You are on page 1of 23

TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

KHOA: LUẬT THƯƠNG MẠI

BÀI TẬP THẢO LUẬN 5


Môn học: Những quy định chung về luật dân sự, tài sản và thừa kế

Giáo viên hướng dẫn: Lê Thị Diễm Phương

NHÓM 3

Họ và tên MSSV

Nguyễn Thị Bích Ngọc 2153801011138

Trịnh Khánh Bảo Ngọc 2153801011142

Nguyễn Hồng Ngọc Nhi 2153801011154

Trịnh Cao Vân Quyên 2153801011176

Võ Đoàn Huệ Thanh 2153801011194

1
Vấn đề 1: Di sản thừa kế .................................................................................................... 4
Tóm tắt Bản án số 08/2020/DSST ngày 28/8/2020 của Tòa án Nhân dân thành phố Vĩnh Yên tỉnh
Vĩnh Phúc ................................................................................................................................................ 4

Tóm tắt Án lệ số 16/2017/AL ................................................................................................................... 4

1.1. Di sản là gì và có bao gồm cả nghĩa vụ của người quá cố không? Nêu cơ sở pháp lý khi trả lời 5

1.2. Khi tài sản do người quá cố để lại ở thời điểm mở thừa kế bị thay thế bởi một tài sản mới sau đó
thì tài sản mới có là di sản không? Vì sao? ............................................................................................ 6

1.3. Để được coi là di sản, theo quy định pháp luật, quyền sử dụng đất của người quá cố có cần phải
đã được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất không? Nêu cơ sở pháp lý khi trả lời. ................... 6

1.4. Trong Bản án số 08, Tòa án có coi diện tích đất tăng 85,5m2 chưa được cấp giấy chứng nhận
quyền sử dụng đất là di sản không? Đoạn nào của bán án có câu trả lời? .......................................... 7

1.5. Suy nghĩ của anh/chị về hướng xử lý nêu trên của Tòa án trong Bản án số 08 về diện tích đất
chưa được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất. ............................................................................ 7

1.6. Ở Án lệ số 16/2017/AL, trong diện tích 398m2 đất, phần di sản của Phùng Văn N là bao nhiêu?
Vì sao? ...................................................................................................................................................... 8

1.7. Theo án lệ trên, phần diện tích đất chuyển nhượng cho ông Phùng Văn K có được coi là di sản
để chia không? Vì sao? ........................................................................................................................... 8

1.8. Suy nghĩ của anh/chị về hướng giải quyết trong Án lệ trên liên quan đến phần diện tích đã
chuyển nhượng cho ông Phùng Văn K. ................................................................................................. 8

1.9. Nếu bà Phùng Thị G bán đất trên không để lo cho cho cuộc sống của các con mà dùng tiền đó
cho cá nhân bà Phùng Thị G thì số tiền đó có được coi là di sản để chia không? Vì sao? ................. 9

1.10. Ở thời điểm bà Phùng Thị G chết, di sản của bà Phùng Thị G trong diện tích đất là bao nhiêu?
................................................................................................................................................................ 10

1.11. Việc Tòa án xác định phần còn lại của di sản bà Phùng Thị G là 43,5m2 có thuyết phục
không? Vì sao? Đây có là nội dung của Án lệ số 16 không? Vì sao? ................................................. 10

1.12. Việc Tòa án quyết định “còn lại là 43,5m2 được chia cho 5 kỷ phần còn lại” có thuyết phục
không? Vì sao? Đây có là nội dung của Án lệ số 16 không? Vì sao? ................................................. 11

Vấn đề 2: Quản lý tài sản ................................................................................................. 11


Tóm tắt Bản án số 11/2020/DS-PT ngày 10/6/2020 của Tòa án nhân dân tỉnh Sơn La. ................... 11

2
Tóm tắt Quyết định số 147/2020/DS-GĐT ngày 09/7/2020 của Tòa án nhân dân cấp cao tại TP. Hồ
Chí Minh. ............................................................................................................................................... 11

2.1. Trong Bản án số 11, Tòa án xác định ai là người có quyền quản lý di sản của ông Đ và bà T;
việc xác định như vậy có thuyết phục không, vì sao? .......................................................................... 12

2.2. Trong Bản án số 11, ông Thiện trước khi đi chấp hành án có là người quản lý di sản không?
Nêu cơ sở pháp lý khi trả lời. ................................................................................................................ 13

2.3. Trong Bản án số 11, việc Tòa án giao cho anh Hiếu (Tiến H) quyền quản lý di sản có thuyết
phục không? Nêu cơ sở pháp lý khi trả lời........................................................................................... 13

2.4.Khi là người quản lý di sản, người quản lý di sản có quyền tôn tạo, tu sửa lại di sản như trong
Bản án số 11 không? Nêu cơ sở pháp lý khi trả lời. ............................................................................ 14

2.5. Khi là người quản lý di sản, người quản lý di sản có quyền giao lại cho người khác quản lý di
sản (như trong Bản án số 11 là ông Thiện giao lại cho con trai) không? Nêu cơ sở pháp lý khi trả
lời............................................................................................................................................................ 15

2.6.Trong Quyết định số 147, Tòa án xác định người quản lý không có quyền tự thỏa thuận mở lối
đi cho người khác qua di sản có thuyết phục không? Nêu cơ sở pháp lý khi trả lời. ......................... 15

Vấn đề 3: Thời hiệu trong lĩnh vực thừa kế ................................................................... 16


Tóm tắt án lệ số 26/2018/AL ................................................................................................................. 16

3.1. Cho biết các loại thời hiệu trong lĩnh vực thừa kế ở Việt Nam. .................................................. 17

3.2. Pháp luật nước ngoài có áp đặt thời hiệu đối với yêu cầu chia di sản không? .......................... 18

3.3. Thời điểm mở thừa kế đối với di sản của cụ T là năm nào? Đoạn nào của Quyết định tạo lập
thành Án lệ số 26/2018/AL cho câu trả lời? ......................................................................................... 18

3.4. Việc Án lệ số 26/2018/AL áp dụng thời hiệu 30 năm của BLDS 2015 cho di sản của cụ T có cơ
sở văn bản nào không? Có thuyết phục không? Vì sao? ..................................................................... 19

3.5. Việc Án lệ số 26/2018/AL áp dụng thời hiệu 30 năm của BLDS 2015 cho di sản của cụ T với
thời điểm bắt đầu từ thời điểm Pháp lệnh thừa kế năm 1990 được công bố có cơ sở văn bản nào
không? Có thuyết phục không? Vì sao? ............................................................................................... 19

3.6. Suy nghĩ của anh/chị về Án lệ số 26/2018/AL nêu trên. ............................................................... 20

Vấn đề 4: Tìm kiếm tài liệu ............................................................................................. 20

Danh mục tài liệu tham khảo .......................................................................................... 23

3
Vấn đề 1: Di sản thừa kế
Tóm tắt Bản án số 08/2020/DSST ngày 28/8/2020 của Tòa án Nhân dân thành phố Vĩnh
Yên tỉnh Vĩnh Phúc

Nguyên đơn: ông Trần Văn Hòa; bị đơn là anh Trần Hoài Nam và chị Trần Thanh Hương.
Ông Trần Văn Hòa và bà Cao Thị Mai lấy nhau năm 1980, có hai người con chung là anh
Trần Hoài Nam và chị Trần Thanh Hương. Bà Mai mất năm 2017, khi chết không để lại di
chúc. Khối tài sản chung của ông Hòa và bà Mai gồm: một ngôi nhà 3 tầng, sân tường bao
quanh và một lán hàng xây dựng năm 2006, trên diện tích đất 169,5m (diện tích được cấp
2

giấy chứng nhận quyền sử dụng đất là 84m , 85,5m chưa được cấp giấy chứng nhận quyền
2 2

sử dụng đất nhưng đã được sử dụng ổn định, ranh giới rõ ràng, không có tranh chấp, đất
không thuộc diện quy hoạch phải di dời). Tài sản các đương sự có tranh chấp bao gồm:
Tiền nhà và tiền lán bán hàng từ tháng 3.2018 đến thời điểm xét xử do ông Hòa quản lý;
tiền cho thuê lán bán hàng của năm 2017, 2018 do chị Hương quản lý. Ông Hòa yêu cầu
Tòa án phân chia di sản thừa kế của bà Mai theo quy định của pháp luật. Tòa án bác bỏ đề
nghị của anh Nam và chị Hương về việc xác định diện tích 85,5m chưa được cấp giấy
2

chứng nhận quyền sử dụng đất là tài sản chung của gia đình nhưng thực chất là tài sản
chung của ông Hòa và bà Mai. Tòa sơ thẩm chấp nhận đơn yêu cầu chia thừa kế theo pháp
luật của ông Hòa và yêu cầu anh Nam và chị Hương phải chịu án phí dân sự sơ thẩm theo
quy định của pháp luật.

Tóm tắt Án lệ số 16/2017/AL


Nguyên đơn : chị Phùng Thị H1, chị Phùng Thị N1, chị Phùng Thị H2, chị Phùng Thị P. Bị
đơn: Phùng Văn T. Người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan: Phùng Thị H3, Phùng Thị
N2.

Năm 1991, bà Phùng Thị G chuyển nhượng cho ông Phùng Văn K diện tích 131m2 trong
tổng diện tích 398m2 của thửa đất trên; phần diện tích đất còn lại của thửa đất là 267,4m2.
Năm 1999 bà Phùng Thị G đã được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, diện tích
267,4m2, bà Phùng Thị G cùng vợ chồng anh Phùng Văn T vẫn quản lý sử dụng nhà đất

4
này. Việc bà Phùng Thị G chuyển nhượng đất cho ông Phùng Văn K các con bà Phùng Thị
G đều biết, nhưng không ai có ý kiến phản đối gì, các con của bà Phùng Thị G có lời khai
bà Phùng Thị G bán đất để lo cuộc sống của bà và các con. Nay ông Phùng Văn K cũng đã
được cơ quan nhà nước cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất. Vì vậy, có cơ sở để xác
định các con bà Phùng Thị G đã đồng ý để bà Phùng Thị G chuyển nhượng diện tích 131m2
nêu trên cho ông Phùng Văn K. Tòa án cấp phúc thẩm không đưa diện tích đất bà Phùng
Thị G đã bán cho ông Phùng Văn K vào khối tài sản để chia là có căn cứ. Tòa án cấp sơ
thẩm xác định di sản là tổng diện tích đất 398m2 (bao gồm cả phần đất đã bán cho ông
Phùng Văn K) để chia là không đúng. Quyết định số 573/2013/DS-GĐT ngày 16-12-2013
của Tòa Dân sự Tòa án nhân dân tối cao: Hủy toàn bộ Bản án dân sự phúc thẩm số
06/2012/DSPT ngày 23-02-2012 của Tòa án nhân dân tỉnh Vĩnh Phúc và Bản án dân sự sơ
thẩm số 11/2011/DS-ST ngày 04-10-2011 của Tòa án nhân dân thành phố Vĩnh Yên, tỉnh
Vĩnh Phúc về vụ án “Tranh chấp thừa kế tài sản” giữa nguyên đơn chị Phùng Thị H1, chị
Phùng Thị N1, chị Phùng Thị H2, chị Phùng Thị P với bị đơn là anh Phùng Văn T và người
có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan gồm chị Phùng Thị N2, chị Phùng Thị H3. Giao hồ sơ cho
Tòa án nhân dân thành phố Vĩnh Yên, tỉnh Vĩnh Phúc xét xử sơ thẩm lại theo quy định của
pháp luật.

1.1. Di sản là gì và có bao gồm cả nghĩa vụ của người quá cố không? Nêu cơ sở pháp lý
khi trả lời

Theo Điều 612 Bộ luật Dân sự năm 2015 thì: “Di sản bao gồm tài sản riêng của người chết,
phần tài sản của người chết trong tài sản chung với người khác”.

Việc xác định di sản thừa kế có 3 cách hiểu khác nhau: di sản thừa kế bao gồm tài sản và
các nghĩa vụ về tài sản của người chết để lại; di sản thừa kế bao gồm tài sản và nghĩa vụ tài
sản của người chết trong phạm vi di sản để lại; di sản thừa kế chỉ là các tài sản của người
chết để lại sau khi đã thanh toán các nghĩa vụ tài sản của người chết. Tuy nhiên, theo Điều
162 BLDS 2015 thì di sản không bao gồm cả nghĩa vụ của người quá cố. Trước khi chia di
sản, những người thừa kế phải thanh toán các nghĩa vụ của người chết để lại xong còn lại
mới phân chia. Việc thực hiện nghĩa vụ không phải với tư cách là chủ thể của nghĩa vụ do
5
họ xác lập mà thực hiện các nghĩa vụ của người chết để lại bằng chính tài sản của người
chết.

1.2. Khi tài sản do người quá cố để lại ở thời điểm mở thừa kế bị thay thế bởi một tài sản
mới sau đó thì tài sản mới có là di sản không? Vì sao?

Khi tài sản do người quá cố để lại ở thời điểm mở thừa kế bị thay thế bởi một tài sản mới
sau đó thì tài sản mới có thể được xem là di sản.

Căn cứ vào khoản 1 Điều 611 BLDS năm 2015: “Thời điểm mở thừa kế là thời điểm người
có tài sản chết. Trong trường hợp Tòa án tuyên bố một người đã chết thì thời điểm mở thừa
kế là ngày được xác định theo khoản 2 Điều 71 của Bộ luật này” và Điều 612 BLDS 2015:
“Di sản bao gồm tài sản riêng của người chết, phần tài sản của người chết trong tài sản
chung với người khác”.

Theo căn cứ ở trên, thì tài sản do người quá cố để lại ở thời điểm mở thừa kế bị thay thế
bởi một tài sản mới sau đó thì tài sản mới không được xem là di sản nhưng căn cứ vào
những tình huống thực tế thì vẫn được xem là di sản vì những nguyên nhân như: di sản có
thể tham gia vào một giao dịch dân sự như mua, bán, trao đổi để lấy một tài sản khác; di
sản bị hư hỏng do nguyên nhân khách quan như bão, lũ, cháy,... và được thay thế bằng một
tài sản mới. Việc xem tài sản mới thay thế phần tài sản so người khác để lại là di sản để
chia thừa kế giúp đảm bảo được quyền lợi của các bên liên quan.

1.3. Để được coi là di sản, theo quy định pháp luật, quyền sử dụng đất của người quá cố
có cần phải đã được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất không? Nêu cơ sở pháp lý
khi trả lời.

Căn cứ vào Điều 612 BLDS 2015: “Di sản bao gồm tài sản riêng của người chết, phần tài
sản của người chết trong tài sản chung với người khác” thì để được xem là di sản, trước hết
tài sản đó phải là tài sản của người chết lúc còn sống.

Căn cứ vào khoản 16 Điều 3 Luật Đất đai 2013: “Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất,
quyền sở hữu nhà ở và tài sản gắn liền với đất là chứng thư pháp lý để Nhà nước xác nhận
quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và quyền sở hữu tài sản khác gắn liền với đất” và
Điều 168 Luật Đất đai 2013: “Người sử dụng đất được thực hiện các quyền chuyển nhượng,
6
cho thuê, cho thuê lại, tặng cho, thế chấp, góp vốn quyền sử dụng đất khi có Giấy chứng
nhận”. Như vậy, quyền sử dụng đất của người quá cố cần phải đã được cấp giấy chứng
nhận quyền sử dụng đất. Khi đó, di sản đó mới được Nhà nước công nhận về mặt pháp lý
và người thừa kế mới có đủ quyền và nghĩa cụ của người sử dụng đất.

1.4. Trong Bản án số 08, Tòa án có coi diện tích đất tăng 85,5m chưa được cấp giấy
2

chứng nhận quyền sử dụng đất là di sản không? Đoạn nào của bán án có câu trả lời?

Trong Bản án số 08, Tòa án coi diện tích đất tăng 85,5m chưa được cấp giấy chứng
2

nhận quyền sử dụng đất là di sản. Được thể hiện qua đoạn: “Tại phiên tòa đại diện, Viện
kiểm sát nhận định và lập luận cho rằng không được coi là di sản thừa kế…Gia đình ông
Hòa đã xây dựng ngôi nhà 3 tầng, sân và lán bán hàng trên một phần diện tích đất chưa
được cấp giấy chứng nhận; diện tích đất này được hộ ông Hòa quản lý, sử dụng ổn định
nhiều năm nay, các hộ liền kề đã xây dựng mốc giới rõ ràng, không có tranh chấp, không
thuộc diện đất quy hoạch phải di dời, vị trí đất tăng nằm tiếp giáp với phía trước ngôi nhà
và lán hàng của hộ ông Hòa, giáo đường Nguyễn Viết Xuân, đất thuộc diện được cấp giấy
chứng nhận sau khi thực hiện nghĩa vụ nộp thuế, tiền thuế là 19.000.000đ/m . Do đó, đây
2

vẫn là tài sản của ông Hòa, bà Mai, chỉ có điều là đương sự phải thực hiện nghĩa vụ thuế
đối với Nhà nước, nếu không xác định là di sản thừa kế và phân chia thì sẽ ảnh hưởng đến
quyền và lợi ích hợp pháp của các bên đương sự. Phần đề nghị này của đại diện Viện kiểm
sát không được Hội đồng xét xử chấp nhận.”

1.5. Suy nghĩ của anh/chị về hướng xử lý nêu trên của Tòa án trong Bản án số 08 về
diện tích đất chưa được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất.

Hướng xử lý của Tòa án trong Bản án số 08 về diện tích đất chưa được cấp giấy chứng
nhận quyền sử dụng đất là hợp lý và thuyết phục. Tòa án đã xem phần diện tích đất 85,5m2
là di sản mặc dù theo quy định của pháp luật (Điều 162 BLDS năm 2015) thì không phải là
di sản vì chưa có giấy chứng nhận quyền sở hữu đất. Tuy nhiên, trong hoàn cảnh phần đất
đó đã được hộ ông Hòa sử dụng ổn định, các hộ liền kề không tranh chấp thì việc xem phần
đất trên là di sản thừa kế giúp bảo vệ quyền loại của các bên được hưởng thừa kế.

7
1.6. Ở Án lệ số 16/2017/AL, trong diện tích 398m đất, phần di sản của Phùng Văn N là
2

bao nhiêu? Vì sao?

Ở án lệ số 16/2017/AL, trong diện tích 398m đất, phần di sản của Phùng Văn N là 133,5m .
2 2

Vì trong tổng diện tích 398m đất thì đã chuyển nhượng cho ông Phùng Văn K, còn 267m
2 2

đất là tài sản chung của vợ chồng ông N và bà G, nên khi chia thừa kế, phần tài sản ấy được
chia đôi cho mỗi người là 133,5m .2

1.7. Theo án lệ trên, phần diện tích đất chuyển nhượng cho ông Phùng Văn K có được
coi là di sản để chia không? Vì sao?

Theo Án lệ trên thì phần diện tích đất chuyển nhượng cho ông K không được coi là di sản
để chia qua việc ghi nhận: “Tòa án cấp phúc thẩm không đưa diện tích đất bà Phùng Thị
G bán cho ông Phùng Văn K vào khối tài sản để chia là có căn cứ”.

Việc bà G chuyển nhượng đất các con bà đều biết và không ai có ý kiến gì. Số tiền thu được
từ việc chuyển nhượng được dùng để lo cuộc sống cho bà G và các con. Ông K đã được cơ
quan nhà nước cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất.

Vì vậy, có cơ sở để xác định các con bà G đã đồng ý để bà chuyển nhượng diện tích
131m đất cho ông K.
2

1.8. Suy nghĩ của anh/chị về hướng giải quyết trong Án lệ trên liên quan đến phần
diện tích đã chuyển nhượng cho ông Phùng Văn K.

Hướng giải quyết trong Án lệ trên là khá thỏa đáng.

Thứ nhất, năm 1984, ông Phùng Văn N qua đời và không để lại di chúc cũng như thỏa
thuận khác thì phần di sản của ông phải được phân chia theo pháp luật dựa trên điểm a
khoản 1 Điều 650 BLDS 2015. Căn cứ vào điểm a khoản 1 điều 651 BLDS 2015 thì vợ
cùng con chung của ông N đều thuộc hàng thừa kế thứ nhất và có quyền thừa hưởng phần
di sản mà ông để lại. Cụ thể, phần di sản này là khối tài sản chung của vợ chồng ông
(133.5m đất). Do đó, việc Tòa án xác định di sản của ông N như trên là hoàn toàn hợp lý.
2

Thứ hai, sau khi ông N mất thì bà G đã bán cho ông K 131m đất trên tổng số 398m đất là
2 2

tài sản chung của vợ chồng bà để lo cho cuộc sống các con. Hơn nữa, các con của bà G

8
biết việc này mà không có ý kiến thì xem như đã đồng ý với việc chuyển nhượng. Hướng
giải quyết này của Tòa án là thỏa đáng do Tòa không chỉ bảo vệ quyền lợi của các đồng
thừa kế mà còn bảo vệ cả quyền lợi của người mua ngay tình là ông K. Di sản ông N để
lại dù có bao gồm phần đất 131m đã bán cho ông K nhưng đã bị thay thế bởi khoản tiền
2

thu được từ giao dịch chuyển nhượng giữa bà G và ông K. Số tiền này được hình thành
trên nền tảng của di sản cũ (phần diện tích đất 131m ) và được sử dụng vì lợi ích của
2

chính các đồng thừa kế nên nên có thể được xem là di sản để chia cho các đồng thừa kế.
Trong trường hợp này, các đồng thừa kế đều được hưởng lợi từ khoản tiền trên nên có thể
được xem như đã chia thừa kế ứng với phần di sản này.

1.9. Nếu bà Phùng Thị G bán đất trên không để lo cho cho cuộc sống của các con mà
dùng tiền đó cho cá nhân bà Phùng Thị G thì số tiền đó có được coi là di sản để chia
không? Vì sao?

Nếu bà Phùng Thị G bán đất trên không để lo cho cho cuộc sống của các con mà dùng tiền
đó cho cá nhân bà Phùng Thị G thì số tiền đó không được coi là di sản để chia.

Thứ nhất, xét phần tài sản chung của vợ chồng bà G và ông N là 398m đất, sau khi ông N
2

mất mà không để lại di chúc hay thỏa thuận khác thì tài sản chung của hai vợ chồng sẽ được
chia đôi là 196 m đất theo quy định của điều 33 và điều 66 Luật Hôn nhân và Gia đình năm
2

2014. Bà G và các con chung của hai vợ chồng đều thuộc hàng thừa kế hàng thứ nhất theo
quy định tại điểm a khoản 1 Điều 651 BLDS năm 2015 nên họ sẽ được chia thừa kế như
nhau, có quyền ngang nhau đối với phần di sản do ông N để lại.

Thứ hai, nếu bà G tự ý bán 131m đất cho Ông K mà không có sự đồng ý của các con của
2

bà và sử dụng phần tiền vì mục đích cá nhân cho riêng mình thì có thể xem bà G đã bán
một phần đất thuộc phần của mình trong khối tài sản chung của hai vợ chồng (196m ). Việc
2

mua bán này sẽ không làm ảnh hưởng đến phần tài sản mà các đồng thừa kế khác được
hưởng và di sản của ông N (196m ) sẽ được chia đều cho bà và các con.
2

Điều này là hoàn toàn hợp lý do bà G có quyền định đoạt phần tài sản của mình trong khối
tài sản chung. Hơn nữa, phần tiền thu được từ giao dịch không được sử dụng vì lợi ích của
các đồng thừa kế khác nên không thể xem như đã chia thừa kế ứng với phần di sản này.

9
Tuy nhiên, suy cho cùng thì Tòa án đã giải quyết một cách khá “hợp tình”. Trái ngược với
quan điểm của Viện Kiểm sát, Tòa án cho rằng căn nhà đã được hai cố chia cho cụ Hy trước
thời điểm mở thừa kế nên không được coi là di sản. Tòa án đã ghi nhận tâm niệm của hai
cố qua việc tạo dựng cơ ngơi cho hai con nhưng do cụ Hy sống chung với cha mẹ nên
không được ghi nhận về mặt giấy tờ. Hơn nữa, cụ Hy đã có công phụng dưỡng không chỉ
cha mẹ mà còn chăm sóc cả bác ruột và em ruột bị bệnh tâm thần trong suốt một thời gian
dài ở tại căn nhà này. Hơn nữa, cụ Tri khi còn sống cũng không hề có bất cứ động thái nào
phản đối việc cụ Hy chiếm hữu, xây dựng lại căn nhà này mà chỉ đến đời con cụ Tri mới
xảy ra tranh chấp. Việc Tòa án đưa ra hướng giải quyết này sẽ tạo nên sự công bằng cho
các con khi nhận phần thừa kế từ cha mẹ và đồng thời thể hiện phần nào ý niệm của cha
mẹ khi còn sống.

1.10. Ở thời điểm bà Phùng Thị G chết, di sản của bà Phùng Thị G trong diện tích đất
là bao nhiêu?

Ở thời điểm bà G chết, di sản của bà G trong diện tích đất là ½ diện tích đất chung còn lại
của hai vợ chồng bà sau khi bán cho ông K 131m , tức là 133,5m ứng với ½ của 267m .
2 2 2

Điều này đã được ghi nhận trong bản án: “Do đó, phần di sản của bà Phùng Thị G để lại là
½ khối tài sản (133,5m ) được chia theo di chúc…”
2

1.11. Việc Tòa án xác định phần còn lại của di sản bà Phùng Thị G là 43,5m có thuyết
2

phục không? Vì sao? Đây có là nội dung của Án lệ số 16 không? Vì sao?

Việc Tòa án quyết định phần còn lại của di sản bà G là 43,5m để chia thừa kế theo pháp
2

luật là thuyết phục vì:

Thứ nhất, bà G trước khi qua đời có để lại di chúc định đoạt phần 90m trong khối tài sản
2

133,5m cho chị H1 và di chúc này đã được xem là hợp pháp theo Điều 630 BLDS 2015
2

nên đương nhiên phải tôn trọng ý chí của bà.

Thứ hai, bà G chỉ định đoạt một phần tài sản của mình nên áp dụng điểm a khoản 2 Điều
650 BLDS 2015 thì phần còn lại (43,5m ) sẽ được chia thừa kế theo pháp luật.
2

10
Đây không phải là nội dung của Án lệ 16 vì Án lệ này có nội dung xoay quanh việc công
nhận hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất là di sản thừa kế do một trong các đồng
thừa kế chuyển nhượng.

1.12. Việc Tòa án quyết định “còn lại là 43,5m được chia cho 5 kỷ phần còn lại” có
2

thuyết phục không? Vì sao? Đây có là nội dung của Án lệ số 16 không? Vì sao?

Việc Tòa án quyết định còn lại 43,5m được chia cho 5 kỷ phần còn lại là thuyết phục vì:
2

Thứ nhất, bà G để lại di chúc nhưng chỉ định đoạt một phần tài sản là 90m đất cho chị H1
2

và không đề cập đến 5 người con còn lại cùng với 43,5m . Áp dụng điểm a khoản 2 Điều
2

650 BLDS 2015 thì 5 người con này sẽ được chia 43,5m theo pháp luật.
2

Thứ hai, 5 người con còn lại đều thuộc hàng thừa kế thứ nhất theo quy định tại điểm a
khoản 1 Điều 651 BLDS 2015 nên được hưởng phần di sản bằng nhau ứng với 5 kỷ phần.

Đây không phải là nội dung của Án lệ 16 vì Án lệ này có nội dung về việc công nhận hợp
đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất là di sản thừa kế do một trong các đồng thừa kế
chuyển nhượng.

Vấn đề 2: Quản lý tài sản


Tóm tắt Bản án số 11/2020/DS-PT ngày 10/6/2020 của Tòa án nhân dân tỉnh Sơn La.

Nguyên đơn là anh Phạm Tiến H kiện bị đơn là anh Phạm Tiến N. Bố mẹ của anh Phạm
Tiến H là ông Đ, bà T khi sống có tạo dựng được một khối tài sản. Khi ông Đ và bà T chết,
anh Hiệu được các chị em trong gia đình ủy quyền tu sửa, tôn tạo ngôi nhà thì bị đơn là anh
Phạm Tiến N, là cháu của ông Đ và bà T, không có làm với lý do anh Nghĩa được bố là
Phạm Tiến T giao cho quản lý khối di sản này. Do đó, anh Hiệu đã khởi kiện. Tòa án quyết
định giao cho anh Phạm Tiến H được quyền quản lý di sản thừa kế của ông Đ, bà T.

Tóm tắt Quyết định số 147/2020/DS-GĐT ngày 09/7/2020 của Tòa án nhân dân cấp cao
tại TP. Hồ Chí Minh.

Nguyên đơn là ông Trà Văn Đạm, bị đơn là ông Phạm Văn Sơn Nhỏ. Giữa ông Đạm và
ông Nhỏ có thỏa thuận cho ông Đạm mở một lối đi từ đât ông Đạm qua đất ông Ngót đến
đường dall công cộng mà chưa có sự đồng ý của gia đình ông Nhỏ. Ông Nhỏ cho ông Đạm,
11
bà É sử dụng lối đi đến hết đời, không đồng ý việc ông Đạm xin mở lối đi mãi mãi. Tòa án
sơ thẩm chấp nhận yêu cầu của ông Đạm. Tòa án phúc thẩm không đồng ý kháng cáo của
ông Nhỏ. Giám đốc thẩm hủy bản án phúc thẩm, giao lại cho tỉnh Tiền Giang xét xử phúc
thẩm lại.

2.1. Trong Bản án số 11, Tòa án xác định ai là người có quyền quản lý di sản của ông
Đ và bà T; việc xác định như vậy có thuyết phục không, vì sao?

Trong Bản án số 11/2020/DS-PT ngày 10/6/2020 của Tòa án nhân dân tỉnh Sơn La, Tòa án
xác định anh Phạm Tiến H được quyền quản lý di sản thừa kế của ông Đ và bà T, cụ thể
trong phần “Quyết định”: “Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của anh Phạm Tiến H. Giao cho
anh Phạm Tiến H được quyền quản lý di sản thừa kế của ông Phạm Tiến Đ và bà Đoàn Thị
T gồm nhà, đất và tài sản trên đất mang tên bà Đoàn Thị T số 0010/QSDĐ/323/QĐUB do
UBND huyện M cấp ngày 02/4/2004 tại Tiểu khu C, thị trấn nông trường M, huyện M, tỉnh
Sơn La. (Có sơ đồ trích đo hiện trạng khu đất kèm theo).”

Tòa án xác định như vậy là hợp lý.

Vì lý do sau, các đương sự đều thừa nhận anh Phạm Tiến H thuộc hàng thừa kế thứ nhất
của ông Đ và bà T. Ông Đ và bà T chết không để lại di chúc nên anh Hiệu có các quyền và
nghĩa vụ tài sản do người chết để lại theo quy định tại Điều 636 BLDS 2005 về Thời điểm
phát sinh quyền và nghĩa vụ của người thừa kế: “Kể từ thời điểm mở thừa kế, những người
thừa kế có các quyền, nghĩa vụ tài sản do người chết để lại”. Trong đó quyền quản lý di
sản thừa kế được quy định tại Điều 616 BLDS 2015 về Người quản lý tài sản:

“1. Người quản lý di sản là người được chỉ định trong di chúc hoặc do những người thừa
kế thỏa thuận cử ra.

2. Trường hợp di chúc không chỉ định người quản lý di sản và những người thừa kế chưa
cử được người quản lý di sản thì người đang chiếm hữu, sử dụng, quản lý di sản tiếp tục
quản lý di sản đó cho đến khi những người thừa kế cử được người quản lý di sản…”

Trong quá trình giải quyết vụ án, ngoài ông Thiện, những người còn lại ở hàng thừa kế thứ
nhất đều nhất trí giao cho anh Phạm Tiến H quản lý khối di sản của ông Đ và bà T. Các
anh, chị, em trong gia đình (ông bà Hiệu, Liền, Nhi, Nhường, Hoài, Hài) đều có đủ năng
12
lực hành vi dân sự, quyết định dựa trên cơ sở hoàn toàn tự nguyện, không bị lừa dối, ép
buộc, không vi phạm điều cấm của pháp luật và không trái với đạo đức xã hội. Do đó, việc
Tòa án cấp sơ thẩm giao quyền quản lý di sản cho anh Phạm Tiến H là phù hợp.

2.2. Trong Bản án số 11, ông Thiện trước khi đi chấp hành án có là người quản lý di
sản không? Nêu cơ sở pháp lý khi trả lời.

Trong Bản án số 11/2020/DS-PT ngày 10/6/2020 của Tòa án nhân dân tỉnh Sơn La, ông
Thiện trước khi đi chấp hành án là người quản lý di sản. Cụ thể, trong “Nhận định của Tòa
án”: “Năm 2012, sau khi bà T chết, ông Thiện là người đang trực tiếp sinh sống tại nhà và
đất, tiếp tục quản lý di sản ông bà Đ T.”

Căn cứ theo Khoản 2 Điều 616 BLDS 2015: “Trường hợp di chúc không chỉ định người
quản lý di sản và những người thừa kế chưa cử được người quản lý di sản thì người đang
chiếm hữu, sử dụng, quản lý di sản tiếp tục quản lý di sản đó cho đến khi những người thừa
kế cử được người quản lý di sản…”

2.3. Trong Bản án số 11, việc Tòa án giao cho anh Hiếu (Tiến H) quyền quản lý di sản
có thuyết phục không? Nêu cơ sở pháp lý khi trả lời.

Trong Bản án số 11/2020/DS-PT ngày 10/6/2020 của Tòa án nhân dân tỉnh Sơn La, Tòa án
giao cho anh Phạm Tiến H quyền quản lý di sản là có thuyết phục.

Căn cứ vào Điều 616 BLDS 2015 về Người quản lý tài sản:

“1. Người quản lý di sản là người được chỉ định trong di chúc hoặc do những người thừa
kế thỏa thuận cử ra.

2. Trường hợp di chúc không chỉ định người quản lý di sản và những người thừa kế chưa
cử được người quản lý di sản thì người đang chiếm hữu, sử dụng, quản lý di sản tiếp tục
quản lý di sản đó cho đến khi những người thừa kế cử được người quản lý di sản…”

Trong quá trình giải quyết vụ án, ngoài ông Thiện, những người còn lại ở hàng thừa kế thứ
nhất đều nhất trí giao cho anh Phạm Tiến H quản lý khối di sản của ông Đ và bà T. Các
anh, chị, em trong gia đình (ông bà Hiệu, Liền, Nhi, Nhường, Hoài, Hài) đều có đủ năng
lực hành vi dân sự, quyết định dựa trên cơ sở hoàn toàn tự nguyện, không bị lừa dối, ép

13
buộc, không vi phạm điều cấm của pháp luật và không trái với đạo đức xã hội. Do đó, việc
Tòa án cấp sơ thẩm giao quyền quản lý di sản cho anh Phạm Tiến H là phù hợp.

Hơn nữa, anh Phạm Tiến T tuy là con trai trưởng trong nhà và là người đang tiếp tục sinh
sống tại nhà và đất, tiếp tục quản lý di sản của ông bà Đ T sau khi ông bà Đ T mất nhưng
anh Phạm Tiến T đang trong quá trình chấp hành án. Anh T có ủy quyền cho con trai là bị
đơn Phạm Tiến N trước khi chấp hành án nhưng theo Khoản 1 Điều 616 BLDS 2015 quy
định: "Người quản lý di sản là người được chỉ định trong di chúc hoặc do những người
thừa kế thỏa thuận cử ra.” và giấy ủy quyền cho con trai Phạm Tiến N của ông Phạm Tiến
T không có giá trị pháp lý, không phải là cơ sở để phát sinh quyền quản lý tài sản của anh
Phạm Tiến N đối với di sản của ông bà Đ T.

Vì những cơ sở trên, Tòa án quyết định giao cho anh Phạm Tiến H quyền quản lý di sản là
có thuyết phục và có căn cứ.

2.4.Khi là người quản lý di sản, người quản lý di sản có quyền tôn tạo, tu sửa lại di sản
như trong Bản án số 11 không? Nêu cơ sở pháp lý khi trả lời.

Căn cứ vào Khoản 1 Điều 618 BLDS 2015 quy định về quyền của người quản lý di sản:

“1. Người quản lý di sản quy định tại khoản 1 và khoản 3 Điều 616 của Bộ luật này có
quyền sau đây:

a) Đại diện cho những người thừa kế trong quan hệ với người thứ ba liên quan đến di sản
thừa kế;

b) Được hưởng thù lao theo thỏa thuận với những người thừa kế;

c) Được thanh toán chi phí bảo quản di sản.”

Người quản lý di sản được thanh toán chi phí bảo quản di sản. Việc quản lý, bảo quản di
sản đôi khi sẽ phải bỏ ra các chi phí phát sinh. Từ thời điểm mở thừa kế đến khi tài sản
được chia là một khoảng thời gian nhất định. Do đó, trong thời gian này cần thiết áp dụng
các biện pháp bảo quản tài sản một cách hợp lý. Điều này để bảo vệ quyền và lợi ích hợp
pháp cho người quản lý di sản trong trường hợp người quản lý di sản phải bỏ ra chi phí bảo
quản như trường hợp tài sản có nguy cơ bị hư hỏng, mất giá trị nếu không được tôn tạo, tu

14
sửa. Vì việc sửa chữa, tu tạo lại di sản phát sinh từ việc bảo vệ quyền lợi cho người hưởng
di sản nên các chi phí đó được thanh toán đầy đủ cho người quản lý di sản.

Vì vậy, khi là người quản lý di sản, người quản lý di sản có quyền tôn tạo, tu sửa lại di sản
như trong Bản án số 11/2020/DS-PT ngày 10/6/2020 của Tòa án nhân dân tỉnh Sơn La.

2.5. Khi là người quản lý di sản, người quản lý di sản có quyền giao lại cho người khác
quản lý di sản (như trong Bản án số 11 là ông Thiện giao lại cho con trai) không? Nêu
cơ sở pháp lý khi trả lời.

Căn cứ vào Điều 616 quy định về Người quản lý di sản:

“1. Người quản lý di sản là người được chỉ định trong di chúc hoặc do những người thừa
kế thỏa thuận cử ra.

2. Trường hợp di chúc không chỉ định người quản lý di sản và những người thừa kế chưa
cử được người quản lý di sản thì người đang chiếm hữu, sử dụng, quản lý di sản tiếp tục
quản lý di sản đó cho đến khi những người thừa kế cử được người quản lý di sản…”

Như căn cứ trên, người quản lý di sản phải được chỉ định trong di chúc hoặc do những đồng
thừa kế thỏa thuận, nhất trí cử ra bằng văn bản, là trường hợp người để lại di sản không có
di chúc hoặc có di chúc nhưng di chúc không xác định rõ ai là người quản lý. Trong thời
gian di sản thừa kế chưa được chia, những người thừa kế có thể thỏa thuận và cử ra cá nhân
hay tổ chức bất kỳ là người quản lý di sản. Do đó, khi là người quản lý di sản, người quản
lý di sản không có quyền giao lại cho người khác nếu như không có sự thỏa thuận của
những người thừa kế như ông Thiện giao cho con trai trong như trong Bản án số
11/2020/DS-PT ngày 10/6/2020 của Tòa án nhân dân tỉnh Sơn La.

2.6.Trong Quyết định số 147, Tòa án xác định người quản lý không có quyền tự thỏa
thuận mở lối đi cho người khác qua di sản có thuyết phục không? Nêu cơ sở pháp lý khi
trả lời.

Căn cứ vào Khoản 1 Điều 617 BLDS 2015 quy định về Nghĩa vụ của người quản lý di sản:

“1. Người quản lý di sản quy định tại khoản 1 và khoản 3 Điều 616 của Bộ luật này có
nghĩa vụ sau đây:

15
a) Lập danh mục di sản; thu hồi tài sản thuộc di sản của người chết mà người khác đang
chiếm hữu, trừ trường hợp pháp luật có quy định khác;

b) Bảo quản di sản; không được bán, trao đổi, tặng cho, cầm cố, thế chấp hoặc định đoạt
tài sản bằng hình thức khác, nếu không được những người thừa kế đồng ý bằng văn bản;

c) Thông báo về tình trạng di sản cho những người thừa kế;

d) Bồi thường thiệt hại nếu vi phạm nghĩa vụ của mình mà gây thiệt hại;

đ) Giao lại di sản theo yêu cầu của người thừa kế.”

Thửa đất 525 là tài sản của ông Phạm Văn Ngót và bà Lê Thị Chơi tạo dựng trong thời kì
hôn nhân. Ông Phạm Văn Sơn Nhỏ chỉ là người quản lý di sản của ông Ngót và phần diện
tích đất thuộc về bà Chơi chứ không có quyền định đoạt di sản đó. Ông Nhỏ đã tự ý thoả
thuận cho ông Đảm mở lối đi khi không có sự đồng ý của bà Chơi và các đồng thừa kế thứ
nhất là vi phạm Điều 617 BLDS 2015 ở chỗ “Bảo quản di sản; không được bán, trao đổi,
tặng cho, cầm cố, thế chấp hoặc định đoạt tài sản bằng hình thức khác, nếu không được
những người thừa kế đồng ý bằng văn bản;”. Vì vậy trong Quyết định số 147/2020/DS-
GĐT ngày 09/7/2020 của Tòa án nhân dân cấp cao tại TP. Hồ Chí Minh là có thuyết phục.

Vấn đề 3: Thời hiệu trong lĩnh vực thừa kế


Tóm tắt án lệ số 26/2018/AL

Nội dung án lệ:

“[5] Tuy nhiên, theo quy định tại khoản 1 Điều 623 Bộ luật Dân sự năm 2015 (có hiệu lực
thi hành từ ngày 01-01-2017), thì thời hiệu để người thừa kế yêu cầu chia di sản là 30
năm đối với bất động sản, kể từ thời điểm mở thừa kế.

[6] Theo quy định tại điểm d khoản 1 Điều 688 Bộ luật Dân sự năm 2015, đối với giao
dịch dân sự được xác lập trước ngày Bộ luật Dân sự này có hiệu lực, thì thời hiệu được áp
dụng theo quy định của Bộ luật này.

[7] Như vậy kể từ ngày Bộ luật Dân sự năm 2015 có hiệu lực thi hành, Tòa án áp dụng
quy định tại Điều 623 Bộ luật Dân sự năm 2015 để xác định thời hiệu đối với trường hợp

16
mở thừa kế trước ngày 01-01-2017. Căn cứ quy định tại khoản 4 Điều 36 Pháp lệnh thừa
kế ngày 30-8-1990 và Bộ luật Dân sự năm 2015, trong trường hợp này thời hiệu khởi kiện
chia di sản của cụ T cho các đồng thừa kế vẫn còn theo quy định của pháp luật.”

3.1. Cho biết các loại thời hiệu trong lĩnh vực thừa kế ở Việt Nam.

Căn cứ vào Điều 623 BLDS 2015, có 3 loại thời hiệu trong lĩnh vực thừa kế ở Việt Nam.
Theo đó:

1. Thời hiệu để người thừa kế yêu cầu chia di sản được quy định tại Khoản 1 Điều 623
BLDS 2015 như sau: “ Thời hiệu để người thừa kế yêu cầu chia di sản 30 năm đối với
bất động sản, 10 năm đối với động sản, kể từ thời điểm mở thừa kế. Hết thời hạn này
thì di sản thuộc về người thừa kế đang quản lý di sản đó. Trường hợp không có người
thừa kế đang quản lý di sản thì di sản được giải quyết như sau:

a) Di sản thuộc quyền sở hữu của người đang chiếm hữu theo quy định tại Điều
236 của Bộ luật này.(Điều 236 quy định: “Người chiếm hữu, người được lợi về tài
sản không có căn cứ pháp luật nhưng ngay tình, liên tục, công khai trong thời hạn
10 năm đối với động sản, 30 năm đối với bất động sản thì trở thành chủ sở hữu tài
sản đó, kể từ thời điểm bắt đầu chiếm hữu, trừ trường hợp Bộ luật này, luật khác
có liên quan quy định khác.”

b) Di sản thuộc về Nhà nước, nếu không có người chiếm hữu quy định tại điểm a
khoản này.

2. Thời hiệu để người thừa kế yêu cầu xác nhận quyền thừa kế của mình hoặc bác bỏ
quyền thừa kế của người khác là 10 năm, kể từ thời điểm mở thừa kế được quy định tại
Khoản 2 Điều 623 BLDS 2015.

3. Thời hiệu yêu cầu người thừa kế thực hiện nghĩa vụ về tài sản của người chết để lại là
03 năm, kể từ thời điểm mở thừa kế được quy định tại Khoản 3 Điều 623 BLDS 2015.

17
3.2. Pháp luật nước ngoài có áp đặt thời hiệu đối với yêu cầu chia di sản không?

Tùy thuộc theo các quốc gia khác nhau sẽ có những quy định khác nhau về thời hiệu đối
với yêu cầu chia di sản. Có những quốc gia sẽ áp đặt thời hiệu đối với yêu cầu chia di sản,
có những quốc gia sẽ không áp dụng hình thức này. Ví dụ:

Quốc gia có áp đặt thời hiệu đối với yêu cầu chia di sản: Campuchia. Theo Khoản 1 Điều
1248 Bộ luật dân sự Campuchia: “Người thừa kế phải có sự chấp nhận đơn giản hoặc
chấp nhận có giới hạn hoặc từ bỏ quyền thừa kế trong vòng 3 tháng kể từ ngày biết được
việc thừa kế của mình đã phát sinh. Tuy nhiên thời gian này có thể kéo dài thêm theo yêu
cầu của người thừa kế.”

Quốc gia không có sự áp đặt thời hiệu đối với yêu cầu chia di sản: Pháp. Theo Điều 815
Bộ luật dân sự Pháp: “Không ai có thể bị buộc phải chấp nhận trong tình trạng di sản
chưa chia và bất cứ lúc nào cũng có thể yêu cầu chia di sản trừ trường hợp việc này được
tạm hoãn theo bản án hoặc theo pháp luật.” Những nước khác như Ý, Luxembourg cũng
quy định tương tự.

3.3. Thời điểm mở thừa kế đối với di sản của cụ T là năm nào? Đoạn nào của Quyết
định tạo lập thành Án lệ số 26/2018/AL cho câu trả lời?

Thời điểm mở thừa kế với di sản của cụ T là năm 1972 căn cứ theo Khoản 1 Điều 611
Thời điểm, địa điểm mở thừa kế quy định: “Thời điểm mở thừa kế là thời điểm người có
tài sản chết. Trường hợp Tòa án tuyên bố một người là đã chết thì thời điểm mở thừa kế là
ngày được xác định tại khoản 2 Điều 71 của Bộ luật này.”

Trong phần nhận định của Tòa án của Quyết định tạo lập thành Án lệ số 26/2018/AL
đoạn 7 có cho câu trả lời: “Như vậy kể từ ngày Bộ luật Dân sự năm 2015 có hiệu lực thi
hành, Tòa án áp dụng quy định tại Điều 623 Bộ luật Dân sự năm 2015 để xác định thời
hiệu đối với trường hợp mở thừa kế trước ngày 01-01-2017. Căn cứ quy định tại Khoản 4
Điều 36 Pháp lệnh thừa kế ngày 30-8-1990 và Bộ luật Dân sự năm 2015, trong trường
hợp này thời hiệu khởi kiện chia di sản của cụ T cho các đồng thừa kế vẫn còn theo quy
định của pháp luật.”
18
3.4. Việc Án lệ số 26/2018/AL áp dụng thời hiệu 30 năm của BLDS 2015 cho di sản
của cụ T có cơ sở văn bản nào không? Có thuyết phục không? Vì sao?

Việc Án lệ số 26/2018/AL áp dụng thời hiệu 30 năm của BLDS 2015 cho di sản của cụ T
là không có cơ sở văn bản. Tuy nhiên, quyết định này lại là hợp lý và thuyết phục, bởi:

Thứ nhất, theo Điểm d Khoản 1 Điều 688 BLDS 2015, đối với giao dịch dân sự được xác
lập trước ngày BLDS năm 2015 có hiệu lực thì “Thời hiệu được áp dụng theo quy định
của Bộ luật này”. Trước đó, Khoản 1 Điều 688 của BLDS đã nêu rõ quy định tại các
khoản a, b và c được áp dụng đối với giao dịch dân sự được xác lập trước ngày BLDS có
hiệu lực, tức là ngày 01/01/2017. Đối với vụ việc Án lệ số 26, việc chia tài sản của cụ T là
trường hợp thừa kế theo pháp luật mà loại thừa kế này không phải là giao dịch dân sự và
cũng không có cơ sở văn bản để khẳng định quy định chuyển tiếp của các áp dụng thừa kế
theo pháp luật hay không.

Thứ hai, việc án lệ số 26 áp dụng thời hiệu 30 năm của BLDS 2015 cho di sản của cụ T là
hợp lý. Vì, trên thực tế thì việc tranh chấp giữa những người thừa kế vẫn tồn tại dù thời
hiệu yêu cầu chia tài sản đã chấm dứt. Điều này tạo ra một hành lang pháp lý mới cho các
vụ tranh chấp thừa kế được giải quyết với mục đích đảm bảo lợi ích của những người
được chia thừa kế.

3.5. Việc Án lệ số 26/2018/AL áp dụng thời hiệu 30 năm của BLDS 2015 cho di sản
của cụ T với thời điểm bắt đầu từ thời điểm Pháp lệnh thừa kế năm 1990 được công bố
có cơ sở văn bản nào không? Có thuyết phục không? Vì sao?

Việc Án lệ số 26/2018/AL áp dụng thời hiệu 30 năm của BLDS 2015 cho di sản của cụ T
với thời điểm bắt đầu từ thời điểm Pháp lệnh thừa kế năm 1990 được công bố chưa có cơ
sở văn bản căn cứ vào Khoản 1 Điều 623 BLDS 2015: “Thời hiệu để người thừa kế yêu
cầu chia di sản là 30 năm đối với bất động sản, 10 năm đối với động sản, kể từ thời điểm
mở thừa kế. Hết thời hạn này thì di sản thuộc về người thừa kế đang quản lý di sản
đó.” BLDS lấy thời điểm bắt đầu tính thời hiệu là 30 năm kể từ thời điểm mở thừa kế,
không hề đề cập đến thừa kế mở trước khi ban hành Pháp lệnh thừa kế ngày 30/8/1990 thì
19
có áp dụng thời điểm mở thừa kế hay ngày công bố pháp lệnh trên. Tuy việc án lệ 26 áp
dụng thời hiệu 30 năm theo quy định của BLDS 2015 do di sản của cụ T với thời điểm bắt
đầu từ thời điểm Pháp lệnh thừa kế năm 1990 chưa có cơ sở văn bản nhưng nó lại thuyết
phục. Nội dung án lệ là sự kết hợp giữa BLDS 2015 và Khoản 4 Điều 36 Pháp lệnh thừa
kế 30/8/1990. Như vậy, có thể hiểu, thời hiệu 30 năm bắt đầu từ ngày Pháp lệnh 1990
được công bố (ngày 10/9/1990), với quy định trên, thời hiệu yêu cầu chia di sản một lần
nữa được Tòa án kéo dài thêm nhằm bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người thừa kế.

3.6. Suy nghĩ của anh/chị về Án lệ số 26/2018/AL nêu trên.

Án lệ số 26/2018/AL cho ta cái nhìn đầy đủ và bao quát về thời điểm bắt đầu tính thời
hiệu và thời điểm yêu cầu chia di sản thừa kế đối với bất động sản. Đây là vấn đề hết sức
phức tạp, đặc biệt là khi nó có sự thay đổi giữa các thế hệ tiến tới áp dụng sự thay đổi của
pháp luật, gây khó khăn cho quá trình xác định. Quyết định của Tòa án đưa ra thì đều
được xem xét dưới nhiều góc độ, nhiều khía cạnh để đảm bảo tính thuyết phục cao.

Vấn đề 4: Tìm kiếm tài liệu

1. Đặng Thu Hà, “Diện và hàng thừa kế theo pháp luật Việt Nam và một số nước trên
thế giới”, Tạp chí Nghề Luật, Học viện Tư pháp, số 5 năm 2018, từ tr.85 đến 90;
2. Nguyễn Minh Hằng, “Bình luận về vụ án giải quyết tranh chấp thừa kế theo di chúc
miệng”, Tạp chí Nghề Luật, Học viện Tư pháp, số 2 năm 2019, từ tr.72 đến 77;
3. Trần Thị Thu Hằng, “Cần xác định chính xác những điều kiện đặc thù của người
thừa kế bắt buộc trong giải quyết tranh chấp về thừa kế”, Tạp chí Nghề Luật, Học
viện Tư pháp, số 10 năm 2020, từ tr.8 đến 12;
4. Phan Thị Hồng, “Áp dụng pháp luật trong giải quyết tranh chấp về thừa kế”, Tạp chí
Nghề Luật, Học viện Tư pháp, số 2 năm 2018, từ tr.28 đến 35;
5. Phạm Thị Thúy Hồng, Nguyễn Hoài Thanh, “Thế chấp quyền tài sản phát sinh từ
hợp đồng mua bán nhà ở- pháp luật và thực tiễn”, Tạp chí Nghề Luật, Học viện Tư
pháp, số 4 năm 2018, từ tr.46 đến 51;
6. Lê Quang Hiến, Nguyễn Bích Như, “Hoàn thiện quy định pháp luật về hình thức của
thỏa thuận phân chia di sản thừa kế”, Tạp chí điện tử Tòa án nhân dân, năm 2021;
20
7. Nguyễn Thị Hường, “Bảo vệ quyền đối với bất động sản liền kề ở Việt Nam hiện
nay”,
8. Tạp chí Nghề Luật, Học viện Tư pháp, số 4 năm 2019, từ tr.12 đến 16;
9. Nguyễn Chí Khang, “Một số vướng mắc trong quy định pháp luật về chuyển nhượng
hợp đồng mua bán nhà ở trong tương lai”, Tạp chí Nghề Luật, Học viện Tư pháp, số
3 năm 2019, từ tr.14 đến 20;
10. Phan Thị Bạch Mai, “Con dâu có quyền yêu cầu chia di sản của cha mẹ chồng trong
vụ án tranh chấp thừa kế tài sản hay không?”, Tạp chí điện tử Tòa án nhân dân, năm
2021;
11. Nguyễn Thị An Na, “Một số vấn đề cần lưu ý khi luật sư tham gia giải quyết tranh
chấp về quyền đối với tài sản”, Tạp chí Nghề Luật, Học viện Tư pháp, số 6 năm
2019, từ tr.23 đến 29;
12. Nguyễn Trần Ngà, “Thời hiệu thừa kế theo pháp luật dân sự và thựa trạng vận dụng
pháp luật của Tòa án”, Tạp chí điện tử Tòa án nhân dân, năm 2021;
13. Hồ Thị Bảo Ngọc, Hoàng Thị Hải Yến, “Một số bất cập trong quy định về thừa kế
kế vị liên quan đến hoạt động công chứng”, Tạp chí Nghề Luật, Học viện Tư pháp,
số 8 năm 2021, từ tr.10 đến 15;
14. Đặng Phước Thông, “Đăng ký quyền sở hữu căn hộ chyng cư theo yêu cầu và một
số kiến nghị nhằm hoàn thiện pháp luật”, Tạp chí khoa học pháp lý, Trường Đại học
Luật TP.Hồ Chí Minh, số 3 năm 2020, tr.37 đến 49;
15. Nguyễn Phúc Thiện, “Bàn về địa vị pháp lý của hộ gia đình trong giao dịch về quyền
sử dụng đất”, Tạp chí Nghề Luật, Học viện Tư pháp, số 1 năm 2019, từ tr.44 đến 51;
16. Nguyễn Thanh Thư, “Di chúc được lập thông qua các phương tiện điện tử”, Tạp chí
khoa học pháp lý, Trường Đại học Luật TP.Hồ Chí Minh, số 6 năm 2021, tr.70;
17. Nguyễn Thanh Thư, “Hình thức di chúc miệng”, Tạp chí khoa học pháp lý, Trường
Đại học Luật TP.Hồ Chí Minh, số 2 năm 2020, tr.23 đến 31;
18. Nguyễn Thùy Trang, “Bình luận về căn cứ phát sinh trách nhiệm bồi thường thiệt
hại và bảo đảm quyền đòi tài sản từ một vụ án cụ thể”, Tạp chí Nghề Luật, Học viện
Tư pháp, số 3 năm 2018, từ tr.66 đến 71;

21
19. Châu Thị Vân, “Căn cứ xác lập quyền sở hữu đối với tài sản không xác định được
chủ sở hữu”, Tạp chí khoa học pháp lý, Trường Đại học Luật TP.Hồ Chí Minh, số 9
năm 2018, tr.33 đến 42;
20. Nguyễn Văn Vân, “Tài sản và sở hữu- Kinh nghiệm từ pháp luật Liên bang Nga”,
Tạp chí khoa học pháp lý, Trường Đại học Luật TP.Hồ Chí Minh, số 4 năm 2020,
tr.31.

Để thu thập được các bài đăng, tài liệu trên, nhóm đã tìm kiếm từ truy cập vào những tạp
chí nổi tiếng uy tín như: Tạp chí Nghề luật, Học viện Tư pháp; Tạp chí khoa học pháp lý
Việt Nam, Trường Đại học Luật Thành phố Hồ Chí Minh; Tạp chí điện tử Tòa án nhân dân;
tiếp theo là vào từng tạp chí để tìm từng số xuất bản từ năm 2018 đến 2022. Trên các trang
web đó có phần mục lục của từng số, vậy nên chỉ cần tìm xem những bài có liên quan đến
tài sản và thừa kế để điền đầy đủ các thông tin yêu cầu vào.

22
Danh mục tài liệu tham khảo

Bộ luật dân sự 2015, NXB. Hồng Đức;

Lê Minh Hùng, Giáo trình Pháp luật về tài sản, quyền sở hữu và thừa kế của Đại học Luật
TP.HCM, Nxb. Hồng Đức 2018, Chương IV;

Bản án số 08/2020/DSST ngày 28/8/2020 của Tòa án Nhân dân thành phố Vĩnh Yên tỉnh
Vĩnh Phúc;

Tóm tắt Bản án số 11/2020/DS-PT ngày 10/6/2020 của Tòa án nhân dân tỉnh Sơn La;

Tóm tắt Quyết định số 147/2020/DS-GĐT ngày 09/7/2020 của Tòa án nhân dân cấp cao tại
TP. Hồ Chí Minh;

Án lệ số 26/2018/AL.

23

You might also like