You are on page 1of 22

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH


KHOA: LUẬT DÂN SỰ
─────

MÔN: PHÁP LUẬT VỀ HỢP ĐỒNG VÀ BỒI THƯỜNG THIỆT HẠI NGOÀI
HỢP ĐỒNG
BUỔI THẢO LUẬN THỨ HAI: VẤN ĐỀ CHUNG CỦA HỢP ĐỒNG (TIẾP)
GIẢNG VIÊN GIẢNG DẠY: LÊ THỊ HỒNG VÂN
GIẢNG VIÊN PHỤ TRÁCH THẢO LUẬN: ĐẶNG LÊ PHƯƠNG UYÊN
NHÓM 6 – LỚP DS46A2
STT Họ và tên MSSV
1 Lê Chí Hiếu 2153801012080
2 Nguyễn Minh Hiếu 2153801012081
3 Nguyễn Thị Xuân Hoa 2153801012082
4 Lê Quang Huy 2153801012089
5 Trương Hoàng Khải 2153801012097
6 Nguyễn Công Khoa 2153801012101
7 Nguyễn Trần Thanh Lam 2153801012107
8 Phan Thị Thùy Linh 2153801012118
9 Phạm Đỗ Khánh Minh 2153801012134
10 Nguyễn Hà Thanh Ngân 2153801012142

NĂM HỌC: 2022-2023


MỤC LỤC
Vấn đề 1: Hợp đồng vi phạm quy định về hình thức.....................................................2
* Tóm tắt Bản án số 16/2019/DS-PT ngày 19/3/2019 của Tòa án nhân dân tỉnh Quảng
Ngãi.................................................................................................................................... 2
* Tóm tắt Quyết định số 93/2018/DS-GĐT ngày 29/11/2018 của Toà án nhân dân cấp cao
tại Đà Nẵng......................................................................................................................... 2
1. Đoạn nào trong Bản án số 16 cho thấy hợp đồng chuyển nhượng quyền sử
dụng đất được xác lập trước ngày BLDS năm 2015 có hiệu lực và chưa được
công chứng, chứng thực?........................................................................................3
2. Đoạn nào trong Bản án số 16 cho thấy Toà án đã áp dụng Điều 129 BLDS
2015 cho hợp đồng chuyển nhượng dù hợp đồng được xác lập trước ngày BLDS
năm 2015 có hiệu lực?............................................................................................3
3. Việc Toà án áp dụng Điều 129 BLDS 2015 trong trường hợp như trên có
thuyết phục không? Vì sao?....................................................................................4
4. Trong Bản án số 16, Tòa án áp dụng Điều 129 BLDS 2015 khi chỉ xác định
Nguyên đơn thực hiện 2/3 nghĩa vụ có thuyết phục không? Vì sao?.....................4
5. Trong Bản án số 16, đoạn nào cho thấy, khi áp dụng Điều 129 BLDS, bên bán
không cần phải làm thủ tục chuyển nhượng và bên nhận chuyển nhượng được
liên hệ cơ quan Nhà nước có thẩm quyền để được công nhận quyền sử dụng đất
theo bản án đã có hiệu lực pháp luật?.....................................................................5
6. Hướng giải quyết như nêu trên của Tòa án có thuyết phục không? Vì sao?......5
7. Đoạn nào trong Quyết định số 93 cho thấy hợp đồng chuyển nhượng quyền sử
dụng đất ngày 10/8/2009 chưa được công chứng, chứng thực?.............................5
8. Theo BLDS 2015, hệ quả pháp lý của việc hết thời hiệu yêu cầu Tòa án tuyên
bố hợp đồng vô hiệu về hình thức...........................................................................5
9. Đoạn nào trong Quyết định số 93 cho thấy Toà án đã áp dụng quy định về thời
hiệu tại Điều 132 BLDS 2015 để công nhận hợp đồng chuyển nhượng quyền sử
dụng đất ngày 10/8/2009 dù chưa được công chứng, chứng thực?........................6
10. Trong quyết định số 93, việc Toà án công nhận hợp đồng chuyển nhượng
quyền sử dụng đất ngày 10/8/2009 dù chưa được công chứng, chứng thực có
thuyết phục không? Vì sao?....................................................................................6
Vấn đề 2: Đơn phương chấm dứt, hủy bỏ do không thực hiện đúng hợp đồng...........7
* Bản án số 06/2017/KDTM-PT ngày 26/5/2017 của Toà án nhân dân tỉnh Vĩnh Long.. . .7
1
1. Điểm giống nhau và khác nhau giữa hợp đồng vô hiệu và hủy bỏ hợp đồng do
có vi phạm...............................................................................................................7
2. Theo Toà án nhân dân tỉnh Vĩnh Long, hợp đồng vô hiệu hay bị huỷ bỏ?........9
3. Suy nghĩ của anh/chị về hướng giải quyết trên của Toà án nhân dân tỉnh Vĩnh
Long (về huỷ bỏ hay vô hiệu hợp đồng).................................................................9
4. Nếu hợp đồng bị vô hiệu thì có áp dụng phạt vi phạm hợp đồng không? Vì
sao?.......................................................................................................................10
5. Hướng giải quyết của Toà án nhân dân tỉnh Vĩnh Long đối với câu hỏi trên
như thế nào và suy nghĩ của anh/chị về hướng giải quyết này của Toà án nhân
dân tỉnh Vĩnh Long...............................................................................................10
6. Điểm giống nhau và khác nhau giữa đơn phương chấm dứt hợp đồng và hủy bỏ
hợp đồng do có vi phạm........................................................................................11
7. Ông Minh có được quyền hủy bỏ hợp đồng chuyển nhượng nêu trên không? Vì
sao? Nếu có, nêu rõ văn bản cho phép hủy bỏ......................................................13
Vấn đề 3: Đứng tên giùm mua bất động sản.................................................................13
* Quyết định số 17/2015/DS-GĐT ngày 19/05/2015 của Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân
dân tối cao......................................................................................................................... 13
1. Việc Tòa án nhân dân tối cao xác định nhà có tranh chấp do bà Tuệ bỏ tiền ra
mua và nhờ ông Bình, bà Vân đứng tên hộ có thuyết phục không? Vì sao?........13
2. Ở thời điểm mua nhà trên, bà Tuệ có được đứng tên không? Vì sao?..............14
3. Ở thời điểm hiện nay, bà Tuệ có được đứng tên mua nhà ở tại Việt Nam
không?...................................................................................................................14
4. Ngày nay, theo Tòa án nhân dân tối cao, bà Tuệ được công nhận quyền sở hữu
nhà trên không? Hướng giải quyết này của Tòa án nhân dân tối cao đã có tiền lệ
chưa?.....................................................................................................................14
5. Theo Tòa án nhân dân tối cao, phần giá trị chênh lệch giữa số tiền bà Tuệ bỏ ra
và giá trị hiện tại của nhà đất có tranh chấp được xử lý như thế nào?..................15
6. Hướng giải quyết trên của Tòa án nhân dân tối cao đã có Án lệ chưa? Nếu có,
nêu Án lệ đó..........................................................................................................15
7. Suy nghĩ của anh/chị về hướng giải quyết trên của Tòa án nhân dân tối cao...15
Vấn đề 4: Tìm kiếm tài liệu............................................................................................16
Yêu cầu 1: Liệt kê những bài viết liên quan đến pháp luật hợp đồng được công bố
trên các Tạp chí chuyên ngành Luật từ đầu năm 2019 đến nay (ít nhất 20 bài
viết). Khi liệt kê, yêu cầu viết theo trật tự theo tên tác giả và việc liệt kê phải thỏa
2
mãn những thông tin theo trật tự sau: 1) Họ và tên tác giả, 2) Tên bài viết trong
ngoặc kép, 3) Tên Tạp chí in nghiêng, 4) Số và năm của Tạp chí, 5) Số trang của
bài viết (ví dụ: từ tr. 41-51)...................................................................................16
Yêu cầu 2: Cho biết làm thế nào để biết được những bài viết trên.......................18
TÀI LIỆU THAM KHẢO..............................................................................................19

3
Vấn đề 1: Hợp đồng vi phạm quy định về hình thức

* Tóm tắt Bản án số 16/2019/DS-PT ngày 19/3/2019 của Tòa án nhân dân tỉnh
Quảng Ngãi.

Nguyên đơn: ông Võ Sĩ M và bà Phùng Thị N


Bị đơn: ông Đoàn C và bà Trần Thị L
Bị đơn đã thỏa thuận với nguyên đơn lập hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất cho
nguyên đơn. Thời điểm các bên thỏa thuận thì bị đơn chưa được cấp đất nên chỉ lập giấy
viết tay thể hiện nội dung thỏa thuận. Khi thỏa thuận có phát sinh thay đổi các bên chỉ
thay đổi bằng lời nói và tiếp tục thực hiện hợp đồng bằng việc giao tiền, giao giấy chứng
nhận quyền sử dụng đất. Tuy nhiên, phía bị đơn chỉ đưa giấy chứng nhận quyền sử dụng
đất nhưng không làm thủ tục chuyển nhượng, do đó nguyên đơn khởi kiện yêu cầu bị đơn
phải làm thủ tục chuyển nhượng đất cho nguyên đơn. Bị đơn kháng cáo yêu cầu tuyên bố
hợp đồng này vô hiệu vì sai về mặt hình thức, nhưng Tòa không chấp nhận, vì các bên đã
thực hiện hơn 2/3 nghĩa vụ trong giao dịch. Do đó, Tòa án quyết định giao dịch vẫn có
hiệu lực, nguyên đơn được quyền sử dụng đất và có nghĩa vụ liên hệ cơ quan Nhà nước có
thẩm quyền để được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất. Đồng thời, nguyên đơn
cũng phải thanh toán phần tiền còn lại cho phía bị đơn.

* Tóm tắt Quyết định số 93/2018/DS-GĐT ngày 29/11/2018 của Toà án nhân dân cấp
cao tại Đà Nẵng.

Nguyên đơn: Ông Mến và bà Nhiễm

Bị đơn: Ông Cưu và bà Lắm.

Năm 2009, ông Cưu, bà Lắm và con trai là Linh lập hợp đồng thoả thuận chuyển nhượng
quyền sử dụng đất cho vợ chồng ông Mến, bà Nhiễm một lô đất B khi được Nhà nước
giao đất với giá chuyển nhượng là 90.000.000 vnd, sau đó vì không có lô B nên hai bên
thống nhất ông Mến , bà Nhiễm giao thêm 30.000.000 vnd để lấy khu A. Năm 2016, ông
Cưu, bà Lắm được Nhà nước cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, sau đó bị đơn đã
giao Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất này nhưng không chuyển nhượng. Nay ông
Mến, bà Nhiễm yêu cầu ông Cưu, bà Lắm phải làm thủ tục chuyển nhượng thửa đất trên
cho họ. Bị đơn có đơn phản tố yêu cầu Toà án tuyên hợp đồng vô hiệu vì cho rằng tại thời
điểm chuyển nhượng chưa có đất và hợp đồng không được công chứng, chứng thực.

4
Tại Toà án sơ thẩm, Toà công nhân hợp đồng chuyển nhượng là đúng. Nhưng tuyên buộc
bị đơn chuyển nhượng đất là không thể thi hành án.

Toà án phúc thẩm xác định hợp đồng này là vô hiệu do vi phạm về nội dung và hình thức
của hợp đồng là không đúng. Mặc dù , khi viết giấy chuyển nhượng chưa có vị trí lô đất
cụ thể nhưng đối tượng của hợp đồng hai bên hướng đến là 01 trong những lô đất tái định
cư mà ông Cưu, bà Lắm sẽ được nhà nước giao theo chính sách quy hoạch dân cư.

Tại Quyết định giám đốc thẩm số 93/2018/DS-GĐT ngày 29/11/2018, Tòa án nhân dân
cấp cao tại Đà Nẵng quyết định chấp nhận kháng nghị của Chánh án Tòa án nhân dân cấp
cao tại Đà Nẵng, công nhận hợp đồng chuyển nhượng giữa 2 bên tuy có vi phạm về mặt
hình thức nhưng có hiệu lực căn cứ vào khoản 2 Điều 132 BLDS 2015 và huỷ toàn bộ bản
án dân sự phúc thẩm, giao hồ sơ vụ án cho Tòa án nhân dân tỉnh Quảng Ngãi xét xử lại
theo thủ tục phúc thẩm.

1. Đoạn nào trong Bản án số 16 cho thấy hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng
đất được xác lập trước ngày BLDS năm 2015 có hiệu lực và chưa được công chứng,
chứng thực?
Đoạn [3] phần Nhận định của Tòa án cho thấy hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng
đất được xác lập trước ngày BLDS năm 2015 có hiệu lực và chưa được công chứng,
chứng thực:

“Bị đơn ông C, bà L và người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan anh L1 thừa nhận, vì biết
thông tin gia đình bị đơn bị thu hồi đất sẽ được cấp ba lô đất tái định cư, trong đó có một
lô A và hai lô B, nên ngày 10/8/2009 nguyên đơn ông M, Bà N cùng phía bị đơn ông C,
bà L và anh Đoàn Tấn L1 thỏa thuận và lập “Giấy chuyển nhượng đất thổ cư” (Bút lục
27) … Đây là những tình tiết không phải chứng minh theo quy định tại Khoản 2 Điều 92
Bộ luật tố tụng dân sự”.

2. Đoạn nào trong Bản án số 16 cho thấy Toà án đã áp dụng Điều 129 BLDS 2015
cho hợp đồng chuyển nhượng dù hợp đồng được xác lập trước ngày BLDS năm 2015
có hiệu lực?
Đoạn [6] phần Nhận định của Tòa án cho thấy Toà án đã áp dụng Điều 129 BLDS 2015
cho hợp đồng chuyển nhượng dù hợp đồng được xác lập trước ngày BLDS năm 2015 có
hiệu lực:

5
“Theo quy định tại Điều 116, khoản 2 Điều 129 Bộ luật dân sự năm 2015 thì tuy giao
dịch chuyển nhượng quyền sử dụng đất của các bên không tuân thủ về hình thức được
quy định tại khoản 1 Điều 502 Bộ luật dân sự năm 2015 nhưng bên nguyên đơn đã thực
hiện giao cho phía bị đơn 110.000.000 đồng, phía bị đơn đã giao quyền sử dụng đất cho
nguyên đơn là đã thực hiện hơn 2/3 nghĩa vụ trong giao dịch nên giao dịch được công
nhận hiệu lực. Tòa án cấp sơ thẩm công nhận hiệu lực của giao dịch là đúng pháp luật
nhưng buộc bị đơn phải làm thủ tục chuyển nhượng thửa 877 cho nguyên đơn là không
cần thiết, khi Tòa án công nhận hiệu lực của giao dịch thì nguyên đơn liên hệ cơ quan
Nhà nước có thẩm quyền để được công nhận quyền sử dụng đất theo bản án đã có hiệu
lực pháp luật”.

3. Việc Toà án áp dụng Điều 129 BLDS 2015 trong trường hợp như trên có thuyết
phục không? Vì sao?
Toà án áp dụng Điều 129 BLDS 2015 trong trường hợp như trên có thuyết phục. Vì về
vấn đề thời hạn thực hiện giao dịch trên, hai bên cũng đã xác định là “từ khi xác lập giao
dịch cho đến khi phía bị đơn thực hiện xong nghĩa vụ sang tên trong giấy chứng nhận
quyền sử dụng đất cho nguyên đơn”, do đó đây là giao dịch đang được thực hiện và được
xác lập vào ngày 10/8/2009, tức là trước khi Bộ luật này có hiệu lực nên căn cứ theo
Điểm b, Khoản 1, Điều 688, BLDS 2015 thì Tòa áp dụng Điều 129 là đúng quy định.
Ngoài ra, thời điểm các bên thoả thuận việc chuyển nhượng quyền sử dụng đất thì phía bị
đơn chưa được cấp đất nhưng khi được cấp đất đã thay đổi thoả thuận bằng lời nói thành
chuyển nhượng thửa 877 và giao thêm tiền, giao đất, giao giấy chứng nhận quyền sử dụng
đất do vậy có thể nói là các bên đã thực hiện hơn 2/3 nghĩa vụ trong giao dịch này căn cứ
theo khoản 2 Điều 129 BLDS 2015.
4. Trong Bản án số 16, Tòa án áp dụng Điều 129 BLDS 2015 khi chỉ xác định
Nguyên đơn thực hiện 2/3 nghĩa vụ có thuyết phục không? Vì sao?
Tòa án áp dụng Điều 129, BLDS 2015 khi chỉ xác định Nguyên đơn thực hiện 2/3 nghĩa
vụ là thuyết phục. Vì bên cạnh yếu tố đó, những yếu tố khác theo quy định tại Điều 129
cũng đã có căn cứ để xác định. Theo Điều 502, BLDS 2015 và quy định khác có liên quan
như Khoản 3, Điều 167, Luật đất đai 2013 thì có thể xác định được hợp đồng chuyển
nhượng quyền sử dụng đất này đã vi phạm quy định về hình thức, ngoài ra nguyên đơn
khởi kiện yêu cầu bị đơn phải làm thủ tục chuyển nhượng thửa đất 877 cho mình, cũng
chính là mong muốn hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất này được công nhận về
mặt pháp lý. Vì lẽ đó, trường hợp này phù hợp với quy định tại Điều 129, BLDS 2015 khi
giao dịch này vi phạm về mặt hình thức, nhưng các bên cũng đã thực hiện hơn 2/3 nghĩa
vụ và có yêu cầu của bên nguyên đơn.

6
5. Trong Bản án số 16, đoạn nào cho thấy, khi áp dụng Điều 129 BLDS, bên bán
không cần phải làm thủ tục chuyển nhượng và bên nhận chuyển nhượng được liên
hệ cơ quan Nhà nước có thẩm quyền để được công nhận quyền sử dụng đất theo bản
án đã có hiệu lực pháp luật?
Trong phần nhận định của Tòa án có nêu rõ: “Theo quy định tại Điều 116, khoản 2 Điều
129 Bộ luật dân sự năm 2015 thì tuy giao dịch chuyển nhượng quyền sử dụng đất của các
bên không tuân thủ về hình thức được quy định tại khoản 1 Điều 502 Bộ luật dân sự năm
2015 nhưng bên nguyên đơn đã thực hiện giao cho phía bị đơn 110.000.000 đồng, phía bị
đơn đã giao quyền sử dụng đất cho nguyên đơn là đã thực hiện hơn 2/3 nghĩa vụ trong
giao dịch nên giao dịch được công nhận hiệu lực. Tòa án cấp sơ thẩm công nhận hiệu lực
của giao dịch là đúng pháp luật nhưng buộc bị đơn phải làm thủ tục chuyển nhượng thửa
877 cho nguyên đơn là không cần thiết, khi Tòa án công nhận hiệu lực của giao dịch thì
nguyên đơn liên hệ cơ quan Nhà nước có thẩm quyền để được công nhận quyền sử dụng
đất theo bản án đã có hiệu lực pháp luật.”
6. Hướng giải quyết như nêu trên của Tòa án có thuyết phục không? Vì sao?
Hướng giải quyết như nêu trên của Tòa án là hợp lí. Tòa án đã áp dụng đúng theo quy
định của BLDS 2015 và giải quyết từng vấn đề phát sinh trong giao dịch này. Căn cứ theo
Điều 502, BLDS 2015 hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất phải được lập thành
văn bản theo hình thức phù hợp với quy định của Bộ luật này, cũng như pháp luật khác có
liên quan. Cụ thể như theo Khoản 3, Điều 167, Luật đất đai 2013 thì hợp đồng chuyển
nhượng quyền sử dụng đất phải được lập thành văn bản có công chứng, chứng thực. Do
đó, Tòa xác định hợp đồng giữa nguyên đơn và bị đơn vi phạm về hình thức là có căn cứ.
Bên cạnh đó, Tòa cũng áp dụng Điều 129, BLDS 2015 về trường hợp giao dịch dân sự vi
phạm điều kiện có hiệu lực về hình thức nhưng vẫn được công nhận có hiệu lực, điều này
đã thể hiện được tầm nhìn bao quát của Tòa án khi xem xét kĩ tiến độ thực hiện nghĩa vụ
giữa các bên. Do Tòa đã công nhận hiệu lực của giao dịch này nên theo Khoản 2, Điều
129, BLDS 2015 các bên không phải thực hiện công chứng, chứng thực, nên việc buộc bị
đơn làm thủ tục chuyển nhượng đất cho nguyên đơn là không cần thiết.
7. Đoạn nào trong Quyết định số 93 cho thấy hợp đồng chuyển nhượng quyền sử
dụng đất ngày 10/8/2009 chưa được công chứng, chứng thực?
Ở đoạn thứ 5, phần nhận định của Tòa án có nêu rõ: “Về hình thức của hợp đồng: Đối với
các giao dịch dân sự được xác lập trước ngày 01/01/2017, thời hiệu được áp d ụng theo
qui định của Bộ luật Dân sự năm 2015 (điểm d khoản 1 Điều 688 B ộ luật Dân s ự n ăm
2015). Giao dịch chuyển nhượng quyền sử dụng đất lập ngày 10/8/2009 gi ữa v ợ ch ồng
ông Cưu, bà Lắm với vợ chồng ông Mến, bà Nhiễm không được công chứng, chứng thực
là vi phạm về hình thức.”
8. Theo BLDS 2015, hệ quả pháp lý của việc hết thời hiệu yêu cầu Tòa án tuyên bố
hợp đồng vô hiệu về hình thức.
Thời hiệu yêu cầu Tòa án tuyên bố giao dịch vô hiệu về hình thức cũng được quy định tại
Điểm đ, Khoản 1, Điều 132, BLDS 2015. Do đó, căn cứ theo Khoản 2, Điều 132, BLDS
7
2015 thì hệ quả pháp lý của việc hết thời hiệu yêu cầu Tòa án tuyên b ố hợp đồng vô hi ệu
về hình thức là giao dịch dân sự đó sẽ có hiệu lực
“2. Hết thời hiệu quy định tại khoản 1 Điều này mà không có yêu cầu tuyên bố giao dịch
dân sự vô hiệu thì giao dịch dân sự có hiệu lực.”
Như vậy, khi hết thời hiệu yêu cầu Tòa án tuyên bố hợp đồng vô hiệu về hình thức thì hợp
đồng có hiệu lực.
9. Đoạn nào trong Quyết định số 93 cho thấy Toà án đã áp dụng quy định về thời
hiệu tại Điều 132 BLDS 2015 để công nhận hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng
đất ngày 10/8/2009 dù chưa được công chứng, chứng thực?
Đoạn trong Quyết định số 93 cho thấy Toà án đã áp dụng quy định về thời hiệu tại Điều
132 BLDS 2015 để công nhận hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất ngày
10/8/2009 dù chưa được công chứng, chứng thực là:
“Tuy nhiên, từ khi xác lập hợp đồng đến ngày nguyên đơn khởi kiện 18/4/2017, đã quá
thời hạn 2 năm, bị đơn không yêu cầu tuyên bố hợp đồng vô hiệu theo quy định tại Khoản
1 Điều 132 BLDS 2015. Do đó, hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất trên có hiệu
lực theo Khoản 2 Điều 132 BLDS 2015.”
10. Trong quyết định số 93, việc Toà án công nhận hợp đồng chuyển nhượng quyền
sử dụng đất ngày 10/8/2009 dù chưa được công chứng, chứng thực có thuyết phục
không? Vì sao?
Trong quyết định số 93, việc tòa án công nhận hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng
đất ngày 10/8/2009 dù chưa được công chứng, chứng thực có thuyết phục vì:

Nguyên đơn đã đưa 110.000.000 đồng cho bị đơn là đã thực hiện ít nhất hai phần ba nghĩa
vụ trong giao dịch Theo khoản 2 điều 129 BLDS 2015 “Giao dịch dân sự đã được xác lập
bằng văn bản nhưng vi phạm quy định bắt buộc về công chứng, chứng thực mà một bên
hoặc các bên đã thực hiện ít nhất hai phần ba nghĩa vụ trong giao dịch thì theo yêu cầu
của một bên hoặc các bên, Tòa án ra quyết định công nhận hiệu lực của giao dịch đó.
Trong trường hợp này, các bên không phải thực hiện việc công chứng, chứng thực.”
Mặt khác phía bị đơn đã hết thời hiệu là 2 năm, cũng không yêu cầu tuyên bố giao dịch
dân sự vô hiệu giữa bị đơn và nguyên đơn vì thế giao dịch dân sự giữa bị đơn và nguyên
đơn có hiệu lực. Theo khoản 2 điều 132 BLDS 2015 “Hết thời hiệu quy định tại khoản 1
Điều này mà không có yêu cầu tuyên bố giao dịch dân sự vô hiệu thì giao dịch dân sự có
hiệu lực.” Vậy nên việc tòa án công nhận hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất
ngày 10/8/2009 dù chưa được công chứng, chứng thực là có thuyết phục.

Vấn đề 2: Đơn phương chấm dứt, hủy bỏ do không thực hiện đúng hợp đồng
8
* Bản án số 06/2017/KDTM-PT ngày 26/5/2017 của Toà án nhân dân tỉnh Vĩnh
Long.

Nguyên đơn: Công ty trách nhiệm hữu hạn Đông Phong Cần Thơ
Bị đơn: bà Dệt.
Tranh chấp vấn đề: Giao kết hợp đồng mua bán xe ô tô ngày 26/5/2012 nhưng hợp đồng
đã bị vô hiệu.
Lý do tranh chấp:
Thứ nhất, do trong hợp đồng ghi bên mua “Trang trí nội thất Thanh Thảo” nhưng bà Dệt
không phải là đại diện bên này.
Thứ hai, do bên mua là bà Dệt nhưng khi ký kết hợp đồng lại là ông Trương Văn Liêm.
Hướng giải quyết của Tòa án nhân dân tỉnh Vĩnh Long:
Tòa án tuyên chiếc ô tô vẫn thuộc quyền sở hữu của Công ty Đông Phong, và kiến nghị
Công an tỉnh Vĩnh Long thu hồi lại giấy đăng ký xe ô tô cho bà Dệt đứng tên.
Ngoài ra Tòa buộc ông Trương Văn Liêm, bà Nguyễn Thị Dệt phải trả cho Công ty
TNHH MTV Đông Phong Cần Thơ do ông Nguyễn Thành Tơ thừa quyền và nghĩa vụ số
tiền là 4.880.000 đồng. Buộc Công ty TNHH MTV Đông Phong Cần Thơ do ông Nguyễn
Thành Tơ kế thừa có nghĩa vụ trả cho ông Trương Văn Liêm, bà Nguyễn Thị Dệt số tiền
là 67.361.600 đồng.
1. Điểm giống nhau và khác nhau giữa hợp đồng vô hiệu và hủy bỏ hợp đồng do có
vi phạm.
Về nguyên tắc, hợp đồng được lập ra để có hiệu lực ràng buộc, chứ không phải để các bên
rút lui hay hủy bỏ tùy ý. Tuy nhiên, sự thực hiện hợp đồng nghiêm túc của một bên nhưng
thiếu sự hợp tác của bên kia thì cũng không làm cho hợp đồng trở nên hiệu quả. 1
*Giống nhau:
- Hệ quả là không hợp đồng không có hiệu lực từ thời điểm giao kết hay xác lập và các
bên hoàn trả cho nhau những gì đã nhận.
- Có thể sẽ phát sinh bồi thường khi có lỗi giữa các bên.
- Hợp đồng đang được thực hiện bị chấm dứt.

* Khác nhau:

1
Lê Minh Hùng, Giáo trình Pháp luật về hợp đồng và bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng, Nxb. Hồng Đức-Hội Luật
gia Việt Nam 2017, Chương 2.
9
Tiêu chí phân Hợp đồng bị vô hiệu Hợp đồng bị hủy bỏ
biệt

Căn cứ Từ điều 122 đến điều 131 BLDS 2015 Điều 423 đến Điều 427
Vi phạm điều kiện có hiệu lực của hợp BLDS 2015
đồng được áp đặt tại thời điểm giao Không phải do vi phạm
kết. điều kiện có hiệu lực của
- Mục đích và nội dung của hợp đồng hợp đồng được áp đặt tại
vi phạm điều cấm của luật, trái đạo đức thời điểm giao kết. Hợp
xã hội. đồng đã và đang ở trong
- Do giả tạo nhằm che giấu một hợp giai đoạn được thực hiện.
đồng khác hoặc để trốn tránh nghĩa vụ - Bên kia vi phạm hợp đồng
với người thứ ba. là điều kiện huỷ bỏ mà các
- Do người chưa thành niên, người mất bên đã thoả thuận.
năng lực hành vi dân sự, người có khó - Bên kia vi phạm nghiêm
khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi, trọng nghĩa vụ hợp đồng.
người bị hạn chế năng lực hành vi dân - Do chậm thực hiện nghĩa
sự xác lập, thực hiện. vụ.
- Do bị nhầm lẫn. - Do không có khả năng
- Do bị lừa dối, đe doạ, cưỡng ép. thực hiện.
- Do người xác lập không nhận thức và - Do tài sản bị mất, hư hỏng
làm chủ được hành vi của mình.
- Do không tuân thủ quy định về hình
thức.
Hoàn cảnh Vi phạm quy định của luật trong quá Vi phạm trong quá trình
trình giao kết hợp đồng thực hiện hợp đồng.

Phạm vi Hợp đồng vô hiệu toàn bộ khi phạm Hợp đồng bị hủy bỏ toàn
vào điều cấm của luật, trái đạo đức xã bộ.
hội; hợp đồng giả tạo nhằm che giấu
một hợp đồng khác hoặc để trốn tránh
nghĩa vụ với người thứ ba vô hiệu tuyệt
đối.
- Hợp đồng vô hiệu một phần: giao
dịch dân sự vô hiệu từng phần khi một
phần nội dung của giao dịch dân sự vô
hiệu nhưng không ảnh hưởng đến hiệu
lực của phần còn lại của giao dịch.
Tính chất Hợp đồng này có hiệu lực tại thời điểm Chưa bao giờ phát sinh
giao kết nhưng vì phát sinh yếu tố dẫn quyền và nghĩa vụ của các
đến hủy hợp đồng nên hiệu lực này bên.
không được công nhận.

10
Hậu quả pháp Các bên hoàn trả cho nhau những gì đã
Các bên hoàn trả cho nhau
lý nhận, khôi phục lại tình trạng ban đầu.
những gì đã nhận sau khi
- Không làm phát sinh, thay đổi, chấm
trừ đi các chi phí hợp lý
dứt quyền, nghĩa vụ dân sự của các bên
trong thực hiện hợp đồng
kể từ thời điểm giao dịch được xác lập.
và chi phí bảo quản, phát
triển tài sản.
- Không có thoả thuận về phạt vi - Các bên không phải thực
phạm hoặc bồi thường do vi phạm hợp hiện nghĩa vụ đã thoả
đồng. thuận, trừ thoả thuận về
phạt vi phạm, bồi thường
thiệt hại và thoả thuận về
giải quyết tranh chấp.
- Nếu bên huỷ bỏ hợp đồng
không thông báo ngay cho
bên kia biết về việc huỷ bỏ
mà gây thiệt hại thì phải bồi
thường.

2. Theo Toà án nhân dân tỉnh Vĩnh Long, hợp đồng vô hiệu hay bị huỷ bỏ?
Căn cứ vào đoạn “Xét hợp đồng mua bán xe ngày 26/5/2012 nêu trên (vô hiệu theo qui
định tại các điều 122 của Bộ luật Dân sự nên không có căn cứ tuyên hủy hợp đồng cũng
không xét yêu cầu phạt vi phạm hợp đồng của cả nguyên và bị đơn vì hợp đồng vô hiệu
không làm phát sinh quyền và nghĩa vụ của các bên ngay từ thời điểm giao kết, không
rằng buộc trách nhiệm các bên đã giao kết trong hợp đồng mà phải tuyên hợp đồng vô
hiệu và xử lý hậu quả theo điều 131 của Bộ Luật dân sự vì những lý do sau đây.” Như
vậy, theo Tòa án nhân dân tỉnh Vĩnh Long, hợp đồng này bị vô hiệu.
3. Suy nghĩ của anh/chị về hướng giải quyết trên của Toà án nhân dân tỉnh Vĩnh
Long (về huỷ bỏ hay vô hiệu hợp đồng).
Theo điều 423 BLDS 2015 về hủy bỏ hợp đồng:
“1. Một bên có quyền hủy bỏ hợp đồng và không phải bồi thường thiệt hại trong trường
hợp sau đây:
a) Bên kia vi phạm hợp đồng là điều kiện hủy bỏ mà các bên đã thỏa thuận;
b) Bên kia vi phạm nghiêm trọng nghĩa vụ hợp đồng;
c) Trường hợp khác do luật quy định.”
Ta có thể thấy hủy bỏ hợp đồng áp dụng cho trường hợp vi phạm trong quá trình thực
hiện hợp đồng, nghĩa là quá trình giao kết diễn ra đúng với quy định của luật nhưng trong
quá trình thực hiện hợp đồng, một bên không thực hiện hoặc thực hiện không đúng nghĩa
vụ đã thỏa thuận nên dẫn đến việc hủy bỏ hợp đồng.
11
Ở điều 117 BLDS 2015:
“1. Giao dịch dân sự có hiệu lực khi có đủ các điều kiện sau đây:
a) Chủ thể có năng lực pháp luật dân sự, năng lực hành vi dân sự phù hợp với giao dịch
dân sự được xác lập;
b) Chủ thể tham gia giao dịch dân sự hoàn toàn tự nguyện;
c) Mục đích và nội dung của giao dịch dân sự không vi phạm điều cấm của luật, không
trái đạo đức xã hội.
2. Hình thức của giao dịch dân sự là điều kiện có hiệu lực của giao dịch dân sự trong
trường hợp luật có quy định.”
Nếu vi phạm những điều khoản ở điều 117 này thì giao dịch dân sự cũng như hợp đồng sẽ
bị vô hiệu. Việc bà Dệt và ông Liêm không có quyền đại diện cho công ty Thanh Thảo
nhưng lại kí hợp đồng nhằm giao kết hợp đồng giữa công ty Thanh Thảo với công ty
Đông Phong là không đúng với quy định của pháp luật, bà Dệt và ông Liêm đã vi phạm
trong quá trình giao kết hợp đồng chứ không phải vi phạm trong quá trình thực hiện hợp
đồng vì hợp đồng ngay từ đầu đã không có giá trị pháp lý nên không thể phát sinh hiệu
lực. Do đó, quyền và nghĩa vụ của công ty Thanh Thảo và công ty Đông Phong không thể
phát sinh, nên Tòa đã tuyên bố hợp đồng vô hiệu là vô cùng hợp lý.
4. Nếu hợp đồng bị vô hiệu thì có áp dụng phạt vi phạm hợp đồng không? Vì sao?
Phạt vi phạm hợp đồng là một chế tài trong quá trình thực hiện hợp đồng. Theo điều 427
BLDS 2015 về hậu quả khi hủy bỏ hợp đồng “Khi hợp đồng bị hủy bỏ thì hợp đồng
không có hiệu lực từ thời điểm giao kết, các bên không phải thực hiện nghĩa vụ đã thỏa
thuận, trừ thỏa thuận về phạt vi phạm, bồi thường thiệt hại và thỏa thuận về giải quyết
tranh chấp.” Đây là một điểm khác biệt giữa chế định hủy bỏ hợp đồng và vô hiệu hợp
đồng. Hầu như hậu quả dẫn tới hai chế định đó đều giống nhau thì đây là một điểm khác
biệt khá lớn. “Vi phạm hợp đồng” có nghĩa là không thực hiện hoặc thực hiện không đúng
như thỏa thuận đã cam kết trong hợp đồng, nghĩa là trong trường hợp này hợp đồng đang
trong quá trình được thực hiện, việc giao kết đã hoàn thành trước đó. Nếu như chưa giao
kết thì chưa có bản hợp đồng nào, không thể gọi là vi phạm hợp đồng. Do đó, phạt vi
phạm hợp đồng không thể áp dụng trong hợp đồng bị vô hiệu.
5. Hướng giải quyết của Toà án nhân dân tỉnh Vĩnh Long đối với câu hỏi trên như
thế nào và suy nghĩ của anh/chị về hướng giải quyết này của Toà án nhân dân tỉnh
Vĩnh Long.
Hướng giải quyết của Tòa án nhân dân tỉnh Vĩnh Long đối với câu hỏi “Nếu hợp đồng bị
vô hiệu hoá thì có áp dụng phạt vi phạm hợp đồng không?” Thứ nhất, theo phần Nhận
định của Toà án: “Xét hợp đồng mua bán xe ngày 26/5/2012 nêu trên là là vô hiệu theo
quy định tại các điều 122 của Bộ Luật dân sự nên không có căn cứ tuyên hủy hợp đồng
cũng không xét yêu cầu phạt vi phạm hợp đồng của cả nguyên và bị đơn vì hợp đồng vô
12
hiệu không làm phát sinh quyền và nghĩa vụ của các bên ngay từ thời điểm giao kết,
không ràng buộc trách nhiệm các bên đã giao kết trong hợp đồng mà phải tuyên hợp đồng
vô hiệu và xử lý hậu quả theo điều 131 của Bộ Luật dân sự.”
Thứ hai, theo phần Quyết định của Toà án qua đoạn: “Không chấp nhận một phần yêu cầu
khởi kiện của nguyên đơn về các yêu cầu bị đơn chịu phạt gấp đôi tiền cọc bằng
126.000.000 đồng và số tiền đóng trước bạ 5.220.000 đồng tổng cộng số tiền không được
chấp nhận 131.220.000 đồng” và đoạn “Không chấp nhận một phần yêu cầu phản tố của
bị đơn ông Trương Văn Liêm về việc buộc nguyên đơn chịu phạt một lần tiền cọc
63.000.000 đồng cùng số lãi chậm trả 157.404.000 đồng, số tiền phạt 1 lần mua bảo hiểm
xe 4.361.600 đồng tổng cộng số tiền không được chấp nhận 224.765.000 đồng.”
Như vậy, Toà án nhân dân tỉnh Vĩnh Long đưa ra quyết định không áp dụng phạt vi phạm
hợp động khi hợp đồng bị vô hiệu. Theo tôi, hướng giải quyết trên là hợp lý vì hợp đồng
bị tuyên bố vô hiệu nên sẽ không làm phát sinh quyền và nghĩa vụ các bên kể từ thời điểm
giao kết dù có thoả thuận phạt vi phạt trong hợp đồng theo khoản 1 Điều 131 BLDS 2015:
“Giao dịch dân sự vô hiệu không làm phát sinh, thay đổi, chấm dứt quyền, nghĩa vụ dân
sự của các bên kể từ thời điểm giao dịch được xác lập.”
6. Điểm giống nhau và khác nhau giữa đơn phương chấm dứt hợp đồng và hủy bỏ
hợp đồng do có vi phạm.
+ Giống nhau:
- Đều là một bên đơn phương tuyên bố chấm dứt hay hủy bỏ hợp đồng khi có những điều
kiện do các bên thỏa thuận hoặc do pháp luật quy định.
- Bên đơn phương chấm dứt hay hủy bỏ hợp đồng phải có nghĩa vụ báo cho bên kia, nếu
không thông báo mà gây thiệt hại thì phải bồi thường.
- Nếu việc đơn phương chấm dứt hợp đồng hay việc huỷ bỏ hợp bỏ hợp đồng không có
căn cứ quy định theo luật thì bên hủy bỏ hay chấm dứt hợp đồng được xác định là bên vi
phạm nghĩa vụ và phải thực hiện trách nhiệm dân sự theo quy định của bộ luật này, luật
khác có liên quan.
+ Khác nhau:

Đơn phương chấm dứt Huỷ bỏ hợp đồng do


hợp đồng có vi phạm

Căn cứ pháp lý Điều 428 BLDS 2015 Điều 423 BLDS 2015

Căn cứ áp dụng - Khi một bên vi phạm - Do chậm thực hiện


nghiêm trọng nghĩa vụ
13
trong hợp đồng nghĩa vụ
- Do hai bên thỏa thuận - Do không có khả năng
làm
- Do pháp luật quy định
- Do tài sản bị hư hại, bị
hỏng, bị mất

Điều kiện áp dụng - Một bên vi phạm - Một bên vi phạm hợp
nghiêm trọng nghĩa vụ đồng là điều kiện hủy
trong hợp đồng hoặc các bỏ mà các bên đã thỏa
bên có thỏa thuận hoặc thuận
pháp luật có quy định
- Một bên vi phạm
- Không bắt buộc phải nghiêm trọng nghĩa vụ
có sự vi phạm hợp đồng hợp đồng
bởi hai bên có thể thỏa
- Các trường hợp pháp
thuận hoặc do pháp luật
luật có quy định như:
quy định
Chậm thực hiện nghĩa
vụ, hợp đồng không có
khả năng thực hiện, tài
sản bị mất, hư hỏng

Hậu quả pháp lý - Hợp đồng chấm dứt kể - Hợp đồng không có
từ thời điểm bên kia hiệu lực từ thời điểm
nhận được thông báo giao kết, các bên không
chấm dứt. Các bên phải thực hiện nghĩa vụ
không phải tiếp tục thực đã thỏa thuận
hiện nghĩa vụ. Hợp
- Hoàn trả cho nhau
đồng có hiệu lực cho
những gì đã nhận sau
đến thời điểm thông báo
khi trừ đi chi phí
chấm dứt. Hợp đồng
dừng thực hiện và chấm
dứt hiệu lực của hợp
đồng
- Bên đã thực hiện nghĩa
vụ có quyền yêu cầu
bên kia thanh toán phần
nghĩa vụ đã thực hiện

14
7. Ông Minh có được quyền hủy bỏ hợp đồng chuyển nhượng nêu trên không? Vì
sao? Nếu có, nêu rõ văn bản cho phép hủy bỏ.
Theo quy định của pháp luật, ông Minh có quyền huỷ bỏ hợp đồng chuyển nhượng nêu
trên. Vì theo tình huống ông Minh đã thực hiện nghĩa vụ chuyển nhượng mảnh đất theo
hợp đồng chuyển nhượng mà hai bên đã ký trước đó nhưng ông Cường không thực hiện
nghĩa vụ trả tiền cho ông Minh mặc dù ông Minh đã nhiều lần nhắc nhở. Điều này cho
thấy ông Cường đã không thực hiện theo đúng hợp đồng mà hai bên đã ký kết và làm cho
ông Minh không đạt được mục đích của việc giao kết hợp đồng này.
Căn cứ theo điểm b khoản 1 Điều 423 BLDS 2015: “Một bên có quyền hủy bỏ hợp đồng
và không phải bồi thường thiệt hại trong trường hợp bên kia vi phạm nghiêm trọng nghĩa
vụ hợp đồng.”
Như vậy, ông Minh có quyền yêu cầu huỷ bỏ hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng
đất cho ông Cường.

Vấn đề 3: Đứng tên giùm mua bất động sản

* Quyết định số 17/2015/DS-GĐT ngày 19/05/2015 của Hội đồng thẩm phán Tòa án
nhân dân tối cao.

Nguyên đơn: bà Nguyễn Thị Tuệ.


Bị đơn: ông Nguyễn Văn Bình và bà Nguyễn Thị Vân.
Bà Tuệ định cư ở nước ngoài, mua nhà ở Việt Nam và nhờ ông Bình, bà Vân mua và
đứng tên hộ, có giấy cam đoan xác định và có chữ kí của ông Bình, bà Vân. Bà Tuệ yêu
cầu ông Bình trả nhà đất nhưng ông Bình không trả. Bà Tuệ khởi kiện yêu cầu ông Bình
và bà Vân trả lại căn nhà. Tòa án sơ thẩm buộc ông Bình trả nhà nhưng không tính phí
quản lý. Tòa phúc thẩm cho rằng bà Tuệ chỉ có quyền đòi lại số tiền đã đưa ông Bình. Tòa
án tối cao quyết định hủy hai bản án sơ thẩm và phúc thẩm về vụ án “Kiện đòi tài sản” và
yêu cầu xét xử sơ thẩm lại.
1. Việc Tòa án nhân dân tối cao xác định nhà có tranh chấp do bà Tuệ bỏ tiền ra
mua và nhờ ông Bình, bà Vân đứng tên hộ có thuyết phục không? Vì sao?
Việc Toà án nhân dân tối cao xác định nhà có tranh chấp do bà Tuệ bỏ tiền ra mua và nhờ
ông Bình, bà Vân đứng tên hộ có thuyết phục. Thứ nhất, theo lời khai của ông Bình tại
phiên toà sơ thẩm ngày 05/10/2012 thì ông Bình đã khai tiền mua nhà hết 360 chỉ vàng do
bà Tuệ cho ông số tiền này. Thứ hai, tại kết luận giám định số 285/C54 ngày 14/09/2011
của Viện khoa học hình sự Bộ Công an có nội dung chữ viết, chữ ký mang danh ông
Nguyễn Văn Bình trên “Giấy cam đoan xác định tài sản nhà ở” ngày 07/6/2001 và “Giấy
khai nhận tài sản” ngày 09/8/2001 là chữ viết và chữ ký của ông Bình. Thứ ba, tại biên
bản hoà giải ngày 05/10/2010 và ngày 14/10/2010, ông Bình cũng thừa nhận nhà 16-B20
là bà Tuệ cho tiền mua và nhờ bà Vân đứng tên hộ cùng mua; anh Nguyễn xuân Hải là
con ông Bình cũng khẳng định nhà 16-B20 do bà Tuệ mua.

15
2. Ở thời điểm mua nhà trên, bà Tuệ có được đứng tên không? Vì sao?
Ở thời điểm mua nhà trên, bà Tuệ không được đứng tên bởi vì theo quy định của pháp
luật tại thời điểm bà Tuệ mua nhà căn cứ theo Điều 126 Luật nhà ở 2005 và Điều 121
Luật đất đai 2003 thì bà Tuệ đã đáp ứng được một trong các điều kiện ở luật trên. Do đó ở
thời điểm mua nhà trên bà Tuệ không được đứng tên.
3. Ở thời điểm hiện nay, bà Tuệ có được đứng tên mua nhà ở tại Việt Nam không?
Ở thời điểm hiện nay, bà Tuệ được đứng tên mua nhà ở Việt Nam. Theo quy định tại Điều
1 Luật số 34/2009/QH12 ngày 18/6/2009 của Quốc hội về sửa đổi, bổ sung Điều 126 Luật
nhà ở và Điều 121 của Luật đất đai thì bà Tuệ có điều kiện được sở hữu nhà tại Việt Nam.
Bởi vì, theo “giấy chứng nhận” ngày 12/6/2009 của Tổng lãnh sự quán nước Cộng hoà xã
hội chủ nghĩa Việt Nam tại Nhật Bản thì bà Tuệ vẫn có quốc tịch Việt Nam. Chi tiết Điều
1 Luật số 34/2009/QH12 như sau:
“Điều 126. Quyền sở hữu nhà ở tại Việt Nam của người Việt Nam định cư ở nước
ngoài
1. Người Việt Nam định cư ở nước ngoài thuộc các đối tượng sau đây được cơ quan có
thẩm quyền của Việt Nam cho phép cư trú tại Việt Nam từ ba tháng trở lên thì có quyền
sở hữu nhà ở để bản thân và các thành viên trong gia đình sinh sống tại Việt Nam:
a) Người có quốc tịch Việt Nam;
b) Người gốc Việt Nam thuộc diện người về đầu tư trực tiếp tại Việt Nam theo pháp luật
về đầu tư; người có công đóng góp cho đất nước; nhà khoa học, nhà văn hoá, người có
kỹ năng đặc biệt mà cơ quan, tổ chức của Việt Nam có nhu cầu và đang làm việc tại Việt
Nam; người có vợ hoặc chồng là công dân Việt Nam sinh sống ở trong nước.
2. Người gốc Việt Nam không thuộc các đối tượng quy định tại điểm b khoản 1 Điều này
được cơ quan có thẩm quyền của Việt Nam cấp Giấy miễn thị thực và được phép cư trú
tại Việt Nam từ ba tháng trở lên thì có quyền sở hữu một nhà ở riêng lẻ hoặc một căn hộ
chung cư tại Việt Nam để bản thân và các thành viên trong gia đình sinh sống tại Việt
Nam.”
4. Ngày nay, theo Tòa án nhân dân tối cao, bà Tuệ được công nhận quyền sở hữu
nhà trên không? Hướng giải quyết này của Tòa án nhân dân tối cao đã có tiền lệ
chưa?
Ngày nay, theo Toà án nhân dân tối cao, bà Tuệ được công nhận quyền sở hữu nhà trên.
Trong bản án ở phần xét thấy “Theo “giấy chứng nhận” ngày 12/6/2009 của Tổng lãnh sự
quán nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam tại Nhật Bản thì bà Tuệ vẫn có quốc tịch
Việt Nam. Ngày 18/6/2009 bà Tuệ còn được cấp “Giấy miễn thị thực” để bà Tuệ nhập
cảnh Việt Nam nhiều lần đến ngày 18/6/2014, mỗi lần nhập cảnh tạm trú không quá 90
ngày. Theo quy định tại Điều 1 Luật số 34/2009/QH12 ngày 18/6/2009 của Quốc hội về
sửa đổi, bổ sung Điều 126 Luật nhà ở và Điều 121 của luật Đất đai thì bà Tuệ có đủ điều
kiện được sở hữu ở nhà ở tại Việt Nam”

Hướng giải quyết trên của Toà án đã có tiền lệ. Đó là Quyết định số 60/2012/QĐ-GĐT
ngày 06/11/2012 của Hội đồng Thẩm phán Toà án nhân dân tối cao

16
Tóm tắt quyết định: Bà Lá là Việt kiều quốc tịch Pháp nhờ cháu của mình là chị Nhung
đứng tên giùm mua 1 căn nhà. Chị Nhưng đang đứng tên sở hữu căn nhà và đề nghị căn
nhà thuộc sở hữu của chị. Toà án xác định căn nhà do vợ chồng bà Lá mua, buộc chị
Nhung giao trả nhà đất cho bà Lá và yêu cầu xem xét giá trị căn nhà có phần sở hữu của
chị Nhung. Toà án yêu cầu làm rõ vợ chồng bà Lá bán nhà được bao nhiêu tiền sau đó trừ
đi số tiền là giá trịvàng bà Lá đã đưa cho chị Nhung năm 1991, quy vàng ra tiền theo giá
vàng ở thời điểm bà Lá bán nhà năm 2008, khoảng tiền chênh lệch màu chị Nhung và vợ
chồng bà Lá được hưởng ngang nhau
5. Theo Tòa án nhân dân tối cao, phần giá trị chênh lệch giữa số tiền bà Tuệ bỏ ra và
giá trị hiện tại của nhà đất có tranh chấp được xử lý như thế nào?
- Theo Toà án nhân dân tối cao, phần giá trị chênh lệch giữa số tiền bà Tuệ bỏ ra và giá trị
hiện tại của nhà đất có tranh chấp được xử lý như sau: “Vì vậy, trong trường hợp này phải
công nhận cho bà Tuệ được quyền sở hữu nhà 16-B20 và xem xét đến công sức quản lý,
giữ gìn nhà cho gia đình ông Bình trên cơ sở xác định giá nhà đất theo giá thị trường ở
thời điểm xét xử sơ thẩm, trừ đi số tiền mua đất do bà Tuệ bỏ ra, phần giá trị còn lại chia
đôi cho bà Tuệ và ông Bình”.
- Do đó, có thể hiểu rằng phần giá trị chênh lệch giữa số tiền bà Tuệ bỏ ra và giá trị hiện
tại của nhà đất tranh chấp sẽ được chia đôi cho bà Tuệ và ông Bình, sau khi đã trừ đi phí
công sức quản lý, giữ gìn nhà cho ông Bình.
6. Hướng giải quyết trên của Tòa án nhân dân tối cao đã có Án lệ chưa? Nếu có, nêu
Án lệ đó.
- Hướng giải quyết trên của Toà án nhân dân tối cao đã có Án lệ.
- Án lệ số 02/2016/AL Được Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao thông qua
ngày 06 tháng 4 năm 2016 và được công bố theo Quyết định số 220/QĐ-CA ngày 06
tháng 4 năm 2016 của Chánh án Tòa án nhân dân tối cao.
Nguồn án lệ:
- Quyết định giám đốc thẩm số 27/2010/DS-GĐT ngày 08-7-2010 của Hội đồng Thẩm
phán Tòa án nhân dân tối cao về vụ án “Tranh chấp đòi lại tài sản” tại tỉnh Sóc Trăng giữa
nguyên đơn là bà Nguyễn Thị Thảnh với bị đơn là ông Nguyễn Văn Tám; người có quyền
lợi, nghĩa vụ liên quan là bà Nguyễn Thị Yêm.
Khái quát nội dung của án lệ:
- Trường hợp người Việt Nam định cư ở nước ngoài đã bỏ tiền ra để nhận chuyển nhượng
quyền sử dụng đất và nhờ người ở trong nước đứng tên nhận chuyển nhượng quyền sử
dụng đất hộ mình, khi giải quyết tranh chấp thì Tòa án phải xem xét và tính công sức bảo
quản, giữ gìn, tôn tạo làm tăng giá trị quyền sử dụng đất cho người đứng tên hộ; trường
hợp không xác định được chính xác công sức của người đó thì cần xác định người thực
chất trả tiền để nhận chuyển nhượng quyền sử dụng đất và người đứng tên nhận chuyển
nhượng quyền sử dụng đất hộ có công sức ngang nhau để chia phần giá trị chênh lệch
tăng thêm so với tiền gốc nhận chuyển nhượng quyền sử dụng đất ban đầu.

17
7. Suy nghĩ của anh/chị về hướng giải quyết trên của Tòa án nhân dân tối cao.

- Các luận giải của Toà án chưa đầy đủ, chưa rõ ràng, chưa hợp lý. Xem xét các bản án do
Toà án nhân dân các cấp giải quyết có thể nhận thấy, các luận giải của Toà án chưa thực
sự đầy đủ, rõ ràng, thậm chí mâu thuẫn. Nhưng điều khó hiểu là các Toà án lại đưa ra kết
luận như nhau khi giải quyết loại tranh chấp này, cụ thể: hầu như các Toà án đều quy định
chấp nhận yêu cầu đòi tài sản của người “nhờ đứng tên giùm” nếu tại thời điểm xét xử,
người “nhờ đứng tên giùm” đã được phép sở hữu đối với tài sản này. Những trường hợp
chưa được phép sở hữu tài sản “đứng tên giùm” tại Việt Nam, như quyền sử dụng đất
nông nghiệp và các loại đất phi nông nghiệp mà không phải đất ở thì hầu hết các Toà án
đều không chấp nhận yêu cầu đòi tài sản của người “nhờ đứng tên giùm”. Trong trường
hợp này, người “nhờ đứng tên giùm” chỉ có quyền đòi lại số tiền đã chuyển cho “đứng tên
giùm” và được hưởng giá trị tăng thêm từ tài sản này sau khi đã trừ đi phần mà người
“đứng tên giùm” được hưởng. Cách giải quyết mà phần luận giải chưa thấu đáo này đã
làm cho các vấn đề có liên quan đến giao dịch này cũng chưa có lời giải đáp thoả đáng,
như pháp luật có cấm giao dịch đừng tên giùm hay không, trong trường hợp không cấm
thì giao dịch “đứng tên giùm” có hiệu lực khi nào; các bên giao dịch “đứng tên giùm” và
những người liên quan có quyền và nghĩa vụ gì.2

Vấn đề 4: Tìm kiếm tài liệu

Yêu cầu 1: Liệt kê những bài viết liên quan đến pháp luật hợp đồng được công bố
trên các Tạp chí chuyên ngành Luật từ đầu năm 2019 đến nay (ít nhất 20 bài viết).
Khi liệt kê, yêu cầu viết theo trật tự theo tên tác giả và việc liệt kê phải thỏa mãn
những thông tin theo trật tự sau: 1) Họ và tên tác giả, 2) Tên bài viết trong ngoặc
kép, 3) Tên Tạp chí in nghiêng, 4) Số và năm của Tạp chí, 5) Số trang của bài viết (ví
dụ: từ tr. 41-51).
1. Huỳnh Anh, “Quyền tài sản và bảo đảm thực hiện nghĩa vụ trong hợp đồng tín dụng
bằng quyền tài sản”, Tạp chí Nghiên cứu Lập pháp, số 01(499), tháng 01/2022.
2. Huỳnh Anh, “So sánh quy định về biện pháp bảo đảm trong pháp luật Việt Nam và một
số nước trên thế giới”, Tạp chí Dân chủ và Pháp luật, số định kỳ tháng 1 (322)/2019.
3. Hồ Thị Vân Anh, “Một số bất cập trong quy định về chấm dứt hợp đồng theo pháp luật
dân sự Việt Nam, Tạp chí Nghiên cứu Lập pháp, số 2+3/2019.
4. Lương Khải Ân, “Bàn về quy định trần lãi suất 20%/ năm trong quan hệ hợp đồng vay
tài sản”, Tạp chí Khoa học pháp lý Việt Nam – trường Đại học Luật thành phố Hồ Chí
Minh, số 3/2020, tr. 27.

2
Châu Thị Khánh Vân (2018), “Giải quyết tranh chấp liên quan đến giao dịch “đứng tên giùm” - Từ lý luận đến thực
tiễn”, Tạp chí Thực tiễn pháp luật, số 19 (371), tr 55-56.

18
5. Đặng Thái Bình, “Điều kiện áp dụng chế định hợp đồng vì lợi ích của người thứ ba
trong Bộ luật Dân sự Việt Nam – So sánh với pháp luật Nhật Bản”, Tạp chí Khoa học
pháp lý Việt Nam – trường Đại học Luật thành phố Hồ Chí Minh, số 8/2019, tr. 39.
6. Phan Tiến Dũng, “Hợp đồng vi phạm về hình thức trước ngày BLDS năm 2015 có hiệu
lực”, Tạp chí Tòa án, số 08/2022.
7. Nguyễn Võ Linh Giang, “Giải thích hợp đồng theo pháp luật Việt Nam và pháp luật
Pháp”, Tạp chí Nhà nước và Pháp luật, số 7/2019, tr. 26.
8. Hồ Ngọc Hiển, “Pháp luật quốc tế về sự phù hợp của chấp nhận đề nghị giao kết hợp
đồng với đề nghị giao kết hợp đồng và những kiến nghị sửa đổi Bộ luật Dân sự 2015”,
Tạp chí Nghiên cứu Lập pháp, số 5 (381), tháng 3/2019.
9. Hồ Ngọc Hiển - Đỗ Giang Nam, “Một số vấn đề về biện pháp xử lý việc không thực
hiện đúng hợp đồng theo pháp luật Việt Nam”, Tạp chí Nghiên cứu Lập pháp, số 09
(385)/2019.
10. Trần Ngọc Hiệp, “Kiểm soát nội dung hợp đồng theo mẫu theo quy định của pháp luật
dân sự Việt Nam”, Tạp chí Khoa học – trường Đại học Luật Hà Nội, số 07(155)/2022, tr.
76.
11. Nguyễn Văn Hợi – Nguyễn Tài Tuấn Anh, “Quy định của Bộ luật Lao động năm 2019
và Bộ luật Dân sự năm 2015 về hợp đồng”, Tạp chí Nghiên cứu Lập pháp, số 14 (438),
tháng 07/2021.
12. Trần Linh Huân, “Một số vấn đề pháp lý về hợp đồng ủy quyền xác lập, thực hiện
giao dịch bất động sản”, Tạp chí Nhà nước và Pháp luật, số 3/2021, tr.16.
13. Nguyễn Văn Hùng, “Miễn trách nhiệm đối với vi phạm hợp đồng do phải thực hiện
quyết định của cơ quan nhà nước có thẩm quyền”, Tạp chí Nghiên cứu và Lập pháp, số 07
(455), tháng 04/2022.
14. Nguyễn Thị Thanh Huyền, “Bàn về cơ sở tồn tại và vấn đề giới hạn phạm vi áp dụng
của chế tài buộc thực hiện đúng hợp đồng, Tạp chí Nhà nước và Pháp luật, số 3/2021, tr.
52.
15. Vũ Thị Thanh Huyền, “Hoàn thiện pháp luật Việt Nam về hiệu lực của hợp đồng chia
tài sản chung vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân”, số định kỳ tháng 1 (346)/2021.
16. Tưởng Duy Lượng, “Bảo đảm quyền lợi cho người yếu thế trong quan hệ hợp đồng”,
Tạp chí Nghiên cứu Lập pháp, số 21 (397), tháng 11/2019.
17. Lê Thị Thùy Nhi, “Một số hạn chế của quy định pháp luật về hợp đồng mua bán tài
sản hình thành trong tương lai”, Tạp chí Tòa án, số 08/2022.

19
18. Nguyễn Minh Oanh, “Các biện pháp khắc phục do vi phạm hợp đồng theo Bộ nguyên
tắc về luật hợp đồng châu Âu – Giá trị tham khảo cho Việt Nam”, Tạp chí Nhà nước và
Pháp luật, số 9/2019, tr. 36
19. Trương Nhật Quang – Huỳnh Thông, “Ký kết hợp đồng thông qua phương thức điện
tử”, Tạp chí Nghiên cứu Lập pháp, số 10 (410), tháng 5/2020.
20. Nguyễn Thị Thanh Thảo, “Một số vấn đề về phân loại hợp đồng và hợp đồng cộng
đồng”, Tạp chí Dân chủ và Pháp Luật, số định kỳ tháng 4 (325)/2019.
21. Đỗ Phương Thảo, “Bàn về đối tượng của hợp đồng nhượng quyền thương mại trong
pháp luật thương mại Việt Nam”, số định kỳ tháng 6 (339)/2020.
22. Tạ Thị Thùy Trang, “Hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất theo Luật Đất đai
năm 2013 - Bất cập và kiến nghị”, Tạp chí Dân chủ và Pháp Luật, số định kỳ tháng 2
(335)/2020.
23. Phan Vũ, “Hợp đồng thông minh và một số vấn đề pháp lý đặt ra”, Tạp chí Nhà nước
và Pháp Luật, số 5/2021, tr. 39.
Yêu cầu 2: Cho biết làm thế nào để biết được những bài viết trên.
- Để tìm nhưng bài viết trên:
Bước 1: Vào trang web tạp chí liên quan đến pháp luật như: Tạp chí Luật học (Đại học
Luật Hà Nội, Tạp chí Luật học (Đại học Luật Tp. Hồ Chí Minh), Tạp chí Nhà nước và
Pháp Luật, Tạp chí Khoa học Pháp lý…
Bước 2: Vào mục lục của tạp chí qua các số của từng năm.
VD: Mục lục Tạp chí Luật học số 1/2021 của Đại học Luật Hà Nội, Mục lục Tạp chí Luật
học số 2/2021 của Đại học Luật Hà Nội…
Bước 3: Tìm những tạp chí có liên quan đến pháp luật về hợp đồng được công bố từ đầu
năm 2019 đến nay.

20
TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Bộ luật Dân sự 2015.


2. Bản án số 16/2019/DS-PT ngày 19/3/2019 của Tòa án nhân dân tỉnh Quảng Ngãi.
3. Luật Đất đai 2013.
4. Luật Nhà ở 2014.
3. Quyết định số 93/2018/DS-GĐT ngày 29/11/2018 của Toà án nhân dân cấp cao tại Đà
Nẵng.
4. Bản án số 06/2017/KDTM-PT ngày 26/5/2017 của Toà án nhân dân tỉnh Vĩnh Long.
5. Giáo trình Pháp luật về hợp đồng và bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng, Nxb. Hồng
Đức-Hội Luật gia Việt Nam 2017.
6. Quyết định số 17/2015/DS-GĐT ngày 19/05/2015 của Hội đồng thẩm phán Tòa án
nhân dân tối cao.
7. Quyết định số 60/2012/QĐ-GĐT ngày 06/11/2012 của Hội đồng Thẩm phán Toà án
nhân dân tối cao.
8. Châu Thị Khánh Vân (2018), “Giải quyết tranh chấp liên quan đến giao dịch “đứng tên
giùm” - Từ lý luận đến thực tiễn”, Tạp chí Thực tiễn pháp luật, số 19 (371), tr 55-56.
9. Án lệ số 02/2016/AL của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao về vụ án
“Tranh chấp đòi lại tài sản”.

21

You might also like