You are on page 1of 31

Môn: Những quy định chung về luật dân sự, tài sản và thừa kế

BUỒI THẢO LUẬN TUẦN THỨ NĂM: QUY ĐỊNH CHUNH VỀ THỪA KẾ

Giảng viên hướng dẫn: TS. Lê Thị Hồng Vân

Lớp CLC48D - Nhóm 3

Họ và tên MSSV

Trần Thị Huỳnh Như (Nhóm 2353801015158


trưởng)

Nguyễn Trần Quỳnh Nga 2353801014111

Vũ Nguyễn Ngọc Trân 2353801015208

Võ Anh Kiện 2353801014089

Vũ Lê Mỹ Ý 2353801012296
Thành phố Hồ Chí Minh - 2024

MỤC LỤC
I. DI SẢN THỪA KẾ.................................................................................................1
1.1. Tóm tắt văn bản.........................................................................................................1
1.2. Phần trả lời câu hỏi....................................................................................................3
1.2.1. Ở pháp luật nước ngoài, di sản có bao gồm cả nghĩa vụ của người quá cố không?
Nêu ít nhất một hệ thống pháp luật mà anh/chị biết về chủ đề này..................................3
1.2.2. Ở Việt Nam, di sản là gì và có bao gồm cả nghĩa vụ của người quá cố không?
Nêu cơ sở pháp lý khi trả lời............................................................................................3
1.2.3. Khi tài sản do người quá cố để lại ở thời điểm mở thừa kế bị thay thế bởi một tài
sản mới sau đó thì tài sản mới có là di sản không? Vì sao?.............................................4
1.2.4. Để được coi là di sản, theo quy định pháp luật, quyền sử dụng đất của người quá
cố có cần phải đã được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất không? Nêu cơ sở pháp
lý khi trả lời......................................................................................................................4
1.2.5. Trong Bản án số 08, Toà án có coi diện tích đất tăng 85,5m2 chưa được cấp giấy
chứng nhận quyền sử dụng đất là di sản không? Đoạn nào của bán án có câu trả lời?....6
1.2.6. Suy nghĩ của anh/chị về hướng xử lý nêu trên của Tòa án trong Bản án số 08 về
diện tích đất chưa được cấp giấy......................................................................................6
1.2.7. Ở Án Lệ số 16/2017/AL, trong diện tích 398m2 đất, phần di sản của Phùng Văn
N là bao nhiêu? Vì sao?....................................................................................................7
1.2.8. Theo Án lệ trên, phần diện tích đất đã chuyển nhượng cho ông Phùng Văn K có
được coi là di sản để chia không? Vì sao?.......................................................................7
1.2.9. Suy nghĩ của anh/chị về hướng giải quyết trong Án lệ trên liên quan đến phần
diện tích đã chuyển nhượng cho ông Phùng Văn K?.......................................................8
1.2.10. Nếu bà Phùng Thị G bán đất trên không để lo cuộc sống của các con mà dùng
cho tiền đó cho cá nhân bà Phùng Thị G thì số tiền đó có được coi là di sản để chia
không? Vì sao?.................................................................................................................8
1.2.11. Theo Tòa dân sự Tòa án nhân dân tối cao, ông Tài được đòi trâu từ ông Dòn
không? Đoạn nào của Quyết định cho câu trả lời? ( kiện thiếu)......................................9
1.2.12. Việc Tòa án xác định phần còn lại của di sản của bà Phùng Thị G là 43,5m2 có
thuyết phục không? Vì sao? Đây có là nội dung của Án lệ số 16 không? Vì sao?..........9
1.2.13. Việc Tòa án quyết định “còn lại là 43,5m2 được chia cho 5 kỷ phần còn lại” có
thuyết phục? Vì sao? Đây có là nội dung của Án lệ số 16 không? Vì sao?...................10
II. QUẢN LÝ DI SẢN..............................................................................................11
2.1. Tóm tắt văn bản.......................................................................................................11
2.2. Phần trả lời câu hỏi..................................................................................................11
2.2.1. Trong Bản án số 11, Tòa án xác định ai là người có quyền quản lý di sản của ông
Đ Và Bà T; việc xác định như vậy có thuyết phục không, vì sao?................................11
2.2.2. Trong Bản án số 11, ông Thiện trước khi đi chấp hành án có là người quản lý di
sản không? Nêu cơ sở pháp lý khi trả lời.......................................................................12
2.2.3. Trong Bản án số 11, việc Tòa án giao cho anh Hiếu (Tiến H) quyền quản lý di
sản có thuyết phục không? Nêu cơ sở pháp lý khi trả lời...............................................12
2.2.4. Khi là người quản lý di sản, người quản lý di sản có quyền tôn tạo, tu sửa lại di
sản như trong Bản án số 11 không? Nêu cơ sở pháp lý khi trả lời.................................13
2.2.5. Khi là người quản lý di sản, người quản lý di sản có quyền giao lại cho người
khác quản lý di sản (như trong Bản án số 11 là ông Thiện giao lại cho con trai) không?
Nêu cơ sở pháp lý khi trả lời..........................................................................................14
2.2.6. Trong Quyết định số 147, Tòa án xác định người quản lý không có quyền tự thỏa
thuận mở lối đi cho người khác qua di sản có thuyết phục không? Nêu cơ sở pháp lý
khi trả lời........................................................................................................................15
III. THỜI HIỆU TRONG LĨNH VỰC THỪA KẾ...............................................16
3.1. Tóm tắt văn bản.......................................................................................................16
3.2. Phần trả lời câu hỏi..................................................................................................17
3.2.1. Có hệ thống pháp luật nước ngoài nào áp dụng thời hiệu yêu cầu chia di sản
không?............................................................................................................................17
3.2.2. Cho biết các loại thời hiệu trong lĩnh vực thừa kế ở Việt Nam............................21
3.2.3. Thời điểm mở thừa kế đối với di sản của cụ T là năm nào? Đoạn nào của Quyết
định tạo lập thành Án lệ số 26/2018/AL cho câu trả lời?...............................................22
3.2.4. Việc Án lệ số 26/2018/AL áp dụng thời hiệu 30 năm của BLDS 2015 cho di sản
của cụ T có cơ sở văn bản nào không? Có thuyết phục không? Vì sao?.......................22
3.2.5. Việc Án lệ số 26/2018/AL áp dụng thời hiệu 30 năm của BLDS 2015 cho di sản
của cụ T với thời điểm bắt đầu từ thời điểm Pháp lệnh thừa kế năm 1990 được công bố
có cơ sở văn bản nào không? Có thuyết phục không? Vì sao?......................................24
3.2.6. Suy nghĩ của anh/chị về Án lệ số 26/2018/AL nêu trên.......................................25
1

I. DI SẢN THỪA KẾ

1.1. Tóm tắt văn bản

Bản án số 08/2020/DSST ngày 28/8/2020 của Tòa án Nhân dân thành phố Vĩnh
Yên tỉnh Vĩnh Phúc

Nguyên đơn: Ông Trần Văn Hòa, sinh năm 1949

Bị đơn: Anh Trần Hoài Nam sinh năm 1981

Chị Trần Thanh Hương sinh năm 1983

Ông Trần Văn Hòa và bà Cao Thị Mai kết hôn năm 1980 và có 2 con chung là anh
Trần Hoài Nam và chị Trần Thanh Hương, ngoài ra không có con đẻ con nuôi nào
khác. Tài sản chung của ông Hòa và bà Mai bao gồm: 01 ngôi nhà 3 tầng, sân tường
bao quanh và một lán bán hàng xây dựng năm 2006, trên diện tích đất 169,5 m 2
(trong đó, diện tích được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất có tên ông Hòa là
84 m2, còn lại 85,5m2 còn lại ông Hòa sử dụng ổn định và không có tranh chấp), địa
chỉ thửa đất tại số nhà 257 đường Nguyễn Viết Xuân, phường Đống Đa, thành phố
Vĩnh Yên, tỉnh Vĩnh Phúc. Theo biên bản thẩm định tài sản và định giá tài sản ngày
21/02/2020, tổng tài sản có trị giá là 6.127.665.000đ.

Phần tài sản có tranh chấp là phần tiền cho thuê nhà và lán bán hàng từ thánh 3/2018
đến thời điểm xét xử được quản lý bởi ông Hòa (bà Mai mất năm 2010 và không để
lại di chúc), tiền cho thuê nhà hai năm 2017 và 2018 là do chị Hương quản lý. Về
phần yêu cầu của anh Nam, chị Hương là việc xác định diện tích đất 85,5 m 2 là phần
tài sản chung của gia đình nhưng Hội đồng xét xử không chấp nhận yêu cầu này vì
thời điểm tài sản hình thành anh Nam và chị Hương còn đang phụ thuộc vào gia đình
nên đây chỉ là tài sản chung của ông Hòa và bà Mai. Đối với diện tích đất tăng 85,5
m2 chưa được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất thì Hội đồng xét xử xem xét
các vấn đề để quyết định. Từ các lập luận trên, kết luận tổng giá trị tài sản chung
của ông Hòa và bà Mai là 6.151.614.500đ và vì bà Mai khi mất không để lại di chúc
nên chia theo quy định pháp luật là ông Hòa và bà Mai mỗi người một nửa tài sản
tương đương với số tiền 3.075.807.250đ và số tài sản của bà Mai sẽ được chia theo
2

pháp luật sau đó. Hiện ông Hòa đã lấy vợ mới, và đăng ký hộ khẩu tạm trú tại huyện
Phú Ninh, tỉnh Phú Thọ, nhà đất tranh chấp chủ yếu là cho thuê. Vì vào năm
2007 anh Nam đã đóng góp ½ giá trị để xây dựng nhà cụ thể là 306.050.500 đ.
Tòa án quyết định, Hiện ông Hòa đã lấy vợ mới, và đăng ký hộ khẩu tạm trú tại
huyện Phú Ninh, tỉnh Phú Thọ, nhà đất tranh chấp chủ yếu là cho thuê. Còn anh
Nam đã đóng góp ½ giá trị để xây dựng nhà; giao cho anh Nam ngôi nhà 3 tầng, sân
tường bao loan và quyền sử dụng diện tích đất liên quan cho anh Nam sở hữu và sử
dụng để thờ cúng, tổng tài sản trị giá 4.207.001.000đ; diện tích đất 47,1 m2 anh Nam
có nghĩa vụ liên hệ cơ quan Nhà nước có thẩm quyền cấp giấy chứng nhận sau khi
đã thực hiện nghĩa vụ thuế; chia cho chị Hương quyền sở hữu số tiền thuê
30.000.000đ, cuối cùng buộc anh Nam phải thanh toán chênh lệch cho ông Hòa số
tiền 1.880.412.000đ.

Tóm tắt Án Lệ số 16/2017/AL của Hội đồng thẩm phán Tòa Án nhân dân tối cao.
Chị Phùng Thị H1, chị Phùng Thị N1, chị Phùng Thị P, chị Phùng Thị H2
(nguyên đơn) khởi kiện anh Phùng Văn T, chị Phùng Thị H3 (bị đơn) để phân
chia di sản thừa kế theo di chúc của bà Phùng Thị G (mẹ nguyên đơn và bị đơn).
Ông Phùng Văn N (đã chết, không có di chúc, chồng bà G). Năm 1991 bà
G chuyển nhượng cho ông Phùng Văn K một phần diện tích đất là 131m 2 (không
ai phản đối), đến năm 1999 bà G được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất.
Chị Phùng Thị H1 khởi kiện và Tòa đã xử buộc anh Phùng Văn T trả giấy chứng
nhận quyền sử dụng đất cho bà Phùng Thị G nhưng anh không trả. Trước khi
chết, bà G đã lập di chúc (minh mẫn khỏe mạnh, có người làm chứng, y ban nhân
dân phường M chứng thực) cho chị Phùng Thị H1 diện tích đất 90m 2 và toàn bộ
cây cối lâm lộc trên diện tích đất. Sau khi bà chết, vợ chồng anh Phùng Văn T
vẫn quản lý sử dụng đất với lí do toàn bộ công trình xây dựng trên đất là do vợ
chồng anh chị xây dựng, nhà để ở và thờ cúng tổ tiên nên không đồng ý phân chia
thừa kế. Chị Phùng Thị N2 không biết bà G có lập di chúc không nhưng nói rằng
nếu Tòa giải quyết phân chia thừa kế theo pháp luật kỷ phần thừa kế của bà G, chị
nhường phần của mình cho anh Phùng Văn T.
Tòa án cấp phúc thẩm không đưa diện tích đất bà Phùng Thị G đã bán cho ông
3

Phùng Văn K vào khối tài sản để chia là có căn cứ. Tòa án cấp sơ thẩm xác định di
sản là tổng diện tích đất 398m2 (bao gồm cả phần đất đã bán cho ông Phùng Văn K)
để chia là không đúng. Hủy toàn bộ Bản án dân sự phúc thẩm và Bản án dân sự sơ
thẩm xét xử sơ thẩm lại.

1.2. Phần trả lời câu hỏi

1.2.1. Ở pháp luật nước ngoài, di sản có bao gồm cả nghĩa vụ của người quá cố
không? Nêu ít nhất một hệ thống pháp luật mà anh/chị biết về chủ đề này.

Di sản theo BLDS nước Cộng hòa nhân dân Lào được xác định là “Tài sản thừa kế là
tài sản thuộc sở hữu của người chết, bao gồm quyền và nghĩa vụ, ngoại trừ luật hoặc
hợp đồng quy định và nghĩa vụ phải được tự người đã chết thực hiện trong thời gian
đang còn sống”1

Di sản theo quy định của BLDS và Thương mại Thái Lan được xác định bao gồm mọi
tài sản, quyền tài sản, nghĩa vụ tài sản do người chết để lại.2

1.2.2. Ở Việt Nam, di sản là gì và có bao gồm cả nghĩa vụ của người quá cố
không? Nêu cơ sở pháp lý khi trả lời.

Theo Điều 612 BLDS 2015 quy định: “Di sản bao gồm tài sản riêng của người
chết, phần tài sản của người chết trong tài sản chung với người khác”.
Có nhiều quan điểm về việc xác định di sản thừa kế. Ý kiến thứ nhất cho rằng di
sản bao gồm tài sản và các nghĩa vụ về tài sản của người chết như nghĩa vụ trả nợ, nộp
thuế. Quan điểm thứ hai thì di sản thừa kế bao gồm tài sản của người chết và nghĩa vụ
về tài sản trong phạm vi di sản thừa kế. Ý kiến thứ ba cho rằng di sản bao gồm tài sản
của người chết để lại mà không bao gồm nghĩa vụ tài sản. Quan điểm thứ ba được
nhiều nhà khoa học đồng ý và được thể hiện trong BLDS 2015 tại Điều 6123
Pháp luật hiện hành không quy định di sản thừa kế là các quyền tài sản gắn với
nhân thân, chẳng hạn như quyền nhận trợ cấp. Về nguyên tắc, di sản thừa kế là tài
sản của người chết để lại , nó thuộc sở hữu của người chết. Tuy nhiên, có một số
1
Điều 565 Chương 1 Phần VIII trong Bộ luật Dân sự nước Cộng hoà nhân dân Lào năm 2018, Tạp chí Lào Việt
dịch.
2
Nguyễn Hương Giang (2014), Thừa kế theo pháp luật – một số vấn đề lý luận và thực tiễn, Đại học quốc gia Hà
Nội.
3
Nguyễn Xuân Quang, Giáo trình Pháp luật về tài sản, quyền sở hữu và thừa kế của Đại học Luật TP. HCM,
Nxb. Hồng Đức 2023, tr. 433
4

trường hợp ngoại lệ là tài sản có được sau khi một người chết cũng được coi là di sản
thừa kế. Ví dụ: Tài sản mà doanh nghiệp khuyến mãi cho người mua hàng bằng việc
bóc thăm, mà lúc mua thì chưa bóc thăm, sau khi chết mới bóc thăm và trúng thưởng,
tiền bảo hiểm, tiền lãi…4
1.2.3. Khi tài sản do người quá cố để lại ở thời điểm mở thừa kế bị thay thế bởi
một tài sản mới sau đó thì tài sản mới có là di sản không? Vì sao?

Thực tiễn, tài sản thay thế di sản là di sản thừa kế. Hướng giải quyết này chưa quy
định trong văn bản nhưng rất thuyết phục (án lệ của Pháp cũng giải quyết theo hướng
này và ngày nay án lệ này đã được luật hóa tại Điều 815-10 Bộ luật Dân sự Pháp) và
được áp dụng đối với trường hợp di sản được thay thế bằng một khoản tiền như tiên
đền bù, tiền bảo hiểm tài sản được bảo hiểm... Thực tế còn cho thấy khi di sản bị bán
cho người khác, Tòa án nhân dân tối cao cũng giải quyết theo hướng tiền từ việc bán
(chuyển nhượng) là di sản và trong trường hợp Tòa án đã giao di sản cho một người
không được hưởng (và bản án đã có hiệu lực pháp luật), người được giao sở hữu tài
sản phải thanh toán giá trị tài sản và giá trị này cũng được chia di sản. Tương tự như
vậy khi Tòa án quyết định bán đấu giá di sản và di sản đã được bán hợp pháp cho
người khác hay Tòa án giao di sản cho cho một người thừa kế và người thừa kế
chuyển nhượng di sản cho người khác nhưng sau đó quyết định giao di sản bị hủy thì
di sản được chuyển thành tiền và người nhận tiền phải chia cho những người thừa kế
tiền đã nhận.5

1.2.4. Để được coi là di sản, theo quy định pháp luật, quyền sử dụng đất của
người quá cố có cần phải đã được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất
không? Nêu cơ sở pháp lý khi trả lời.

Cơ sở pháp lý:
Theo khoản 3 điều 1676 ghi:
3. Việc công chứng, chứng thực hợp đồng, văn bản thực hiện các quyền của người sử
dụng đất được thực hiện như sau:

4
Nguyễn Xuân Quang, Giáo trình Pháp luật về tài sản, quyền sở hữu và thừa kế của Đại học Luật TP. HCM,
Nxb. Hồng Đức 2023, tr. 434
5
Đỗ Văn Đại, Luật thừa kế Việt Nam-Bản án và bình luận bản án, Nxb. Hồng Đức 2019, tr. 114 đến tr. 116.
6
Bộ Luật Dân Sự 2015
5

a) Hợp đồng chuyển nhượng, tặng cho, thế chấp, góp vốn bằng quyền sử dụng đất,
quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền với đất phải được công chứng hoặc chứng thực,
trừ trường hợp kinh doanh bất động sản quy định tại điểm b khoản này;
b) Hợp đồng cho thuê, cho thuê lại quyền sử dụng đất, quyền sử dụng đất và tài sản
gắn liền với đất, hợp đồng chuyển đổi quyền sử dụng đất nông nghiệp; hợp đồng
chuyển nhượng quyền sử dụng đất, quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền với đất, tài
sản gắn liền với đất mà một bên hoặc các bên tham gia giao dịch là tổ chức hoạt động
kinh doanh bất động sản được công chứng hoặc chứng thực theo yêu cầu của các bên;
c) Văn bản về thừa kế quyền sử dụng đất, quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền với đất
được công chứng hoặc chứng thực theo quy định của pháp luật về dân sự;
d) Việc công chứng thực hiện tại các tổ chức hành nghề công chứng, việc chứng thực
thực hiện tại Ủy ban nhân dân cấp xã.
Bên cạnh đó, Điều 188 Luật Đất đai 2013 quy định các điều kiện thực hiện các
quyền chuyển đổi, chuyển nhượng, cho thuê, cho thuê lại, thừa kế, tặng cho, thế chấp
quyền sử dụng đất; góp vốn bằng quyền sử dụng đất như sau:
Người sử dụng đất được thực hiện các quyền chuyển đổi, chuyển nhượng, cho thuê,
cho thuê lại, thừa kế, tặng cho, thế chấp quyền sử dụng đất; góp vốn bằng quyền sử
dụng đất khi có các điều kiện sau đây:
a) Có Giấy chứng nhận, trừ trường hợp quy định tại khoản 3 Điều 186 và trường hợp
nhận thừa kế quy định tại khoản 1 Điều 168 của Luật này;
b) Đất không có tranh chấp;
c) Quyền sử dụng đất không bị kê biên để bảo đảm thi hành án;
d) Trong thời hạn sử dụng đất.
2. Ngoài các điều kiện quy định tại khoản 1 Điều này, người sử dụng đất khi thực hiện
các quyền chuyển đổi, chuyển nhượng, cho thuê, cho thuê lại, thừa kế, tặng cho quyền
sử dụng đất; quyền thế chấp quyền sử dụng đất, góp vốn bằng quyền sử dụng đất còn
phải có đủ điều kiện theo quy định tại các điều 189, 190, 191, 192, 193 và 194 của
Luật này.
3. Việc chuyển đổi, chuyển nhượng, cho thuê, cho thuê lại, thừa kế, tặng cho, thế chấp
quyền sử dụng đất, góp vốn bằng quyền sử dụng đất phải đăng ký tại cơ quan đăng ký
đất đai và có hiệu lực kể từ thời điểm đăng ký vào sổ địa chính.
6

Như vậy, theo quy định của pháp luật, để được coi là di sản thì quyền sử dụng đất của
người quá cố cần phải được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất theo điều kiện tại
điều 188 của Luật Đất Đai 2013 và điểm c khoản 3 điều 167 của Luật Đất Đai 2013.
1.2.5. Trong Bản án số 08, Toà án có coi diện tích đất tăng 85,5m2 chưa được
cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất là di sản không? Đoạn nào của bán án có
câu trả lời?

Trong bản án số 08, Tòa án coi diện tích đất tăng 85,5m 2 chưa được cấp giấy
chứng nhận quyền sử dụng đất là tài sản của ông Hòa, bà Mai và là di sản thừa kế.

Đoạn trích của bản án cho thấy câu trả lời trên là: “Đối với diện tích đất tăng
85,5m2 chưa được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất: Tại phiên tòa đại diện Viện
kiểm sát nhận định và lập luận cho rằng không được coi là di sản thừa kế, cần tiếp tục
tạm giao cho ông Hòa có trách nhiệm thực hiện nghĩa vụ tài chính với Nhà nước để
được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất… Đây vẫn là tài sản ông Hòa và bà Mai,
chỉ có điều là các đương sự phải thực hiện nghĩa vụ thuế đối với nhà nước, nếu không
xác định là di sản thừa kế và phân chia thì sẽ ảnh hưởng đến quyền và lợi ích hợp pháp
của các bên đương sự. Phần đề nghị này của đại diện viện kiểm sát không được hội
đồng xét xử chấp nhận. Các đề nghị khác đại diện Viện kiểm sát tại phiên toà là có căn
cứ, được Hội đồng xét xử xem xét và quyết định”

1.2.6. Suy nghĩ của anh/chị về hướng xử lý nêu trên của Tòa án trong Bản án số
08 về diện tích đất chưa được cấp giấy.

Trong bản án số 08, Toà án nhân dân tối cao đã xác định 85,5m 2 diện tích đất
chưa được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất là tài sản chung của ông Hòa, bà
Mai. Theo nhóm tác giả, hướng giải quyết này của Toà án có điểm chưa hợp lí.

Mặc dù Toà đã chỉ ra được rằng ngôi nhà 3 tầng, sân và lán bán hàng được làm
và xây dựng trên cả diện tích đất đã được cấp giấy chứng nhận và diện tích đất chưa
được cấp giấy chứng nhận, 85,5m2 đất chưa được cấp giấy chứng nhận này đã được hộ
ông Hòa quản lý, sử dụng ổn định nhiều năm nay, các hộ liền kề cũng đã xây dựng
mốc giới rõ ràng, không có tranh chấp, không thuộc diện đất quy hoạch phải di dời. Từ
đó, Toà đi đến kết luận phần đất không được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất
7

nêu trên là tài sản chung của ông Hoà, bà Mai. Nhưng Tòa lại không nêu ra cụ thể cơ
sở pháp lý, điều luật mà Tòa đã áp dụng trong tình huống này.

Mặt khác, 85,5m2 diện tích đất là tài sản theo toà xác định là được hình thành từ
năm 1993, thời điểm xảy ra tranh chấp thừa kế là năm 2018. Vậy khoản thời gian tính
từ thời điểm hình thành tài sản đến khi xảy ra tranh chấp là khoảng 25 năm. Theo Điều
236 BLDS 2015 quy định: “Người chiếm hữu, người được lợi về tài sản không có căn
cứ pháp luật nhưng ngay tình, liên tục, công khai trong thời hạn 10 năm đối với động
sản, 30 năm đối với bất động sản thì trở thành chủ sở hữu tài sản đó, kể từ thời điểm
bắt đầu chiếm hữu, trừ trường hợp Bộ luật này, luật khác có liên quan quy định khác.”
Như vậy, hộ ông Hoà, mặc dù là người chiếm hữu ngay tình, liên tục, công khai,
nhưng việc chiếm hữu chưa đạt đủ thời hiệu quy định để có thể xác lập quyền sở hữu
đối với 85,5m2 đất nêu trên.

1.2.7. Ở Án Lệ số 16/2017/AL, trong diện tích 398m 2 đất, phần di sản của
Phùng Văn N là bao nhiêu? Vì sao?

Ở Án Lệ số 16/2017/AL, trong diện tích 398m2 đất, phần di sản của Phùng Văn
N là 199m2 đất. Bởi vì theo Án lệ ông N chết vào năm 1984. Thời điểm mở di sản thừa
kế là thời điểm người có di sản chết nên thời điểm mở di sản thừa kế là năm 1984.
Theo đó xác định phần di sản của ông N phải là ½ trong 398m 2 (tài sản chung của ông
N và bà G), tức là 199m2. Năm 1991, bà G đã chuyển nhượng cho ông Phùng Văn K
diện tích 131m2 khi chuyển nhượng các chị đều biết việc này, nhưng số tiền bao nhiêu
chị không biết, chỉ biết mẹ chị đã dùng số tiền đó để trang trải nợ nần và nuôi các con.
Đây là giao dịch dân sự có hiệu lực bởi vì đây là giao dịch có sự đồng ý của hợp đồng
thừa kế chứ không phải phần phân chia di sản còn lại.

1.2.8. Theo Án lệ trên, phần diện tích đất đã chuyển nhượng cho ông Phùng
Văn K có được coi là di sản để chia không? Vì sao?

Theo án lệ trên, phần diện tích đất đã chuyển nhượng cho ông Phùng Văn K
không được coi là di sản để chia. Bà Phùng Thị G đã chuyển nhượng quyền sử dụng
đất cho ông Phùng Văn K. Bên cạnh đó thì ông K cũng được cơ quan nhà nước cấp
giấy chứng nhận quyền sử dụng đất. Xét thấy rằng các con bà Phùng Thị G đều biết
việc bà Phùng Thị G đã chuyển nhượng đất cho ông Phùng Văn K nhưng lại không ai
có ý kiến phản đối gì. Cho nên có căn cứ để cho rằng các con bà Phùng Thị G đã đồng
8

ý để bà Phùng Thị G chuyển nhượng diện tích cụ thể như trong án lệ có nêu cho ông
Phùng Văn K. Phần diện tích đất này đã thuộc quyền sử dụng của ông K nên không
phải là di sản đề chia thừa kế của gia đình bà Phùng Thị G.

1.2.9. Suy nghĩ của anh/chị về hướng giải quyết trong Án lệ trên liên quan đến
phần diện tích đã chuyển nhượng cho ông Phùng Văn K?

Hướng giải quyết trong Án lệ trên liên quan đến phần diện tích đã chuyển
nhượng cho ông Phùng Văn K là hợp lý.
Việc bà Phùng Thị G chuyển nhượng phần đất có diện tích 133m2 cho ông
Phùng Văn K vào năm 1991 nhằm để trả nợ và lo cho các con và các con của bà G đều
biết được việc mẹ chuyển nhượng đất cho ông K nhưng không phản đối nên đã đồng
nghĩa với việc các con của bà G đồng ý vì việc chuyển nhượng. Bên cạnh đó thì ông
Phùng Văn K cũng đã được nhà nước cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đối với
phần đất nêu trên. Đây là cơ sở để xác định các con của bà G đều đồng ý với việc
chuyển nhượng đất cho ông K
Về việc không đưa phần đất 133m2 đã chuyển nhượng cho ông Phùng Văn K là
hoàn toàn hợp lý vì do hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất được công nhận,
bên nhận chuyển nhượng đã được ghi nhận là người có quyền sử dụng đất đó nên phần
diện tích đất đã chuyển nhượng tuy được xác định là di sản thừa kế do người chết để
lại nhưng không còn để chia. Khi đó, phần tài sản để chia thừa kế là phần tài sản còn
lại của người để lại di sản thừa kế (không bao gồm phần quyền sử dụng đất đã được
chuyển nhượng)7
1.2.10. Nếu bà Phùng Thị G bán đất trên không để lo cuộc sống của các con mà
dùng cho tiền đó cho cá nhân bà Phùng Thị G thì số tiền đó có được coi là di sản
để chia không? Vì sao?

Vấn đề này hiện chưa có quy định rõ ràng của pháp luật, kể cả Án lệ 16/2017/AL
cũng chỉ đưa ra hướng giải quyết là tài sản chuyển nhượng cho người khác với sự
đồng ý của người thừa kế, còn việc nếu người thừa kế không đồng ý thì vấn đề vẫn là
một dấu hỏi. Theo em, số tiền bán đất trên nên được coi là di sản; do đó, khi bà Phùng
Thị G bán đất trên để phục vụ cho cá nhân bà thì số tiền sau khi bán đó phải được thay
thế vào vị trí di sản được định đoạt.
7
Nguyễn Sơn, Trần Thị Quang Hồng, Bình luận án lệ số 16/2017/AL: Về công nhận hợp đồng chuyển
nhượng quyền sử dụng đất là di sản thừa kế do một trong các đồng thừa kế chuyển nhượng, tr.8
9

1.2.11. Theo Tòa dân sự Tòa án nhân dân tối cao, ông Tài được đòi trâu từ ông
Dòn không? Đoạn nào của Quyết định cho câu trả lời? ( kiện thiếu)

Theo Tòa dân sự Tòa án nhân dân tối cao, ông Tài được đòi trâu từ ông Dòn
“Căn cứ vào lời khai của ông Triệu Tiến Tài (BL 06, 07, 08), lời khai của các nhân
chứng là anh Phúc (BL 19), anh Chu (BL 20), anh Bảo (BL 22) và kết quả giám định
con trâu đang tranh chấp ( biên bản giám định ngày 16-8-2004, biên bản xác minh
của cơ quan chuyên môn về vật nuôi ngày 17-8-2004, biên bản diễn giải biên bản kết
quả giám định trâu ngày 20-8-2004), (BL 40, 41, 41a, 42) thì có đủ cơ sở xác định con
trâu cái màu đen 4 năm 9 tháng tuổi mới sấn mũi lần đầu và con nghé đực khoảng 3
tháng tuổi là thuộc quyền sở hữu hợp pháp của ông Triệu Tiến Tài. Ông Thơ là người
chiếm hữu, sử dụng tài sản không có căn cứ pháp luật.”, “Tòa án cấp phúc thẩm nhận
định con trâu mẹ và con nghé con là của ông Tài là đúng nhưng lại cho rằng con trâu
cái đang do ông Nguyễn Văn Dòn quản lý nên ông Tài phải khởi kiện đòi ông Dòn và
quyết định chỉ buộc ông Thơ phải trả lại trị giá con nghé là 900.000 đ, bác yêu cầu
của ông Tài đòi ông Thơ phải trả lại con trâu mẹ là không đúng pháp luật”.

1.2.12. Việc Tòa án xác định phần còn lại của di sản của bà Phùng Thị G là
43,5m2 có thuyết phục không? Vì sao? Đây có là nội dung của Án lệ số 16 không?
Vì sao?

Việc Tòa án xác định phần còn lại của di sản của bà Phùng Thị G là 43,5m2 chưa
thuyết phục. Bởi vì tài sản ban đầu của ông N và bà G là 398m 2. Sau khi ông N chết,
bà G bán 131m2 cho ông Phùng Văn K. Các con của bà biết nhưng không phản đối và
số tiền bán đất phục vụ cho cuộc sống của bà và các con. Vì vậy, 131m2 không tính
vào phần di sản. Còn lại 267m2, Bà Phùng Thị G chỉ có quyền định đoạt ½ diện tích
đất trong tổng diện tích 267m2 đất chung của vợ chồng bà. Do đó, phần di sản của bà
Phùng Thị G để lại là ½ khối tài sản (133,5m2) được chia theo di chúc cho chị Phùng
Thị H1 (con gái bà Phùng Thị G) là 90m2, còn lại là 43,5m2.
Căn cứ vào điểm a khoản 1 Điều 651 quy định người thừa kế theo pháp luật:
“Những người thừa kế theo pháp luật được quy định theo thứ tự sau đây:
a) Hàng thừa kế thứ nhất gồm: vợ, chồng, cha đẻ, mẹ đẻ, cha nuôi, mẹ nuôi, con đẻ,
con nuôi của người chết;”
10

Vì vậy, di sản ông N để lại là 133,5m2 sẽ được chia cho 7 đồng thừa kế, bà G sẽ
được 19,07m2. Tóm lại di sản của bà G sẽ là 62,57m2
Đây là không là nội dung của Án lệ số 16. Bởi vì Án lệ số 16 là công nhận hợp
đồng quyền chuyển nhượng là di sản thừa kế do một trong các một đồng thừa kế xác
lập, thực hiện.
1.2.13. Việc Tòa án quyết định “còn lại là 43,5m 2 được chia cho 5 kỷ phần còn
lại” có thuyết phục? Vì sao? Đây có là nội dung của Án lệ số 16 không? Vì sao?

Việc Tòa án quyết định “còn lại 43,5m 2 được chia cho 5 kỳ phần còn lại” là
không thuyết phục.

Vì phần đất 43,5m2 còn lại là phần di sản được chia theo pháp luật, cho nên nên
được chia đều cho 6 người con. Cho nên việc chị Phùng Thị H1 được bà Phùng Thị G
chia di sản theo di chúc không ảnh hưởng đến quyền thừa kế của chị, bởi vậy Tòa án
quyết định chỉ chia cho 5 người con còn lại là không đảm bảo quyền lợi cho chị Phùng
Thị H1.

Đây không phải là nội dung của án lệ số 16. Vì nội dung của án lệ được quy định
nằm trong phần “Nhận định của Tòa án", cụ thể ở đây là đoạn thứ 2:

“Năm 1991, bà Phùng Thị G chuyển nhượng cho ông Phùng Văn K diện tích
131m2 trong tổng diện tích 398m2 của thửa đất trên; phần diện tích đất còn lại của thửa
đất là 267,4m2. Năm 1999 bà Phùng Thị G đã được cấp giấy chứng nhận quyền sử
dụng đất, diện tích 267,4m2, bà Phùng Thị G cùng vợ chồng anh Phùng Văn T vẫn
quản lý sử dụng nhà đất này. Việc bà Phùng Thị G chuyển nhượng đất cho ông Phùng
Văn K các con bà Phùng Thị G đều biết, nhưng không ai có ý kiến phản đối gì, các
con của bà Phùng Thị G có lời khai bà Phùng Thị G bán đất để lo cuộc sống của bà và
các con. Nay ông Phùng Văn K cũng đã được cơ quan nhà nước cấp giấy chứng nhận
quyền sử dụng đất. Vì vậy, có cơ sở để xác định các con bà Phùng Thị G đã đồng ý để
bà Phùng Thị G chuyển nhượng diện tích 131m 2 nêu trên cho ông Phùng Văn K. Tòa
án cấp phúc thẩm không đưa diện tích đất bà Phùng Thị G đã bán cho ông Phùng Văn
K vào khối tài sản để chia là có căn cứ. Tòa án cấp sơ thẩm xác định di sản là tổng
diện tích đất 398m² (bao gồm cả phần đất đã bán cho ông Phùng Văn K) để chia là
không đúng."
11

II. QUẢN LÝ DI SẢN

2.1. Tóm tắt văn bản

Tóm tắt Bản án số 11/2020/DS-PT ngày 10/6/2020 của Tòa án nhân dân tỉnh Sơn
La
Nguyên đơn: Anh Phạm Tiến H
Bị đơn: Anh Phạm Tiến N
Nội dung: Bố mẹ của nguyên đơn Phạm Tiến H là ông Phạm Tiến Đ, bà Đoàn Thị
T khi còn sống có tạo dựng được một khối tài sản gồm diện tích 311m 2 đất và 01 ngôi
nhà gỗ 4 gian (Đã được cấp chứng nhận quyền sử dụng đất mang tên bà Đoàn Thị T).
Năm 1994 ông Đ chết đến 2012 bà T chết. Cả hai ông bà không để lại di chúc đối với
khối tài sản thừa kế và không giao quyền quản lý tài sản cho ai. Sau đó xảy ra cuộc
tranh chấp giành quyền quản lý tài sản giữa anh N (con ông Phạm Tiến T và là cháu
ông Đ) với anh Phạm Tiến H (con ông Đ). Anh H kiện anh N vì đã ngăn cản, không
cho ông H tôn tạo, tu sửa di sản thừa kế (Trong khi anh H được sự đồng ý ủy quyền tư
các anh chị em trong nhà).
Kết quả: Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của anh H. Giao cho anh H được quyền quản
lý di sản thừa kế.

2.2. Phần trả lời câu hỏi

2.2.1. Trong Bản án số 11, Tòa án xác định ai là người có quyền quản lý di sản
của ông Đ Và Bà T; việc xác định như vậy có thuyết phục không, vì sao?

Trong Bản án số 11, Tòa án xác định anh Phạm Tiến H là người có quyền quản
lý di sản của ông Đ Và Bà T; Việc xác định như vậy là thuyết phục. Bởi vì Tòa án xác
định ông Đ, bà T chết nhưng không để lại di chúc đối với khối di sản thừa kế nêu trên
và không giao quyền quản lý di sản thừa kế cho ai. Sau khi bà T chết, ông Thiện là
người đang trực tiếp sinh sống tại nhà và đất, tiếp tục quản lý di sản của ông bà Đ T.
Khi anh Thiện đi chấp hành án, có giao lại cho anh Nghĩa trông coi di sản của ông bà.
Tuy nhiên, theo quy định tại Điều 616 của Bộ luật Dân sự 2015 thì “Người quản lý di
sản là người được chỉ định trong di chúc hoặc do những người thừa kế thỏa thuận cử
ra” Ông Đ bà T chết, không để lại di chúc; việc quản lý di sản của ông Thiện không
12

có sự nhất trí bằng văn bản của các đồng thừa kế. Do đó, ông Thiện không có quyền
giao lại cho con trai là Phạm Tiến N trông coi, sử dụng di sản của ông bà Đ T.8

Qua quá trình giải quyết vụ án, ngoài ông Thiện; những người còn lại thuộc
hàng thừa kế thứ nhất giao cho anh H quản lý khối di sản của ông Đ, bà T. Xét thấy
các thành viên có đủ năng lực hành vi dân sự, quyết định dựa trên cơ sở tự nguyện;
không bị lừa dối, ép buộc; không vi phạm các điều cấm của pháp luật, không trái với
đạo đức của xã hội. Do đó, việc Tòa án cấp sơ thẩm giao quyền quản lý di sản cho anh
H là hợp lý.

2.2.2. Trong Bản án số 11, ông Thiện trước khi đi chấp hành án có là người
quản lý di sản không? Nêu cơ sở pháp lý khi trả lời.

Trong Bản án số 11, ông Thiện trước khi chấp hành án không là người quản lý di
sản. Dựa theo căn cứ Điều 616 BLDS 2015 thì:

“1. Người quản lý di sản là người được chỉ định trong di chúc hoặc do những
người thừa kế thỏa thuận cử ra.

2. Trường hợp di chúc không chỉ định người quản lý di sản và những người thừa
kế chưa cử được người quản lý di sản thì người đang chiếm hữu, sử dụng, quản lý di
sản tiếp tục quản lý di sản đó cho đến khi những người thừa kế cử được người quản lý
di sản.

3. Trường hợp chưa xác định được người thừa kế và di sản chưa có người quản lý
theo quy định tại khoản 1 và khoản 2 Điều này thì di sản do cơ quan nhà nước có thẩm
quyền quản lý."

Qua đây, thấy rằng ông Thiện không thuộc trường hợp nào trong Điều 616 BLDS
2015 để có thể là người quản lý di sản mà bố mẹ ông để lại.

2.2.3. Trong Bản án số 11, việc Tòa án giao cho anh Hiếu (Tiến H) quyền quản
lý di sản có thuyết phục không? Nêu cơ sở pháp lý khi trả lời.

Theo Bản án số 11, Tòa án xác định anh Phạm Tiến H là người có quyền quản lý
di sản của ông Đ và bà T là hợp lý và thuyết phục.

8
Bản án số 11/2020/DS-PT ngày 10/6/2020 của Tòa án nhân dân tỉnh Sơn La
13

Theo điều 616 Bộ Luật Dân Sư 2015:

1. Người quản lý di sản là người được chỉ định trong di chúc hoặc do những người
thừa kế thỏa thuận cử ra.

2. Trường hợp di chúc không chỉ định người quản lý di sản và những người thừa kế
chưa cử được người quản lý di sản thì người đang chiếm hữu, sử dụng, quản lý di sản
tiếp tục quản lý di sản đó cho đến khi những người thừa kế cử được người quản lý di
sản.

3. Trường hợp chưa xác định được người thừa kế và di sản chưa có người quản lý theo
quy định tại khoản 1 và khoản 2 Điều này thì di sản do cơ quan nhà nước có thẩm
quyền quản lý.

Trong Bản án này, ông Đ và bà T không để lại di chúc chỉ định ai là người sử dụng,
quản lý ngôi nhà và phần diện tích đất đã nêu dẫn đến việc ngôi nhà không có ai trông
nom.

Trong quá trình giải quyết vụ án, ngoài ba của anh Phạm Tiến N - ông Thiện là đang
có tranh chấp thì những đồng thừa kế trong hàng thừa kế thứ nhất gồm các bà Liền,
Nhi, Nhường, Hoài, Hài đều xác nhận, đã ủy quyền toàn bộ cho anh H giải quyết vụ án
tại Tòa án; nhất trí với việc giao di sản thừa kế cho anh H trông coi, quản lý.

Xét thấy, các ông bà Hiệu, Liền, Nhi, Nhường, Hoài, Hài đều có đủ năng lực hành vi
dân sự; quyết định dựa trên cơ sở hoàn toàn tự nguyện; không bị lừa dối, ép buộc;
không vi phạm điều cấm của pháp luật và không trái với đạo đức xã hội. Vì vậy,, việc
Tòa án giao quyền quản lý di sản cho anh Phạm Tiến H là phù hợp.

2.2.4. Khi là người quản lý di sản, người quản lý di sản có quyền tôn tạo, tu sửa
lại di sản như trong Bản án số 11 không? Nêu cơ sở pháp lý khi trả lời.

Khi là người quản lý di sản, người quản lý di sản có quyền tôn tạo, tu sửa lại di
sản như trong Bản án số 11. Vì ông Hiệu được các người đồng thừa kế trao quyền
trông coi, quản lí di sản nên ông có đủ điều kiện để tôn tạo, tu sửa lại di sản.

Căn cứ theo mục a khoản 2 Điều 617 BLDS 2015, trường hợp di chúc không
chỉ định người quản lý di sản và những người thừa kế chưa cử được người quản lý di
sản thì người đang chiếm hữu, sử dụng, quản lý di sản tiếp tục quản lý di sản đó cho
14

đến khi những người thừa kế cử được người quản lý di sản và người đang chiếm hữu,
sử dụng, quản lý di sản có nghĩa vụ: “Bảo quản di sản; không được bán, trao đổi, tặng
cho, cầm cố, thế chấp hoặc định đoạt tài sản bằng hình thức khác”

Căn cứ Điều 618 BLDS 2015:

“1. Người quản lý di sản quy định tại khoản 1 và khoản 3 Điều 616 của Bộ luật
này có quyền sau đây:

a) Đại diện cho những người thừa kế trong quan hệ với người thứ ba liên quan
đến di sản thừa kế;

b) Được hưởng thù lao theo thỏa thuận với những người thừa kế;

c) Được thanh toán chi phí bảo quản di sản.

2. Người đang chiếm hữu, sử dụng, quản lý di sản quy định tại khoản 2 Điều
616 của Bộ luật này có quyền sau đây:

a) Được tiếp tục sử dụng disản theo thỏa thuận trong hợp đồng với người để lại
di sản hoặc được sự đồng ý của những người thừa kế;

b) Được hưởng thù lao theo thỏa thuận với những người thừa kế;

c) Được thanh toán chi phí bảo quản di sản.

3. Trường hợp không đạt được thỏa thuận với những người thừa kế về mức thù
lao thì người quản lý di sản được hưởng một khoản thù lao hợp lý.”

2.2.5. Khi là người quản lý di sản, người quản lý di sản có quyền giao lại cho
người khác quản lý di sản (như trong Bản án số 11 là ông Thiện giao lại cho con
trai) không? Nêu cơ sở pháp lý khi trả lời.

Khi là người quản lý di sản, người quản lý di sản không có quyền giao lại cho
người khác quản lý di sản nếu không được những người thừa kế đồng ý bằng văn bản
theo quy định tại điểm b khoản 1 Điều 617 BLDS 2015 về nghĩa vụ của người quản
lý di sản: “b) Bảo quản di sản; không được bán, trao đổi, tặng cho, cầm cố, thế chấp
hoặc định đoạt tài sản bằng hình thức khác, nếu không được những người thừa kế
15

đồng ý bằng văn bản”. Ở đây việc giao cho người khác quản lý di sản chính là việc
định đoạt tài sản bằng hình thức khác.

2.2.6. Trong Quyết định số 147, Tòa án xác định người quản lý không có quyền
tự thỏa thuận mở lối đi cho người khác qua di sản có thuyết phục không? Nêu cơ
sở pháp lý khi trả lời.

Trong Quyết định số 147, Tòa án quyết định người quản lý không có quyền tự thỏa
thuận mở lối đi cho người khác quan di sản là thuyết phục.

Căn cứ vào khoản 1 Điều 617 Bộ Luật Dân sự 2015:

1. Người quản lý di sản quy định tại khoản 1 và khoản 3 Điều 616 của Bộ luật này có
nghĩa vụ sau đây:

a) Lập danh mục di sản; thu hồi tài sản thuộc di sản của người chết mà người khác
đang chiếm hữu, trừ trường hợp pháp luật có quy định khác;

b) Bảo quản di sản; không được bán, trao đổi, tặng cho, cầm cố, thế chấp hoặc định
đoạt tài sản bằng hình thức khác, nếu không được những người thừa kế đồng ý bằng
văn bản;

c) Thông báo về tình trạng di sản cho những người thừa kế;

d) Bồi thường thiệt hại nếu vi phạm nghĩa vụ của mình mà gây thiệt hại;

đ) Giao lại di sản theo yêu cầu của người thừa kế

Và Điều 167, 168 Luật Đất đai 2013:

Thửa đất 525 là tài sản chung của ông Ngót và bà Chơi tạo dựng trong thời kỳ hôn
nhân. Ông Nhỏ chỉ là người quản lý di sản của ông Ngót và phần diện tích đất thuộc
quyền sở hữu của bà Chơi, chứ không có quyền định đoạt. Nhưng ông Nhỏ lại tự ý
thỏa thuận cho ông Đạm mở lối đi khi không có sự đồng ý của bà Chơi và các đồng
thừa kế thứ nhất của ông Ngót. Do vậy, Tòa án xác định người quản lý không có
quyền tự thỏa thuận mở lối đi cho người khác qua di sản có thuyết phục.
16

III. THỜI HIỆU TRONG LĨNH VỰC THỪA KẾ

3.1. Tóm tắt văn bản

Án lệ số 26/2018/AL về xác định thời điểm bắt đầu tính thời hiệu và thời hiệu
yêu cầu chia di sản thừa kế là bất động sản.

Nguyên đơn: ông Cấn Xuân V, bà Cấn Thị N1, bà Cấn Thị T1, bà Cấn Thị
H, ông Cấn Xuân T, bà Cấn Thị N2, bà Cấn Thị M1.

Bị đơn: cụ Nguyễn Thị L, ông Cấn Anh C.

Khái quát vụ việc:

Tại Hà Nội, vợ chồng cụ Cấn Văn K và cụ Hoàng Thị T có tám người con
chung là ông V, bà N1, bà N2, bà M1, bà T1, bà H, ông T, ông S (chết năm 2008, có
vợ là Nguyễn Thị M và hai con là Cấn Thùy L và Cấn Hoàng K). Từ khi lấy nhau,
cụ K và cụ T đã tạo lập được mảnh đất rộng 612 m², định cư ở đây. Năm 1972, cụ T
chết, không để lại di chúc. Cụ K sau đó đã lấy cụ Nguyễn Thị L và có bốn người con
chung là bà C, bà M2, ông C và bà T2. Cụ K được cấp giấy chứng nhận quyền sử
dụng đất trên mảnh đất cư trú, rồi qua đời năm 2002, cũng không để lại di chúc. Nhà
đất được vợ hai là cụ L và con trai là ông C quản lý, sử dụng.

Tranh chấp xảy ra khi tám người con của vợ thứ nhất yêu cầu phân chia di sản
thừa kế của bố mẹ để lại là cụ K và cụ T. Ngày 2 tháng 11 năm 2010, tám anh chị
em do Cấn Thị N2 đại diện đệ đơn khởi kiện bị đơn là mẹ kế và em trai cùng cha
khác mẹ là ông C, đơn gửi Tòa án nhân dân thành phố Hà Nội.

Quyết định sơ thẩm: chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn, phân
chia di sản theo đúng quy định pháp luật.

Quyết định phúc thẩm: sửa bản án sơ thẩm, chấp nhận một phần yêu cầu
khởi kiện của nguyên đơn. Xác định cụ T chết năm 1972, thời hiệu khởi kiện về
17

quyền thừa kế đã hết, do đó đồng thừa kế đang quản lý di sản là cụ L và ông C được
tiếp tục quản lý, sử dụng và sở hữu.

Toà án nhân dân tối cao quyết định: thời hiệu khởi kiện chia di sản của cụ
T cho các đồng thừa kế vẫn còn theo quy định của pháp luật, hủy toàn bộ bản án dân
sự phúc thẩm và hủy toàn bộ bản án dân sự sơ thẩm của Tòa án nhân dân thành phố
Hà Nội.

3.2. Phần trả lời câu hỏi

3.2.1. Có hệ thống pháp luật nước ngoài nào áp dụng thời hiệu yêu cầu chia di
sản không?

* Ở Mỹ (Theo bài viết Inheritance Act Claims Time Limit, trang điện tử Clarion
ngày 26/07/2022 của tác giả Nicholas Choiniere)9:

Tòa án tối cao đã xác nhận rằng các yêu cầu theo Đạo luật thừa kế phải được đưa
ra càng sớm càng tốt, trước khi hết thời hạn.

Đạo luật Thừa kế (Quy định dành cho Gia đình và Người phụ thuộc) năm 1975 (hoặc
“Đạo luật Thừa kế”) cho phép một số người như vợ/chồng hoặc con cái tìm kiếm “sự
cung cấp tài chính hợp lý” nếu họ cảm thấy họ không được cung cấp đầy đủ theo di
chúc của người đã qua đời (hoặc nếu không có di chúc, theo quy định về di chúc).

Mục 4 của Đạo luật năm 1975 quy định rằng đơn đăng ký phải được nộp trong vòng
sáu tháng kể từ ngày đại diện về di sản lần đầu tiên được đưa ra. Nói cách khác, một
khi người thi hành án có tên trong di chúc của người quá cố đã nhận được Giấy Chứng
thực di chúc, một người có sáu tháng để đưa ra yêu cầu của mình. Quy tắc tương tự
cũng được áp dụng trong trường hợp để lại di chúc - tức là người đã chết không có di
chúc hợp lệ - trong trường hợp đó, thời hạn sáu tháng bắt đầu có hiệu lực khi người
quản lý nhận được thư quản lý.
9
Nicholas Choiniere, Inheritance Act Claims Time Limit, trang điện tử Clarion ngày 26/07/2022.
(https://www.clarionsolicitors.com/articles/inheritance-act-claims-time-limit#:~:text=The%20High%20Court
%20has%20confirmed%20that%20Inheritance%20Act,running%20when%20the%20administrator%20obtains
%20Letters%20of%20Administration)
18

Sau khi hết thời hạn sáu tháng, cách duy nhất để đưa ra yêu cầu bồi thường là
phải có sự cho phép của tòa án.

Tòa án Tối cao đã xem xét án lệ về việc đưa ra yêu cầu bồi thường quá thời hạn
và kết luận rằng, theo nguyên tắc chung, thời hạn sáu tháng là một thời hạn nghiêm
ngặt. Tuy nhiên, trong một số trường hợp, tòa án sẽ cho phép yêu cầu bồi thường
muộn. Tòa án đưa ra các nguyên tắc liên quan như sau:

“[32] Hầu như tất cả các trường hợp liên quan đến việc thực hiện quyền tùy ý cho
phép yêu cầu bồi thường được tiến hành ngoài thời hạn sáu tháng đều bắt đầu bằng
việc tham chiếu đến sáu cân nhắc không đầy đủ được xác định bởi Megarry VC trong
Re Salmon [1981] Ch 167, trong đó Ông Mitchell tóm tắt như sau:

Quyền quyết định không bị ràng buộc và phải được thực hiện một cách hợp pháp
và phù hợp với những gì công bằng và phù hợp trách nhiệm của nguyên đơn là đưa ra
một trường hợp quan trọng để yêu cầu được tiến hành bất chấp quy tắc thông thường,
lưu ý rằng quy tắc này là một điều khoản nội dung chứ không phải là giới hạn thời
gian tố tụng đơn thuần được áp đặt bởi các quy tắc của tòa án có thể được đối xử với
sự khoan hồng điều quan trọng là phải xem xét khiếu nại được đưa ra ngoài thời hạn
một cách nhanh chóng và trong hoàn cảnh nào. Điều quan trọng là phải xem xét liệu
các cuộc đàm phán có được bắt đầu trong thời hạn hay không, hoặc Việc xem xét liệu
cuộc đàm phán có được bắt đầu trong thời hạn quy định, hay bất kỳ sự trì hoãn nào sau
khi hết thời hạn có thể được giải thích bằng cuộc đàm phán hay không là vấn đề cốt
yếu cần xem xét. Nghĩa là khi một thời hạn quy định đã hết, việc tiếp tục đàm phán có
thể được coi là một lý do để giải thích sự trễ trong việc yêu cầu hoặc thực hiện các
quyền. Điều này cho thấy rằng, nếu có cuộc đàm phán giữa các bên sau khi thời hạn đã
hết, thì sự trễ đó có thể được xem xét và chấp nhận bởi tòa án hoặc bên liên quan khác
trong quá trình xem xét vấn đề. Ngoài ra còn phải xem xét liệu di sản đã được phân
chia trước khi yêu cầu bồi thường theo Đạo luật được đưa ra hoặc được thông báo hay
chưa. Hơn thế cần phải xem xét liệu nguyên đơn có bất kỳ biện pháp khắc phục nào
khác hay không, chẳng hạn như đối với các cố vấn, nếu sự cho phép bị từ chối.
19

* Ở Úc (Theo bài viết Actions in Respect of Wills and Estates của trang điện tử
LawRight Old)10:

Loại hình,tính chất Khoảng thời Pháp luật Điều khoản (Quy định)
pháp lý gian cụ thể

Một yêu cầu pháp lý Thời gian là s 28 Limitation of Một hành động pháp lý
để đòi hỏi một phần 12 năm kể từ Actions Act 1974 liên quan đến việc yêu
của tài sản cá nhân ngày chết. (Qld) cầu phần của tài sản cá
của một người đã qua nhân của một người đã
(Đạo luật Hạn chế
đời, có thể dựa trên di qua đời, hoặc quyền lợi
Hành động Số 28
chúc hoặc quy định đó, không thể được bắt
năm 1974 (Qld)
pháp lý về di chúc khi đầu sau khi đã qua 12
của Queensland,
không có di chúc. năm kể từ ngày mà
Australia).
quyền nhận phần hoặc
quyền lợi đó đã phát
sinh.

Hành động để thu hồi Thời gian là s 28 Limitation of


số tiền nợ lãi chậm trễ 6 năm kể từ Actions Act 1974
liên quan đến một ngày lãi phát (Qld)
phần di sản hoặc thiệt sinh.
(Đạo luật Hạn chế
hại do việc lãi chậm
Hành động Số 28
trễ đó gây ra.
năm 1974 (Qld)
của Queensland,
Australia).

Người nộp đơn phải Sau 6 tháng s 44(3) Succession Việc chia tài sản của
thông báo cho đại kể từ ngày Act 1981 (Qld) người đã qua đời bởi
diện cá nhân về ý chết. người đại diện cá nhân
(Điều điều 44(3)
định của họ đối với của họ (thường là người

10
Actions in Respect of Wills and Estates, trang điện tử LawRight Old.
20

việc nộp đơn yêu cầu Đạo luật Di sản thừa kế hoặc người được
bảo đảm tài sản gia năm 1981 (Qld) chỉ định làm người quản
đình của người tạo di của Queensland, lý di sản), và quy định
chúc. Australia). rằng không có hành
động nào có thể được
tiến hành đối với người
đại diện cá nhân liên
quan đến việc này, miễn
là phân phối đó không
được thực hiện sớm hơn
6 tháng sau ngày người
đã qua đời và không có
thông báo về bất kỳ đơn
yêu cầu hoặc ý định nào
theo các Điều 41(1)
hoặc 42.

Người khởi kiện yêu Sau 9 tháng s 41(8) Succession


cầu bảo đảm tài sản kể từ ngày Act 1981 (Qld)
gia đình của người tạo đã qua đời.
(Điều 41(8), Đạo
di chúc. (Quy trình
luật Di sản năm
này thường được sử
1981 (Qld) của
dụng khi một người
Queensland,
đã qua đời để lại di
Australia).
chúc không công
bằng hoặc không đảm
bảo sự chăm sóc cho
các thành viên gia
đình cụ thể của họ.
Người đệ đơn có thể
yêu cầu một phần của
tài sản để đảm bảo sự
21

chăm sóc của họ, dựa


trên nhu cầu và quyền
lợi của họ theo pháp
luật).

3.2.2. Cho biết các loại thời hiệu trong lĩnh vực thừa kế ở Việt Nam.

Trong thừa kế, BLDS 2015 quy định có các loại thời hiệu sau:

Thời hiệu yêu cầu chia di sản

Thời hiệu yêu cầu xác nhận hoặc bác bỏ quyền thừa kế.

Thời hiệu yêu cầu liên quan đến di sản thừa kế

Điều 623 BLDS 2015 quy định rõ hơn về thời hiệu thừa kế như sau:

“1. Thời hiệu để người thừa kế yêu cầu chia di sản là 30 năm đối với bất động sản, 10
năm đối với động sản, kể từ thời điểm mở thừa kế. Hết thời hạn này thì di sản thuộc về
người thừa kế đang quản lý di sản đó. Trường hợp không có người thừa kế đang quản
lý di sản thì di sản được giải quyết như sau:

a) Di sản thuộc quyền sở hữu của người đang chiếm hữu theo quy định tại Điều 236
của Bộ luật này;

b) Di sản thuộc về Nhà nước, nếu không có người chiếm hữu quy định tại điểm a
khoản này.

2. Thời hiệu để người thừa kế yêu cầu xác nhận quyền thừa kế của mình hoặc bác bỏ
quyền thừa kế của người khác là 10 năm, kể từ thời điểm mở thừa kế.

3. Thời hiệu yêu cầu người thừa kế thực hiện nghĩa vụ về tài sản của người chết
để lại là 03 năm, kể từ thời điểm mở thừa kế”.
22

3.2.3. Thời điểm mở thừa kế đối với di sản của cụ T là năm nào? Đoạn nào của
Quyết định tạo lập thành Án lệ số 26/2018/AL cho câu trả lời?

Căn cứ vào khoản 1 Điều 611 BLDS 2015: “Thời điểm mở thừa kế là thời điểm
người có tài sản chết. Trường hợp Tòa án tuyên bố một người là đã chết thì thời điểm
mở thừa kế là ngày được xác định tại khoản 2 Điều 71 của Bộ luật này”. Vì vậy, thời
điểm mở thừa kế đối với di sản của cụ T là năm 1972.

Đoạn tạo lập thành Án lệ số 26/2018/AL: “Như vậy kể từ ngày Bộ luật Dân sự
năm 2015 có hiệu lực thi hành, Tòa án áp dụng quy định tại Điều 623 Bộ luật Dân sự
năm 2015 để xác định thời hiệu đối với trường hợp mở thừa kế trước ngày 01-01-
2017. Căn cứ quy định tại khoản 4 Điều 36 Pháp lệnh thừa kế ngày 30-8-1990 và Bộ
luật Dân sự năm 2015, trong trường hợp này thời hiệu khởi kiện chia di sản của cụ T
cho các đồng thừa kế vẫn còn theo quy định của pháp luật.”

3.2.4. Việc Án lệ số 26/2018/AL áp dụng thời hiệu 30 năm của BLDS 2015 cho
di sản của cụ T có cơ sở văn bản nào không? Có thuyết phục không? Vì sao?

Việc Án lệ số 26/2018/AL áp dụng thời hiệu 30 năm của BLDS 2015 cho di sản
của cụ T có điểm không hợp lý nhưng lại hợp tình, cụ thể là:

Khoản 1 Điều 688 BLDS 2015 quy định:

“1. Đối với giao dịch dân sự được xác lập trước ngày Bộ luật này có
hiệu lực thì việc áp dụng pháp luật được quy định như sau:

d) Thời hiệu được áp dụng theo quy định của Bộ luật này.”

Khoản 1 Điều 623 BLDS 2015 quy định:

“1. Thời hiệu để người thừa kế yêu cầu chia di sản là 30 năm đối với bất
động sản, 10 năm đối với động sản, kể từ thời điểm mở thừa kế. Hết thời hạn
này thì di sản thuộc về người thừa kế đang quản lý di sản đó…”

Từ 2 quy định trên có thể hiểu là giao dịch thừa kế là “giao dịch dân sự” xảy ra
trước ngày BLDS 2015 có hiệu lực (tức là ngày 1/1/2017) thì có thế áp dụng quy định
23

về thời hiệu được ghi nhận trong khoản 1 Điều 623 BLDS 2015. Nhưng, vấn đề ở đây
là không phải giao dịch thừa kế nào cũng là giao dịch dân sự.

“Thực ra, chúng ta có 2 loại thừa kế là thừa kế theo di chúc và thừa kế theo
pháp luật. Đối với thừa kế theo di chúc, chúng ta không gặp khó khăn trong việc khẳng
định quy định trên về thời hiệu được áp dụng vì di chúc là một dạng giao dịch dân sự
nên quy định về thời hiệu của BLDS năm 2015 hoàn toàn có thể được được áp dụng
cho thừa kế theo di chúc. Tuy nhiên, trong vụ việc nêu trên, chúng ta không đối diện
với trường hợp thừa kế theo di chúc vì người để lại di sản không để lại di chúc mà là
trường hợp thừa kế theo pháp luật.”11

Bởi vì Cụ T chết không để lại di chúc, nên việc yêu cầu thừa kế di sản của cụ T
phải phân chia theo quy định của pháp luật chứ không theo ý chí chủ quan của cụ T vì
vậy việc thừa kế di sản của cụ T không phải là giao dịch dân sự. Do đó, đối với việc
thừa kế di sản của cụ T, không thể áp dụng quy định về thời hiệu được quy định trong
khoản 1 Điều 623 BLDS 2015 do đã vượt quá phạm vi quy định tại khoản 1 Điều 688.

Tuy nhiên, ở một khía cạnh khác, án lệ số 26 đã mở rộng phạm vi áp dụng các
quy định mới về thời hiệu của BLDS 2015 (thời hiệu mới không chỉ áp dụng cho giao
dịch dân sự mà cho cả thừa kế theo pháp luật), giúp đảm bảo quyền và các lợi ích hợp
pháp của các đương sự trong các vụ tranh chấp thừa kế nói chung, giúp giải quyết
những tranh chấp thừa kế còn bỏ ngỏ do nằm trong “khoảng trống” của BLDS 2015.
Ngoài ra án lệ số 26 còn “… phù hợp với tinh thần sửa đổi các quy định về thời hiệu
trong BLDS năm 2015 … là quy định có lợi cho người dân thì áp dụng ngay và quy
định mới về thời hiệu (thời hạn được kéo dài so với BLDS năm 2005) là quy định có
lợi cho người dân nên cũng cần được áp dụng ngay. Vì vậy, việc áp dụng hồi tố quy
định về thời hiệu yêu cầu chia di sản của BLDS năm 2015 mang lại lợi ích tốt nhất
cho các chủ thể có liên quan trong các tranh chấp về chia di sản, tạo cơ hội cho Tòa
án xử lý di sản một cách triệt để (di sản hết thời hiệu yêu cầu chia sẻ không được giải
quyết triệt để, mâu thuẫn giữa những người thừa kế vẫn tồn tại và làm cho di sản
trong tình trạng không được khai thác hiệu quả)”12.

11
Đỗ Văn Đại, Thời hiệu yêu cầu chia di sản đối với thừa kế mở trước khi Bộ luật Dân sự năm 2015 có hiệu lực,
Tạp chí Khoa học pháp lý số 02(123)/2019 – 2019, tr. 65 - 73.
12
Đỗ Văn Đại, Thời hiệu yêu cầu chia di sản đối với thừa kế mở trước khi Bộ luật Dân sự năm 2015 có hiệu lực,
Tạp chí Khoa học pháp lý số 02(123)/2019 – 2019, tr. 65 - 73.
24

3.2.5. Việc Án lệ số 26/2018/AL áp dụng thời hiệu 30 năm của BLDS 2015 cho
di sản của cụ T với thời điểm bắt đầu từ thời điểm Pháp lệnh thừa kế năm 1990
được công bố có cơ sở văn bản nào không? Có thuyết phục không? Vì sao?

Việc Án lệ số 26/2018/AL áp dụng thời hiệu 30 năm của BLDS 2015 cho di sản
của cụ T với thời điểm bắt đầu từ thời điểm Pháp lệnh thừa kế năm 1990 được công bố
căn cứ quy định tại khoản 4 Điều 36 Pháp lệnh thừa kế ngày 30-8-1990, đã từng quy
định thời hiệu khởi kiện thừa kế là 10 năm và thời hiệu khởi kiện đòi nợ từ di sản thừa
kế là 3 năm. Theo Điều 36 Pháp lệnh Thừa kế 1990: “Trong thời hạn 10 năm, kể từ
thời điểm mở thừa kế, người thừa kế có quyền khởi kiện để yêu cầu chia di sản, xác
nhận quyền thừa kế của mình hoặc bác bỏ quyền thừa kế của người khác. Trong thời
hạn 03 năm, kể từ thời điểm mở thừa kế, cá nhân, cơ quan, tổ chức có quyền khởi kiện
để yêu cầu người thừa kế thực hiện nghĩa vụ về tài sản do người chết để lại, thanh toán
các khoản chi từ tài sản. Trong trường hợp do trở ngại khách quan mà không thực hiện
được quyền khởi kiện trong thời hạn quy định tại khoản 1, khoản 2 Điều này thì thời
gian bị trở ngại khách quan không tính vào thời hiệu khởi kiện. Đối với các việc thừa
kế đã mở trước ngày ban hành Pháp lệnh (30/08/1990) thì thời hạn được tính từ ngày
công bố Pháp lệnh này (10/09/1990).”

Em nghĩ có sự thuyết phục. Bởi vì nếu không áp dụng BLDS 2015 khi xác định
thời hiệu khởi kiện là 30 năm, thì các vụ việc có người chết trước khi BLDS 2015 ra
đời thì sẽ không được áp dụng BLDS 2015 để tranh chấp thừa kế. Vì vậy sẽ làm cho
bên khiếu nại về việc chia thừa kế. Trừ BLDS 2015 thì các bộ luật còn lại quy định
thời hiệu khởi kiện là 10 năm đối với bất động sản và động sản. Điều này gây thiệt hại
cho những người có quyền và nghĩa vụ liên quan. Câu hỏi đặt ra là những vụ việc có
người chết để lại di sản trước khi BLDS 2015 ra đời thì áp dụng theo BLDS nào là hợp
lý. Nếu không giải quyết tranh chấp thì vụ việc vẫn sẽ tiếp tục và ảnh hưởng lợi ích
đến các bên có liên quan. Khi áp dụng BLDS 2015 và Pháp lệnh 1990 thì thời hiệu bắt
đầu là từ ngày công bố Pháp lệnh, không bắt đầu từ thời điểm mở thừa kế mà bắt đầu
từ thời điểm công bố pháp lệnh. Thời điểm bắt đầu chậm đi làm chủ thể liên quan yêu
cầu Tòa án giải quyết tranh chấp và tiếp nhận được với công lý. Việc áp dụng này
không thể hiện sự cứng nhắc và đáp ứng quyền và lợi ích của người có liên quan. Theo
Đỗ Văn Đại thì điểm không hợp lý ở đây là không nên áp dụng thời hiệu khi giải quyết
25

tranh chấp di sản, bởi vì chúng ta nên tránh những trường hợp từ chối xét xử do quá
thời hiệu.

3.2.6. Suy nghĩ của anh/chị về Án lệ số 26/2018/AL nêu trên.

Án lệ số 26/2018/AL vẫn còn tồn tại nhiều điểm bất cập, án lệ này chưa bàn về
hệ quả của việc hết thời hiệu, vấn đề chia di sản thừa kế cũng còn chưa rõ ràng, việc áp
dụng Điều 623 trong BLDS 2015 để xác định các trường hợp mở thừa kế trước
10/09/1990 là bất hợp lý bởi:
“Theo quy định tại điểm d khoản 1 Điều 688 Bộ luật Dân sự năm 2015, đối với
giao dịch dân sự được xác lập trước ngày Bộ luật Dân sự này có hiệu lực, thì thời hiệu
được áp dụng theo quy định của Bộ luật này.”
“Tòa án áp dụng quy định tại Điều 623 Bộ luật Dân sự năm 2015 để xác định
thời hiệu đối với trường hợp mở thừa kế trước ngày 01-01-2017. Căn cứ quy định tại
khoản 4 Điều 36 Pháp lệnh thừa kế ngày 30-8-1990 và Bộ luật Dân sự năm 2015,
trong trường hợp này thời hiệu khởi kiện chia di sản của cụ T cho các đồng thừa kế
vẫn còn theo quy định của pháp luật.”
Tại điểm b khoản 10 Nghị quyết 02/HĐTP ngày 19/10/1990 quy định: “Đối với
những việc thừa kế đã mở trước ngày 10-9-1990, thì thời hiệu khởi kiện được tính từ
ngày 10-9-1990, do đó: Sau ngày 10-9-2000, đương sự không có quyền khởi kiện để
yêu cầu chia di sản, xác nhận quyền thừa kế của mình hoặc bác bỏ quyền thừa kế của
người khác…”
26

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Nguyễn Xuân Quang,Lê Nết và Nguyễn Hồ Bích Hằng, Luật dân sự Việt Nam, Nxb.
Đại học quốc gia 2007, tr.116 đến 120; 144 đến 149.

2. Phạm Thị Phương Thanh, Phân loại hợp đồng dân sự theo quy định hiện nay
(https://luatminhkhue.vn/phan-loai-hop-dong-dan-su-theo-quy-dinh.aspx).

3. Lê Minh Hùng, Giáo trình Pháp luật về tài sản, quyền sở hữu và thừa kế của Đại học
Luật TP. HCM, Nxb. Hồng Đức 2023, tr. 386.

4. Lê Minh Hùng, Giáo trình Pháp luật về tài sản, quyền sở hữu và thừa kế của Đại học
Luật TP. HCM, Nxb. Hồng Đức 2023, tr. 387.

5. Bộ luật dân sự 2015.

6. PGS.TS. Lê Minh Hùng (chủ biên) (2023), Giáo trình Pháp luật về tài sản, quyền
sở hữu và thừa kế, ĐH Luật TP. Hồ Chí Minh, Nxb Hồng Đức, tr. 380.

7. Nguyễn Thị Hồng Thúy, Bảo vệ người thứ ba ngay tình theo Bộ luật Dân sự 2015
và thực tiễn áp dụng.

8. Bộ Luật Dân Sự Quebec (https://www.legisquebec.gouv.qc.ca/en/document/cs/ccq-


1991).

9. Bộ Luật Dân Sự Thuỵ Sĩ


(https://legislationline.org/sites/default/files/documents/e6/SWITZ_civil
%20code_excerpts.pdf).

10. Đỗ Văn Đại– Lương Văn Lắm, “Xử lý việc lấn chiếm tài sản người khác trong
pháp luật Việt Nam”, Tạp chí Khoa học pháp lý, số 4 (59) 2010.
27

11. Đỗ Văn Đại– Lương Văn Lắm, “Xử lý việc lấn chiếm tài sản người khác trong
pháp luật Việt Nam”, Tạp chí Khoa học pháp lý, số 4 (59) 2010.

You might also like