You are on page 1of 30

MỤC LỤC

DANH MỤC VIẾT TẮT .............................................................................................. 5


Vấn đề 1: Hình thức của di chúc ................................................................................. 6
 Tóm tắt Bản án số 83/2009/DSPT ngày 28/12/2009 của Tòa án nhân dân tỉnh Phú
Yên .............................................................................................................. 6
 Tóm tắt Quyết định số 874/2011/DS-GĐT ngày 22/11/2011 của Tòa dân sự
Tòa án nhân dân tối cao. ........................................................................................... 6
1. Điều kiện về hình thức để di chúc tự viết tay có giá trị pháp lý? Nêu cơ sở pháp
lý khi trả lời. ..................................................................................................... 7
2. Nếu di chúc của ông Này là di chúc phải có người làm chứng thì những người đã
làm chứng di chúc của ông Này có là người làm chứng hợp pháp không?
Nêu cơ sở pháp lý khi trả lời. ................................................................................... 7
3. Di chúc của ông Này có là di chúc do ông Này tự viết tay không? Vì sao? 7 4. Suy
nghĩ của anh/chị về hướng giải quyết trên của Tòa án liên quan đến hình thức di
chúc của ông Này khi đây là di chúc do ông Này tự viết tay. .......... 8
5. Di chúc của cụ Hựu đã được lập như thế nào? ............................................ 8
6. Cụ Hựu có biết chữ không? Đoạn nào của Quyết định số 874 cho câu trả lời? 8
7. Di chúc của người không biết chữ phải thỏa mãn các điều kiện nào để có hình
thức phù hợp với quy định của pháp luật? .................................................... 8
8. Các điều kiện nào nêu trên đã được đáp ứng đối với di chúc của ông Hựu?
9
9. Các điều kiện nào nêu trên đã không được đáp ứng đối với di chúc của ông
Hựu? 9 10. Theo anh/chị, di chúc nêu trên có thỏa mãn điều kiện về hình thức
không?
Vì sao? ...................................................................................................................... 10
11. Suy nghĩ của anh/chị về các quy định trong BLDS liên quan đến hình thức di
chúc của người không biết chữ. .......................................................................... 11 Vấn
đề 2: Tài sản được định đoạt theo di chúc ........................................................ 13
 Tóm tắt Quyết định số 359/2013/DS-GĐT ngày 28/8/2013 của Tòa dân sự
Tòa án nhân dân tối cao. ......................................................................................... 13
 Tóm tắt Quyết định số 58/2018/DS-GĐT ngày 27-9-2018 của Tòa án nhân dân
cấp cao tại Hà Nội. ........................................................................................... 13
1. Cụ Hương đã định đoạt tài sản nào? Đoạn nào của Quyết định số 359 cho câu
trả lời? ............................................................................................................... 14
2. Đoạn nào của Quyết định số 359 cho thấy tài sản cụ Hương định đoạt trong
di chúc là tài sản chung của vợ chồng cụ Hương? ............................................... 14
3. Tòa án đã công nhận phần nào của di chúc? Đoạn nào của Quyết định số
359 cho câu trả lời? ..................................................................................................
14
4. Suy nghĩ của anh/chị về hướng giải quyết trên của Tòa giám đốc thẩm. . 15 5.
Nếu cụ Quý chết trước cụ Hương, phần nào của di chúc có giá trị pháp lý?
Nêu cơ sở pháp lý khi trả lời. ..................................................................................
16
6. Nếu tài sản được định đoạt trong di chúc chỉ thuộc sở hữu của cụ
Hương vào đầu tháng 4/2009 thì di chúc của cụ Hương có giá trị pháp lý
không? Vì sao?
16
7. Quyết định số 58, đoạn nào cho thấy quyền sử dụng đất của cụ C và cụ
D đã bị thu hồi trước khi hai cụ
chết? ....................................................................... 17
8. Đoạn nào của Quyết định số 58 cho thấy Tòa giám đốc thẩm xác định di
sản của cụ C và cụ D là quyền sử dụng đất? Suy nghĩ của anh/chị về hướng xác
định vừa nêu của Tòa giám đốc thẩm? ..................................................................
17
9. Đoạn nào của Quyết định số 58 cho thấy Tòa giám đốc thẩm theo hướng
cụ C và cụ D được định đoạt theo di chúc giá trị quyền sử dụng đất bị Nhà
nước thu hồi? Suy nghĩ của anh/chị về hướng vừa nêu của Tòa giám đốc
thẩm. ....... 18
Vấn đề 3: Di chúc chung của vợ chồng .....................................................................
19
 Tóm tắt Bản án số 14/2017/DSST ngày 28/9/2017 của Tòa án nhân dân
huyện C tỉnh Phú Thọ .............................................................................................
19
1. Có pháp luật nước ngoài nào ghi nhận di chúc chung của vợ chồng
không?
Nêu ít nhất một hệ thống pháp luật mà anh/chị biết. ...........................................
19
2. Đoạn nào của bản án cho thấy di chúc có tranh chấp là di chúc chung của
vợ
chồng? ................................................................................................................
.. 19
3. Theo Tòa án, di chúc chung của vợ chồng có giá trị pháp lý khi áp dụng
BLDS 2015 không? Đoạn nào của bản án cho câu trả lời....................................
19 4. Suy nghĩ của anh/chị về hướng giải quyết trên của Tòa án về di chúc
chung
của vợ chồng trong mối quan hệ với BLDS 2015. .................................................
20 Vấn đề 4: Di sản dùng vào việc thờ
cúng .................................................................. 21
 Tóm tắt Bản án số 222/2018/DS-PT ngày 15/11/2018 Tòa án nhân dân tỉnh
Cà Mau. .....................................................................................................................
21
1. Trong điều kiện nào di sản dùng vào việc thờ cúng có giá trị pháp lý?
Nêu cơ sở pháp lý khi trả
lời ........................................................................................... 21
2. Đối với phần đất có diện tích 4.582,3 m 2, Tòa án có coi đây là di sản
dùng vào việc thờ cúng không? Đoạn nào của Bản án cho câu trả
lời? ....................... 22 3. Các điều kiện để xác lập di sản dùng vào việc thờ cúng
có được thỏa mãn không trong vụ việc đang nghiên cứu? Nêu cơ sở pháp lý khi
trả lời. ............... 22 4. Tòa án không chấp nhận yêu cầu chia phần đất có diện
tích 4.582,3 m2 có
thuyết phục không? Nêu cơ sở pháp lý khi trả lời. ...............................................
23

3
5. Tòa án xác định phần đất có diện tích 4.582,3 m 2 trở thành tài sản chung
của những người thừa kế có thuyết phục không? Nêu cơ sở pháp lý khi trả lời.
24
6. Tòa án xác định “mọi giao dịch chuyển nhượng, thế chấp ... liên quan đến
phần đất này phải có sự đồng ý của các đồng thừa kế” có thuyết phục không?
Nêu cơ sở pháp lý khi trả lời. .................................................................................
24
7. Tòa án xác định “Nếu bà L không thực hiện tốt trách nhiệm thờ cúng thì
các đồng thừa kế có thể giao cho người khác quản lý, sử dụng phần đất này để
thờ cúng” có thuyết phục không? Nêu cơ sở pháp lý khi trả lời. .......................
25
8. Suy nghĩ của anh/chị về chế định di sản dùng vào việc thờ cúng trong
BLDS. .......................................................................................................................
25
DANH MỤC THAM KHẢO .....................................................................................
27
A. Văn bản quy phạm pháp luật ......................................................................
27
B. Tài liệu tham khảo ........................................................................................
27
DANH MỤC VIẾT TẮT

Chữ viết tắt Nội dung được viết tắt


BLDS Bộ luật Dân sự
UBND Ủy ban nhân dân
TAND / TANDTC Tòa án nhân dân / Tòa án nhân dân tối
cao

6
Vấn đề 1: Hình thức của di chúc
 Tóm tắt Bản án số 83/2009/DSPT ngày 28/12/2009 của Tòa án nhân
dân tỉnh Phú Yên phần này nói về hình thức di chúc, phải nói về hình thức di
chúc
Nguyên đơn: Ông Nguyễn Thành Hiếu
Bị đơn: Bà Đặng Thị Trọng
Vấn đề tranh chấp: Tranh chấp thừa kế tài sản.
Nội dung: Ông Này và bà Trọng là vợ chồng hợp pháp, trước khi qua đời, ông
Này có lập di chúc để lại cho Hiếu là con riêng của ông được toàn quyền thừa kế sử
dụng lô đất có giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đứng tên ông Này, bà Trọng. Giấy
thừa kế do ông Này viết không được công chứng, chứng thực nhưng được lập trong
lúc ông Này còn minh mẫn, sáng suốt, không bị lừa dối, đe dọa hay cưỡng ép và có
cha, em gái, em trai ông Này điểm chỉ và ký tên làm chứng nên được coi là di chúc
hợp pháp. Ông Hiếu xin ½ lô đất để sử dụng nhưng bà Trọng bác bỏ, từ đó xảy ra
tranh chấp.
Hướng giải quyết của Tòa: Ở Bản án dân sự sơ thẩm, Tòa án chấp nhận yêu cầu
khởi kiện của ông Hiếu về việc tranh chấp di sản thừa kế, bà Trọng được nhận toàn bộ
tài sản, nhà và đất do ông Này và bà Trọng đứng tên và phải có trách nhiệm thối
chênh lệch cho ông Hiếu số tiền 78.795.000đ được chia và được nhận từ tài sản theo
di chúc. Tại Bản án dân sự phúc thẩm, bà Trọng rút toàn bộ kháng cáo và giữ nguyên
quyết định của tòa sơ thẩm.
 Tóm tắt Quyết định số 874/2011/DS-GĐT ngày 22/11/2011 của Tòa
dân sự Tòa án nhân dân tối cao.
Nguyên đơn: Ông Đỗ Văn Quang
Bị đơn: Bà Hoàng Thị Ngâm
Vấn đề tranh chấp: Tranh chấp về thừa kế tài sản
Nội dung: Ông Quang khởi kiện yêu cầu huỷ di chúc của cụ Hựu và yêu cầu chia
thừa kế đối với di sản của cụ Hựu theo pháp luật. Nhà, đất tranh chấp là tài sản của tổ
tiên cụ Hằng để lại cho vợ chồng cụ Hằng và cụ Hựu quản lý. Sau khi cụ Hằng chết, cụ
Hựu tiếp tục quản lý nhà, đất cho đến khi cụ Hựu chết (năm 2005). Hiện nay, bà Ngâm
quản lý, sử dụng và được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đối với các thửa đất. Bà
Ngâm đã xuất trình một bản di chúc của cụ Hựu lập năm 1998 với nội dung cụ Hựu để
lại tài sản nhà, đất cho bà Ngâm và bà Lựu. Tuy nhiên, chưa có đủ căn cứ xác định di
chúc nêu trên thể hiện cùng ý chí của cụ Hựu.
Hướng giải quyết của Toà: Tòa án cấp sơ thẩm và Tòa án cấp phúc thẩm chỉ căn
cứ vào lời khai của ông Vũ (là đại diện của dòng họ Đỗ) và sự thừa nhận của bà
Ngẫm, từ đó xác định diện tích đất tranh chấp là tài sản của dòng họ Đỗ là không
đúng. Hội đồng xét xử giám đốc thẩm nhận định việc Toà sơ thẩm và Toà phúc thẩm
công nhận di chúc của cụ Hựu hợp pháp là chưa đủ căn cứ.

8
1. Điều kiện về hình thức để di chúc tự viết tay có giá trị pháp lý? Nêu cơ sở
pháp lý khi trả lời.
Đối với trường hợp di chúc viết bằng tay, căn cứ theo Điều 633 BLDS 2015:
“Người lập di chúc phải tự viết và tự ký vào bản di chúc. Việc lập chúc bằng văn bản
không có người làm chứng phải tuân theo quy định tại Điều 631 của Bộ luật này.”
Từ đó nhận thấy trường hợp di chúc bằng tay phải tuân thủ hình thức người lập di
chúc phải là người tự viết, tự ký vào bản di chúc của mình, không được có sự can thiệp
từ bên thứ hai nào khác. Việc làm đó giúp cá biệt hóa chữ viết của người lập di chúc để
tránh trường hợp có tranh chấp.
Yếu tố đánh giá di chúc viết tay có giá trị:
+Các đk chung: Điều 630
+ĐK cụ thể: -tự viết, tự ký vào di chúc (k cần chú ý tới viết tay có người làm
chứng)
+Tự viết: Họ viết, viết bằng nhiều loại bút khác nhau: luật k quy định
Theo tôi, di chúc thể hiện ý chí người chết, miễn sao di chúc thể
hiện được ý chí người chết
Viết vào đâu: giấy vệ sinh, tờ lịch: k quan trọng, miễn thể hiện
được ý chí
Viết bằng: tay k thuận, chân, miệng (so sánh với chữ trước đây):
k được nếu bình thường họ k viết vậy (phải cm được trước đây họ viết như vậy rồi vì k
có chứng thực – đảm bảo ý chí)
+Tự ký: k có chữ ký, chỉ có điểm chỉ (đảm bảo ý chí người chết, đã tự
viết là biết chữ, thì phải ký được – di chúc chỉ có 2 dk là tự viết, tự ký phải đầy đủ đk)
*Tại sao viết tay có thể k cần làm chứng:
-Trong th này đã thể hiện được ý chí của người chết rồi, k cần làm chứng

2. Nếu di chúc của ông Này là di chúc phải có người làm chứng thì những
người đã làm chứng di chúc của ông Này có là người làm chứng hợp pháp
không? Nêu cơ sở pháp lý khi trả lời.
Trong phần nhận định của Tòa án có viết:
Trước khi qua đời vào ngày 19/12/2007 ông Nguyễn Này có lập giấy giao
quyền thừa kế toàn bộ nhà đất thuộc quyền sở hữu chung của ông với bà Trọng

9
cho Nguyễn Thành Hiếu là con riêng của ông Này, được cha, em gái, em trai
ông Này chỉ điểm kí tên làm chứng.
Tức di chúc của ông Này có người làm chứng là cha, em gái, em trai của ông
Này là hợp pháp. Vì căn cứ theo Điều 632 BLDS 2015 quy định:
“Mọi người đều có thể làm chứng cho việc lập di chúc, trừ những người sau
đây:
1. Người thừa kế theo di chúc hoặc theo pháp luật của người lập di chúc.
2. Người có quyền, nghĩa vụ tài sản liên quan tới nội dung di chúc.
3. Người chưa thành niên, người mất năng lực hành vi dân sự, người có khó
khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi.”
Di chúc của ông Nguyễn Này để lại cho con trai là Nguyễn Thành Hiếu không
hề đề cập đến phần của cha, em gái, em trai mình, cũng như không đề cập đến nghĩa
vụ hay quyền của cha, em gái, em trai mình trong di chúc. Hơn thế nữa cha, em gái,
em trai của ông Này là những người đã thành niên, không rơi vào trường hợp mất, khó
khăn trong giao dịch dân sự. Từ đó nhận thấy những người làm chứng cho di chúc của
ông Này không rơi vào bất kỳ trường hợp nào không được làm chứng theo quy định
của pháp luật. Vì thế họ làm chứng là hợp pháp.
Người làm chứng: cha, em gái, anh trai
K1, 632: all người thuộc hàng thừa kế đều k được làm chứng – có quan điểm
cho rằng như vậy quá rộng, vì chia thừa kế theo thứ bậc, hàng sau k được chia – thực
tế cấm hết người thân, có những gđ k muốn công khai di chúc có thể k có làm chứng
K3, 632: họ bị bệnh, k xđ được lúc làm chứng có làm chủ được hành vi k
k liệt kê người HẠN CHẾ: hạn chế là Nghiện ma túy, chất kích
thích do bản thân họ, họ chỉ bị hạn chế gd dân sự, vẫn nhận thức làm chủ hành vi được
3. Di chúc của ông Này có là di chúc do ông Này tự viết tay không? Vì sao?
Trong phần Nhận thấy có đoạn: “Để tránh tranh chấp về sau nên ông Này có
viết giấy này để nhà và đất đai cho cháu Hiếu thừa hưởng sau ông Này có mất thì
chấy Hiếu có chỗ ở và thờ cúng cho ông Này”.
Trong phần Xét thấy có đoạn: “Xét thấy, giấy thừa kế do ông Nguyễn Này viết
không được chính quyền địa phương công chứng, chứng thực nhưng được lập lúc ông
Này còn sáng suốt không bị lừa dối, đe dọa hoặc cưỡng ép và có nhiều người làm
chứng…”.
Từ đó nhận thấy di chúc của ông Này là do ông Này tự viết tay.
-Di chúc: +Tự viết: thỏa mãn
+Tự ký: bản án k đề cập, Tòa k đề cập, coi như đã thỏa mãn

10
4. Suy nghĩ của anh/chị về hướng giải quyết trên của Tòa án liên quan đến
hình thức di chúc của ông Này khi đây là di chúc do ông Này tự viết tay.
Theo nhóm, hướng giải quyết của Tòa án là hợp tình hợp lý vì căn cứ theo Điều
633 BLDS 2015 quy định về di chúc bằng văn bản không có người làm chứng:
“Người lập di chúc phải tự tay viết và ký vào bản di chúc” thì hình thức duy nhất đối
với di chúc tự viết tay là người lập di chúc phải tự viết tay và tự ký vào bản di chúc
ngoài ra không có quy định nào khác về việc phải công chứng, chứng thực. Theo Điều
634 BLDS 2015 quy định về việc di chúc bằng văn bản có người làm chứng thì: “V/v
trường hợp nếu người lập di chúc không tự mình viết tay thì có thể tự mình đánh máy
hoặc nhờ người khác viết hoặc đánh máy di chúc, nhưng phải có ít nhất hai người
làm chứng”. Đối với di chúc của ông Này, là do ông Này tự viết tay, ký tên và có sự
làm chứng của người là cha, em gái và em trai. Việc bản di chúc của ông Này có thêm
người làm chứng chỉ là yếu tố phụ để làm tăng tính xác thực của bản di chúc chứ
không phải là điều kiện bắt buộc để bản di chúc của ông Này được xem là hợp pháp.
Do đó, di chúc của ông Này được xác định là di chúc hợp pháp và hướng giải
quyết của Tòa án liên quan đến hình thức di chúc của ông Này khi đây là di chúc do
ông Này tự viết tay là hợp tình hợp lý.
Cơ sở pháp lý:
Phân tích các đk Di chúc viết tay có giá trị pháp lý:
+ĐK chung: (có quan điểm: Để lại hết TS cho con riêng k phù hợp đạo
đức xã hội: k sao, vì di chúc là định đoạt TS thể hiện ý chí cá nhân, đối với người
thân, đã có Chia di sản k phụ thuộc di chúc 644)
+ĐK riêng:
Có người làm chứng, tăng tính thuyết phục k là đk Di chúc viết tay có giá trị
5. Di chúc của cụ Hựu đã được lập như thế nào?
Di chúc của cụ Hựu đã được lập thành như sau:
Ngày 25/11/1998 di chúc là do cụ Hựu đọc cho ông Vũ viết, cụ Hựu điểm chỉ,
ông Vũ và cụ Đỗ Thị Quy (là mẹ của ông Vũ) ký tên làm chứng, sau đó ngày
14/01/1999 bà Lựu mang di chúc đến cho ông Hoàng Văn Thưởng (là trưởng
thôn) và UBND xã Ai Lâm xác nhận.
6. Cụ Hựu có biết chữ không? Đoạn nào của Quyết định số 874 cho câu trả
lời?
Cụ Hựu không biết chữ.

11
Đoạn xét thấy trong Quyết định 874 có câu: “Ông Quang xác định cụ Hựu là
người không biết chữ”.
7. Di chúc của người không biết chữ phải thỏa mãn các điều kiện nào để có
hình thức phù hợp với quy định của pháp luật?
Căn cứ theo khoản 1 và khoản 3 Điều 630 BLDS 2015, di chúc của người không
biết chữ phải tuân thủ theo các điều kiện sau đây:
“1. Di chúc hợp pháp phải có đủ các điều kiện sau:
a) Người lập di chúc minh mẫn, sáng suốt trong lúc lập di chúc; không bị
lừa dối, đe dọa hoặc cưỡng ép;
b) Nội dung của di chúc không vi phạm điều cấm của luật, không trái đạo
đức xã hội; hình thức di chúc không trái quy định của luật. …
3. Di chúc của người hạn chế về thể chất hoặc của người không biết chữ phải
được người làm chứng lập thành văn bản và có công chứng hoặc chứng thực”.
Ngoài ra, theo Điều 656 BLDS 2005:
“Trong trường hợp người lập di chúc không thể tự mình viết bản di chúc thì có
thể nhờ người khác viết, nhưng phải có ít nhất là hai người làm chứng. Người
lập di chúc phải ký hoặc điểm chỉ vào bản di chúc trước mặt những người làm
chứng; những người làm chứng xác nhận chữ ký, điểm chỉ của người lập di
chúc và ký vào bản di chúc”.
Do đó, theo quy định của pháp luật thì di chúc của người không biết chữ phải
thỏa mãn các điều kiện như trên để có hình thức phù hợp với quy định pháp luật.
Điều 630
Di chúc của người k biết chữ để hợp pháp: -phải lập thành vb
-có công chứng, chứng thực: Thỏa
mãn, đã có mẹ ông Vũ,...
+Di chúc được công chứng, chứng thực hợp pháp k: KHÔNG HỢP PHÁP
chỉ chứng thực về chữ ký (chính bản thân người lập di chúc phải mang đi) – phải
chứng thực cả nd, chữ ký
*Trích ý kiến ra phải kèm theo đánh giá, người viết hộ có thể được làm người
làm chứng, có quan điểm cho rằng nên thêm 1 người làm chứng nữa để đảm bảo trung
thực
8. Các điều kiện nào nêu trên đã được đáp ứng đối với di chúc của ông

12
Hựu?
Căn cứ vào khoản 3 Điều 630 BLDS 2015: “Di chúc của người hạn chế về thể
chất hoặc của người không biết chữ phải được người làm chứng lập thành văn bản và
có công chứng hoặc chứng thực”, các điều kiện đã được đáp ứng đối với di chúc của
cụ Hựu là di chúc được người làm chứng lập thành văn bản. Cụ thể di chúc đã được cụ
Vũ, cụ Quý làm chứng và cụ Hựu đã đọc di chúc cho cụ Vũ viết thành văn bản.

9. Các điều kiện nào nêu trên đã không được đáp ứng đối với di chúc của
ông Hựu?
Căn cứ vào Điều 636 BLDS 2015:
“Việc lập di chúc tại tổ chức hành nghề công chứng hoặc UBND cấp xã phải
tuân theo thủ tục sau đây:
1. Người lập di chúc tuyên bố nội dung của di chúc trước công chứng viên
hoặc người có thẩm quyền chứng thực của UBND cấp xã. Công chứng viên
hoặc người có thẩm quyền chứng thực của UBND cấp xã phải ghi chép lại nội
dung mà người lập di chúc đã tuyên bố. Người lập di chúc ký hoặc điểm chỉ
vào bản di chúc sau khi xác nhận bản di chúc đã được ghi chép chính xác và
thể hiện đúng ý chí của mình. Công chứng viên hoặc người có thẩm quyền
chứng thực của UBND cấp xã ký vào bản di chúc.
2. Trong trường hợp người lập di chúc không đọc được hoặc không nghe
được bản di chúc, không ký hoặc không điểm chỉ được thì phải nhờ người làm
chứng và người này phải ký xác nhận trước mặt công chứng viên hoặc người
có thẩm quyền chứng thực của UBND cấp xã. Công chứng viên, người có thẩm
quyền chứng thực của UBND cấp xã chứng nhận bản di chúc trước mặt người
lập di chúc và người làm chứng”.
Theo khoản 3 Điều 630 BLDS 2015, các điều kiện đã không được đáp ứng đối
với di chúc của ông Hựu là di chúc không được công chứng hoặc chứng thực theo thủ
tục luật quy định. Cụ thể, mặc dù di chúc của cụ Hựu có xác nhận của ông Thưởng (là
Trưởng thôn) và xác nhận của UBND xã Mai Lâm nhưng ông Thưởng không chứng
kiến cụ Hựu lập di chúc. Việc UBND xã Mai Lâm xác nhận là do bà Lựu mang di
chúc đến xác nhận và UBND xã chỉ xác nhận chữ ký của ông Thưởng chứ không xác
nhận nội dung của di chúc. Mặt khác, qua giám định giấu vân tay của cụ Hựu tại bản
di chúc thì Viện khoa học hình sự Tổng cục cảnh sát kết luận: dấu vân tay mờ không
thể hiện rõ các đặc điểm riêng nên không đủ yếu tố giám định, do đó, chưa có căn cứ
xác định di chúc nêu trên thể hiện đúng ý chí của cụ Hựu.

13
10. Theo anh/chị, di chúc nêu trên có thỏa mãn điều kiện về hình thức
không? Vì sao?
Theo nhóm, di chúc nêu trên của cụ Hựu (người không biết chữ) không thoả mãn
điều kiện về hình thức. Căn cứ vào khoản 3 Điều 630 BLDS năm 2015: “Di chúc của
người bị hạn chế về thể chất hoặc của người không biết chữ phải được người làm
chứng lập thành văn bản và có công chứng hoặc chứng thực”, thì dù di chúc của cụ
Hựu đã được người làm chứng (cụ Vũ) viết thành văn bản nhưng về điều kiện phải có
công chứng hoặc chứng thực thì lại không đáp ứng được những thủ tục do luật quy
định. Theo quy định tại Điều 636 BLDS năm 2015 về thủ tục lập di chúc về công
chứng hoặc chứng thực:
“Việc lập di chúc tại tổ chức hành nghề công chứng hoặc UBND cấp xã phải
tuân theo thủ tục sau đây:
1. Người lập di chúc tuyên bố nội dung của di chúc trước công chứng viên
hoặc người có thẩm quyền chứng thực của UBND cấp xã. Công chứng viên
hoặc người có thẩm quyền chứng thực của UBND cấp xã phải ghi chép lại nội
dung mà người lập di chúc đã tuyên bố. Người lập di chúc ký hoặc điểm chỉ
vào bản di chúc sau khi xác nhận bản di chúc đã được ghi chép chính xác và
thể hiện đúng ý chí của mình. Công chứng viên hoặc người có thẩm quyền
chứng thực của UBND cấp xã ký vào bản di chúc.
2. Trong trường hợp người lập di chúc không đọc được hoặc không nghe
được bản di chúc, không ký hoặc không điểm chỉ được thì phải nhờ người làm
chứng và người này phải ký xác nhận trước mặt công chứng viên hoặc người
có thẩm quyền chứng thực của UBND cấp xã. Công chứng viên, người có thẩm
quyền chứng thực của UBND cấp xã chứng nhận bản di chúc trước mặt người
lập di chúc và người làm chứng”.
Trong trường hợp này, mặc dù di chúc của cụ Hựu có xác nhận của ông Thưởng
(là Trưởng thôn) và xác nhận của UBND xã Mai Lâm nhưng ông Thưởng không
chứng kiến cụ Hựu tuyên bố nội dung của di chúc. Việc UBND xã Mai Lâm xác nhận
là do bà Lựu mang di chúc đến xác nhận và UBND xã chỉ xác nhận chữ ký của ông
Thưởng chứ không xác nhận nội dung của di chúc. Điều này là không phù hợp với
luật.
11. Suy nghĩ của anh/chị về các quy định trong BLDS liên quan đến
hình thức di chúc của người không biết chữ.
Trong BLDS năm 2015 có những quy định liên quan đến hình thức di chúc của
người không biết chữ là khoản 3 Điều 630 BLDS năm 2015: “Di chúc của người bị
14
hạn chế về thể chất hoặc của người không biết chữ phải được người làm chứng lập
thành văn bản và có công chứng hoặc chứng thực”.
Và Điều 636 BLDS năm 2015:
“Việc lập di chúc tại tổ chức hành nghề công chứng hoặc UBND cấp xã phải
tuân theo thủ tục sau đây:
1. Người lập di chúc tuyên bố nội dung của di chúc trước công chứng viên
hoặc người có thẩm quyền chứng thực của UBND cấp xã. Công chứng viên
hoặc người có thẩm quyền chứng thực của UBND cấp xã phải ghi chép lại nội
dung mà người lập di chúc đã tuyên bố. Người lập di chúc ký hoặc điểm chỉ
vào bản di chúc sau khi xác nhận bản di chúc đã được ghi chép chính xác và
thể hiện đúng ý chí của mình. Công chứng viên hoặc người có thẩm quyền
chứng thực của UBND cấp xã ký vào bản di chúc.
2. Trong trường hợp người lập di chúc không đọc được hoặc không nghe
được bản di chúc, không ký hoặc không điểm chỉ được thì phải nhờ người làm
chứng và người này phải ký xác nhận trước mặt công chứng viên hoặc người
có thẩm quyền chứng thực của UBND cấp xã. Công chứng viên, người có thẩm
quyền chứng thực của UBND cấp xã chứng nhận bản di chúc trước mặt người
lập di chúc và người làm chứng”.
Những quy định này của BLDS năm 2015 đã hạn chế được khả năng người khác
lợi dụng người để lại di sản nhưng yếu về mặt thể chất để cưỡng ép, đe doạ, lừa dối
hay giả mạo họ lập di chúc không đúng với ý chí đích thực của họ. Tuy nhiên, những
quy định này vẫn còn nhiều bất cấp, cần hoàn thiện hơn. Thứ nhất, BLDS không quy
định rõ về người có thẩm quyền chứng thực là ai. Thứ ba, BLDS không quy định về
việc người đem di chúc đi công chứng, chứng thực là ai cũng như trách nhiệm, quyền
hạn của người làm chứng lập văn bản như thế nào. Thứ ba, BLDS cần quy định thêm
về thời hạn công chứng, chứng thực di chúc của người không biết chữ.

15
Vấn đề 2: Tài sản được định đoạt theo di chúc
 Tóm tắt Quyết định số 359/2013/DS-GĐT ngày 28/8/2013 của Tòa
dân sự Tòa án nhân dân tối cao.
Nguyên đơn: cụ Lê Thanh Quý
Bị đơn: Ông Nguyễn Hữu Dũng, ông Nguyễn Hữu Lộc
Vấn đề: Tranh chấp thừa kế
Nội dung: Cụ Quý và cụ Hương có tạo lập được bất động sản gồm nhà và đất,
diện tích 699 m2 đã được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất năm 1994, chưa
được cấp chủ quyền sở hữu nhà. Ngày 6/4/2009 cụ Nguyễn Văn Hương chết, để lại di
chúc chia toàn bộ căn nhà và đất cho 5 người con là Nguyễn Ngọc Đức, Nguyễn Hữu
Nghĩa, Nguyễn Ngọc Hiếu, Nguyễn Hữu Dũng, Quảng Thị Kiều (Vợ ông Nguyễn
Hữu Trí). Di chúc của cụ Hương đã được công chứng tại Phòng công chứng số 4
thành phố Hồ Chí Minh ngày 16/1/2009. Cụ Quý khởi kiện yêu cầu chia tài sản chung
của vợ chồng làm hai phần; yêu cầu được hưởng ½ căn nhà ở vị trí bên phải từ ngoài
nhìn vào và 2/3 suất thừa kế theo pháp luật đối vơi di sản của bà Hương bằng hiện vật
là phần diện tích nhà đất nối tiếp với phần diện tích dược hưởng của bà.
Hướng giải quyết của Tòa án: Tòa án nhận định cụ Quý được chia ½ diện tích từ
tài sản chung và 2/3 suất thừa kế theo pháp luật và phần còn lại chia đều cho 5 người
con theo di chúc của cụ Hương.
 Tóm tắt Quyết định số 58/2018/DS-GĐT ngày 27-9-2018 của Tòa án
nhân dân cấp cao tại Hà Nội.
Nguyên đơn: ông Trần Văn Y
Bị đơn: Phòng công chứng M
Vấn đề: Tranh chấp yêu cầu tuyên bố văn bản công chứng vô hiệu
Nội dung: Cụ Nguyễn Văn D và cụ Nguyễn Thị C là vợ chồng. Ngày
16/12/2009, cụ C lập di chúc với nội dung để lại một phần tài sản là bất động sản tại
thửa đất số 38, Tờ bản đồ số 13 cho con trai tôi (ông Nguyễn Văn D1). Ngày
15/1/2011, cụ D lập di chúc tại Phòng công chứng M, tỉnh Vĩnh Phúc với nội dung để
lại tài sản của mình tại thửa đất nêu trên cho ông D1. Sau khi cụ C và cụ D chết, ngày
26/1/2011, Phòng công chứng M tỉnh Vĩnh Phúc có văn bản công bố di chúc ngày
16/12/2009 của cụ C và di chúc ngày 15/1/2011 của cụ D đối với di sản của hai cụ.
Tuy nhiên, ông Trần Văn Y cho rằng thửa đất nêu trên ông đã mua của cụ C từ năm
1987, đến năm 1988 thì hai bên lập Giấy bán nhà và chuyển nhượng quyền sử dụng
đất và Hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất, việc trả tiền tuy không được các
bên viết giấy biên nhận nhưng có 2 người là bà Nguyễn Thị B (đã chết) và bà Trần
Thị K chứng kiến ông Y trả tiền cho cụ C, việc Phòng công chứng M tỉnh Vĩnh Phúc
công chứng di chúc của cụ D, Văn bản công bố di chúc làm ảnh hưởng đến quyền, lợi

16
ích hợp pháp của gia đình ông nên ông khởi kiện yêu cầu Tòa án tuyên bố các văn bản
công chứng trên vô hiệu.
Hướng giải quyết của Tòa: Theo Tòa án nhận định rằng cần xem xét đồng thời
giá trị pháp lý của hợp đồng mua bán nhà, đất giữa ông Trần Văn Y với cụ Nguyễn Thị
C và tính hợp pháp của bản di chúc do cụ D, cụ C lập cũng như Văn bản công bố di
chúc mới giải quyết triệt để vụ án và bảo đảm quyền, lợi ích của các đương sự.
1. Cụ Hương đã định đoạt tài sản nào? Đoạn nào của Quyết định số 359 cho
câu trả lời?
Cụ Hương đã định đoạt tài sản là toàn bộ nhà đất tại địa chỉ 25D/19 Nguyễn Văn
Đậu (nay là 302 Nguyễn Thượng Hiện, phường 5, quận Phú Nhuận). Ở phần xét thấy
của Quyết định số 359 cho câu trả lời, cụ thể:
Ngày 16/1/2009, cụ Hương di chúc toàn bộ nhà đất cho các con là Nguyễn
Ngọc Đức, Nguyễn Hữu Nghĩa, Nguyễn Ngọc Hiếu, Nguyễn Hữu Dũng,
Quảng Thị Kiều (Vợ ông Nguyễn Hữu Trí). Bản di chúc này về hình thức có
công chứng của Phòng Công chứng số 4, thành phố Hồ Chí Minh. Tại thời
điểm lập di chúc, cụ Hương có giấy chứng nhận sức khỏe của Bệnh viện Phú
Nhuận xác nhận cụ Hương minh mẫn.
2. Đoạn nào của Quyết định số 359 cho thấy tài sản cụ Hương định đoạt
trong di chúc là tài sản chung của vợ chồng cụ Hương?
Đoạn “về tài sản chung” ở phần nhận thấy của Quyết định số 359 cho thấy tài
sản cụ Hương định đoạt trong di chúc là tài sản chung của vợ chồng cụ Hương, cụ thể:
“Công nhận căn nhà số 302 Nguyễn Thượng Hiền, phường 5, quận Phú Nhuận (Số
cũ 25D/19 Nguyễn Văn Đậu) có diện tích 680,6 m 2, giá trị tiền xây dựng 433.587.700
đồng là tài sản chung của cụ Hương và cụ Quý”. Và ở phần xét thấy, Tòa án có nhận
định rằng “Tuy nhiên, về nội dung thì di chúc chỉ có giá trị một phần bởi nhà đất trên
là tài sản chung của vợ chồng cụ Hương và cụ Quý”.
3. Tòa án đã công nhận phần nào của di chúc? Đoạn nào của Quyết định số
359 cho câu trả lời?
Tòa án công nhận hiệu lực đối với phần tài sản của cụ Hương, tức ½ nhà đất,
được chia đều cho 5 người con, sau khi đã chia 2/3 suất thừa kế theo pháp luật cho cụ
Quý.
Ở phần xét thấy của Quyết định số 359 cho câu trả lời như sau:
Vì vậy, Tòa án cấp sơ thẩm xét xử di chúc của cụ Nguyễn Văn Hương có hiệu
lực một phần đối với phần tài sản của cụ Hương (½ nhà đất) nên được chia đều
cho 5 người con là các ông bà Nguyễn Ngọc Đức, Nguyễn Hữu Nghĩa, Nguyễn
17
Ngọc Hiếu, Nguyễn Hữu Dũng, Quảng Thị Kiều (vợ ông Nguyễn Hữu Trí) sau
khi đã chia cho cụ Quý 2/3 suất thừa kế theo pháp luật.
4. Suy nghĩ của anh/chị về hướng giải quyết trên của Tòa giám đốc thẩm.
Hướng giải quyết của Tòa án giám đốc thẩm là hợp lý, đúng với quy định của
pháp luật.
Thứ nhất, về phần di sản, căn cứ Điều 612 BLDS 2015 “Di sản bao gồm tài sản
riêng của người chết, phần tài sản của người chết trong tài sản chunng với người
khác”. Ở Quyết định số 359, phần tài sản mà cụ Hương định đoạt là tài sản chung của
cụ Hương và cụ Quý. Vậy nên, Tòa án công nhận hiệu lực đối với tài sản của cụ
Hương tức ½ nhà đất là hợp lý.
Thứ hai, về phần hình thức của di chúc, theo khoản 1 Điều 630 BLDS 2015:
“Di chúc hợp pháp phải có đủ các điều kiện sau đây:
a) Người lập di chúc minh mẫn, sáng suốt trong khi lập di chúc; không bị
lừa dối, đe doạ, cưỡng ép;
b) Nội dung của di chúc không vi phạm điều cấm của luật, không trái đạo
đức xã hội; hình thức di chúc không trái quy định của luật”.
Trường hợp di chúc của cụ Hương, Tòa án nhận định rằng tại thời điểm lập di
chúc cụ Hương có giấy chứng nhận sức khỏe của Bệnh viện Phú Nhuận xác nhận cụ
Hương minh mẫn. Bên cạnh đó, bản di chúc của cụ có công chứng tại Phòng công
chứng số 4, thành phố Hồ Chí Minh. Vậy nên, di chúc của cụ Hương là hợp pháp. Về
phần nội dung của di chúc, theo khoản 1 Điều 644 BLDS 2015:
“ Những người sau đây vẫn được hưởng phần di sản bằng hai phần ba suất
của một người thừa kế theo pháp luật nếu di sản được chia theo pháp luật,
trong trường hợp họ không được người lập di chúc cho hưởng di sản hoặc chỉ
cho hưởng phần di sản ít hơn hai phần ba suất đó: a) Con chưa thành niên,
cha, mẹ, vợ, chồng;
b) Con thành niên mà không có khả năng lao động.”
Cụ Quý trong trường hợp này không được người lập di chúc cho hưởng di sản
nhưng cụ Quý là vợ cụ Hương nên vẫn được hưởng 2/3 suất thừa kế. Đồng thời, cụ
Hương để lại di chúc chia tài sản cho 5 người con của cụ là các ông bà Nguyễn Ngọc
Đức, Nguyễn Hữu Nghĩa, Nguyễn Ngọc Hiếu, Nguyễn Hữu Dũng, Quảng Thị Kiều
(vợ ông Nguyễn Hữu Trí) nên các ông bà được chia thừa kế theo nội dung của di
chúc. Tòa án nhận định cụ Quý được hưởng 2/3 suất thừa kế và ½ nhà đất từ tài sản
chung; phần tài sản của cụ Hương sau khi đã 2/3 suất thừa kế cho cụ Quý được chia

18
cho 5 người con của cụ là hợp tình, đúng với quy định của pháp luật, đảm bảo được
quyền lợi của các đồng thừa kế.
5. Nếu cụ Quý chết trước cụ Hương, phần nào của di chúc có giá trị pháp lý?
Nêu cơ sở pháp lý khi trả lời.
Nếu cụ Quý chết trước cụ Hương thì di chúc của cụ Hương chỉ có giá trị pháp lý
đối với phần tài sản của cụ gồm ½ nhà đất cùng phần tài sản cụ được hưởng thừa kế từ
phần di sản của cụ Quý.
Trường hợp 1: Cụ Quý chết trước cụ Hương mà không để lại di chúc. Căn cứ
theo điểm a khoản 1 Điều 650 cụ Hương sẽ được hưởng thừa kế theo pháp luật:
1. Thừa kế theo pháp luật được áp dụng trong trường hợp sau đây:
a) Không có di chúc;
Theo điểm a khoản 1 Điều 651:
1. Những người thừa kế theo pháp luật được quy định theo thứ tự sau đây:
a) Hàng thừa kế thứ nhất gồm: vợ, chồng, cha đẻ, mẹ đẻ, cha nuôi, mẹ nuôi,
con đẻ, con nuôi của người chết;
Như vậy di sản của cụ Quý lúc này sẽ được chia đều cho cụ Hương và các con.
Do đó, phần tài sản của cụ Hương bao gồm ½ nhà đất cộng với phần được hưởng thừa
kế theo pháp luật từ cụ Quý.
Lúc đó di chúc định đoạt toàn bộ nhà đất cho 5 người con vẫn chỉ hiệu lực pháp
lý một phần ứng với tài sản nêu trên.
Trường hợp 2: Cụ Quý chết trước và có để lại di chúc định đoạt một phần di sản
½ nhà đất cho cụ Hương thì căn cứ theo điểm a khoản 1 Điều 644 BLDS 2015 về
Người thừa kế không phụ thuộc vào nội dung di chúc, cụ Hương vẫn được hưởng
phần di sản bằng 2/3 suất của một người thừa kế theo pháp luật. Trường hợp phần di
sản cụ Hương được hưởng lớn hơn 2/3 suất của một người thừa kế theo pháp luật thì
cụ Hương sẽ được hưởng phần đó cộng với phần tài sản riêng từ tài sản chung của
mình.
Như vậy di chúc của cụ Hương lúc này cũng chỉ có hiệu lực pháp lý một phần
ứng với phần mà cụ Hương sở hữu trong khối tài sản chung của vợ chồng cộng với
phần cụ Hương được hưởng.
Trường hợp 3: Trong trường hợp cụ Quý chết trước mà để lại di chúc định đoạt
toàn bộ phần tài sản trong khối tài sản chung của 2 vợ chông cho cụ Hương thì khi đó
di chúc của cụ Hương sẽ có giá pháp lý toàn bộ căn cứ theo Điều 609 BLDS 2015 về
cá nhân có quyền định đoạt tài sản của mình.

19
6. Nếu tài sản được định đoạt trong di chúc chỉ thuộc sở hữu của cụ Hương
vào đầu tháng 4/2009 thì di chúc của cụ Hương có giá trị pháp lý không? Vì sao?
Nếu tài sản được định đoạt trong di chúc chỉ thuộc sở hữu của cụ Hương vào đầu
tháng 4/2009 thì di chúc của cụ Hương vẫn có giá trị pháp lý. Vì thứ nhất, căn cứ Điều
612 “Di sản bao gồm tài sản riêng của người chết, phần tài sản của người chết trong
tài sản chung với người khác”, do tài sản được định đoạt chỉ thuộc sở hữu của cụ
Hương tức là tài sản riêng của cụ, Thứ hai, về di chúc, di chúc của cụ Hương là hợp
pháp theo quy định của khoản 1 Điều 630 BLDS 2015 vậy nên cụ có quyền định đoạt
phần tài sản thuộc sở hữu của cụ theo quy định của Điều 609 BLDS 2015 “Cá nhân
có quyền lập di chúc để định đoạt tài sản của mình; để lại tài sản của mình cho người
thừa kế theo pháp luật; hưởng di sản theo di chúc hoặc theo pháp luật”.
7. Quyết định số 58, đoạn nào cho thấy quyền sử dụng đất của cụ C và cụ D
đã bị thu hồi trước khi hai cụ chết?
Ở quyết định số 58, đoạn cho thấy quyền sử dụng đất của cụ C và cụ D đã bị thu
hồi trước khi hai cụ chết là: “Ngoài ra, di sản của cụ D, cụ C để lại là quyền sử dụng
đất tại thửa đất số 38, Tờ bản đồ số 13 đã bị thu hồi theo Quyết định số 1208/QĐ-
UBND ngày 21/7/2010 của UBND thành phố Vĩnh Yên”.
8. Đoạn nào của Quyết định số 58 cho thấy Tòa giám đốc thẩm xác định di
sản của cụ C và cụ D là quyền sử dụng đất? Suy nghĩ của anh/chị về hướng xác
định vừa nêu của Tòa giám đốc thẩm?
Đoạn [5] của Quyết định số 58 cho thấy Tòa giám đốc thẩm xác đinh di sản của
cụ C và cụ D là quyền sử dụng đất, cụ thể:
Ngoài ra, di sản của cụ D, cụ C để lại là quyền sử dụng đất tại thửa số 38, Tờ
bản đồ số 13 đã bị thu hồi theo Quyết định số 1208/QĐ-UBND ngày 21-7-
2010 của UBND thành phố Vĩnh Yên nhưng giá trị quyền sử dụng đất của
người có đất bị thu hồi vẫn được pháp luật bảo đảm theo quy định của Luật đất
đai nên hai cụ có quyền lập di chúc định đoạt tài sản trên cho ông D1.
Hướng giải quyết của Tòa án giám đốc thẩm là hợp lý.
Căn cứ theo Điều 612 BLDS 2015 quy định:“Di sản bao gồm tài sản riêng của
người chết, phần tài sản của người chết trong tài sản chung với người khác”.
Tức để được coi một thứ là di sản thì trước hết nó phải là tài sản. Ngoài quyền sử
dụng đất ra thì các yếu tố còn lại liên quan đến việc chứng minh một chủ thể sở hữu
phần đất đó ra không được coi là tài sản kể cả giấy chứng nhận quyền sử dụng đất căn
cứ theo Điều 105 BLDS 2015. Đối với giấy chứng nhận quyền sử dụng đất căn cứ
theo Điều 105 BLDS 2015 quy định rằng “1. Tài sản là vật, tiền, giấy tờ có giá và

20
quyền tài sản, 2. Tài sản bao gồm bất động sản và động sản. Bất động sản và động
sản có thể là tài sản hiện có và tài sản hình thành trong tương lai” giấy chứng nhận
quyền sử dụng đất không thuộc một trong các trường hợp được BLDS 2015 quy định,
không phải là vật vì không có giá trị sử dụng lưu thông trong dân sự, tiền hay giấy tờ
có tài sản, mà chỉ là chứng thư pháp lý, văn bản chứa đựng thông tin của các cơ quan
có thẩm quyền ban hành nhằm bảo vệ quyền tài sản của chủ thể. Từ đó nhận thấy giấy
chứng nhận quyền sử dụng đất không phải là tài sản mà quyền sử dụng đất mới là tài
sản. Vì thế việc tòa án xác định như vậy là hoàn toàn phù hợp.
9. Đoạn nào của Quyết định số 58 cho thấy Tòa giám đốc thẩm theo hướng
cụ C và cụ D được định đoạt theo di chúc giá trị quyền sử dụng đất bị Nhà nước
thu hồi? Suy nghĩ của anh/chị về hướng vừa nêu của Tòa giám đốc thẩm.
Đoạn [5] của Quyết định số 58 cho thấy Tòa giám đốc thẩm theo hướng cụ C và
cụ D được định đoạt theo di chúc giá trị quyền sử dụng đất bị Nhà nước thu hồi.
Ngoài ra, di sản của cụ D, cụ C để lại là quyền sử dụng đất tại thửa số 38, Tờ
bản đồ số 13 đã bị thu hồi theo Quyết định số 1208/QĐ-UBND ngày 21-7-
2010 của UBND thành phố Vĩnh Yên nhưng giá trị quyền sử dụng đất của
người có đất bị thu hồi vẫn được pháp luật bảo đảm theo quy định của Luật đất
đai nên hai cụ có quyền lập di chúc định đoạt tài sản trên cho ông D1.
Hướng giải quyết của Tòa án là hợp lý. Căn cứ theo khoản 1 Điều 75 Luật đất
đai 2013 về điều kiện để được bồi thường về đất khi Nhà nước thu hồi đất vì mục đích
quốc phòng, an ninh; phát triển kinh tế - xã hội vì lợi ích quốc gia, công cộng, cụ thể:
“Hộ gia đình, cá nhân đang sử dụng đất không phải là đất thuê trả tiền thuê đất hàng
năm, có Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, Giấy chứng nhận quyền sở hữu nhà ở
và quyền sử dụng đất ở, Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và
tài sản khác gắn liền với đất (sau đây gọi chung là Giấy chứng nhận) hoặc có đủ điều
kiện để được cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản
khác gắn liền với đất theo quy định của Luật này mà chưa được cấp, trừ trường hợp
quy định tại khoản 2 Điều 77 của Luật này; người Việt Nam định cư ở nước ngoài
thuộc đối tượng được sở hữu nhà ở gắn liền với quyền sử dụng đất ở tại Việt Nam mà
có Giấy chứng nhận hoặc có đủ điều kiện được cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng
đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất theo quy định của Luật này
mà chưa được cấp”.
Trường hợp của cụ D và cụ C thuộc vào điều kiện được bồi thường về đất khi
Nhà nước thu hồi đất vì mục đích quốc phòng, an ninh; phát triển kinh tế - xã hội vì
lợi ích quốc gia, công cộng. Theo Điều 609 BLDS 2015 “Cá nhân có quyền lập di
chúc để định đoạt tài sản của mình; để lại tài sản của mình cho người thừa kế theo

21
pháp luật; hưởng di sản theo di chúc hoặc theo pháp luật”. Trong trường hợp của cụ
D và cụ C, giá trị sử dụng đất bị thu hồi được đảm bảo bằng giá trị bồi thường nên
người có đất bị thu hồi có quyền lập di chúc định đoạt phần giá trị bồi thường đó. Vậy
nên, cụ D và cụ C có quyền lập di chúc định đoạt tài sản trên cho ông D1 do giá trị
quyền sử dụng đất của người có đất bị thu hồi vẫn được pháp luật bảo đảm theo quy
định của Luật đất đai.

Vấn đề 3: Di chúc chung của vợ chồng


Dân sự 2015 đã bỏ so với 2005 vì quá nhiều bất cập: xác định thời điểm mở thừa kế
Tài sản có sự thay đổi khi chết trước chết sau
Sửa đổi, hủy bỏ di chúc
Thực tế vẫn tồn tại: có sự công nhận, luật k điều chỉnh
Có nên quay trở lại: nếu quay lại cần quy định cụ thể

 Tóm tắt Bản án số 14/2017/DSST ngày 28/9/2017 của Tòa án nhân


dân huyện C tỉnh Phú Thọ
Nguyên đơn: Bà Hoàng Thị H
Bị đơn: Anh Hoàng Tuyết H
Vấn đề tranh chấp: Tranh chấp thừa kế theo di chúc
Nội dung: Bà Hoàng Thị H và ông Hoàng Minh X kết hôn hợp pháp, có 4 người
con và khối tài sản chung. Bà H và ông X cùng nhau lập di chúc chung không có
người làm chứng với nội dung: nếu ông X chết trước thì giao lại cho bà quản lý sử
dụng tài sản chung, khi bà chết sẽ giao lại cho con trai là Hoàng Hồng H1. Ông X
chết, anh H (con trai của ông X và bà H) không chấp nhận di chúc là hợp pháp vì cho
rằng chữ viết và chữ ký không phải của ông X. Vì vậy, bà H yêu cầu Tòa án công
nhận di chúc của ông X là hợp pháp, chia tài sản chung cho bà và giải quyết thay đổi
nội dung di chúc phần của bà H.
Hướng giải quyết của Tòa: Mặc dù bản di chúc không có người làm chứng và
không có xác nhận của UBND Trị trấn S, huyện C nhưng trong quá trình giải quyết vụ
án, các bên đương sự thừa nhận ông X có tinh thần tỉnh táo, minh mẫn, không có sự
ép buộc nào. nội dung trong bản di chúc không vi phạm điều cấm của luật, phù hợp
với quy định tại Điều 630 BLDS 2015, đồng thời Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh
Phú Thọ kết luận bản di chúc do cùng một người ký và viết ra. Vì vậy, Tòa án công
nhận di chúc chung của ông Hoàng Minh X và bà Hoàng Thị H viết là hợp pháp.
1. Có pháp luật nước ngoài nào ghi nhận di chúc chung của vợ chồng
không? Nêu ít nhất một hệ thống pháp luật mà anh/chị biết.

22
2. Đoạn nào của bản án cho thấy di chúc có tranh chấp là di chúc chung của
vợ chồng?
Trong lời khai của nguyên đơn – bà Hoàng Thị H trình bày cho thấy di chúc có
tranh chấp là di chúc chung của ông X và bà H:
V/v bà và ông X cùng nhau lập di chúc chung của vợ chồng do ông X viết với
nội dung: nếu ông X chết trước bà thì di chúc này sẽ giao lại cho bà quản lý sử
dụng tài sản chung, khi bà chết sẽ giao lại cho con trai là Hoàng Hồng H1. Khi
viết di chúc ông X hoàn toàn khỏe mạnh, minh mẫn, không bị ai ép buộc.
3. Theo Tòa án, di chúc chung của vợ chồng có giá trị pháp lý khi áp dụng
BLDS 2015 không? Đoạn nào của bản án cho câu trả lời.
Trước đây, BLDS 2005 có quy định cụ thể cho phép vợ chồng lập di chúc chung
theo Điều 663 “Vợ, chồng có thể lập di chúc chung để định đoạt tài sản chung” và
Điều 668 “Di chúc chung của vợ, chồng có hiệu lực từ thời điểm người sau cùng chết
hoặc tại thời điểm vợ, chồng cùng chết”. Trong Bản án số 14/2017/DSST cũng dùng
Điều 663 BLDS 2005 trong trường hợp này:
“Điều 663 BLDS 2005 quy định: Di chúc chung của vợ chồng.
Vợ, chồng có thể lập di chúc chung để định đoạt tài sản chung”
Ông X, bà H làm di chúc chung của vợ chồng thể hiện việc định đoạt tài sản
chung phù hợp với điều luật nêu trên.
Nhưng đến BLDS 2015 đã không còn đề cập đến quy định về di chúc chung của
vợ chồng mà quy định về việc lập di chúc như sau, căn cứ Điều 624 BLDS 2015: “Di
chúc là sự thể hiện ý chí của cá nhân nhằm chuyển tài sản của mình cho người khác
sau khi chết”. Ngoài ra, pháp luật hiện nay chưa có quy định nào cấm vợ chồng lập di
chúc chung, vì vậy, việc lập di chúc chung hay riêng tùy thuộc vào ý chí của mỗi cá
nhân.
4. Suy nghĩ của anh/chị về hướng giải quyết trên của Tòa án về di chúc
chung của vợ chồng trong mối quan hệ với BLDS 2015.
Theo nhóm, hướng giải quyết của Tòa về di chúc chung của vợ chồng là hợp lý
và thuyết phục. Trong BLDS 2015 không quy định về việc lập di chúc chung của vợ
và chồng, đồng thời cũng không có quy định cấm, vì vậy có thể hiểu việc vợ chồng
lập di chúc chung dựa trên ý chí của mỗi người. Ngoài ra, Tòa án trong Bản án số 14
đã sử dụng Điều 663 BLDS 2005 để áp dụng trong trường hợp này, từ đó cho thấy
Tòa án mong muốn giải quyết triệt để vụ việc, tránh gây xung đột giữa các thành viên

23
trong gia đình và có tranh chấp sau này. Do đó, Tòa án đã sử dụng thêm Điều 630
BLDS 2015 quy định về di chúc hợp pháp:
“1. Di chúc hợp pháp phải có đủ các điều kiện sau đây:
a) Người lập di chúc minh mẫn, sáng suốt trong khi lập di chúc; không bị
lừa dối, đe dọa, cưỡng ép;
b) Nội dung của di chúc không vi phạm điều cấm của luật, không trái đạo
đức xã hội; hình thức di chúc không trái quy định của luật.

4. Di chúc bằng văn bản không có công chứng, chức thực chỉ được coi là hợp
pháp, nếu có đủ các điều kiện được quy định tại khoản 1 Điều này”.

Vấn đề 4: Di sản dùng vào việc thờ cúng


 Tóm tắt Bản án số 222/2018/DS-PT ngày 15/11/2018 Tòa án nhân dân
tỉnh Cà Mau.
Nguyên đơn: Bà Lưu Tuyết M, Lưu Thị P, Lưu Phương D
Bị đơn: Bà Lưu Thị L
Vấn đề tranh chấp: Chia thừa kế quyền sử dụng đất
Nội dung bản án: Các nguyên đơn yêu cầu chia thừa kế 16 công đất gồm 10 công
đất ở, đất vườn, đất ruộng và 6 công đất lá là di sản của ông Lưu Văn C và bà Lê Thị
V để lại. Trong đó 6 công đất lá được ông C thể hiện nguyện vọng trong di chúc là đất
dùng vào việc thờ cúng và giao cho bà L quản lý.
Hướng giải quyết Tòa: Tòa án đã xác định, công nhận sự thỏa thuận của các
đương sự về việc chia di sản thừa kế 10 công đất ở, đất vườn và đất ruộng. Dựa trên
nội dung di chúc của cụ D, căn cứ Điều 645 BLDS 2015 Tòa án xác định 6 công đất
lá, diện tích 4.582,3 m2 vì là di sản dùng để thờ cúng nên thuộc sở hữu chung của các
đương sự, và bà L hiện đang thờ cúng cụ C và cụ V nên giao phần đất này cho bà L
quản lý, sử dụng để thờ cúng.
1. Trong điều kiện nào di sản dùng vào việc thờ cúng có giá trị pháp
lý? Nêu cơ sở pháp lý khi trả lời
Căn cứ Điều 645 BLDS 2015 quy định:
“1. Trường hợp người lập di chúc để lại một phần di sản dùng vào việc thờ
cúng thì phần di sản đó không được chia thừa kế và được giao cho người đã
được chỉ định trong di chúc quản lý để thực hiện việc thờ cúng; nếu người
được chỉ định không thực hiện đúng di chúc hoặc không theo thỏa thuận của

24
những người thừa kế thì những người thừa kế có quyền giao phần di sản dùng
vào việc thờ cúng cho người khác quản lý để thờ cúng.
Trường hợp người để lại di sản không chỉ định người quản lý di sản thờ cúng
thì những người thừa kế cử người quản lý di sản thờ cúng.
Trường hợp tất cả những người thừa kế theo di chúc đều đã chết thì phần di
sản dùng để thờ cúng thuộc về người đang quản lý hợp pháp di sản đó trong số
những người thuộc diện thừa kế theo pháp luật.
2. Trường hợp toàn bộ di sản của người chết không đủ để thanh toán nghĩa vụ
tài sản của người đó thì không được dành một phần di sản dùng vào việc thờ
cúng”.
Điều kiện di sản dùng vào việc thờ cúng có giá trị pháp lý: thứ nhất, người lập di
chúc để lại một phần tài sản dùng vào việc thờ cúng. Thứ hai, tài sản của người đã
chết để lại phải đủ để thanh toán nghĩa vụ của người đó. Đồng thời tài sản do di chúc
của người đã chết để lại dùng vào việc thờ cúng không được chia thừa kế và được giao
lại cho người được chỉ định trong di chúc quản lý dùng trong việc thờ cúng.
2. Đối với phần đất có diện tích 4.582,3 m 2, Tòa án có coi đây là di sản dùng
vào việc thờ cúng không? Đoạn nào của Bản án cho câu trả lời?
Tại Bản án số 222/2018/DS-PT ngày 15/11/2018 của TAND tỉnh Cà Mau có coi
phần diện tích đất 4.582,3 m2 là di sản dùng vào việc thờ cúng.
Trích đoạn tại phần Quyết định:
Không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của bà Lưu Tuyết M, bà Lưu Thị P, Lưu
Phương D chia phần đất diện tích 4.582,3 m 2 tại Ấp T, xã K, huyện T, tỉnh Cà
Mau. Phần đất diện tích 4.582,3 m 2 là tài sản chung của bà Lưu Thị L, bà Lưu
Phương D, bà Lưu Thị H, bà Lưu Thị P, bà Lưu Tuyết M. Giao phần đất diện
tích 4.582,3 m2 cho bà Lưu Thị L quản lý, sử dụng để thờ cúng.
3. Các điều kiện để xác lập di sản dùng vào việc thờ cúng có được thỏa mãn
không trong vụ việc đang nghiên cứu? Nêu cơ sở pháp lý khi trả lời.
Căn cứ Điều 645 BLDS 2015 quy định:
“1. Trường hợp người lập di chúc để lại một phần di sản dùng vào việc thờ
cúng thì phần di sản đó không được chia thừa kế và được giao cho người đã
được chỉ định trong di chúc quản lý để thực hiện việc thờ cúng; nếu người
được chỉ định không thực hiện đúng di chúc hoặc không theo thỏa thuận của
những người thừa kế thì những người thừa kế có quyền giao phần di sản dùng
vào việc thờ cúng cho người khác quản lý để thờ cúng.

25
Trường hợp người để lại di sản không chỉ định người quản lý di sản thờ cúng
thì những người thừa kế cử người quản lý di sản thờ cúng.
Trường hợp tất cả những người thừa kế theo di chúc đều đã chết thì phần di
sản dùng để thờ cúng thuộc về người đang quản lý hợp pháp di sản đó trong số
những người thuộc diện thừa kế theo pháp luật.
2. Trường hợp toàn bộ di sản của người chết không đủ để thanh toán nghĩa vụ
tài sản của người đó thì không được dành một phần di sản dùng vào việc thờ
cúng”.
Vụ việc tại Bản án số 222/2018/DS-PT ngày 15/1/2018 của TAND tỉnh Cà Mau
xác lập di chúc dùng vào việc thờ cúng là đủ điều kiện:
Căn cứ vào bản án sơ thẩm nhận định: ông C xác định đây là đất dùng vào việc
thờ cúng do đó không được phân chia, tuy di chúc của cụ C chưa tuân thủ theo quy
định của pháp luật nhưng di chúc này vẫn thể hiện nguyện vọng của cụ C giao diện
phần đất cho bà L dùng vào việc thờ cúng. Trên thực tế bà L hiện đang thờ cúng cụ C
và cụ.
Do đó, cụ C để lại một phần di sản là phần đất có diện tích 4.582,3 m 2 vào việc
thờ cúng, tuy bản di chúc chưa tuân thủ quy định của pháp luật vì theo lời trình bày
của bà Lưu Thị L: Cha bà có để lại tờ di chúc lập ngày 21/01/2011 (AL), khi cha bà
lập di chúc, bà là người chứng kiến, các chị em còn lại không có ai chứng kiến, căn cứ
khoản 1, 2 Điều 632 BLDS 2015: “Mọi người đều có thể làm chứng cho việc lập di
chúc, trừ những người sau đây: 1 Người thừa kế theo di chúc hoặc theo pháp luật của
người lập di chúc. 2 Người có quyền, nghĩa vụ tài sản liên quan tới nội dung di chúc”,
do đó bản di chúc của cụ C không đúng căn cứ pháp luật do bà L không được là người
làm chứng cho di chúc của cụ C vì bà là người có quyền và nghĩa cụ tài sản liên quan
đến nội dung di chúc, nhưng vẫn thể hiện nguyện vọng của cụ C.
Trong toàn Bản án không đề cập tới phần thanh toán nghĩa vụ của người đã chết,
do đó có thể xem nghĩa vụ đó đã thực hiện.
Di sản phần đất dùng vào việc thờ cúng trở thành tài sản chung của bà L, bà H, bà
D, bà P, bà M, mọi giao dịch chuyển nhượng, thế chấp liên quan đến phần đất trên phải
có sự đồng ý của các đồng thừa kế. Nếu bà L không thực hiện tốt trách nhiệm thờ cúng
thì các đồng thừa kế có thể giao lại cho người khác sử dụng, quản lý cho việc thờ cúng.
Phần di sản dùng vào việc thờ cúng không chia thừa kế.

26
4. Tòa án không chấp nhận yêu cầu chia phần đất có diện tích 4.582,3 m 2 có
thuyết phục không? Nêu cơ sở pháp lý khi trả lời.
Tòa án không chấp nhận yêu cầu chia phần đất có diện tích 4.582,3 m 2 là thuyết
phục.
Căn cứ khoản 1 Điều 645 BLDS 2015 quy định:
“1. Trường hợp người lập di chúc để lại một phần di sản dùng vào việc thờ
cúng thì phần di sản đó không được chia thừa kế và được giao cho người đã
được chỉ định trong di chúc quản lý để thực hiện việc thờ cúng; nếu người
được chỉ định không thực hiện đúng di chúc hoặc không theo thỏa thuận của
những người thừa kế thì những người thừa kế có quyền giao phần di sản dùng
vào việc thờ cúng cho người khác quản lý để thờ cúng.”
Phần đất diện tích 4.582,3 m2 là phần di sản dùng để thờ cúng, theo khoản 1
Điều 645 BLDS 2015 phần di sản dùng trong việc thờ cúng không được chia thừa kế,
mặc dù di chúc của cụ C không đúng thủ tục pháp luật nhưng vẫn thể hiện ý chí của
cụ C sử dụng diện tích 4.582,3 m2 cho việc thờ cúng, trên thực tế chị Lưu Thị L đã sử
dụng phần đất trên cho việc thờ cúng cụ C và cụ V. Do đó phần đất trên không được
chia di sản, là tài sản chung của bà Lưu Thị L, bà Lưu Phương D, bà Lưu Thị H, bà
Lưu Thị P, bà Lưu Tuyết M, do bà Lưu Thị L quản lý và sử dụng để thờ cúng, khi bà
L không thực hiện đúng thì các đồng thừa kế giao lại cho người khác quản lý.
5. Tòa án xác định phần đất có diện tích 4.582,3 m2 trở thành tài sản chung
của những người thừa kế có thuyết phục không? Nêu cơ sở pháp lý khi trả lời.
Tòa án xác định phần đất có diện tích 4.582,3 m2 trở thành tài sản chung của
những người thừa kế có thuyết phục. Như ở trên đã chỉ ra, Tòa án đã xác định phần
đất có diện tích 4.582,3 m2 là di sản dùng để thờ cúng và nó không thuộc phần di sản
để chia. Tại Điều 645 BLDS 2015 quy định: “Trường hợp người lập di chúc để lại
một phần di sản dùng vào việc thờ cúng thì phần di sản đó không được chia thừa kế
và được giao cho người đã được chỉ định trong di chúc quản lý để thực hiện việc thờ
cúng”. Ở đây tuy cụ C có di chúc để lại phần đất trên cho bà L nhưng Tòa án đã chỉ ra
di chúc này chưa tuân thủ theo quy định của pháp luật, do đó Tòa không xác định
phần đất này thuộc sở hữu của bà L mà chỉ giao cho bà L quyền quản lý, sử dụng đất
để thờ cúng. Căn cứ khoản 1 Điều 207 BLDS 2015: “Sở hữu chung là sở hữu của
nhiều chủ thể đối với tài sản”, Tòa án đã xác định phần đất này thuộc sở hữu chung
của các đồng thừa kế. Điều 208 BLDS 2015: “Quyền sở hữu chung được xác lập theo
thỏa thuận, theo quy định của pháp luật hoặc theo tập quán”. Trong bản án tuy không
chỉ ra lý do tại sao lại xác định phần đất thuộc sở hữu chung, nhưng có thể cho rằng

27
quyết định này nhằm đảm bảo quyền lợi, nghĩa vụ của các đồng thừa kế trong trường
hợp bà L không thực hiện tốt trách nhiệm thờ cúng thì các đồng thừa kế cũng có thể
can thiệp.
6. Tòa án xác định “mọi giao dịch chuyển nhượng, thế chấp ... liên quan đến
phần đất này phải có sự đồng ý của các đồng thừa kế” có thuyết phục không?
Nêu cơ sở pháp lý khi trả lời.
Tòa án đã chỉ ra, phần đất 4.582,3 m2 này thuộc sở hữu chung, tuy nhiên không
xác định phần quyền sở hữu của mỗi đồng thừa kế với phần đất này, do đó, căn cứ
khoản 1 Điều 210 BLDS 2015: “Sở hữu chung hợp nhất là sở hữu chung mà trong
đó, phần quyền sở hữu của mỗi chủ sở hữu chung không được xác định đối với tài sản
chung”. Ta có thể các định được phần đất này thuộc sở hữu chung hợp nhất của các
đồng thừa kế. Căn cứ khoản 2 Điều 210 BLDS 2015: “Các chủ sở hữu chung hợp
nhất có quyền, nghĩa vụ ngang nhau đối với tài sản thuộc sở hữu chung” và khoản 2
Điều 218 BLDS 2015: “Việc định đoạt tài sản chung hợp nhất được thực hiện theo
thỏa thuận của các chủ sở hữu chung hoặc theo quy định của pháp luật”, có thể thấy
Tòa án xác định “mọi giao dịch chuyển nhượng, thế chấp... liên quan đến phần đất
này phải có sự đồng ý của các đồng thừa kế” có thuyết phục.
7. Tòa án xác định “Nếu bà L không thực hiện tốt trách nhiệm thờ cúng thì
các đồng thừa kế có thể giao cho người khác quản lý, sử dụng phần đất này để
thờ cúng” có thuyết phục không? Nêu cơ sở pháp lý khi trả lời.
Tòa án xác định “Nếu bà L không thực hiện tốt trách nhiệm thờ cúng thì các
đồng thừa kế có thể giao cho người khác quản lý, sử dụng phần đất này để thờ cúng”
là thuyết phục. Ở đây có thể thấy, Tòa án đã xác định việc bà L là người quản lý, sử
dụng phần đất là dựa trên di chúc của cụ C, cụ C giao cho bà L quản lý, sử dụng phần
đất để thờ cúng. Trong trường hợp bà L không thực hiện tốt trách nhiệm thờ cúng
chính là hành vi thể hiện bà không thực hiện đúng di chúc. Do đó, theo khoản 1 Điều
645 BLDS 2015 đã chỉ ra: “Nếu người được chỉ định không thực hiện đúng di chúc
hoặc không theo thỏa thuận của những người thừa kế thì những người thừa kế có
quyền giao phần di sản dùng vào việc thờ cúng cho người khác quản lý để thờ cúng”,
thì các đồng thừa kế khác hoàn toàn có quyền thỏa thuận giao cho người khác quản lý,
sử dụng phần đất này để thờ
cúng.
8. Suy nghĩ của anh/chị về chế định di sản dùng vào việc thờ cúng trong
BLDS.
Thờ cúng là một tập tục lâu đời của nhân dân ta. Từ xa xưa, luật lệ nước ta đã có
nhiều quy định về di sản được dùng vào thờ cúng, hiện nay, chế định về di sản thờ

28
cúng đã được quy định trong Điều 645 BLDS 2015. Về nội dung, chế định này thể
hiện trên các phương diện.
Về cách thức lập di sản thừa cúng: được xác định từ di chúc của người có tài sản.
Về cách thức chọn người quản lý di sản: được chỉ định trong di chúc hoặc do
những người thừa kế thỏa thuận cử ra nếu không có chỉ định trong di chúc.
Về chế tài áp dụng đối với người vi phạm nghĩa vụ thờ cúng: những người thừa
kế có quyền chọn người thừa kế khác lo việc thờ cúng
Về việc không được để lại di sản thừa cúng: khi tài sản không đủ để thực hiện
nghĩa vụ tài sản của người chết hoặc di chúc định đoạt toàn bộ di chỉ dùng vào việc
thờ cúng.
Theo nhóm, với những nội dung trên, quy định về di sản dùng vào việc thờ cúng
vẫn còn hết sức sơ sài, không đáp ứng được yêu cầu điều chỉnh một quan hệ xã hội hết
sức đa dạng và phức tạp như quan hệ thừa kế di sản dùng vào việc thờ cúng. Để giải
quyết tốt vấn đề này, luật cần có những sủa đổi, bổ sung thích hợp.1

1 Trường Đại học Luật TP. Hồ Chí Minh, “Giáo trình Pháp luật về tài sản, quyền sở hữu và thừa kế”,
Nhà xuất bản Hồng Đức, tr. 526.

29
DANH MỤC THAM KHẢO
A. Văn bản quy phạm pháp luật
1. Bộ luật Dân sự 2005 số 33/2005/QH11
2. Bộ luật Dân sự 2015 số 91/2015/QH13
3. Luật Đất đai 2013 số 45/2013/QH13

B. Tài liệu tham khảo


1. Trường Đại học Luật TP. Hồ Chí Minh (2021), “Giáo trình Pháp luật về tài sản,
quyền sở hữu và thừa kế”, Nhà xuất bản Hồng Đức.

30

You might also like