tiền tạm
ứng còn thiếu 1.510.000.000 đồng là có căn cứ. Vì vậy, hướng giải quyết trên của Tòa án
nhân dân tối cao là hợp lý.
21

VẤN ĐỀ 4: GIẢM MỨC BỒI THƯỜNG DO HOÀN CẢNH KINH


TẾ KHÓ KHĂN

Tình huống: Anh Nam là người thuộc quản lý của UBND xã, đã vô ý gây thiệt hại cho
bà Chính khi thực hiện công việc được UBND xã giao. Thực tế, thiệt hại quá lớn so
với khả năng kinh tế của anh Nam và Tòa án đã áp dụng các quy định về giảm mức
bồi thường do thiệt hại quá lớn so với khả năng kinh tế của anh Nam để ấn định mức
bồi thường.

Câu 1: Từng điều kiện được quy định trong BLDS để giảm mức bồi thường do thiệt
hại quá lớn so với khả năng kinh tế.
- Theo quy định khoản Điều 585 BLDS năm 2015: “Người chịu trách nhiệm bồi thường
thiệt hại có thể được giảm mức bồi thường nếu không có lỗi hoặc có lỗi vô ý và thiệt hại
quá lớn so với khả năng kinh tế của mình”, cần phải đáp ứng đủ hai điều kiện để giảm
mức bồi thường thiệt hại (BTTH):
+ Thứ nhất, trường hợp thiệt hại xảy ra là do lỗi vô ý của người gây ra thiệt hại, tức là
người gây ra thiệt hại do vô ý mà gây ra những thiệt hại cho các chủ thể khác.
+ Thứ hai, thiệt hại phải vượt quá khả năng kinh tế, được định nghĩa tại điểm c khoản
2.2 Điều 2 Mục I Nghị quyết số 03/2006/NQ-HĐTP, cụ thể: “Thiệt hại xảy ra quá lớn so
với khả năng kinh tế trước mắt và lâu dài của người gây thiệt hại, có nghĩa là thiệt hại
xảy ra mà họ có trách nhiệm bồi thường so với hoàn cảnh kinh tế trước mắt của họ cũng
như về lâu dài họ không thể có khả năng bồi thường được toàn bộ hoặc phần lớn thiệt
hại đó.” Thiệt hại thực tế phải thuộc trường hợp mà so với khả kinh tế lâu dài, trước mắt
người gây thiệt hại hoàn toàn không có khả năng bồi thường tổn thất hay phần lớn thiệt
hại. Chẳng hạn, A thuộc diện hộ nghèo không có tài sản, do vô ý gây tai nạn dẫn đến chết
người, A bị Tòa án buộc BTTH với số tiền 100 triệu đồng. Theo ví dụ này, ta thấy A hoàn
toàn không có khả năng trả năng BTTH, cộng với lỗi vô ý nên A hoàn toàn có khả năng
được giảm mức BTTH.
22

Câu 2: Trong tình huống nêu trên, việc Tòa án áp dụng các quy định về giảm mức bồi
thường do thiệt hại quá lớn so với khả năng kinh tế của anh Nam để ấn định mức bồi
thường có thuyết phục không? Vì sao?
-Trong tình huống trên, việc Tòa án áp dụng các quy định về giảm mức bồi thường do
thiệt hại quá lớn so với khả năng kinh tế của anh Nam để ấn định mức bồi thường là chưa
thuyết phục và thoả đáng.
-Về nội dung này, khoản 2 Điều 3 Nghị quyết 02/2022/NQ-HĐTP hướng dẫn như sau:
“Điều 3. Về nguyên tắc bồi thường thiệt hại quy định tại Điều 585 của Bộ luật Dân sự
2. Về khoản 2 Điều 585 của Bộ luật Dân sự
Thiệt hại quá lớn so với khả năng kinh tế của người chịu trách nhiệm bồi thường là
trường hợp có căn cứ chứng minh rằng nếu Tòa án tuyên buộc bồi thường toàn bộ thiệt
hại thì không có điều kiện thi hành án”.
-Và theo điểm c khoản 2.2 Điều 2 Mục I Nghị quyết số 03/2006/NQ-HĐTP có quy định:
“2.Nguyên tắc bồi thường thiệt hại
c) Người gây thiệt hại chỉ có thể được giảm mức bồi thường khi có đủ hai điều kiện sau
đây:
- Do lỗi vô ý mà gây thiệt hại;
- Thiệt hại xảy ra quá lớn so với khả năng kinh tế trước mắt và lâu dài của người gây
thiệt hại, có nghĩa là thiệt hại xảy ra mà họ có trách nhiệm bồi thường so với hoàn cảnh
kinh tế trước mắt của họ cũng như về lâu dài họ không thể có khả năng bồi thường
được toàn bộ hoặc phần lớn thiệt hại đó.”
Ở tình huống trên chỉ nói rằng thiệt hại trên là quá lớn so với khả năng kinh tế của anh
Nam mà không có một căn cứ chứng minh nào cụ thể hay nêu ra một vài cơ sở thực tế để
cho thấy rằng anh Nam thật sự không có khả năng về kinh tế để bồi thường dù cho Toà
án có tuyên bố buộc anh phải bồi thường toàn bộ thiệt hại theo như quy định tại khoản 2
Điều 3 NQ 02/2022/NQ-HĐTP.
- Về nguyên tắc để được giảm bồi thường thiệt hại theo quy định tại Điều khoản trên của
NQ 03/2006/NQ-HĐTP có 2 điều kiện: do lỗi vô ý gây ra thiệt hại và thiệt hại phải là
quá lớn so với khả năng kinh tế trước mắt và lâu dài của người gây ra thiệt hại. Ở đây,
có thể thấy anh Nam đã vô ý gây thiệt hại cho bà Chính nhưng không có một minh
chứng hay căn cứ nào xác định rõ rằng:
23

+Thứ nhất, về khả năng kinh tế của anh Nam ở thời điểm hiện tại thực sự khó khăn.
+Thứ hai, không thể dựa vào suy đoán một cách hời hợt mà cho rằng kể cả về lâu dài thì
khả năng kinh tế của anh Nam cũng không thể đủ để có thể bồi thường thiệt hại do anh
gây ra mà Toà án cần phải xem xét thật kỹ về khả năng kinh tế của người gây ra thiệt hại
để quyết định rằng anh Nam có thật sự đủ điều kiện áp dụng giảm mức bồi thường thiệt
hại hay không. Bởi vì anh Nam là người có công việc và lương ổn định hằng tháng nên
có thể hiện tại anh không đủ khả năng để chi trả mức bồi thường thiệt hại nhưng về lâu
dài thì vẫn có thể được.
24

VẤN ĐỀ 5: BỒI THƯỜNG THIỆT HẠI DO NGUỒN NGUY HIỂM


CAO ĐỘ GÂY RA
* Tóm tắt Quyết định số 30/2010/DS-GĐT ngày 22/01/2010 của Tòa dân sự Tòa án
nhân dân tối cao.
- Nguyên đơn: Anh Nguyễn Hữu Công trú tại xã Tân Hưng, huyện Cái Bè, tỉnh Tiền
Giang. - Bị đơn: Chi nhánh điện Cái Bè, tỉnh Tiền Giang.
- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan: Anh Trần văn Ri và anh Nguyễn Văn Sua cùng
trú tại xã Tân Hưng, huyện Cái Bè, tỉnh Tiền Giang.
- Nội dung: Anh Công khởi kiện Chi nhánh điện Cái Bè, tỉnh Tiền Giang với lý do đường
dây hạ thế chạy ngang qua nhà ông Dũng bị hở mạch điện, dây điện rơi sát xuống đất
khiến cháu Lợi, con anh Công đi ngang qua chạm vào dây bị điện giật chết tại chỗ. Anh
Công yêu cầu Chi nhánh điện Cái Bè bồi thường thiệt hại cho gia đình anh tổng cộng
28.000.000 đồng. Phía bị đơn trình bày rằng, ngày 17-01-2003, Công ty điện lực đã ký
hợp đồng bán điện cho ông Nguyễn Văn Sua, đại diện tổ điện xã Tân Hưng. Theo hợp
đồng này, tổ điện xã Tân Hưng phải chịu trách nhiệm về kỹ thuật đường dây từ sau
công tơ tổng, trường hợp gây ra thiệt hại này do đường dây hạ thế (sau công tơ tổng)
gây ra nên phải do tổ điện xã Tân Hưng chịu trách nhiệm. Phía người có quyền lợi và
nghĩa vụ liên quan, anh Nguyễn văn Sua cho rằng ông chỉ được nhân dân bầu làm tổ
trưởng tổ điện trong vài ngày, sau đó giao lại cho anh Trần Văn Ri, thời điểm cháu Lợi
chết anh không còn làm ở đó nên không chấp nhận bồi thường thiệt hại. Anh Trần Văn
Ri trình bày rằng nhân dân cũng phải góp một số tiền để hỗ trợ cho gia đình anh Công
nên không đồng ý bồi thường thiệt hại theo yêu cầu của nguyên đơn.
- Hướng giải quyết của Tòa án:
+ Tòa sơ thẩm: Bác yêu cầu của anh Nguyễn Hữu Công về việc đòi bồi thường.
+ Tòa phúc thẩm: Bác kháng cáo của anh Nguyễn Hữu Công, giữ nguyên bản án sơ
thẩm.
+ Tòa án nhân dân tối cao: nhận định tòa sơ thẩm và tòa phúc thẩm bác yêu cầu của
nguyên đơn với lý do khởi kiện sai đối tượng là không có căn cứ.
25

Câu 1: Đoạn nào của Quyết định cho thấy Tòa án đã vận dụng chế định bồi thường
thiệt hại do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra?
- Tại đoạn cuối trong phần xét thấy, phía Chánh án Tòa án nhân dân tối cao đã nói rõ:
“Ngày 10-5-2993, đường dây hạ thế sau điện kế bị rò rỉ nguồn điện, làm chết cháu
Nguyễn Hữu Lợi (sinh năm 1997) là con của anh Nguyễn Hữu Công. Theo quy định tài
Điều 627 Bộ luật Dân sự năm 1995 (Điều 623 Bộ luật Dân sự năm 2005) thì chủ sở hữu,
người được chủ sở hữu giao chiếm hữu, sử dụng nguồn điện nguy hiểm cao độ phải bồi
thường thiệt hại ngay cả khi không có lỗi (trừ các trường hợp thiệt hại xảy ra hoàn toàn
do lỗi cố ý của người bị thiệt hại, thiệt hại xảy ra trong trường hợp bất khả kháng hoặc
tình thế cấp thiết…). Trong vụ việc này, bên bị thiệt hại hoàn toàn không có lỗi nên phải
được bồi thường…”

Câu 2: Suy nghĩ của anh/chị về việc Tòa án xác định đây là bồi thường thiệt hại do
nguồn nguy hiểm cao độ gây ra.
- Toà án xác định đây là bồi thường thiệt hại do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra là
hoàn toàn hợp lý. Theo đó, tại khoản 1 Điều 601 BLDS năm 2015 quy định: “1. Nguồn
nguy hiểm cao độ bao gồm phương tiện giao thông vận tải cơ giới, hệ thống tải điện, nhà
máy công nghiệp đang hoạt động, vũ khí, chất nổ, chất cháy, chất độc, chất phóng xạ,
thú dữ và các nguồn nguy hiểm cao độ khác do pháp luật quy định…”
- Pháp luật đã có quy định hệ thống tải điện là một trong số những nguồn nguy hiểm
cao độ, nên hoàn toàn có thể xác định thiệt hại là do chính nguồn nguy hiểm ấy gây ra.
Trường hợp này Toà án đã xác định thiệt hại xảy ra đối với cháu Hữu khi Cháu đi ngang
qua chạm vào và bị điện giật chết tại chỗ. Mối quan hệ nhân quả là do đường dây hạ thế
chạy ngang qua nhà ông Dũng (nhà bỏ trống) bị hở mạch điện dẫn điện qua mái tole, do
va chạm nên tạo ra hai mối đứt vỏ nhựa, lộ dây nhôm phía trong dẫn đến việc cháu Hữu
chạm vào và bị giật. Tuy nhiên, việc này không phải là do lỗi của cháu Hữu nên người
quản lý sẽ có trách nhiệm bồi thường thiệt hại cho gia đình cháu - khoản 2 Điều 601
BLDS năm 2015: “2. Chủ sở hữu nguồn nguy hiểm cao độ phải bồi thường thiệt hại do
nguồn nguy hiểm cao độ gây ra; nếu chủ sở hữu đã giao cho người khác chiếm hữu, sử
dụng thì người này phải bồi thường, trừ trường hợp có thỏa thuận khác.”
26

Câu 3: Tòa dân sự có cho biết ai là chủ sở hữu đường dây điện hạ thế gây thiệt hại
không?
- Theo nội dung Quyết định số 30/2010/DS-GĐT thì Tòa dân sự không cho biết ai là chủ
sở hữu đường dây điện hạ thế gây thiệt hại. Tuy nhiên, Quyết định số 30/2010 có trích
Quyết định kháng nghị số 581/2009/KN-DS của Chánh án Tòa án nhân dân tối cao và
cho thấy: “...lẽ ra phải làm rõ trách nhiệm của chủ sở hữu nguồn nguy hiểm cao độ là
Công ty điện lực 2…”.

Câu 4: Theo anh/chị, ai là chủ sở hữu đường dây hạ thế gây thiệt hại?
- Theo nhóm, Công ty điện lực 2 là chủ sở hữu đường dây hạ thế gây thiệt hại. Do nguồn
điện không tự tồn tại mà do phía Công ty điện lực 2 cung cấp còn bên Tổ điện 4 chỉ là
bên được chủ sở hữu - tức Công ty điện lực 2 giao cho quản lý và sử dụng. Vì vậy, có thể
nói
Công ty điện lực 2 chính là chủ sở hữu của nguồn điện trong trường hợp này.

Câu 5: Theo Tòa dân sự, chủ thể nào sẽ chịu trách nhiệm bồi thường thiệt hại cho gia
đình nạn nhân?
- Tòa chưa đưa ra kết luận chủ thể nào chịu trách nhiệm bồi thường thiệt hại cho gia đình
nạn nhân. Tuy nhiên, hướng của Tòa đưa ra là: “Khi giải quyết vụ án, Tòa án các cấp cần
xác định rõ đường dây điện đó do ai quản lý sử dụng; từ đó căn cứ vào Điều 623 Bộ luật
dân sự và Nghị định số 25/2001/NĐ-CP ngày 02/08/2001 của Chính phủ quy định về
hoạt động điện lực và sử dụng điện để giải quyết.”.

Câu 6: Suy nghĩ của anh/chị về hướng xử lý trên của Tòa dân sự Tòa án nhân dân tối
cao liên quan đến xác định chủ thể chịu trách nhiệm bồi thường thiệt hại cho gia đình
nạn nhân.
- Hướng xử lý trên của Tòa dân sự Tòa án nhân dân tối cao là hợp lý, phù hợp với quy
định của pháp luật. Tòa án các cấp sơ thẩm và phúc thẩm bác yêu cầu khởi kiện của anh
Công vì cho rằng anh Công khởi kiện không đúng đối tượng là không đúng, ảnh hưởng
đến quyền lợi của anh. Tòa giám đốc thẩm đã hủy 02 bản án và theo hướng khi xét xử lại
vụ án cần phải xem xét rõ trách nhiệm của người quản lý, sử dụng nguồn nguy hiểm cao
27

độ nêu trên để có cơ sở giải quyết bồi thường thiệt hại cho anh Công vì trong vụ việc này
bên bị thiệt hại hoàn toàn không có lỗi. Căn cứ khoản 2 Điều 623 BLDS năm 2005 (Có
hiệu lực tại thời điểm xét xử): “Chủ sở hữu nguồn nguy hiểm cao độ phải bồi thường
thiệt hại do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra; nếu chủ sở hữu đã giao cho người khác
chiếm hữu, sử dụng thì những người này phải bồi thường, trừ trường hợp có thỏa thuận
khác.” Mà trong trường hợp này, chủ sở hữu nguồn nguy hiểm cao độ là Công ty điện lực
2 có ký hợp đồng bán điện cho Tổ điện xã Tân Hưng, tức là chủ sở hữu đã giao cho người
khác chiếm hữu, sử dụng nên phải xem xét rõ trách nhiệm của bên được giao để đảm bảo
quyền lợi hợp pháp cho bên bị thiệt hại. Vì vậy, Tòa án yêu cầu khi xét xử lại phải làm rõ
trách nhiệm để từ đó xác định giải quyết bồi thường cho anh Công là hợp lý.
28

VẤN ĐỀ 6: BỒI THƯỜNG THIỆT HẠI DO NGƯỜI THI HÀNH


CÔNG VỤ GÂY RA
* Tóm tắt Bản án số 02/2015/HSST ngày 15/4/2015 của Tòa án nhân dân tỉnh Phú
Yên
- Các đồng phạm trong vụ trộm cắp tài sản bao gồm: Ngô Thanh Kiều, Ngô Thanh
Sơn, Trần Minh Cường.
- Các bị cáo bao gồm: Lê Đức Hoàn, Nguyễn Thân Thảo Thành, Nguyễn Minh
Quyền, Phạm Ngọc Mẫn, Nguyễn Tấn Quang, Đỗ Như Huy.
- Nội Dung: Hoàn là Trưởng ban chuyên án chỉ đạo Phúc phân công lực lượng gồm
các trinh sát viên, điều tra viên là Quyền, Mẫn, Quang, Huy xét hỏi Kiều. Do Kiều không
hợp tác nên đã bị Thành (được Phúc phân công canh giữ để Quyền và Mẫn đi ăn cơm
trưa) đánh vào đầu gây tử vong, trước đó các bị cáo Mẫn, Quyền, Huy, Quang đã sử dụng
gậy cao su đánh đập vào người. Tòa án đã buộc các trinh sát viên, điều tra viên bồi
thường tiền bù đắp tổn thất về tinh thần theo BLDS, tiền mai táng phí theo tình hình
chung tại địa phương và tiền cấp dưỡng nuôi 2 con của Kiều đến khi phát sinh một trong
các trường hợp chấm dứt nghĩa vụ cấp dưỡng theo quy định của pháp luật.

Câu 1: Những khác biệt cơ bản về thiệt hại được bồi thường khi một cá nhân chết theo
Luật trách nhiệm bồi thường của Nhà nước và BLDS.

Luật Trách nhiệm bồi thường của Bộ luật dân sự


Nhà nước

CSPL Điều 25, Điều 27 Luật trách nhiệm Điều 591 BLDS năm 2015
bồi thường của Nhà nước năm 2012.
29

Chi phí phải - Chi phí khám bệnh, chữa - Thiệt hại do sức khỏe
bồi thường bệnh theo quy định của pháp luật về bị xâm phạm theo quy định
khám bệnh, chữa bệnh cho người bị tại Điều 590 của BLDS năm
thiệt hại trước khi chết. 2015

- Chi phí bồi dưỡng sức khỏe - Chi phí hợp lý cho
cho người bị thiệt hại trước khi chết việc mai táng.
được xác định là 01 ngày lương tối
thiểu vùng tại cơ sở khám bệnh, - Tiền cấp dưỡng cho
chữa bệnh cho 01 ngày khám bệnh, những người mà người bị
chữa bệnh theo số ngày trong hồ sơ thiệt hại có nghĩa vụ cấp
bệnh án. dưỡng;

- Chi phí cho người chăm sóc - Thiệt hại khác do luật
người bị thiệt hại trong thời gian quy định.
khám bệnh, chữa bệnh trước khi chết
được xác định là 01 ngày lương tối - Tổn thất về tinh thần
thiểu vùng tại cơ sở khám bệnh, cho những người thân thích
chữa bệnh cho 01 ngày chăm sóc thuộc hàng thừa kế thứ nhất
người bị thiệt hại. của người bị thiệt hại, nếu
không có những người này thì
- Chi phí cho việc mai táng người mà người bị thiệt hại
người bị thiệt hại chết được xác định đã trực tiếp nuôi dưỡng,
theo mức trợ cấp mai táng theo quy người đã trực tiếp nuôi dưỡng
định của pháp luật về bảo hiểm xã người bị thiệt hại
hội.

Chi phí mai Chi phí hợp lí cho việc mai


táng Xác định theo mức trợ cấp mai táng.

táng theo quy định của pháp luật về


bảo hiểm xã hội.
30

Tiền cấp Một tháng lương tối thiểu vùng Không nói rõ số tiền cụ thể
dưỡng cho
tại nơi người được cấp dưỡng đang
những người
cư trú cho mỗi tháng thực hiện nghĩa
mà người bị
vụ cấp dưỡng. Trừ trường hợp pháp
thiệt hại đang
luật có quy định khác hoặc đã được
thực hiện nghĩa
xác định theo bản án, quyết định đã
vụ cấp dưỡng
có hiệu lực pháp luật của cơ quan
nhà nước có thẩm quyền.

Mức bồi 360 tháng lương cơ sở. Trường hợp Mức bồi thường bù đắp tổn
thường thiệt người bị thiệt hại chết thì không áp thất về tinh thần do các bên
hại về tinh dụng bồi thường thiệt hại về tinh thỏa thuận; nếu không thỏa
thần cho gia thần quy định tại các khoản 1, 2, 3 thuận được thì mức tối đa cho
đình người bị và 5 Điều 27. một người có tính mạng bị
thiệt hại về xâm phạm không quá một
tính mạng trăm lần mức lương cơ sở do
Nhà nước quy định
31

Bản chất của Chủ thể có trách nhiệm bồi


quan hệ bồi thường thường là chính người
có lỗi.
thường
Trong bồi thường của nhà nước, Nhà
nước có trách nhiệm bồi thường thay
cho cán bộ, công chức khi họ thi
hành công vụ đã gây thiệt hại cho cá
nhân, tổ chức. Mục đích của bồi
thường nhà nước là đảm bảo quyền
lợi hợp pháp cho công dân nước
mình. Mọi công việc của cán bộ,
công chức đều được pháp luật quy
định cụ thể, nếu cán bộ công chức
gây thiệt hại do vi phạm pháp luật
(tức là phải có lỗi) thì đó là sai phạm
của cán bộ, công chức, chứ bản thân
nhà nước hoàn toàn không có lỗi. Vì
Nhà nước với tư cách là người sử
dụng cán bộ, công chức nên Nhà
nước chịu trách nhiệm bồi thường

Câu 2: Hoàn cảnh như trong vụ việc trên có được Luật trách nhiệm bồi thường của
Nhà nước điều chỉnh không? Vì sao?
- Hoàn cảnh như trong vụ việc trên không được Luật trách nhiệm bồi thường của
Nhà nước điều chỉnh. Do vụ việc xảy ra vào năm 2012, nên căn cứ vào Luật trách nhiệm
bồi thường của Nhà nước năm 2009 thì bị hại Kiều không thuộc các quy định về phạm vi
trách nhiệm bồi thường trong hoạt động tố tụng hình sự tại Điều 26 luật này (vì Kiều có
thực hiện hành vi phạm tội), đồng thời do đang chịu sự điều chỉnh của BLDS năm 2005
và bộ luật này không có quy định cụ thể nào về trách nhiệm bồi thường do người thi hành
công vụ gây ra. Do đó, hoàn cảnh trên không thuộc đối tượng điều chỉnh của Luật trách
nhiệm bồi thường của Nhà nước.
- Trong bản án, có ghi nhận việc yêu cầu bồi thường từ phía gia đình bị hại và người
bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đại diện người bị hại yêu cầu bồi thường. Tuy
nhiên, theo ghi nhận tại Bản án số 05/2013/HSST, do bị hại Ngô Thanh Kiều đã chết,
32

không bị xét xử nên do đó không thuộc trường hợp bồi thường tiền bù đắp tổn thất tinh
thần theo Luật Trách nhiệm bồi thường của Nhà nước.

Câu 3: Nếu hoàn cảnh như trong vụ án trên xảy ra sau khi BLDS 2015 có hiệu lực,
hướng giải quyết có khác hướng giải quyết trong vụ án không? Vì sao?
Nếu hoàn cảnh trong vụ án trên xảy ra sau khi BLDS 2015 có hiệu lực thì hướng giải
quyết cơ bản vẫn được giữ nguyên.
- Theo Điều 599 BLDS năm 2015: “Nhà nước có trách nhiệm bồi thường thiệt hại
do hành vi trái pháp luật của người thi hành công vụ gây ra theo quy định của Luật trách
nhiệm bồi thường thiệt hại của Nhà nước”. Như vậy, nếu hành vi trái pháp luật của người
thi hành công vụ gây ra thiệt hại thuộc phạm vi trách nhiệm bồi thường của Nhà nước thì
Nhà nước có trách nhiệm bồi thường cho người bị thiệt hại.
- Xét thấy trường hợp này thuộc hoạt động tố tụng hình sự, do đó căn cứ vào Điều
26 Luật trách nhiệm bồi thường thiệt hại của Nhà nước quy định về phạm vi trách nhiệm
bồi thường thiệt hại của Nhà nước trong hoạt động tố tụng hình sự, việc bị cáo sử dụng
nhục hình và thiếu trách nhiệm gây hậu quả làm chị Kiều tử vong không thuộc phạm vi
trách nhiệm bồi thường của Nhà nước. Vì vậy, Nhà nước không có trách nhiệm bồi
thường 360 lần mức lương cơ sở theo yêu cầu của bên bị thiệt hại.
- Về mức bồi thường bù đắp tổn thất tinh thần, theo khoản 2 Điều 591 BLDS năm
2015, nếu không thoả thuận được mức bù đắp tổn thất tinh thần thì mức tối đa cho một
người có tính mạng bị xâm phạm là không quá 100 lần mức lương cơ sở. Xét thấy, bên
gây thiệt hại đã tự nguyện bồi thường số tiền cao hơn mức luật định là có lợi cho bên bị
hại, do đó không cần thiết có sự thay đổi về mức phạt bồi thường tổn thất về tinh thần.
33
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

I. Văn bản pháp luật

1. BLDS năm 2015.

2. BLDS năm 2005.

3. Luật Trách nhiệm bồi thường của Nhà nước năm 2017.

4. Luật Trách nhiệm bồi thường của Nhà nước năm 2009.

5. Nghị quyết số 02/2022/NQ-HĐTP.

6. Nghị quyết số 03/2006/NQ-HĐTP

7. Thông tư số 11/2022/TT-NHNN.

II. Tài liệu tham khảo

1. Đỗ Văn Đại, Bình luận khoa học những điểm mới của Bộ luật dân sự năm 2015, NXB
Hồng Đức - Hội Luật gia Việt Nam.

You might also like