You are on page 1of 28

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT TP. HỒ CHÍ MINH


KHOA LUẬT HÌNH SỰ

MÔN HỌC: NHỮNG QUY ĐỊNH CHUNG VỀ LUẬT


DÂN SỰ, TÀI SẢN VÀ THỪA KẾ

BUỔI THẢO LUẬN THỨ SÁU: QUY ĐỊNH VỀ DI CHÚC

NHÓM 1 – LỚP HS46B2

Giảng viên hướng dẫn: Ths. Trần Nhân Chính


STT Họ và tên MSSV
1 Lê Chí Thiện 2153801013247
2 Lương Thị Thanh Thủy 2153801013250
3 Nguyễn Quỳnh Ngọc Trân (Nhóm trưởng) 2153801013274
4 Trương Thị Tố Trinh 2153801013277
5 Cao Huỳnh Phương Uyên 2153801013283
6 Phan Hoàng Đăng Vũ 2153801013291
7 Nguyễn Hải Yến 2153801013304

Tp. Hồ Chí Minh, tháng 04 năm 2022


MỤC LỤC
PHẦN 1: HÌNH THỨC CỦA DI CHÚC............................................................1
Tóm tắt bản án số 83/2009/DSPT.......................................................................1
Tóm tắt Quyết định số 874/2011/DS-GĐT.........................................................1
Câu 1 Điều kiện về hình thức để di chúc tự viết tay có giá trị pháp lý? Nêu cơ
sở pháp lý khi trả lời...........................................................................................2
Câu 2: Nếu di chúc của ông Này là di chúc phải có người làm chứng thì những
người đã làm chứng di chúc của ông Này có là người làm chứng hợp pháp
không? Nêu cơ sở pháp lý khi trả lời..................................................................4
Câu 3: Di chúc của ông Này có là di chúc do ông Này viết tay hay không? Vì
sao?.....................................................................................................................5
Câu 4: Suy nghĩ của anh/chị về hướng giải quyết trên của Tòa án liên quan đến
hình thức di chúc của ông Này khi đây là di chúc do ông Này tự viết tay.........5
Câu 5: Di chúc của cụ Hựu được lập như thế nào?............................................6
Câu 6: Cụ Hựu có biết chữ không? Đoạn nào của Quyết định số 874 cho câu
trả lời?.................................................................................................................6
Câu 7: Di chúc của người không biết chữ phải thỏa mãn các điều kiện nào để
có hình thức phù hợp với quy định của pháp luật?.............................................6
Câu 8: Các điều kiện nào nêu trên đã được đáp ứng bởi di chúc của ông Hựu? 7
Câu 9: Các điều kiện nào nêu trên đã được đáp ứng đối với di chúc của ông
Hựu?....................................................................................................................7
Câu 10: Theo anh/chị, di chúc nêu trên có thỏa mãn điều kiện về hình thức
không? Vì sao?....................................................................................................8
Câu 11. Suy nghĩ của anh chị về các quy định trong BLDS liên quan đến hình
thức di chúc của người không biết chữ...............................................................8
PHẦN 2: TÀI SẢN ĐƯỢC ĐỊNH ĐOẠT THEO DI CHÚC............................9
Tóm tắt Quyết định số 359/2013/DS-GĐT.........................................................9
Tóm tắt quyết định số 58:.................................................................................10
Câu 1: Cụ Hương đã định đoạt tài sản nào? Đoạn nào của quyết định số 359
cho câu trả lời?..................................................................................................10
Câu 2: Đoạn nào của Quyết định số 359 cho thấy tài sản cụ Hương định đoạt
trong di chúc là tài sản chung của vợ chồng cụ Hương?..................................11
Câu 3: Tòa án đã công nhận phần nào của di chúc? Đoạn nào của Quyết định
số 359 cho câu trả lời?......................................................................................11
Câu 4: Suy nghĩ của anh/chị về hướng giải quyết trên của Tòa giám đốc thẩm.
..........................................................................................................................12
Câu 5: Nếu cụ Quý chết trước cụ Hương, phần nào của di chúc có giá trị pháp
lý? Nêu cơ sở pháp lý khi trả lời.......................................................................12
Câu 6: Nếu tài sản được định đoạt trong di chúc chỉ thuộc sở hữu của cụ
Hương vào đầu tháng 4/2009 thì di chúc của cụ Hương có gia trị pháp lý
không? Vì sao?..................................................................................................13
Câu 7: Quyết định số 58, đoạn nào cho thấy quyền sử dụng đất của cụ C và cụ
D đã bị thu hồi trước khi hai cụ chết?...............................................................14
Câu 8: Đoạn nào của Quyết định số 58 cho thấy Tòa giám đốc thẩm xác định
di sản của cụ C và cụ D là quyền sử dụng đất? Suy nghĩ của anh/chị về hướng
xác định vừa nêu của Tòa giám đốc thẩm?.......................................................14
Câu 9: Đoạn nào của Quyết định số 58 cho thấy Tòa giám đốc thẩm theo
hướng cụ C và cụ D được định đoạt theo di chúc giá trị quyền sử dụng đất bị
Nhà nước thu hồi? Suy nghĩ của anh/chị về hướng vừa nêu của Tòa giám đốc
thẩm..................................................................................................................15
PHẦN 3: DI CHÚC CHUNG CỦA VỢ CHỒNG............................................16
Tóm tắt Bản án số 14/2017/DSST:...................................................................16
Câu 1: Đoạn nào của bản án số 14 cho thấy di chúc có tranh chấp là di chúc
chung của hai vợ chồng?...................................................................................16
Câu 2: Theo Tòa án, di chúc chung của vợ chồng có giá trị pháp lý khi áp dụng
BLDS 2015 không? Đoạn nào của bản án cho câu trả lời................................17
Câu 3: Suy nghĩ của anh/chị về hướng giải quyết trên của Tòa án về di chúc
chung của vợ chồng trong mối quan hệ với BLDS 2015..................................18
PHẦN 4: DI SẢN DÙNG VÀO VIỆC THỜ CÚNG........................................18
Tóm tắt bản án số 211/2009/DSPT ngày 16/9/2009 của Tòa án nhân dân
huyện Long Thành, tỉnh Đồng Nai....................................................................18
Câu 1: Trong điều kiện nào di sản dùng vào việc thờ cúng có giá trị pháp lý?
Nêu cơ sở pháp lý khi trả lời.............................................................................19
Câu 2: Đoạn nào của bản án cho thấy di sản có tranh chấp được di chúc dùng
vào việc thờ cúng?............................................................................................20
Câu 3: Các điều kiện để di sản dùng vào việc thờ cúng một cách hợp pháp có
được thỏa mãn trong vụ việc đang nghiên cứu không?....................................20
Câu 4: Ai đồng ý và ai không đồng ý chia di sản dùng vào việc thờ cúng trong
vụ tranh chấp này? Đoạn nào của bản án cho câu trả lời?................................21
Câu 5: Cuối cùng Tòa án có chấp nhận chia di sản đã được di chúc dùng vào
việc thờ cúng không? Đoạn nào của bản án cho câu trả lời?............................21
Câu 6: Suy nghĩ của anh/chị về chế định di sản dùng vào việc thờ cúng trong
BLDS và giải pháp của Tòa án trong vụ việc đang được nghiên cứu..............21
DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT
Từ viết tắt Từ gốc
BLDS Bộ luật Dân sự
AL Án lệ
PHẦN 1: HÌNH THỨC CỦA DI CHÚC
Tóm tắt bản án số 83/2009/DSPT
Nguyên đơn: Ông Nguyễn Thành Hiếu

Bị đơn: Bà Đặng Thị Trọng

Ông Nguyễn Này và bà Đặng Thị Trọng là vợ chồng hợp pháp kết hôn từ
năm 1970. Ông Này có quan hệ trai gái với bà Nguyễn Thị Tâm sinh ra 3 người
con là các ông Hiếu, Trung Việt. Tài sản chung của ông Này và bà Trọng là nhà
đất có diện tích 225m2. Ngày 16/11/2008, ông Này chết, trước khi chết ngày
19/12/2007 ông Này lập giấy giao quyền thừa kế toàn bộ nhà đất thuộc quyền sở
hữu chung của ông với bị đơn cho nguyên đơn. Đến nay, bị đơn xin ½ lô đất để
sử dụng nhưng bị bị đơn không đồng ý. Từ đó xảy ra tranh chấp.

Quyết định của các cấp xét xử

Án dân sự sơ thẩm: chấp nhận yêu cầu của nguyên đơn về tranh chấp di
sản thừa kế. Bị đơn được nhận toàn bộ tài sản nhà đất có diện tích 225m 2. Bị đơn
có trách nhiệm thối chênh lệch cho ông Hiếu số tiền 78.795.000đ được chia và
nhận từ tài sản theo di chúc. Ngoài ra, còn tuyên phí và quyền kháng cáo của các
bên đương sự.

Án dân sự phúc thẩm: bị đơn và các đương sự xin rút toàn bộ kháng cáo.
Việc này là tự nguyện không ảnh hưởng đến quyền lợi và nghĩa vụ của người
khác nên được chấp nhận.

Tại bản án số 83/2009/DSPT ngày 28/12/2009 giữ nguyên quyết định của
bản án sơ thẩm.

Tóm tắt Quyết định số 874/2011/DS-GĐT


Nguyên đơn là ông Đỗ Văn Quang và bị đơn là bà Hoàng Thị Ngâm. Vụ
việc tranh chấp về vấn đề quyền thừa kế tài sản hủy di chúc. Cụ Đỗ Thị Hữu kết
hôn với cụ Đỗ văn Hằng có 2 người con là bà Hoàng Thị Ngâm và 1 con chung
là chị Hạnh. Năm 1950, cụ Hằng chết không để lại di chúc. Phần đất cụ Hựu để
lại là từ tổ tiên cụ Hằng nay do bà Ngâm quản lý theo di chúc nhưng ông Quang
yêu cầu hủy di chúc do di chúc không hợp pháp. Tại bản án sơ thẩm
28/2007/DSST ngày 24 -12-2007 TAND chấp nhận yêu cầu của ông Quang về

1
việc mở thừa kế di sản cụ Hữu để lại. Sau khi xét xử sơ thẩm ông Quang kháng
cáo không đồng ý với bản án sơ thẩm. Tại bản án phúc thẩm bác bỏ đơn kháng
cáo của ông Quang, giữ nguyên bản án sơ thẩm. Tòa án sơ thẩm và phúc thẩm
chỉ căn cứ vào lời khai của ông Vũ và sự thừa nhận của bà Ngâm từ đó xác định
diện tích đất tranh chấp là tài sản của ông Đỗ là không đúng.
Căn cứ vào khoản 2 Điều 291, khoản 3 Điều 297 và Điều 299 của Bộ luật
tố tụng dân sự, Tòa án nhân dân tối cao quyết định hủy bản án dân sự phúc thẩm
41/2008/DSPT ngày 12-9-2008 của Tòa án nhân dân thành phố Hà Nội và hủy
bản án dân sự sơ thẩm số 28/2007/DSST ngày 24-12-2007. Giao hồ sơ vụ án cho
Tòa án nhân dân huyện Đông Anh, thành phố Hà Nội xét xử sơ thẩm lại theo
đúng quy định của pháp luật.
Câu 1 Điều kiện về hình thức để di chúc tự viết tay có giá trị pháp lý?
Nêu cơ sở pháp lý khi trả lời.
Đối với di chúc viết tay, điều kiện để có pháp lý thì di chúc đó phải đảm
bảo được các điều kiện sau:

Thứ nhất, di chúc viết tay phải đảm bảo được nội dung hình thức của một
di chúc văn bản. Căn cứ pháp lý quy định tại Điều 631 BLDS năm 2015 có quy
định về nội dung di chúc cụ thể như sau:

Điều 631. Nội dung của di chúc

1. Di chúc gồm các nội dung chủ yếu sau:

a) Ngày, tháng, năm lập di chúc;

b) Họ, tên và nơi cư trú của người lập di chúc;

c) Họ, tên người, cơ quan, tổ chức được hưởng di sản;

d) Di sản để lại và nơi có di sản.

2. Ngoài các nội dung quy định tại khoản 1 Điều này, di chúc có thể có
các nội dung khác.

3. Di chúc không được viết tắt hoặc viết bằng ký hiệu, nếu di chúc gồm
nhiều trang thì mỗi trang phải được ghi số thứ tự và có chữ ký hoặc điểm chỉ của
người lập di chúc.

2
Trường hợp di chúc có sự tẩy xóa, sửa chữa thì người tự viết di chúc hoặc
người làm chứng di chúc phải ký tên bên cạnh chỗ tẩy xóa, sửa chữa.

Thứ hai, về tính hợp pháp của di chúc, BLDS năm 2015 có quy định cụ
thể tại Điều 630:

Điều 630. Di chúc hợp pháp

1. Di chúc hợp pháp phải có đủ các điều kiện sau đây:

a) Người lập di chúc minh mẫn, sáng suốt trong khi lập di chúc; không bị
lừa dối, đe dọa, cưỡng ép;

b) Nội dung của di chúc không vi phạm điều cấm của luật, không trái đạo
đức xã hội; hình thức di chúc không trái quy định của luật.

2. Di chúc của người từ đủ mười lăm tuổi đến chưa đủ mười tám tuổi phải
được lập thành văn bản và phải được

cha, mẹ hoặc người giám hộ đồng ý về việc lập di chúc.

3. Di chúc của người bị hạn chế về thể chất hoặc của người không biết
chữ phải được người làm chứng lập thành văn bản và có công chứng hoặc
chứng thực.

4. Di chúc bằng văn bản không có công chứng, chứng thực chỉ được coi
là hợp pháp, nếu có đủ các điều kiện được quy định tại khoản 1 Điều này.

Thứ ba, một văn bản di chúc viết tay phải đảm bảo người lập di chúc phải
thoả điều kiện được quy định tại Điều 625 BLDS năm 2015

1. Người thành niên có đủ điều kiện theo quy định tại điểm a khoản 1
Điều 630 của Bộ luật này có quyền lập di chúc để định đoạt tài sản của mình.

2. Người từ đủ mười lăm tuổi đến chưa đủ mười tám tuổi được lập di
chúc, nếu được cha, mẹ hoặc người giám hộ đồng ý về việc lập di chúc.

Như vậy, để một di chúc viết tay có giá trị pháp lý thì di chúc đó phải đảm
bảo được tính hợp pháp về mặt nội dung được quy định tại Điều 631, đảm bảo
tính hợp pháp được quy định tại điều 630, và đảm bảo được chủ thể viết di chúc
được quy định tại Điều 625 của BLDS năm 2015.

3
Câu 2: Nếu di chúc của ông Này là di chúc phải có người làm chứng
thì những người đã làm chứng di chúc của ông Này có là người làm chứng
hợp pháp không? Nêu cơ sở pháp lý khi trả lời.
Nếu di chúc của ông Này là di chúc phải có người làm chứng thì những
người đã làm chứng di chúc của ông Này không là người làm chứng hợp pháp.
Vì theo Điều 632 BLDS 2015 có quy định:

“Mọi người đều có thể làm chứng cho việc lập di chúc, trừ những người
sau đây:
1. Người thừa kế theo di chúc hoặc theo pháp luật của người lập di chúc.
2. Người có quyền, nghĩa vụ tài sản liên quan tới nội dung di chúc.
3. Người chưa thành niên, người mất năng lực hành vi dân sự, người có
khó khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi.”

Và Điều 651 về người thừa kế theo pháp luật:

“1. Những người thừa kế theo pháp luật được quy định theo thứ tự sau
đây:

a) Hàng thừa kế thứ nhất gồm: vợ, chồng, cha đẻ, mẹ đẻ, cha nuôi, mẹ
nuôi, con đẻ, con nuôi của người chết;

b) Hàng thừa kế thứ hai gồm: ông nội, bà nội, ông ngoại, bà ngoại, anh
ruột, chị ruột, em ruột của người chết; cháu ruột của người chết mà người chết
là ông nội, bà nội, ông ngoại, bà ngoại;

c) Hàng thừa kế thứ ba gồm: cụ nội, cụ ngoại của người chết; bác ruột,
chú ruột, cậu ruột, cô ruột, dì ruột của người chết; cháu ruột của người chết mà
người chết là bác ruột, chú ruột, cậu ruột, cô ruột, dì ruột; chắt ruột của người
chết mà người chết là cụ nội, cụ ngoại.

2. Những người thừa kế cùng hàng được hưởng phần di sản bằng nhau.

4
3. Những người ở hàng thừa kế sau chỉ được hưởng thừa kế, nếu không
còn ai ở hàng thừa kế trước do đã chết, không có quyền hưởng di sản, bị truất
quyền hưởng di sản hoặc từ chối nhận di sản.

Trong khi đó, người làm chứng cho ông Này là cha, em gái, em trai của
ông. Những người này là người thừa kế theo pháp luật của người lập di chúc, cha
là người thuộc hàng thừa kế thứ nhất, em gái và em trai thuộc hàng thừa kế thứ 2,
có quyền và nghĩa vụ tài sản liên quan tới nội dung di chúc. Như vậy có thể thấy
những người làm chứng trong di chúc của ông Này không thỏa mãn hoàn toàn
những quy định của điều 632 về người làm chứng hợp pháp.

Câu 3: Di chúc của ông Này có là di chúc do ông Này viết tay hay
không? Vì sao?
Di chúc của ông Này là di chúc do ông Này tự viết tay vì lý do sau:

Căn cứ vào Điều 633 và Điều 634 Bộ luật Dân sự 2015, trước khi qua đời,
ông Này đã lập giấy giao quyền thừa kế toàn bộ nhà đất thuộc quyền sở hữu
chung của ông với bà Trọng cho Nguyễn Thành Hiếu là con riêng của ông Này,
được cha, em gái, em trai ông Này điểm chỉ và ký tên làm chứng. Mặc dù giấy
thừa kế do ông Này viết không được chính quyền địa phương công chứng, chứng
thực nhưng được lập trong lúc ông Này còn minh mẫn, sáng suốt, không bị lừa
dối, đe dọa hoặc cưỡng ép và cóV nhiều người làm chứng nên đây được coi là di
chúc hợp pháp.

Câu 4: Suy nghĩ của anh/chị về hướng giải quyết trên của Tòa án liên
quan đến hình thức di chúc của ông Này khi đây là di chúc do ông Này tự
viết tay.
Hướng giải quyết của Tòa án khi công nhận di chúc viết tay của ông Này
hợp pháp là hoàn toàn hợp lý. Vì căn cứ theo điểm a khoản 1 Điều 630 Bộ luật
Dân sự 2015 quy định: “Người lập di chúc minh mẫn, sáng suốt trong khi lập di
chúc; không bị lừa dối, đe doạ, cưỡng ép;” và căn cứ theo Điều 633 Bộ luật Dân
sự 2015 quy định: “Người lập di chúc phải tự viết và ký vào bản di chúc.” Ngoài
ra không có các quy định khác về việc công chứng, chứng thực hay người làm
chứng đối với di chúc. Thêm vào đó, căn cứ vào Điều 634 Bộ luật Dân sự 2015
quy định: “Trường hợp người lập di chúc không tự mình viết bản di chúc thì có
thể tự mình đánh máy hoặc nhờ người khác viết hoặc đánh máy bản di chúc,

5
nhưng phải có ít nhất là hai người làm chứng. Người lập di chúc phải ký hoặc
điểm chỉ vào bản di chúc trước mặt những người làm chứng; những người làm
chứng xác nhận chữ ký, điểm chỉ của người lập di chúc và ký vào bản di chúc”.

Đối với trường hợp của ông Này thì ông Này tự viết, tự ký cùng sự chứng
kiến của cha, em gái, em trai ông Này điểm chỉ và ký tên làm chứng. Trong thời
gian viết di chúc thì ông Này còn minh mẫn, sáng suốt không bị lừa dối, đe dọa
hoặc cưỡng ép nên được coi là di chúc hợp pháp. Việc có người làm chứng chỉ
làm tăng tính xác thực của di chúc chứ không phải là điều kiện để đảm bảo di
chúc này được xem là hợp pháp. Do đó Tòa án công nhận di chúc của ông Này là
hoàn toàn hợp lý.

Câu 5: Di chúc của cụ Hựu được lập như thế nào?


Di chúc của cụ Hựu được lập như sau:

+ Ngày 25/11/1998 của cụ Hựu đọc cho ông Vũ viết, cụ Hựu điểm chỉ,
ông Vũ và cụ Đỗ Thị Quý (là mẹ của ông Vũ) ký tên làm chứng.

+ Sau đó, ngày 04/01/1999 bà Lựu mang di chúc đến cho ông Hoàng Văn
Thưởng (là Trưởng thôn) và Ủy ban nhân dân xã Mai Lâm xác nhận.

Câu 6: Cụ Hựu có biết chữ không? Đoạn nào của Quyết định số 874
cho câu trả lời?
Cụ Hựu không biết chữ. Đoạn của Quyết định cho câu trả lời: “Đối với di
chúc đề ngày 25-11-1998 của cụ Hựu do bà Ngâm xuất trình, bà Ngâm, bà Đỗ
Thị Lựu và ông Vũ khai di chúc do cụ Hựu đọc cho ông Vũ viết, cụ Hựu điểm
chỉ, ông Vũ và cụ Đỗ Thị Quý (là mẹ của ông Vũ) ký tên làm chứng, sau đó ngày
04-011999 bà Lựu mang di chúc đến cho ông Hoàng Văn Thưởng (là Trưởng
thôn) và Ủy ban nhân dân xã Mai Lâm xác nhận. Ông Quang xác nhận cụ Hựu
là người không biết chữ”.
Câu 7: Di chúc của người không biết chữ phải thỏa mãn các điều kiện
nào để có hình thức phù hợp với quy định của pháp luật?
Theo Khoản 3 Điều 630 BLDS 2015 có quy định về di chúc được lập từ
người bị hạn chế về thể chất hoặc không biết chữ: “Di chúc của người bị hạn chế
về thể chất hoặc của người không biết chữ phải được làm chứng lập thành văn
bản và có công chứng hoặc chứng thực”

6
Và việc chứng thực cũng được quy định tại Điều 636 BLDS 2015:

“Việc lập di chúc tại tổ chức hành nghề công chứng hoặc Ủy ban nhân
dân cấp xã phải tuân theo thủ tục sau:

1. Người lập di chúc tuyên bố nội dung của di chúc trước công chứng viên
hoặc người có thẩm quyền chứng thực của Ủy ban nhân dân cấp xã. Công chứng
viên hoặc người có thẩm quyền chứng thực của Ủy ban nhân dân cấp xã phải ghi
chép lại nội dung mà người lập di chúc đã tuyên bố. Người lập di chúc ký hoặc
điểm chỉ vào bản di chúc sau khi xác nhận bản di chúc đã được ghi chép chính
xác và thể hiện đúng ý chí của mình. Công chứng viên hoặc người có thẩm quyền
chứng thực của Ủy ban nhân dân cấp xã ký vào bản di chúc.

2. Trường hợp người lập di chúc không đọc được hoặc không nghe được
bản di chúc, không ký hoặc không điểm chỉ được thì phải nhờ người làm chứng
và người này phải ký xác nhận trước mặt công chứng viên hoặc người có thẩm
quyền chứng thực của Ủy ban nhân dân cấp xã. Công chứng viên hoặc người có
thẩm quyền chứng thực của Ủy ban nhân dân cấp xã chứng nhận bản di chúc
trước mặt người lập di chúc và người làm chứng.”

Câu 8: Các điều kiện nào nêu trên đã được đáp ứng bởi di chúc của
ông Hựu?
Trong có điều kiện nêu trên, các điều kiện đáp ứng bởi di chúc của cụ Hựu
gồm:

- Di chúc được tạo bằng cách: cụ Hựu đọc cho ông Vũ viết
- Di chúc được cụ Hựu điểm chỉ
- Ông Vũ và bà Quý (mẹ ông Vũ) ký tên làm chứng.

Câu 9: Các điều kiện nào nêu trên đã được đáp ứng đối với di chúc
của ông Hựu?
Các điều kiện không được áp ứng đối với di chúc của ông Hựu đó chính là
quy trình công chức, chứng thực được quy định tại Điều 626 BLDS 2015:

“Việc lập di chúc tại tổ chức hành nghề công chứng hoặc Ủy ban nhân
dân cấp xã phải tuân theo thủ tục sau đây:

7
1. Người lập di chúc tuyên bố nội dung của di chúc trước công chứng viên
hoặc người có thẩm quyền chứng thực của Ủy ban nhân dân cấp xã. Công chứng
viên hoặc người có thẩm quyền chứng thực của Ủy ban nhân dân cấp xã phải ghi
chép lại nội dung mà người lập di chúc đã tuyên bố. Người lập di chúc ký hoặc
điểm chỉ vào bản di chúc sau khi xác nhận bản di chúc đã được ghi chép chính
xác và thể hiện đúng ý chí của mình. Công chứng viên hoặc người có thẩm quyền
chứng thực của Ủy ban nhân dân cấp xã ký vào bản di chúc.

2. Trường hợp người lập di chúc không đọc được hoặc không nghe được
bản di chúc, không ký hoặc không điểm chỉ được thì phải nhờ người làm chứng
và người này phải ký xác nhận trước mặt công chứng viên hoặc người có thẩm
quyền chứng thực của Ủy ban nhân dân cấp xã. Công chứng viên hoặc người có
thẩm quyền chứng thực của Ủy ban nhân dân cấp xã chứng nhận bản di chúc
trước mặt người lập di chúc và người làm chứng.”

Câu 10: Theo anh/chị, di chúc nêu trên có thỏa mãn điều kiện về hình
thức không? Vì sao?
Di chúc nêu trên chưa thỏa mãn điều kiện về hình thức. Vì căn cứ theo
khoản 3 Điều 630 Bộ luật Dân sự 2015 quy định: “Di chúc của người bị hạn chế
về thể chất hoặc của người không biết chữ phải được người làm chứng lập thành
văn bản và có công chứng hoặc chứng thực.”

Thứ nhất, trong trường hợp di chúc nêu trên thì di chúc của cụ Hựu được
bà Lựu mang đến cho ông Thưởng (trưởng thôn) và Ủy ban nhân dân xã Mai
Lâm để xác nhận chứ không phải hai người làm chứng là ông Vũ và cụ Quý đem
đi xác nhận. Tuy nhiên, ông Thưởng không chứng kiến cụ Hựu lập di chúc, việc
Ủy ban nhân dân xã Mai Lâm xác nhận là do bà Lựu mang di chúc đến xác nhận
và Ủy ban nhân dân xã Mai lâm chỉ xác nhận chữ ký của ông Thưởng chứ không
xác nhận nội dung của di chúc.

Thứ hai, qua giám định dấu vân tay của cụ Hựu tại bản di chúc thì Viện
khoa học hình sự Tổng cục cảnh sát kết luận: dấu vân tay mờ không thể hiện rõ
các đặc điểm riêng nên không đủ yếu tố giám định. Do đó, di chúc nêu trên chưa
thỏa mãn điều kiện về hình thức.

8
Câu 11. Suy nghĩ của anh chị về các quy định trong BLDS liên quan
đến hình thức di chúc của người không biết chữ.
Về ảnh hưởng của xã hội. Do nạn mù chữ trong những năm tháng khói lửa
chiến tranh, và cũng như điều kiện đói khổ nên một số bộ phận nhân dân vẫn
chưa biết chữ. Vì lẽ đó, BLDS có quy định về hình thức di chúc đối với người
không biết chữ. Đối với trường hợp này BLDS đã có một số quy định cụ thể để
đảm bảo ý chí của người để lại di sản và cả quyền lợi, nghĩa vụ của những người
có liên quan như sau:
Tại Điều 649 BLDS năm 2005, có quy định: "Di chúc phải được lập
thành văn bản; nếu không thể lập được di chúc bằng văn bản thì có thể di chúc
miệng".
Và bên cạnh đó Điều 627 BLDS năm 2015 cũng quy định tương tự về
hình thức của di chúc như sau: "Di chúc phải được lập thành văn bản; nếu không
thể lập được di chúc bằng văn bản thì có thể di chúc miệng".
Ở hai điều trên vừa nêu ra có nghĩa là, cả hai Bộ luật đều quy định là
người không biết chữ vẫn có thể lập di chúc bằng miệng. Tuy nhiên thì việc lập
di chúc bằng miệng sẽ có một số điều lệ khó khăn hơn, phức tạp hơn so với việc
lập di chúc bằng văn bản. Theo em, quy định về hình thức khi để lại di chúc cho
những người không biết chữ của Bộ luật hiện hành là vô cũng hợp lý, bởi lẽ
những quy định ấy đảm bảo ý chí của người để lại di sản, cũng như đảm bảo
được quyền lợi và nghĩa vụ của những chủ thể có liên quan.

PHẦN 2: TÀI SẢN ĐƯỢC ĐỊNH ĐOẠT THEO DI CHÚC


Tóm tắt Quyết định số 359/2013/DS-GĐT
Ngày 28 tháng 8 năm 2013 tại trụ sở Cơ quan thường trực Tòa án nhân
dân tối cao tại phía Nam mở phiên tòa giám đốc thẩm xét xử vụ án“Tranh chấp
thừa kế” giữa nguyên đơn là cụ Lê Thanh Quý với bị đơn là ông Nguyễn Hữu
Phước và ông Nguyễn Hữu Lộc.
Cụ Hương và cụ quý có tạo lập được bất động sản gồm nhà và đất tọa lạc
tại số 525D/19 Nguyễn Văn Đậu (nay là 302 Nguyễn Thượng Hiền, phường 5,
quận Phú Nhuận) được Ủy ban nhân dân quận Phú Nhuận cấp giấy chứng nhận
vào năm 1994. Ngày 16/01/2009, cụ Hương di chúc cho toàn bộ nhà đất cho các
con là Nguyễn Ngọc Đức, Nguyễn Hữu Nghĩa, Nguyễn Ngọc Hiếu, Nguyễn

9
Hữu Dũng, Quảng Thị Kiều (Vợ ông Nguyễn Hữu Trí). Bản di chúc vè hình
thức có công chứng của Phòng Công chứng số 4, thành phố Hồ Chí Minh. Tại
thời điểm lập di chúc, cụ Hương có giấy chứng nhận sức khỏe của Bệnh viện
Phú Nhuận xác nhận cụ Hương minh mẫn. Do đó, theo quy định tại Khoản 1
Điều 652 BLDS 2005 thì di chúc trên là hợp pháp. Tuy nhiên, về nội dung thì di
chúc chỉ có giá trị một phần bởi nhà đất trên là tài sản chung của vợ chồng cụ
Hương và cụ Quý. Việc cụ Hương lập di chúc cho toàn bộ nhà đất cho 5 người
con trong khi không có sự đồng ý của cụ Quý là không đúng. Vì vậy, Tòa án
cấp sơ thẩm xét xử di chúc của cụ Nguyễn Văn Hương có hiệu lực một phần đối
với phần tài sản của cụ Hương (1/2 nhà đất) nên được chia đều cho 5 người con
là các ông bà Nguyễn Ngọc Đức, Nguyễn Hữu Nghĩa, Nguyễn Ngọc Hiếu,
Nguyễn Hữu Dũng, Quảng Thị Kiều (vợ ông Nguyễn Hữu Trí) sau khi đã chia
cho cụ Quý 2/3 suất thừa kế theo pháp luật; phần giá trị căn nhà theo kết quả
định giá của hội đồng định giá thì được chia cho cụ Quý ½ và thêm 2/3 suất
thừa kế theo pháp luật và phần còn lại chia đều cho 5 người con được hưởng
thừa kế theo di chúc của cụ Hương.

Tóm tắt quyết định số 58:


Nguyên đơn là ông Trần Văn Y khởi kiện yêu cầu Tòa án tuyên bố các
văn bản công chứng vô hiệu của bị đơn là Phòng công chứng M về di chúc của
cụ C và cụ D vì làm ảnh hưởng đến quyền và lợi ích hợp pháp của gia đình ông
Y. Ngày 16/12/2009 cụ C lập di chúc để lại 1 phần tài sản là Thửa đất số 38, Tờ
bản đồ số 13 cho con trai là ông Nguyễn Văn D1. Ngày 15/01/2011 cụ D cũng
lập di chúc để lại phần tài sản cho ông D1 khi nhà nước thu hồi và có bồi thường
thì ông D1 đứng tên và nhận tiền. Phòng công chứng M đã có văn bản công bố di
chúc đối với hai bản di chúc này nhưng giữa ông Y và cụ C có hợp đồng chuyển
nhượng quyền sử dụng đất từ năm 1998, dù là tài sản chung nhưng cụ C lại tự ý
thỏa thuận không thông qua ý kiến của cụ D nên hợp đồng chưa đủ căn cứ để
xem xét tính hợp pháp. GDT xét thấy giấy chứng nhận quyền sử dụng đất của 2
cụ đã bị thu hồi vào ngày 21/7/2010 nhưng về giá trị quyền sử dụng đất vẫn được
pháp luật bảo đảm theo luật đất đai nên hai cụ có quyền lập di chúc. Do đó phải
xét lại sơ thẩm để đảm bảo được quyền và lợi ích của các bên đương sự. Như
vậy, Tòa án quyết định hủy Bản án sơ thẩm và phúc thẩm, giao hồ sơ vụ án để
tiến hành xét xử lại.

10
Câu 1: Cụ Hương đã định đoạt tài sản nào? Đoạn nào của quyết định
số 359 cho câu trả lời?
Trong đoạn xét thấy của Quyết định số 359 có đoạn: “Theo các tài liệu,
chứng cứ có trong hồ sơ vụ án thể hiện nguồn gốc nhà đất tại địa chỉ 25D/19
Nguyễn Văn Đậu (nay là 302 Nguyễn Thượng Hiền, phường 5, quận Phú Nhuận)
được Ủy ban nhân dân quận Phú Nhuận cấp giấy chứng nhận cho cụ NguyễnVăn
Hương vào năm 1994. Ngày 16/01/2009, cụ Hương di chúc toàn bộ nhà đất cho
các con là Nguyễn Ngọc Đức, Nguyễn Hữu Nghĩa, Nguyễn Ngọc Hiếu, Nguyễn
Hữu Dũng, Quảng Thị Kiều (vợ ông Nguyễn Hữu Trí).1”

Như vậy, cụ Hương đã định đoạt lại toàn bộ căn nhà và đất số 302 Nguyễn
Thượng Hiền, phường 5, quận Phú Nhuận cho 5 người con.

Câu 2: Đoạn nào của Quyết định số 359 cho thấy tài sản cụ Hương
định đoạt trong di chúc là tài sản chung của vợ chồng cụ Hương?
Trong Quyết định số 359, phần XÉT THẤY có đoạn: “Tuy nhiên, về nội
dung thì di chúc chỉ có giá trị một phần bởi nhà đất trên là tài sản chung của vợ
chồng cụ Hương và cụ Quý. Việc cụ Hương lập di chúc cho toàn bộ nhà đất cho
5 người con trong khi không có sự đồng ý của cụ Quý là không đúng.”

Câu 3: Tòa án đã công nhận phần nào của di chúc? Đoạn nào của
Quyết định số 359 cho câu trả lời?
Tòa án đã công nhận một phần di chúc của cụ Nguyễn Văn Hương. Trong
di chúc có nội dung chia toàn bộ căn nhà và đất số 302 Nguyễn Thượng Hiền,
phường 5, quận Phú Nhuận cho 5 người con. Tuy nhiên di sản kể trên là tài sản
chung của 2 vợ chồng cụ Quý và cụ Hương nên cụ Hương không có quyền tự
định đoạt toàn bộ. Do vậy di chúc chỉ được chấp nhận một phần là phần tài sản
của cụ Hương trong khối tài sản chung của 2 vợ chồng.

Tại phần xét thấy của bản án cho rõ câu trả lời như sau: “Theo quy định
tại Khoản 1 Điều 652 BLDS năm 2005 thì di chúc trên là hợp pháp. Tuy nhiên,
về nội dung thì di chúc chỉ có giá trị một phần bởi nhà đất trên là tài sản chung
của cụ Hương và cụ Quý…Vì vậy, Tòa án cấp sơ thẩm xét xử di chúc của cụ
Nguyễn Văn Hương có hiệu lực một phần đối với phần tài sản của cụ Hương nên

1
Phần xét thấy của Quyết định số 359/2013/DS-GĐT ngày 28/8/2013 của Tòa Dân sự của Tòa án nhân
dân tối cao.

11
được chia đều cho 5 người con là các ông bà Nguyễn Ngọc Đức, Nguyễn Hữu
Nghĩa, Nguyễn Ngọc Hiếu, Nguyễn Hữu Dũng, Quảng Thị Kiều. Sau khi đã chia
lại cho cụ Quý 2/3 suất thừa kế theo pháp luật còn 1/2 diện tích đất còn lại được
chia cho cụ Quý phần giá trị căn nhà theo kết quả định giá của hội đồng định giá
thì được chia cho cụ Quý 1/2 và thêm 2/3 suất thừa kế theo pháp luật và phần còn
lại chia đều cho 5 người con được hưởng thừa kế theo di chúc của cụ Hương là
có căn cứ.”
Câu 4: Suy nghĩ của anh/chị về hướng giải quyết trên của Tòa giám
đốc thẩm.
Em nhận thấy hướng giải quyết trên của Tòa giám đốc thẩm là hoàn toàn
phù hợp với quy định của pháp luật. Bởi vì ở Điều 634 BLDS 2005 có quy định
về di sản: “Di sản bao gồm tài sản riêng của người chết, phần tài sản của người
chết trong tài sản chung với người khác”. Ở trường hợp của cụ Quý và cụ
Hương, tài sản thuộc quyền sở hữu chung của hai cụ. Hơn hết, cụ Hương trước
khi chết cũng không có tài sản riêng nên chỉ có phần tài sản của cụ Hương trong
tài sản chung với cụ Quý mới được tính là di sản. Vì vậy, Tòa án cấp sơ thẩm xét
xử di chúc của cụ Nguyễn Văn Hương có hiệu lực một phần đối với phần tài sản
của cụ Hương (½ nhà đất) nên được chia đều cho 5 người con là hoàn toàn phù
hợp với quy định của pháp luật. Và ở khoản 1 Điều 644 BLDS 2015 cũng có quy
định về người thừa kế không phụ thuộc vào nội dung di chúc:
“1. Những người sau đây vẫn được hưởng phần di sản bằng hai phần ba
suất của một người thừa kế theo pháp luật nếu di sản được chia theo pháp luật,
trong trường hợp họ không được người lập di chúc cho hưởng di sản hoặc chỉ
cho hưởng phần di sản ít hơn hai phần ba suất đó:
a) Con chưa thành niên, cha, mẹ, vợ, chồng;
b) Con thành niên mà không có khả năng lao động.”
Khi cụ Hương chết, cụ Quý là vợ của cụ Hương nhưng không được cụ
Hương lập di chúc cho hưởng di sản. Vì vậy, việc Toàn án xác định chia cho cụ
Quý 2/3 suất thừa kế theo pháp luật là hoàn toàn đúng đắn.

12
Câu 5: Nếu cụ Quý chết trước cụ Hương, phần nào của di chúc có giá
trị pháp lý? Nêu cơ sở pháp lý khi trả lời.
Nếu cụ Quý chết trước cụ Hương thì theo quy định của Bộ luật Dân sự
năm 2015, cùng với quy định của Luật hôn nhân và gia đình thì phần tài sản
chung của cụ Quý và cụ Hương sẽ có giá trị pháp lý (cụ thể là ½ tài sản chung).
Bởi căn cứ vào quy định của pháp luật hiện hành có 3 trường hợp cụ thể
như sau:
Thứ nhất, nếu cụ Quý chia di sản cho cụ Hương theo di chúc thì cụ Hương
sẽ được hưởng phần di sản theo di chúc và ½ di sản theo quy định của pháp luật.
Thứ hai, nếu cụ Quý không phân chia di sản cho cụ Hương trong di chúc
thì di chúc của cụ Hương sẽ bao gồm phần di sản có hiệu lực pháp lý cộng thêm
2/3 suất của một người thừa kế theo pháp luật (nếu di sản chia theo pháp luật),
hoặc ít hơn 2/3 suất đó vì cụ Hương thuộc người thừa kế không phụ thuộc của di
chúc (Điều 644 BLDS 2015).
Thứ ba, nếu cụ Quý không lập di chúc thì cụ Hương được hưởng di sản
theo pháp luật xét căn cứ pháp lý tại điểm a, khoản 1, Điều 650:
“1. Thừa kế theo pháp luật được áp dụng trong trường hợp sau đây:
a) Không có di chúc;”
Và Điều 651 BLDS năm 2015 có quy định như sau:
1. Những người thừa kế theo pháp luật được quy định theo thứ tự sau đây:
a) Hàng thừa kế thứ nhất gồm: vợ, chồng, cha đẻ, mẹ đẻ, cha nuôi, mẹ
nuôi, con đẻ, con nuôi của người chết;
b) Hàng thừa kế thứ hai gồm: ông nội, bà nội, ông ngoại, bà ngoại, anh
ruột, chị ruột, em ruột của người chết; cháu ruột của người chết mà người chết
là ông nội, bà nội, ông ngoại, bà ngoại;
c) Hàng thừa kế thứ ba gồm: cụ nội, cụ ngoại của người chết; bác ruột,
chú ruột, cậu ruột, cô ruột, dì ruột của người chết; cháu ruột của người chết mà
người chết là bác ruột, chú ruột, cậu ruột, cô ruột, dì ruột; chắt ruột của người
chết mà người chết là cụ nội, cụ ngoại.

13
Câu 6: Nếu tài sản được định đoạt trong di chúc chỉ thuộc sở hữu của
cụ Hương vào đầu tháng 4/2009 thì di chúc của cụ Hương có gia trị pháp lý
không? Vì sao?
Nếu tài sản được định đoạt trong di chúc chỉ thuộc sở hữu của cụ Hương
vào đầu tháng 4/2009 thì di chúc của cụ Hương có giá trị pháp lý vì lý do sau:
Căn cứ vào Điều 630 Bộ luật Dân sự 2015 về di chúc hợp pháp, cụ Hương
có giấy chứng nhận sức khỏe của Bệnh viện Phú Nhuận xác nhận cụ Hương
minh mẫn và về hình thức thi bản di chúc có công chứng của Phòng Công chứng
số 4 - TP. Hồ Chí Minh vào ngày 16/1/2009 nên được coi là di chúc hợp pháp.
Về nội dung thì toàn bộ phần di chúc đều có giá trị pháp lý vì tài sản lúc
này chỉ thuộc sở hữu của cụ Hương.Vì vậy, căn cứ vào Điều 609 Bộ luật Dân sự
2015 về quyền thừa kế, cụ Hương có quyền lập di chúc để định đoạt tài sản của
mình.
Câu 7: Quyết định số 58, đoạn nào cho thấy quyền sử dụng đất của cụ C
và cụ D đã bị thu hồi trước khi hai cụ chết?
Di sản của cụ D, cụ C để lại là quyền sử dụng đất tại thửa đất số 38, Tờ
bản đồ số 13 đã bị thu hồi theo Quyết định số 1208/QĐ-UBND ngày 21/7/2010
của UBND thành phố Vĩnh Yên2. Bên cạnh đó, ngày cụ C chết là ngày 7/9/2010,
ngày cụ D chết là ngày 21/01/2011. Như vậy, ta có thể kết luận được quyền sử
dụng đất của cụ C và cụ D đã bị thu hồi trước khi hai cụ mất.

Câu 8: Đoạn nào của Quyết định số 58 cho thấy Tòa giám đốc thẩm
xác định di sản của cụ C và cụ D là quyền sử dụng đất? Suy nghĩ của
anh/chị về hướng xác định vừa nêu của Tòa giám đốc thẩm?
Quyết định số 58/2018/DS-GĐT của Toà án xác định di sản của cụ C và
cụ D là quyền sử dụng đất được quy định tại mục 5 của phần "Nhận định của Toà
án", cụ thể như sau: "Ngoài ra, di sản của cụ D, cụ C để lại là quyền sử dụng đất
tại thừa đất số 38, Tờ bản đồ số 13 đã bị thu hồi theo Quyết định số 1208/QD-
UBND ngày 21-7-2010 của Ủy ban nhân dân thành phố Vĩnh Yên nhưng giá trị
quyền sử dụng đất của người có đất bị thu hồi vẫn được pháp luật bảo đảm theo
quy định của Luật đất đai nên hai cụ có quyền lặp di chúc định đoạt tài sản cho
ông D1"...

2
Xem mục [5], Nhận định của Tòa án trong Quyết định số 58

14
Theo em thì phần quyết định của Toà án là không thoả đáng, bởi căn cứ
vào Điều 42 Luật đất đai năm 2003 (Và tương ứng với Điều 74 Luật Đất đai
2013) có quy định như sau:

"Khoản 1 Điều 42 Luật đất đai năm 2003: Nhà nước thu hồi đất của người
sử dụng đất mà người bị thu hồi đất có giấy chứng nhận quyền sử dụng đất hoặc
đủ điều kiện để được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất theo quy định tại
Điều 50 của Luật này thì người bị thu hồi đất được bồi thường, trừ các trường
hợp quy định tại các khoản 2, 3, 4, 5, 6, 7, 8, 9, 10, 11 và 12 Điều 38 và các điểm
b, c, d, đ và g khoản 1 Điều 43 của Luật này."

Có nghĩa là phần di sản mà cụ D và cụ D để lại là quyền sử dụng đất, và


phần giá trị đất đã bị thu hồi vẫn được pháp luật đền bù để thành lập di sản phù
hợp với những gì di chúc đã nêu. Và bởi lẽ, ở thời điểm các cụ chết, quyền sử
dụng đất đã bị thu hồi rồi nên không được xem là di sản nữa. Lúc này di sản
chính là giá trị bồi thường. Việc xác định như Bản án là không thuyết phục.

Câu 9: Đoạn nào của Quyết định số 58 cho thấy Tòa giám đốc thẩm
theo hướng cụ C và cụ D được định đoạt theo di chúc giá trị quyền sử dụng
đất bị Nhà nước thu hồi? Suy nghĩ của anh/chị về hướng vừa nêu của Tòa
giám đốc thẩm.
Đoạn trong Quyết định số 58 cho thấy Tòa giám đốc thẩm theo hướng cụ
C và cụ D được định đoạt theo di chúc giá trị quyền sử dụng đất bị Nhà nước thu
hồi là: “Ngoài ra, di sản của cụ D, cụ C để lại là quyền sử dụng đất tại thửa đất số
38, Tờ bản đồ số 13 đã bị thu hồi theo Quyết định số 1208/QĐ-UBND ngày 21-
7-2010 của Ủy ban nhân dân thành phố Vĩnh Yên nhưng giá trị quyền sử dụng
đất của người có đất bị thu hồi vẫn được pháp luật bảo đảm theo quy định của
Luật Đất đai nên hai cụ có quyền lập di chúc định đoạt tài sản trên cho ông D1.”

Nhóm em hoàn toàn đồng tình với hướng xác định được nêu trên của tòa
án. Vì trong thực tế mặc dù đất bị thu hồi nhưng giá trị quyền sử dụng đất vẫn
được đảm bảo bằng biện pháp bồi thường được quy định rõ ở Khoản 1 Điều 75
Luật đất đai 2013:

“1. Hộ gia đình, cá nhân đang sử dụng đất không phải là đất thuê trả tiền
thuê đất hàng năm, có Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, Giấy chứng nhận
quyền sở hữu nhà ở và quyền sử dụng đất ở, Giấy chứng nhận quyền sử dụng

15
đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất (sau đây gọi chung là
Giấy chứng nhận) hoặc có đủ điều kiện để được cấp Giấy chứng nhận quyền sử
dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất theo quy định của
Luật này mà chưa được cấp, trừ trường hợp quy định tại khoản 2 Điều 77 của
Luật này; người Việt Nam định cư ở nước ngoài thuộc đối tượng được sở hữu
nhà ở gắn liền với quyền sử dụng đất ở tại Việt Nam mà có Giấy chứng nhận
hoặc có đủ điều kiện được cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở
hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất theo quy định của Luật này mà chưa
được cấp.”

Trong trường hợp này, cụ C và cụ D lập di chúc định đoạt tài sản ở đây là
giá trị quyền sử dụng đất, giá trị được bồi thường của mảnh đất bị thu hồi cho
ông D1. Và nội dung này đã được phát triển thành Án lệ số 34/2020 về “Giá trị
bồi thường khi đất bị thu hồi được định đoạt theo di chúc.” Quyền sử dụng đất sẽ
đương nhiên được coi là tài sản, tuy nhiên giá trị bồi thường khi đất bị thu hồi
chưa được quy định rõ trong văn bản. Do đó, đóng góp của AL số 34 cho thấy
rằng AL số 34 chưa khẳng định rõ giá trị bồi thường là quyền tài sản, là tài sản
nhưng nó khẳng định người có giá trị được bồi thường ấy có quyền định đoạt giá
trị bồi thường này bằng di chúc. Bên cạnh đó, BLDS đã quy định đối tượng được
định đoạt trong di chúc chính là tài sản. Mà AL số 34 khẳng định người ta được
quyền định đoạt giá trị bồi thường quyền sử dụng đất bị thu hồi. Đây là sự khẳng
định gián tiếp giá trị bồi thường chính là tài sản. Đồng thời, nó cũng là tài sản, là
quyền tài sản được công nhận bởi pháp luật. Vì thế, theo quan điểm nhóm em
Tòa giám đốc thẩm theo hướng cụ C và cụ D được định đoạt theo di chúc giá trị
quyền sử dụng đất bị Nhà nước thu hồi là hoàn toàn hợp lý và thỏa đáng.

PHẦN 3: DI CHÚC CHUNG CỦA VỢ CHỒNG


Tóm tắt Bản án số 14/2017/DSST:
Nguyên đơn là bà Hoàng Thị H, bị đơn là anh Hoàng Tuyết H tranh chấp
về thừa kế theo di chúc. Bà H và ông X kết hôn từ năm 1960, trong thời kì hôn
nhân 2 vợ chồng đã tạo lập được 1 khối tài sản chung. Ngày 10/8/2015 bà H và
ông X cùng nhau lập di chúc chung của vợ chồng với nội dung: nếu ông X chết
trước bà thì di chúc này sẽ giao cho bà quản lý sử dụng tài sản chung, khi bà chết
sẽ giao lại tài sản cho con trai là Hoàng Hồng H1(do anh H1 có chăm sóc bố mẹ

16
lúc già yếu còn những người con còn lại bất hiếu với cha mẹ) nhưng không có
chứng thực. Đến ngày 12/1/2016, ông X chết bà H công bố di chúc thì anh H,
anh H2, H3 không công nhận bản di chúc và yêu cầu chia di sản. Bà X làm đơn
yêu cầu Tòa án công nhận di chúc chung của ông X và bà H viết là hợp pháp. Từ
những căn cứ thu thập được, Tòa án đã quyết định công nhận di chúc chung của
2 vợ chồng là hợp pháp và không chấp nhận yêu cầu đòi chia di sản của anh
Hoàng Tuyết H và Hoàng Quốc H2.
Câu 1: Đoạn nào của bản án số 14 cho thấy di chúc có tranh chấp là
di chúc chung của hai vợ chồng?
Trích phần nhận định của Tòa án trong Bản án số 14/2017/DSST: “Quan
hệ pháp luật: “Ông Hoàng Minh X và bà Hoàng Thị H là vợ chồng. Trong thời
kỳ hôn nhân ông bà tạo dựng được khối tài sản chung như biên bản thẩm định
ngày 21/8/2017. Tháng 01/2016 ông X chết và có để lại một bản di chúc chung
của vợ chồng viết ngày 10/8/2015. Anh H, anh H2, anh H3 là con đẻ của ông X,
bà H không công nhận di chúc trên là hợp pháp. Yêu cầu khởi kiện của bà H phù
hợp quy định tại chương XXII của Bộ luật dân sự năm 2015 về thừa kế theo di
chúc và thuộc thẩm quyền giải quyết của TAND huyện C, tỉnh Phú Thọ.”

Câu 2: Theo Tòa án, di chúc chung của vợ chồng có giá trị pháp lý khi
áp dụng BLDS 2015 không? Đoạn nào của bản án cho câu trả lời.
Theo Tòa án, di chúc chung của vợ chồng có giá trị pháp lý khi áp dụng
BLDS 2015.

Trong phần nhận định của Tòa án đã nêu ra rằng: “Ông X và bà H làm di
chúc chung của vợ chồng thể hiện việc định và tài sản chung phù hợp với điều
630 BLDS 2015 đã quy định về việc viết di chúc. Xét tính hợp pháp của bản di
chúc không có chứng thực:
Tại Điều 630 Bộ luật dân sự năm 2015 quy định di chúc hợp pháp:
1. Di chúc hợp pháp phải có đủ các điều kiện sau đây:
a. Người lập di chúc minh mẫn, sáng suốt trong khi lập di
chúc không bị lừa dối, đe dọa hoặc cưỡng ép.
b. Nội dung của di chúc không vi phạm điều cấm của luật,
không trái đạo đức xã hội, hình thức di chúc không trái quy định của
luật

17
4. Di chúc bằng văn bản không có công chứng chứng thực chỉ được
coi là hợp pháp nếu có đủ các điều kiện được quy định tại khoản 1 Điều
này.
Trong quá trình giải quyết vụ án các bên đương sự thừa nhận ông X có
tinh thần tỉnh táo, minh mẫn không phải nằm điều trị cho đến thời điểm trước khi
chết. Sự thừa nhận trên chứng tỏ vào thời điểm ông X viết bản di chúc còn khỏe
mạnh minh mẫn không có sự ép buộc nào. Nội dung trong bản di chúc không vi
phạm điều cấm của luật không trái đạo đức xã hội phù hợp với quy định tại điều
630 bộ luật dân sự 2015. Do đó quyết định của tòa án xét xử công nhận di chúc
chung của ông Hoàng Minh X và bà Hoàng Thị h viết ngày 10/8/2015 là hợp
pháp không chấp nhận yêu cầu của anh Hoàng Tuyết khách và anh Hoàng Quốc
H2 đòi chia di sản của ông Hoàng Minh X.”
Câu 3: Suy nghĩ của anh/chị về hướng giải quyết trên của Tòa án về
di chúc chung của vợ chồng trong mối quan hệ với BLDS 2015.
Hướng giải quyết của Tòa án về di chúc chung của vợ chồng ông X và bà
H trong mối quan hệ với BLDS 2015 là hợp tình hợp lý bởi đây là di chúc chung
của vợ chồng ông X bà H nhưng chỉ có ông X qua đời trước nên chưa đến thời
điểm mở thừa kế theo Điều 611 BLD 2015. Hơn nữa, Toà án chỉ công nhận di
chúc trên là hợp pháp chứ không đề cập đến hiệu lực của di chúc. Mặc dù BLDS
2015 không đề cập đến quy định về di chúc chung của vợ chồng nhưng nó đã
thỏa mãn các điều kiện về nội dung, hình thức, chủ thể được quy định:

Về nội dung: Nội dung của di chúc không vi phạm vào các Điều cấm của
luật, không trái đạo đức xã hội và hơn hết là nó đã phù hợp với quy định tại điểm
b khoản 1 Điều 630 BLDS 2015: “Nội dung của di chúc không vi phạm điều cấm
của luật, không trái đạo đức xã hội; hình thức di chúc không trái quy định của
luật.”

Về hình thức: Di chúc này do ông X tự viết và được vợ chồng ông cùng
ký tên vào, theo kết luận giám định số 1700/KLGĐ ngày 28/8/2017 thì đây chính
là chữ viết tay của ông X, phù hợp với quy định về di chúc bằng văn bản không
có người làm chứng tại Điều 633 BLDS 2015: “Người lập di chúc phải tự viết và
ký vào bản di chúc. Việc lập di chúc bằng văn bản không có người làm chứng
phải tuân theo quy định tại Điều 631 của Bộ luật này.”

18
Về chủ thể: Người lập di chúc là ông X và bà H còn minh mẫn, sáng suốt
trong khi lập di chúc, không bị ai cưỡng ép như trong Bản án đã đề cập phù hợp
với điểm a khoản 1 Điều 630 BLDS 2015: “Người lập di chúc minh mẫn, sáng
suốt trong khi lập di chúc; không bị lừa dối, đe doạ, cưỡng ép.”

 Vì vậy, tuy BLDS 2015 không quy định cụ thể vê trường hợp này
nhưng việc Tòa án xét về các điều kiện trên để công nhận di chúc chung của ông
X và bà H là hoàn toàn hợp lý.

PHẦN 4: DI SẢN DÙNG VÀO VIỆC THỜ CÚNG


Tóm tắt bản án số 211/2009/DSPT ngày 16/9/2009 của Tòa án nhân
dân huyện Long Thành, tỉnh Đồng Nai.
Nguyên đơn là anh Phan Văn Được, bị đơn là anh Phan Văn Tân và chị
Phan Thị Hương. Cha mẹ nguyên đơn là bà Lùng và ông Mười có 7 người con là
anh Thảo, anh Tân, anh Xuân, anh Nhành, chị Hoa, anh Được và chị Hương. Bà
Lùng chết ngày 08/12/2005, di sản bà Lùng gồm có căn nhà diện tích 57.25m 2
kết cấu móng cột xây gạch, tường xây gạch, mái tole xi măng, xà gồ gỗ, nền lát
gạch Ceranic, cửa sắt trên diện tích 86m 2 thửa số 27-tờ bản đồ số 25 Thị trấn
Long Thành. Tại tờ di chúc ngày 8/7/2004 bà Lùng để lại nhà đất cho 7 người
con đồng thừa hưởng để thờ cúng cho mẹ, hiện tại anh Được là người đang quản
lí di sản, năm 2005 anh chị em họp lại chia di sản nhưng anh Tân và chị Hương
không đồng ý. Nay anh Được yêu cầu chia di sản thừa kế của mẹ anh cho 7 anh
chị em. Tòa án chấp nhận yêu cầu khởi kiện của anh Phan Văn Được với 6 anh
chị em về việc “tranh chấp di sản thừa kế” và anh Được sở hữu sử dụng nhà đất
và chia bằng tiền cho 6 anh chị em giá trị tương ứng với phần di sản được hưởng.

Câu 1: Trong điều kiện nào di sản dùng vào việc thờ cúng có giá trị
pháp lý? Nêu cơ sở pháp lý khi trả lời.
Điều kiện để di sản dùng vào việc thờ cúng có giá trị pháp lý là:

Người lập di chúc để lại một phần di sản dùng vào việc thờ cúng và còn
dư lại sau khi thanh toán tất cả các nghĩa vụ tài sản.

Cơ sở pháp lý: Điều 670 BLDS 2015:

" 1. Trong trường hợp người lập di chúc có để lại một phần di sản dùng
vào việc thờ cúng thì phần di sản đó không được chia thừa kế và được giao cho

19
một người đã được chỉ định trong di chúc quản lí để thực hiện việc thờ cúng; nếu
người được chỉ định không thực hiện đúng di chúc hoặc không theo thỏa thuận
của những người thừa kế thì những người thừa kế có quyền giao phần di sản
dùng vào việc thờ cúng cho người khác quản lý để thờ cúng.

Trong trường hợp người để lại di sản không chỉ định người quản lý di sản
thờ cúng thì những người thừa kế cử một người quản lý di sản thờ cúng.

Trong trường hợp tất cả những người thừa kế theo di chúc đều đã chết thì
phần di sản dùng để thờ cúng thuộc về người đang quản lý hợp pháp di sản đó
trong số những người thuộc diện thừa kế theo pháp luật.

2. Trong trường hợp toàn bộ di sản của người chết không đủ để thanh
toán nghĩa vụ tài sản của người đó thì không được dành một phần di sản dùng
vào việc thờ cúng."

Câu 2: Đoạn nào của bản án cho thấy di sản có tranh chấp được di
chúc dùng vào việc thờ cúng?
Đoạn của bản án cho thấy di sản có tranh chấp được di chúc dùng cho việc
thờ cúng là: “Tại tờ di chúc ngày 08 tháng 07 năm 2004 bà Lùng để lại nhà đất
cho 7 người con đồng thừa hưởng để thờ cúng cha mẹ, anh Được là người quản
lí di sản, hiện tại 5/7 anh chị em của anh Được đồng ý chia di sản và giao cho
anh Được sở hữu di sản là có cơ sở chấp nhận”.
Câu 3: Các điều kiện để di sản dùng vào việc thờ cúng một cách hợp
pháp có được thỏa mãn trong vụ việc đang nghiên cứu không?
Các điều kiện để di sản dùng vào việc thờ cúng một cách hợp pháp không
được thỏa mãn trong vụ việc đang nghiên cứu. Cụ thể, căn cứ vào Điều 645 Bộ
luật Dân sự năm 2015 về di sản dùng vào việc thờ cúng, di sản dùng vào việc thờ
cúng sẽ không được chia thừa kế và được giao cho người đã được chỉ định trong
di chúc quản lý để thực hiện việc thờ cúng. Tuy nhiên theo Bản án số
211/2009/DSST, bà Lùng đã để lại nhà đất cho 7 người con đồng thừa hưởng để
thờ cúng cha mẹ, anh Được hiện đang là người quản lý di sản đó và 5/7 anh chị
em của anh Được đồng ý chia di sản. Mặt khác, trong bản án chưa đề cập đến
vấn đề khi lập bản di chúc, bà Tân có chỉ định người quản lý hay không. Như
vậy, đối với điều kiện để di sản dùng vào việc thờ cúng một cách hợp pháp

20
không được thỏa mãn trong vụ việc này. Tóm tắt Quyết định số 359/2013/DS-
GĐT Nhà đất tại địa chỉ 25D/19 Nguyễn Văn Đậu được UBND quận Phú Nhuận
cấp giấy chứng nhận cho cụ Nguyễn Văn Hương vào năm 1994. Ngày 16/1/2009
cụ Hương di chúc toàn bộ nhà đất cho các con là Nguyễn Ngọc Đức, Nguyễn
Hữu Nghĩa, Nguyễn Ngọc Hiếu, Nguyễn Hữu Dũng, Quảng Thị Kiều (vợ ông
Nguyễn Hữu Trí). Bản di chúc có công chức của phòng công chứng số 4 TP. Hồ
Chí Minh. Tại thời điểm lập di chúc, cụ Hương có giấy chứng nhận của bệnh
viện xác nhận cụ Hương minh mẫn. Do đó, di chúc trên được xem là hợp pháp.
Tuy nhiên, di chúc chỉ có giá trị 1 phần vì nhà đất trên là tài sản chung của vợ
chồng cụ Hương, cụ Quý và việc cụ Hương lập di chúc cho toàn bộ nhà đất cho 5
con người khi không có sự đồng ý của cụ Quý là không đúng. Do đó, phần tài
sản của cụ Hương là ½ nhà đất, được chia đều cho 5 người con sau khi đã chia
cho cụ Quý 2⁄3 suất thừa kế theo pháp luật. Còn ½ diện tích đất còn lại được chia
cho cụ Quý. Phần giá trị căn nhà theo kết quả giám định thì được chia cho cụ
Quý ½ và thêm 2⁄3 suất thừa kế theo pháp luật và phần còn lại chia đều cho 5
người con theo di chúc của cụ Hương là có căn cứ. Tuy nhiên, tại thời điểm xét
xử sơ thẩm, ông Lộc đang quản lý, sử dụng phần nhà đất cụ Quý được chia
nhưng Tòa án cấp sơ thẩm không buộc ông Lộc giao trả phần nhà đất ông Lộc
đang sử dụng cho cụ Quý là chưa giải quyết triệt để vụ án.
Câu 4: Ai đồng ý và ai không đồng ý chia di sản dùng vào việc thờ
cúng trong vụ tranh chấp này? Đoạn nào của bản án cho câu trả lời?
Ở tranh chấp này, có 5 trên tổng số 7 người con đồng ý chia di sản dùng
vào việc thờ cúng. Cụ thể là anh Phan Văn Được, anh Phan Văn Thảo, anh Phan
Văn Xuân, anh Phan Văn Nhành và chị Phan Thị Hoa

Và có 2 người không đồng ý chia di sản dùng vào việc thờ cúng là anh
Phan Văn Tân và chị Phan Thị Hương.

Và điều này căn cứ dựa trên những gì được viết trong Bản án số
211/2009/DSPT cụ thể như sau: "Ngày 08 tháng 7 năm 2005 mẹ anh lập di chúc
để lại nhà đất cho 07 anh chị em, hiện tại anh quản lý nhà đất, năm 2005 anh chị
có hợp lại chia di sản của mẹ anh, nhưng anh Tân và chị Hương không đồng ý".
Được biết “anh” ở đây là anh Phan Văn Được. Trích phần xét thấy của bản án:
“Hiện tại 5/7 anh chị em của anh Được đồng ý chia di sản và giao cho anh Được
sở hữu di sản là có cơ sở chấp nhận”.

21
Câu 5: Cuối cùng Tòa án có chấp nhận chia di sản đã được di chúc
dùng vào việc thờ cúng không? Đoạn nào của bản án cho câu trả lời?
Tòa án chấp nhận chia di sản đã được di chúc dùng vào việc thờ cúng,
nhận thấy từ phần quyết định: “Chấp nhận yêu cầu khởi kiện anh Phan Văn Được
đối với anh Phan Văn Tân, chị Phan Thị Hương...Anh Được có trách nhiệm
thanh toán giá trị di sản thừa kế cho anh Tân và chị Hương mỗi người số tiền là
37.424.000đ”.

Câu 6: Suy nghĩ của anh/chị về chế định di sản dùng vào việc thờ
cúng trong BLDS và giải pháp của Tòa án trong vụ việc đang được nghiên
cứu.
Về di sản dùng vào việc thờ cúng đã được quy định tại Khoản 1 Điều 645
BLDS 2015 có quy định:

“1. Trường hợp người lập di chúc để lại một phần di sản dùng vào việc
thờ cúng thì phần di sản đó không được chia thừa kế và được giao cho người đã
được chỉ định trong di chúc quản lý để thực hiện việc thờ cúng; nếu người được
chỉ định không thực hiện đúng di chúc hoặc không theo thỏa thuận của những
người thừa kế thì những người thừa kế có quyền giao phần di sản dùng vào việc
thờ cúng cho người khác quản lý để thờ cúng.

Trường hợp người để lại di sản không chỉ định người quản lý di sản thờ
cúng thì những người thừa kế cử người quản lý di sản thờ cúng…”

Như vậy có thể thấy theo quy định, di sản để lại dùng vào việc thờ cúng
thì phần di sản đó không được chia mà giao cho người được chỉ định trong di
chúc quản lý để thực hiện nghĩa vụ thờ cúng. Tuy nhiên trong thực tiễn, cụ thể là
bản án đang được nhắc đến Tòa án lại chấp nhận yêu cầu của anh Được, giao cho
anh quyền sở hữu căn nhà cùng nghĩa vụ thanh toán giá trị di sản. Có thể thấy
Tòa án đã xử có phần không đúng với quy định của BLDS. Nhưng thực tế, theo
nguyện vọng của những người thừa kế thì cách xử của Tòa vẫn đưa đến kết quả
phần di sản trên vẫn dùng để thờ cúng. Điểm khác duy nhất là di sản không còn
là tài sản chung của các thừa kế nũa mà là sở hữu riêng của cá nhân, cụ thể trong
TH này là thuộc về anh Được.

22
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Đỗ Văn Đại, Giáo trình Pháp luật về tài sản, quyền sở hữu và thừa kế của
Đại học Luật TP.HCM, Nxb. Hồng Đức 2018, chương II;
2. Đỗ Văn Đại, Bình luận án lệ số 34/2020;
3. Đỗ Văn Đại, Luật thừa kế Việt Nam-Bản án và bình luận bản án, Nxb.
Hồng
Đức-Hội Luật gia Việt Nam 2019 (xuất bản lần thứ tư);
4. Bộ luật dân sự 2005;
5. Bộ luật dân sự 2015.

You might also like