You are on page 1of 22

TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT TP.

HỒ CHÍ MINH
KHOA LUẬT DÂN SỰ

MÔN HỌC: PHÁP LUẬT VỀ HỢP ĐỒNG VÀ BỒI THƯỜNG THIỆT HẠI
NGOÀI HỢP ĐỒNG
BUỔI THẢO LUẬN THỨ HAI
VẤN ĐỀ CHUNG CỦA HỢP ĐỒNG
GIẢNG VIÊN: LÊ THANH HÀ

DANH SÁCH THÀNH VIÊN NHÓM 1

STT HỌ TÊN MSSV


1. Trương Nhật Thành (TN) 2253801012221
2. Nguyễn Ngọc Sỹ 2253801012213
3. Nguyễn Huỳnh Tấn Phát 2253801012183
4. Đinh Nhật Quang 2253801012200
5. Nguyễn Minh Quân 2253801012198
6. Lê Thanh Phú 2253801012186
7. Nguyễn Trần Tây Thi 2253801012227
8. Hà Thảo Nhiên 2253801012171
9. Hoàng Thị Phương Nhi 2253801012165
10. Hà Phương Thảo 2253801012222
DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT
STT TỪ VẾT TẮT TỪ VIẾT ĐỦ
1 BLDS 2015 Bộ luật Dân sự 2015
2 BLDS 2005 Bộ luật Dân sự 2005
3 DS -PT Dân sự - Phúc thẩm
4 UBND Uỷ ban nhân dân
5 DS -GĐT Dân sự - Giám đốc thẩm
Mục lục:
1. Bản án số 886/2019/LĐ-PT ngày 09/10/2019 của Tòa án nhân dân TP. Hồ Chí
Minh.............................................................................................................................1
2. Án Lệ 04/2016/AL ngày 06/4/2016 của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân
tối cao...........................................................................................................................1
3. Quyết định số 02/2022/DS-GĐT ngày 19/01/2022 của Tòa án nhân dân cấp cao
tại Hà Nội.....................................................................................................................2
4. Quyết định số 20/2022/DS-GĐT ngày 22/8/2022 của Hội đồng thẩm phán Tòa
án nhân dân tối cao.......................................................................................................3
5. Quyết định 21/2022/DS-GĐT ngày 22/8/2022 của Hội đồng thẩm phán Tòa án
nhân dân tối cao............................................................................................................3
6. Bản án số 06/2017/DS-ST của Tòa án nhân dân TP. Thủ Dầu Một, tỉnh Bình
Dương...........................................................................................................................4
7. Quyết định số 259/2014/DS-GĐT của Tòa dân sự Tòa án nhân dân tối cao.........4
VẤN ĐỀ 1: Đề nghị và chấp nhận đề nghị giao kết hợp đồng........................................6
1.1/ Đoạn nào của Bản án cho thấy Tòa án đã áp dụng quy định về chấp nhận đề nghị
giao kết hợp đồng?.......................................................................................................6
1.2/ Việc Tòa án áp dụng quy định về chấp nhận đề nghị giao kết hợp đồng cho phép
hiểu rằng đã có đề nghị giao kết hợp đồng. Theo anh/chị, thông tin nào trong Bản án
có thể được coi là đề nghị giao kết hợp đồng? Vì sao?................................................7
1.3/ Hướng áp dụng quy định về chấp nhận đề nghị giao kết hợp đồng của Tòa án
như trên có thuyết phục không? Vì sao?......................................................................8
VẤN ĐỀ 2: Sự ưng thuận trong quá trình giao kết hợp đồng.........................................8
2.1/ Điểm mới của BLDS 2015 so với BLDS 2005 về vai trò của im lặng trong giao
kết hợp đồng?...............................................................................................................8
2.2/ Quy định về vai trò của im lặng trong giao kết hợp đồng trong một hệ thống
pháp luật nước ngoài....................................................................................................9
2.3/ Việc Tòa án áp dụng Án lệ số 04/2016/AL để công nhận việc tách đất cho con
trong Quyết định số 02 nêu trên có thuyết phục không? Vì sao?.................................9
VẤN ĐỀ 3: Đối tượng của hợp đồng không thể thực hiện được...................................10
3.1/ Những thay đổi và suy nghĩ của anh/chị về những thay đổi giữa BLDS 2015 và
BLDS 2005 về chủ đề đang được nghiên cứu............................................................10
3.2/ Thời hiệu yêu cầu Tòa án tuyên bố vô hiệu hợp đồng do đối tượng không thể
thực hiện được được xác định như thế nào? Vì sao?..................................................11
3.3/ Đối với Quyết định số 20, đoạn nào cho thấy Tòa án theo hướng hợp đồng vô
hiệu do đối tượng không thể thực hiện được và hướng xác định hợp đồng vô hiệu do
đối tượng không thể thực hiện được như vậy có thuyết phục không? Vì sao?..........12
3.4/ Đối với Quyết định số 21, đoạn nào cho thấy Tòa án theo hướng hợp đồng vô
hiệu do đối tượng không thể thực hiện được và hướng xác định hợp đồng vô hiệu do
đối tượng không thể thực hiện được như vậy có thuyết phục không? Vì sao?..........13
VẤN ĐỀ 4: Xác lập hợp đồng có giả tạo và nhằm tẩu tán tài sản.................................14
4.1/ Thế nào là giả tạo trong xác lập giao dịch?.........................................................14
4.2/ Đoạn nào của Quyết định cho thấy các bên có giả tạo trong giao kết hợp đồng?
Các bên xác lập giao dịch có giả tạo với mục đích gì?..............................................15
4.3/ Hướng giải quyết của Tòa án với hợp đồng giả tạo và hợp đồng bị che giấu.....15
4.4/ Suy nghĩ của anh/chị về hướng xử lý của Toà án về hợp đồng giả tạo và hợp
đồng bị che giấu.........................................................................................................16
4.5/ Vì sao Tòa án xác định giao dịch giữa vợ chồng bà Anh với vợ chồng ông
Vượng là giả tạo nhằm trốn tránh thực hiện nghĩa vụ với bà Thu?............................16
4.6/ Suy nghĩ của anh/chị về hướng xác định trên của Tòa án (giả tạo để trốn tránh
nghĩa vụ)?...................................................................................................................17
4.7/ Cho biết hệ quả của việc Tòa án xác định hợp đồng trên là giao dịch nhằm trốn
tránh nghĩa vụ?...........................................................................................................17
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO.......................................................................18
A. Văn bản quy phạm pháp luật............................................................................18
B. Tài liệu tham khảo............................................................................................18
TÓM TẮT BẢN ÁN

1. Bản án số 886/2019/LĐ-PT ngày 09/10/2019 của Tòa án nhân dân TP. Hồ Chí
Minh.
- Nguyên đơn: Ông Trần Viết H.
- Bị đơn: Công ty N.
- Nội dung vụ án: Ông Trần Viết H và Công ty N có ký kết Hợp đồng thử việc với thời
gian thử việc là 2 tháng. Sau khi hết thời gian thử việc công ty N có ban hành Hợp
đông lao động ngày 03/10/2017 để đề nghị giao kết hợp đồng lao động chính thức với
ông H. Ông H liên tục không chịu ký kết hợp đồng với nhiều lý do khác nhau. Đến
ngày 3/11/2017 thì H nhận được thông báo yêu cầu không có mặt tại Công ty. Dựa vào
đó ông H làm đơn khởi kiện với lý do Công ty N đã đơn phương chấm dứt hợp đồng
với mình. Tại phiên Tòa sơ thẩm, Tòa án đã chấp nhận một phần yêu cầu khởi kiện của
ông H và buộc Công ty N phải bồi thường cho ông H vì đã đơn phương chấm dứt hợp
đồng. Đến phiên phúc thẩm, hội đồng xét xử đã theo hướng không chấp nhận toàn bộ
đơn khởi kiện của nguyên đơn vì xác định sau khi kết thúc hợp đồng thử việc, giữa ông
H và Công ty N không xác lập hợp đồng lao động nên Công ty N không đơn phương
chấm dứt hợp đồng với ông H.

2. Án Lệ 04/2016/AL ngày 06/4/2016 của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân
tối cao.
- Nguyên đơn: Bà Kiều Thị Tý.
- Bị đơn: Ông Lê Văn Ngự, bà Trần Thị Phấn.
- Nội dung vụ án: Năm 1996 bà Tý có làm giấy viết tay mua nhà đất của vợ chồng ông
Ngự, bà Phấn nhưng sau đó không làm các thủ tục theo quy định. Sau khi bán nhà đất
và đã nhận đủ tiền thì ông Ngự có làm giấy cam kết để mượn lại phần nhà đất đã bán
cho bà Tý để làm chỗ ở trong khi xây lại nhà mới. Năm 2006 hai bên xảy ra tranh chấp
liên quan đến diện tích nhà đất trên. Ông Ngự, bà Phấn yêu cầu hủy hợp đồng đã xác
lập với bà Tý vì lý do ông Ngự đã tự ý bán tài sản chung của vợ chồng khi chưa được
bà Phấn đồng ý. Tại phiên Tòa giám đốc thẩm, hội đồng thẩm phán đã nhận định mặc
dù chữ ký trong hợp đồng mua bán không phải của bà Phấn nhưng sau khi bán nhà đất,
bà Phấn có chia lại vàng cho các con đồng thời đã sử dụng nhà đất mượn lại theo giấy
cam kết nên có thể xác định rằng bà Phấn có biết việc ông Ngự bán nhà và không phản
đối nên hợp đồng vẫn có hiệu lực pháp luật.

1
- Nội dung án lệ: “Về hợp đồng mua bán nhà, đất ngày 26-4-1996: Việc chuyển
nhượng nhà, đất diễn ra từ năm 1996, sau khi mua nhà, đất, ông Tiến, bà Tý đã trả đủ
tiền, nhận nhà đất, tôn nền đất, sửa lại nhà và cho các cháu đến ở. Trong khi đó gia
đình ông Ngự, bà Phấn vẫn ở trên diện tích đất còn lại, liền kề với nhà ông Tiến, bà
Tý. Theo lời khai của các người con ông Ngự, bà Phấn thì sau khi bán nhà, đất cho vợ
chồng bà Tý, ông Ngự, bà Phấn đã phân chia vàng cho các người con. Mặt khác, sau
khi chuyển nhượng và giao nhà đất cho ông Tiến, bà Tý thì ngày 26-4-1996, ông Ngự
còn viết “giấy cam kết” có nội dung mượn lại phần nhà đất đã sang nhượng để ở khi
xây dựng lại nhà trên phần đất còn lại và trong thực tế vợ chồng bà Phấn, ông Ngự đã
sử dụng phần nhà đất của bà Tý, ông Tiến khi xây dựng nhà. Như vậy, có cơ sở xác
định bà Phấn biết có việc chuyển nhượng nhà, đất giữa ông Ngự với vợ chồng ông
Tiến và bà Tý, bà Phấn đã đồng ý, cùng thực hiện nên việc bà Phấn khiếu nại cho rằng
ông Ngự chuyển nhượng nhà đất cho vợ chồng bà Tý bà không biết là không có căn
cứ.”
- Khái quát nội dung án lệ: Trường hợp nhà đất là tài sản chung của vợ chồng mà chỉ
có một người đứng tên ký hợp đồng chuyển nhượng nhà đất đó cho người khác, người
còn lại không ký tên trong hợp đồng; nếu có đủ căn cứ xác định bên chuyển nhượng đã
nhận đủ số tiền theo thỏa thuận, người không ký tên trong hợp đồng biết và cùng sử
dụng tiền chuyển nhượng đất; bên nhận chuyển nhượng đã nhận và quản lý, sử dụng
nhà đất công khai; người không ký tên trong hợp đồng biết mà không có ý kiến phản
đối gì thì phải xác định người đó đồng ý với việc chuyển nhượng nhà đất.

3. Quyết định số 02/2022/DS-GĐT ngày 19/01/2022 của Tòa án nhân dân cấp cao
tại Hà Nội.
- Nguyên đơn: ông Đoàn Bá Lạc, bà Trần Thị Còi.
- Bị đơn: ông Đoàn Bá Nhất, bà Nguyễn Thị Phương.
- Ông Nhất được ông Lạc tách đất cho vợ chồng bị đơn sử dụng có viết đơn tách đất.
Sau đó vợ chồng ông Nhất vẫn tiếp tục sử dụng và sinh sống trên mảnh đất đó, ngoài ra
vợ chồng ông Lạc còn phụ giúp việc xây nhà cho vợ chồng bị đơn. Về sau vợ chồng
ông Lạc khởi kiện yêu cầu các bị đơn phải tháo dỡ các công trình và trả lại đất. Tòa án
nhân dân cấp cao nhận định việc bà Còi đã không ký vào đơn xin tách đất nhưng trong
khoảng thời gian vợ chồng bị đơn sinh sống và đã xây nhà kiên cố ở đó nhưng không
phản đối vì vậy khởi kiện của vợ chồng ông Lạc là không được chấp thuận.

2
4. Quyết định số 20/2022/DS-GĐT ngày 22/8/2022 của Hội đồng thẩm phán Tòa
án nhân dân tối cao.
- Nguyên đơn: bà Lê Thị Hẹ, sinh năm 1949.
- Bị đơn: bà Nguyễn Thị Nếch, sinh năm 1955.
- Bà Hẹ và chồng là ông Nguyễn Văn Mật có quyền sử dụng đối với thửa đất số 829 và
830. Ngày 12/4/2011, vợ chồng bà chuyển nhượng cho bà Nếch 135m 2 đất. Đến tháng
10/2011, bà Hẹ lại tiếp tục chuyển nhượng đất với giá hơn 700tr đồng (lần này 2 bên
không lập văn bản). Bà Nếch cần căn cứ pháp lý để sang tên nên bà Hẹ đã ký lại hợp
đồng công chứng, cả 2 lần kí đều bà Nếch soạn hợp đồng nên sau khi bà phát hiện diện
tích đất chuyển nhượng lại nhiều hơn diện tích đất thực tế bà chuyển nên nguyên đơn
khởi kiện bị đơn và buộc trả lại giấy chứng nhận quyền sở hữu đất, nhà, tài sản. Tòa án
nhận định rằng hợp đồng chuyển nhượng đất không đúng về diện tích và không đúng
số tiền thực tế mà các bên chuyển nhượng, do vậy 2 vợ chồng nguyên đơn thỏa thuận
chuyển nhượng phần đất trồng cây lâu năm thuộc thửa 829,830 là không đủ điều kiện
để tách thửa theo quy định nên hợp đồng vô hiệu.

5. Quyết định 21/2022/DS-GĐT ngày 22/8/2022 của Hội đồng thẩm phán Tòa án
nhân dân tối cao.
- Có 24 nguyên đơn.
- Người đại diện 24 nguyên đơn: Ông Trần Thiên Trí, sinh năm 1953.
- Bị đơn: Bà Trần Thị Ngọc Sương, sinh năm 1947.
- Nhà đất thửa số 852 có nguồn gốc từ tộc họ Trần, cụ Bình là đời thứ 9 được quản lý
(có con là bà Sương). Ban đầu cụ định để là cho cụ Khiêm quản lý, sau khi cụ chết thì
mọi người tập hợp lại để ký vào biên bản để xây dựng nhà từ đường. Ban đầu có sự
góp mặt của bà Sương nhưng về sau bà chối là không tham gia nhưng kết quả giám
định thì đã phát hiện chữ ký của bà Sương trong biên bản. Người trong tộc yêu cầu bà
trả đất nhưng bà Sương không trả vì vậy nên các nguyên đơn khởi kiện bà, trong thời
gian xảy ra các phiên tòa xét xử thì bà Sương đem đất mang đi giao dịch. Hội đồng
thẩm phán nhận định hợp đồng bà Sương, ông Ải, ông Khang là vô hiệu vì vi phạm
hợp đồng khi giao dịch trên đất đang tranh chấp, ngoài ra trên nhà đất của tộc còn có
căn nhà nhà do tộc họ Trần xây nên còn bị vô hiệu do có đối tượng không thể thực hiện
được.

3
6. Bản án số 06/2017/DS-ST của Tòa án nhân dân TP. Thủ Dầu Một, tỉnh Bình
Dương
- Nguyên đơn: Trần Thị Diệp Thúy, sinh năm 1980.
- Bị đơn: Nguyễn Thị Thanh Trang, sinh năm 1983.
- Ngày 23/11/2013, bà Thúy cho bà Trang vay số tiền 100tr đồng. Để đảm bảo cho việc
vay mượn thì bà Thúy và bà Trang có thiết lập hợp đồng chuyển nhượng quyền sử
dụng đất tọa lạc tại phường Chánh Nghĩa, TP. Thủ Dầu Một, tỉnh Bình Dương với giá
chuyển nhượng là 200tr đồng. Theo lời bà Thúy, bà Trang có hứa trong vòng 6 tháng
sẽ thanh toán hết số tiền trên nhưng đến hạn thì bà Trang chỉ trả cho bà Thúy 5tr đồng,
số tiền còn lại bà Trang không trả, tức là 95tr đồng. Mặt khác, theo lời bà Trang thì bà
xác nhận việc vay số tiền là 100tr đồng với hình thức trả góp 1tr đồng/ngày, góp trong
vòng 6 tháng tính từ ngày 23/11/2013. Trong vòng 6 tháng đó thì bà Trang đã trả cho
bà Thúy tổng số tiền là 180tr đồng, do đó bà không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của
nguyên đơn. Tòa án cấp sơ thẩm cho rằng hợp đồng được thiết lập giữa bà Trang và bà
Thúy là vô hiệu do giả tạo và giao dịch vay số tiền 100tr đồng vẫn có hiệu lực. Đồng
thời, Tòa án chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn về việc bị đơn phải trả cho
nguyên đơn số tiền 95tr đồng, với lý do là phía bị đơn không cung cấp được chứng cứ
để chứng minh đã trả số tiền đó cho nguyên đơn.

7. Quyết định số 259/2014/DS-GĐT của Tòa dân sự Tòa án nhân dân tối cao.
- Nguyên đơn: Võ Thị Thu, sinh năm 1954.
- Bị đơn: Đặng Thị Kim Anh, sinh năm 1964.
- Năm 2009, bà Anh vay tiền của bà Thu tổng cộng là 3 lần: lần 1 là 2,1 tỉ; lần 2 là 1 tỉ;
lần 3 là 600tr đồng. Bà Thu nhiều lần đòi nhưng bà Anh không trả. Tháng 11/2009, bà
Thu tố cáo việc bà Anh chiếm đoạt tài sản của bà với số tiền 3,7 tỉ đồng. Cuối năm
2009, bà Thu, vợ chồng bà Anh và bà Phương đi xem đất của ông Học và bà Kim Anh
để cấn trừ khoản nợ của bà Kim Anh nhưng việc này bất thành. Ngày 11/02/2010, bà
Anh trả cho bà Thu được 600tr đồng. Ngày 26/8/2010, bà Anh và ông Học chuyển
nhượng toàn bộ nhà đất thửa 105, 617, 818, 819 cho vợ chồng ông Vượng với giá 680tr
đồng, hợp đồng được công chứng tại Phòng công chứng tỉnh Hòa Bình. Tòa án cấp sơ
thẩm tuyên bố hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở ngày
26/8/2010 giữa bà Anh, ông Học với ông Vượng bị vô hiệu. Tòa án cấp phúc thẩm vẫn
giữ nguyên quyết định của án sơ thẩm. Tòa án cấp giám đốc thẩm cho rằng thỏa thuận
chuyển nhượng giữa vợ chồng bà Anh và ông Vượng không phù hợp với thực tế vì giá

4
nhà đất thực tế gần 5,6 tỉ đồng nhưng hai bên chỉ thống nhất có 680tr đồng nên đây là
hợp đồng giả tạo nhằm trốn tránh việc thực hiện nghĩa vụ của vợ chồng bà Anh đối với
bà Thu.

5
VẤN ĐỀ 1: Đề nghị và chấp nhận đề nghị giao kết hợp đồng

1.1/ Đoạn nào của Bản án cho thấy Tòa án đã áp dụng quy định về chấp nhận đề
nghị giao kết hợp đồng?

- Trong bản án 886, Tòa án Nhân dân tối cao Thành phố Hồ Chí Minh đã lập luận như
sau:

(1)“Hội đồng xét xử xác định trong trường hợp này, giữa người lao động và
người sử dụng lao động chưa xác lập quan hệ hợp đồng lao động do sau khi hết thời
gian thử việc người sử dụng lao động và người lao động đã có những thỏa thuận khác
nhằm thương lượng giao kết hợp đồng”

(2) Vào lúc 08 giờ 33 phút ngày 02/11/2017, Công ty giao cho ông H nhận Văn
bản 01/2017/CV-KNE ký ngày 01/11/2017 yêu cầu ông Trần Viết H trả lời lần cuối
bằng văn bản về việc ký hợp đồng lao động, gửi về địa chỉ Công ty chậm nhất là 17 giờ
00 phút ngày 02/11/2017, nội dung văn bản ghi rõ “Nếu không có phản hồi nào bằng
văn bản trong thời hạn nêu trên có nghĩa là ông không đồng ý ký kết hợp đồng lao
động với Công ty”. Vào lúc 17 giờ 37 phút, ông H có văn bản trả lời Công văn số
01/2017/CV-KNE ngày 01/11/2017, lần này, ông H lại yêu cầu Công ty cung cấp bản
thảo Hợp đồng Lao động và Phụ lục hợp đồng lao động có đóng dấu Công ty. Tuy yêu
cầu này bất hợp lý nhưng bản thảo Hợp đồng Lao động và Phụ lục hợp đồng lao động
có đóng dấu Công ty đã được Công ty cung cấp cho ông H vào lúc 09 giờ 37 phút ngày
03/11/2017.

Ngày 02/11/2017, Công ty N tiếp tục có văn bản số 02/2017/CV-KNE yêu cầu
ông H “trả lời lần cuối về việc ký hợp đồng lao động chậm nhất vào lúc 16 giờ 00 phút
ngày 3/11/2017 để nhằm bảo đảm quyền lợi và nghĩa vụ của cả hai bên theo đúng quy
định pháp luật. Nếu quá thời hạn trên mà chúng tôi không nhận được trả lời bằng văn
bản của ông về việc này, có nghĩa là ông không đồng ý ký kết hợp đồng lao động với
Công ty”.

Căn cứ quy định tại khoản 1 Điều 394 Bộ luật Dân sự năm 2015 về Thời hạn trả
lời chấp nhận giao kết hợp đồng thì “1. Khi bên đề nghị có ấn định thời hạn trả lời thì
việc trả lời chấp nhận chỉ có hiệu lực khi được thực hiện trong thời hạn đó; nếu bên đề

6
nghị giao kết hợp đồng nhận được trả lời khi đã hết thời hạn trả lời thì chấp nhận này
được coi là đề nghị mới của bên chậm trả lời...”. Với các tình tiết nói trên, giữa người
lao động và người sử dụng lao động đã 3 lần ấn định thời hạn trả lời về việc trả lời
chấp nhận giao kết hợp đồng lao động hay không. Do ông H không trả lời chấp nhận
giao kết trong thời hạn ấn định, cần xác định ông H không chấp nhận giao kết hợp
đồng lao động với Công ty N. Việc Công ty N có Văn bản số 03/2017/CV-KNE ngày
03/11/2017 gửi đến ông H yêu cầu ông H không có mặt tại Công ty kể từ sau 12 giờ 00
phút ngày 04/11/2017 là phù hợp.”1

- Trong một số trường hợp việc chấp nhận đề nghị giao kết hợp đồng, là căn cứ để xác
định việc hợp đồng có tồn tại hay không. Có thể thấy rằng Tòa án đang áp dụng chế
định về chấp nhận đề nghị giao kết hợp đồng quy định ở các Điều 386, 393 và 394
BLDS năm 2015, để đưa ra kết luận rằng bên nguyên đơn là Ông H đã không trả lời đề
nghị giao kết hợp động trong thời hạn mà bên đưa ra đề nghị là Công ty N ấn định.

1.2/ Việc Tòa án áp dụng quy định về chấp nhận đề nghị giao kết hợp đồng cho
phép hiểu rằng đã có đề nghị giao kết hợp đồng. Theo anh/chị, thông tin nào trong
Bản án có thể được coi là đề nghị giao kết hợp đồng? Vì sao?
- Thông tin trong Bản án có thể được coi đề nghị giao kết hợp đồng là:
“Tại cuộc họp ngày 26/10/2017, người sử dụng lao động đã đề nghị với người lao
động về việc ký kết hợp đồng lao động và đã giao cho người lao động bản dự thảo hợp
đồng lao động để ông H nghiên cứu và cho ý kiến. Không có quy định pháp luật nào
bắt buộc bản hợp đồng dự thảo phải có chữ ký của người đại diện và đóng dấu của
người sử dụng lao động. Căn cứ các nguyên tắc giao kết hợp đồng lao động được quy
định tại Điều 17 Bộ luật lao động, việc Công ty N đã đề nghị với ông H về việc ký kết
hợp đồng lao động và đã giao cho ông H bản dự thảo hợp đồng lao động chưa ký tên
đóng dấu là thực hiện đúng quy định về đề nghị giao kết hợp đồng lao động.” 2
- Bởi vì theo Tòa án bên phía bị đơn đã gửi đề nghị giao kết hợp đồng và giao cho
nguyên đơn bản dự thảo hợp đồng. Đồng thời, theo quy định pháp luật cũng không có
yêu cầu bắt buộc bản hợp đồng dự thảo phải có chữ kí người đại diện và đóng dấu của
người sử dụng lao động nên bị đơn đã thực hiện đúng quy định về đề nghị giao kết hợp
đồng lao động khi đã đề nghị ông H giao kết hợp đồng và giao H bản dự thảo hợp đồng
chưa có chữ ký và đóng dấu.

1
Trích Bản án số 886/2019/LĐ-PT ngày 09/10/2019 của Tòa án nhân dân TP. Hồ Chí Minh.
22
Trích Bản án số 886/2019/LĐ-PT ngày 09/10/2019 của Tòa án nhân nhân TP. Hồ Chí Minh.
7
1.3/ Hướng áp dụng quy định về chấp nhận đề nghị giao kết hợp đồng của Tòa án
như trên có thuyết phục không? Vì sao?
- Giữa nguyên đơn và bị đơn đã có ba lần ấn định về việc trả lời chấp nhận giao kết
hợp đồng nhưng ông H đã không có phản hồi về việc có chấp nhận giao kết hay không
trong thời hạn được ấn định, mà theo đó, căn cứ theo khoản 1 Điều 394 BLDS 2015
cũng đã quy định “Khi bên đề nghị có ấn định thời hạn trả lời thì việc trả lời chấp
nhận chỉ có hiệu lực khi được thực hiện trong thời hạn đó; nếu bên đề nghị giao kết
hợp đồng nhận được trả lời khi đã hết thời hạn trả lời thì chấp nhận này được coi là đề
nghị mới của bên chậm trả lời...” nên việc Công ty N gửi yêu cầu ông H không có mặt
tại Công ty kể từ sau 12 giờ 00 phút ngày 04/11/2017 là phù hợp. Và vào lúc mà sau
khi chấm dứt hợp đồng thử việc thì do giữa công ty N và ông H không đạt dược thỏa
thuận nên đã không ký kết được hợp đồng với nhau nên từ đó Toà xác định Công ty N
không đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động với ông H.
- Vì thế, hướng áp dụng quy định về chấp nhận đề nghị giao kết hợp đồng của Tòa án
như trên là thuyết phục.

VẤN ĐỀ 2: Sự ưng thuận trong quá trình giao kết hợp đồng

2.1/ Điểm mới của BLDS 2015 so với BLDS 2005 về vai trò của im lặng trong giao
kết hợp đồng?
- Theo quy định tại khoản 2 Điều 404 BLDS 2005, khi hết thời hạn trả lời mà bên nhận
được đề nghị im lặng thì hợp đồng xem như được giao kết, nếu có thỏa thuận im lặng
là sự trả lời chấp nhận giao kết. Trong khi đó khoản 2 Điều 393 BLDS 2015 lại quy
định ngược lại về vai trò của im lặng trong giao kết hợp đồng, theo đó sự im lặng của
bên được đề nghị không được coi là chấp nhận đề nghị giao kết hợp đồng, chỉ trừ
trường hợp có thỏa thuận hoặc theo thói quen từ trước. Điểm mới này được xem là phù
hợp hơn vì việc trả lời chấp nhận giao kết hợp đồng phải là sự tuyên bố ý chí một cách
công khai dưới một hình thức khách quan nhất định, phải có sự truyền đạt tới bên đề
nghị. Sự im lặng có thể tạo ra nhiều rủi ro pháp lý bởi có thể vì lý do khách quan mà
bên được đề nghị không thể phản hồi sự từ chối giao kết hợp đồng, khi đó hợp đồng bị
mặc nhiên giao kết (theo BLDS 2005) có thể không có khả năng thực hiện và gây ảnh
hưởng đến hai bên.

8
2.2/ Quy định về vai trò của im lặng trong giao kết hợp đồng trong một hệ thống
pháp luật nước ngoài.
- Tổng quan ta thấy hầu hết các quốc gia không công nhận sự im lặng là đương nhiên
chấp nhận trong giao kết hợp đồng. Ví dụ:
+ Bộ Luật Dân sự của Pháp mới sửa đổi vào năm 2016 trong đó có bổ sung quy định
về im lặng trong giao kết hợp đồng tại Điều 1120: “Im lặng không được coi là chấp
nhận giao kết hợp đồng, trừ trường hợp pháp luật, thông lệ, quan hệ kinh doanh hoặc
hoàn cảnh đặc biệt dẫn tới suy luận khác”.
“Sự im lặng không đủ để khẳng định sự chấp nhận hợp đồng cũng như thừa nhận
trong pháp luật thực định của Đức, Anh, Áo, Bỉ, Hy Lạp, Italia, Đan Mạch, Tây Ban
Nha,…”3
- BLDS 2015 của Việt Nam đã quy định vấn đề này tại khoản 2 Điều 393: “2. Sự im
lặng của bên được đề nghị không được coi là chấp nhận đề nghị giao kết hợp đồng, trừ
trường hợp có thỏa thuận hoặc theo thói quen đã được xác lập giữa các bên”.

2.3/ Việc Tòa án áp dụng Án lệ số 04/2016/AL để công nhận việc tách đất cho con
trong Quyết định số 02 nêu trên có thuyết phục không? Vì sao?
- Khái quát tình huống trong quyết định số 02 nêu trên: Về việc xin tách đất cho con
(tương tự hợp đồng mua bán, chuyển nhượng quyền sử dụng đất). Trường hợp này nhà
đất lại là tài sản chung của vợ chồng mà chỉ có một người đứng tên ký hợp đồng
chuyển nhượng (ở đây là “đơn xin tách đất cho con”) để cấn trừ số nợ trước đó được
phát sinh trong thời kì hôn nhân giữa vợ chồng nguyên đơn. Bên nhận chuyển nhượng
nhà đất (tức vợ chồng anh Nhất, chị Phượng) đã tiếp nhận và quản lý, sử dụng nhà đất
đó công khai. Người không có tên trong hợp đồng chuyển nhượng (tức bà Còi) đã biết
mà không phản đối gì. Thậm chí bà còn là người thu hoạch hoa màu, vật liệu tháo dỡ
trên phần đó trước khi chuyển giao, tự nguyện hỗ trợ việc làm nhà cho bị đơn. Khi Nhà
nước tiến hành đo đạc đất đai làm bản đồ, chồng bà Còi là tổ trưởng tổ dân phố biết rõ
chủ sở hữu đất đang đứng tên ông Nhất. Từ những căn cứ trên không có chuyện bà Còi
không biết về việc xác lập hợp đồng chuyển nhượng của chồng mình. Tuy không lên
tiếng phản đối nhưng bà Còi đã thể hiện sự đồng ý qua hành vi.
- Căn cứ theo tình huống, chủ thể, đối tượng, bản chất của vụ việc đều tương tự với Án
lệ số 04/2016/AL.

3
Đỗ Văn Đại (2017), Luật Hợp đồng Việt Nam – Bản án và bình luận bản án Tập 1, Nhà xuất bản Hồng Đức, tr.
216.
9
- Kết luận: Việc Tòa án áp dụng Án lệ số 04/2016/AL để công nhận việc tách đất cho
con trong Quyết định số 02 nêu trên là hoàn toàn thuyết phục.

VẤN ĐỀ 3: Đối tượng của hợp đồng không thể thực hiện được

3.1/ Những thay đổi và suy nghĩ của anh/chị về những thay đổi giữa BLDS 2015
và BLDS 2005 về chủ đề đang được nghiên cứu.
- Những thay đổi giữa BLDS 2015 (Điều 408) và BLDS 2005 (Điều 411) về hợp đồng
có đối tượng không thể thực hiện được:
+ Thứ nhất ở Điều 408 đã sử dụng cụm từ “giao kết” thay cho “ký kết” đã sử dụng tại
Điều 411.
“Điều 408 BLDS 2015 đã nêu rõ hợp đồng chỉ bị vô hiệu khi có đối tượng không thể
thực hiện được “ngay từ khi giao kết”. Đây là một điểm khác so với Điều 411 BLDS
2005. Mặc dù có chung cách tiếp cận nhưng Điều 411 BLDS 2005 sử dụng thuật ngữ
“ngay từ khi ký kết” khiến cho phạm vi áp dụng của điều luật này bị thu hẹp và gây
tranh cãi bởi lẽ “ký kết” chỉ phù hợp với hợp đồng được xác lập bằng hình thức văn
bản.”4.
 Như vậy có thể thấy ở Điều 411 BLDS 2005 dùng chữ “ký kết” chỉ phù hợp với
hợp đồng được xác lập bằng văn bản, tuy vậy không chỉ hợp đồng được xác lập
bằng văn bản mới được coi là giao kết hợp đồng vì còn rất nhiều phương thức
khác như có thể xác lập hợp đồng bằng miệng, thậm chí sự im lặng đôi khi cũng
là một dạng phương thức làm cho hợp đồng được xác lập thông qua những thỏa
thuận giữa các chủ thể trước đó, và có rất nhiều phương thức khác nữa. Vì vậy
thấy được sự bất cập đó Điều 408 BLDS 2015 đã sửa đổi thành từ “giao kết” là
hợp lý và mở rộng được phạm vi áp dụng.
+ Thứ hai, tại Điều 411 BLDS 2005 thì lý do dẫn tới việc hợp đồng không thể thực
hiện được là “lý do khách quan” nhưng ở Điều 408 BLDS 2015 đã lược bỏ đi từ
“khách quan”. Theo một số quan điểm của các tác giả về vấn này:
“Khoản 1 Điều 411 BLDS năm 2005 quy định lý do này phải là “khách quan”. Điều
này gây ra những vướng mắc trong thực tiễn, đó là các trường hợp không thực hiện
được hợp đồng không chỉ vì lý do khách quan, mà còn các lý do khác, bao gồm cả lý
do chủ quan của các bên tham gia, hoặc đó là một thực tế, nhưng do sự sơ suất chủ

4
Đỗ Văn Đại (2017), Luật Hợp đồng Việt Nam – Bản án và bình luận bản án Tập 2, Nhà xuất bản Hồng Đức, tr.
781.
10
quan của bên bị thiệt hại mà hợp đồng không thể thực hiện được. Do đó khoản 1 Điều
408 BLDS năm 2015 không còn quy định lý do khách quan”5
 Có thể thấy “lý do khách quan” được đề cập tại khoàn 1, Điều 411, BLDS 2005 là
không hợp lý vì có thể còn rất nhiều những lý do chủ quan khác do các chủ thể khi
tham gia xác lập hợp đồng vì vậy việc lược bỏ đi “lý do khách quan” ở khoản 1
Điều 408 BLDS 2015 là hoàn toàn phù hợp, hợp đồng sẽ bị coi là vô hiệu ngay tại
lúc giao mà không cần quan tâm đó là lý do khách quan hay lý do khác.

3.2/ Thời hiệu yêu cầu Tòa án tuyên bố vô hiệu hợp đồng do đối tượng không thể
thực hiện được được xác định như thế nào? Vì sao?
- Điều 116 BLDS 2015 quy định: “Giao dịch dân sự là hợp đồng hoặc hành vi pháp lý
đơn phương làm phát sinh, thay đổi hoặc chấm dứt quyền, nghĩa vụ dân sự”. Hợp
đồng chính là giao dịch dân sự nên thời hiệu yêu cầu Tòa án tuyên bố vô hiệu hợp đồng
được quy định tại Điều 132 BLDS 2015:
“Điều 132. Thời hiệu yêu cầu Tòa án tuyên bố giao dịch dân sự vô hiệu
1. Thời hiệu yêu cầu Tòa án tuyên bố giao dịch dân sự vô hiệu quy định tại các Điều
125, 126, 127, 128 và 129 của Bộ luật này là 02 năm, kể từ ngày:
a) Người đại diện của người chưa thành niên, người mất năng lực hành vi dân sự,
người có khó khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi, người bị hạn chế năng lực hành
vi dân sự biết hoặc phải biết người được đại diện tự mình xác lập, thực hiện giao dịch;
b) Người bị nhầm lẫn, bị lừa dối biết hoặc phải biết giao dịch được xác lập do bị nhầm
lẫn, do bị lừa dối;
c) Người có hành vi đe dọa, cưỡng ép chấm dứt hành vi đe dọa, cưỡng ép;
d) Người không nhận thức và làm chủ được hành vi của mình xác lập giao dịch;
đ) Giao dịch dân sự được xác lập trong trường hợp giao dịch dân sự không tuân thủ
quy định về hình thức.
2. Hết thời hiệu quy định tại khoản 1 Điều này mà không có yêu cầu tuyên bố giao dịch
dân sự vô hiệu thì giao dịch dân sự có hiệu lực.
3. Đối với giao dịch dân sự quy định tại Điều 123 và Điều 124 của Bộ luật này thì thời
hiệu yêu cầu Tòa án tuyên bố giao dịch dân sự vô hiệu không bị hạn chế.”
- Ở Điều 132, được chia làm 2 nhóm giao dịch dân sự vô hiệu với thời hiệu khác nhau:
+ Khoản 1, Điều 132 BLDS 2015: thời hiệu 2 năm dành cho nhóm giao dịch dân sự vô
hiệu quy định tại các Điều 125, 126, 127, 128 và 129.
5
Trường đại học Luật Tp. Hồ Chí Minh (2022), Giáo trình Pháp luật về Hợp đồng và bồi thường thiệt hại ngoài
hợp đồng, Nhà xuất bản Hồng Đức, tr. 227-228.
11
+ Khoản 3, Điều 132 BLDS 2015: không giới hạn thời hiệu đối với giao dịch dân sự
quy định tại Điều 123, 124 tức là vô hiệu do vi phạm điều cấm, trái đạo đức, do giả tạo.
- Qua đó, ta thấy tại Điều 132 không quy định thời hiệu yêu cầu Tòa án tuyên bố hợp
đồng vô hiệu do đối tượng không thực hiện được và ở Điều 408 BLDS 2015 cũng
không quy định về thời hiệu trên.
“Điều 408. Hợp đồng vô hiệu do có đối tượng không thể thực hiện được
1. Trường hợp ngay từ khi giao kết, hợp đồng có đối tượng không thể thực hiện được
thì hợp đồng này bị vô hiệu.
2. Trường hợp khi giao kết hợp đồng mà một bên biết hoặc phải biết về việc hợp đồng
có đối tượng không thể thực hiện được nhưng không thông báo cho bên kia biết nên
bên kia đã giao kết hợp đồng thì phải bồi thường thiệt hại cho bên kia, trừ trường hợp
bên kia biết hoặc phải biết về việc hợp đồng có đối tượng không thể thực hiện được.
3. Quy định tại khoản 1 và khoản 2 Điều này cũng được áp dụng đối với trường hợp
hợp đồng có một hoặc nhiều phần đối tượng không thể thực hiện được nhưng phần còn
lại của hợp đồng vẫn có hiệu lực.”
- Như vậy, trong BLDS 2015 chưa quy định rõ ràng về thời hiệu yêu cầu Tòa án tuyên
bố hợp đồng vô hiệu do đối tượng không thực hiện được. Nhưng vì hợp đồng mang
tính đặc thù là “đối tượng không thực hiện được” nên ta cho chúng vô hiệu không giới
hạn về thời gian. Vì có những trường hợp ta không thể yêu cầu Tòa tuyên bố vô hiệu
mà hợp đồng đó lại có đối tượng không thực hiện được thì hợp đồng đó sẽ bị xử lý như
nào thì không có quy định.

3.3/ Đối với Quyết định số 20, đoạn nào cho thấy Tòa án theo hướng hợp đồng vô
hiệu do đối tượng không thể thực hiện được và hướng xác định hợp đồng vô hiệu
do đối tượng không thể thực hiện được như vậy có thuyết phục không? Vì sao?
- Ở Quyết định số 20, đoạn: “Như vậy, vợ chồng bà Hẹ thỏa thuận chuyển nhượng cho
bà Nếch một phần đất trồng cây lâu năm thuộc thửa 829, 830 với diện tích 142,5m 2 là
không đủ điều kiện để tách thửa theo quy định của Uỷ ban nhân dân Thành phố Hồ
Chí Minh nên đối tượng của giao dịch giữa các bên không thực hiện được. Do đó hợp
đồng vô hiệu theo quy định tại Điều 411 BLDS 2005”.6
- Tòa án xác định hợp đồng vô hiệu do đối tượng không thể thực hiện được mang tính
thuyết phục.
+ Vì theo khoản 1 Điều 408 BLDS 2015 thì “trường hợp ngay từ khi giao kết, hợp
đồng có đối tượng không thể thực hiện được thì hợp đồng này bị vô hiệu”, tức là từ
6
Trích Quyết định 20/2022/DS-GĐT ngày 22/8/2022 của Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao.
12
thời điểm bà Hẹ thỏa thuận chuyển nhượng diện tích 142,5 m 2 cho bà Nếch thì 142,5
m2 này thuộc đối tượng không đủ điều kiện tách thửa theo quy định của Uỷ ban nhân
dân Thành phố Hồ Chí Minh.
+ “Nếu bên biết được hoàn cảnh này mà lại giấu giếm thông tin trong khi theo quy
định buộc họ phải cung cấp thông tin, hoặc nếu đã biết như vậy mà vẫn thông tin sai
sự thật, hoặc có lỗi làm bên kia bị nhầm lẫn nên đã giao kết hợp đồng trái ý chí của họ
thì có thể xác định hợp đồng vô hiệu theo các quy định về vi phạm nghĩa vụ thông tin
trong giao kết hợp đồng (Điều 386 BLDS 2015)”7. Trong trường hợp này, bà Nếch đã
tìm hiểu thông tin về diện tích 142,5 m 2 không đủ điều kiện tách thửa theo quy định
nhưng bà Nếch không báo cho bà Hẹ biết, bà chỉ báo bà Hẹ kí hợp đồng mới với diện
tích 198m2 nhưng vì bà Hẹ chủ quan, không đọc kỹ hợp đồng dẫn đến bà Hẹ đã kí hợp
đồng đó.

3.4/ Đối với Quyết định số 21, đoạn nào cho thấy Tòa án theo hướng hợp đồng vô
hiệu do đối tượng không thể thực hiện được và hướng xác định hợp đồng vô hiệu
do đối tượng không thể thực hiện được như vậy có thuyết phục không? Vì sao?
- Đoạn trong Quyết định số 21 thể hiện Tòa án theo hướng hợp đồng vô hiệu do đối
tượng không thể thực hiện được là:
"Mặt khác, trên thửa đất số 852 còn có căn nhà từ đường do tộc Trần xây dựng từ năm
2004 nên các hợp đồng chuyển nhượng nhà đất nêu trên còn bị vô hiệu do có đối tượng
không thể thực hiện được theo quy định tại Điều 411 Bộ luật dân sự năm 2005. Trên
thực tế, Sương vẫn là người quản lý, sử dụng nhà đất tranh chấp. Tuy nhiên, Tòa án
cấp sơ thẩm và Tòa án cấp phúc thẩm lại cho rằng hợp đồng chuyển nhượng nhà đất
giữa bà Sương với ông Ải được kí kết sau khi có Quyết định kháng nghị giám đốc thẩm
là hợp pháp, ông Khang là người ngay tình khi chuyển nhượng đất từ vợ chồng ông Ải,
từ đó quyết định không chấp nhận yêu hợp đồng nêu trên của các nguyên đơn, buộc bà
Sương phải thanh toán 391.113.000 đồng cho tộc họ Trần là không đúng pháp luật,
không đảm bảo quyền lợi của đương sự ”8
- Tòa án theo hướng hợp đồng vô hiệu do đối tượng không thể thực hiện được là hợp
lý, căn cứ Điều 411, BLDS 2005:

7
Trường đại học Luật Tp. Hồ Chí Minh (2014), Giáo trình Pháp luật về hợp đồng và bồi thường thiệt hại ngoài
hợp đồng, Nhà xuất bản Hồng Đức, trang 231.

8
Quyết định số 21/2022/DS-GĐT ngày 22/8/2022 của Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao.
13
“Điều 411, BLDS 2005: Hợp đồng dân sự vô hiệu do có đối tượng không thể thực
hiện được:
1. Trong trường hợp ngay từ khi ký kết, hợp đồng có đối tượng không thể thực hiện
được vì lý do khách quan thì hợp đồng này bị vô hiệu.
2. Trong trường hợp khi giao kết hợp đồng mà một bên biết hoặc phải biết về việc hợp
đồng có đối tượng không thể thực hiện được, nhưng không thông báo cho bên kia biết
nên bên kia đã giao kết hợp đồng thì phải bồi thường thiệt hại cho bên kia, trừ trường
hợp bên kia biết hoặc phải biết về việc hợp đồng có đối tượng không thể thực hiện
được.
3. Quy định tại khoản 2 Điều này cũng được áp dụng đối với trường hợp hợp đồng có
một hoặc nhiều phần đối tượng không thể thực hiện được, nhưng phần còn lại của hợp
đồng vẫn có giá trị pháp lý.”
- Bởi vì ngay từ thời điểm giao kết hợp đồng, hợp đồng này đã vô hiệu do có đối tượng
không thể thực hiện được, đối tượng đó là căn nhà từ đường do tộc họ Trần xây dựng
từ năm 2004. Việc chuyển nhượng nhà đất giữa bà và ông Ải trong khi căn nhà đang
tranh chấp thì trong trường hợp này hợp đồng phải bị vô hiệu vì lý do khách quan là
căn nhà là đối tượng trong hợp đồng chuyển nhượng đang xảy ra tranh chấp không thể
chuyển nhượng được, không thể thực hiện được giao kết hợp đồng và thời gian giao
kết là sau khi có quyết định kháng nghị của Chánh án Tòa án nhân dân tối cao đối với
bản án dân sự phúc thẩm số 14/2011/DSPT. (Bản án dân sự phúc thẩm số 14/2011/DS
- PT ngày 12/12/2011 của Tòa Phúc thẩm Tòa án nhân dân tối cao tại Đà Nẵng đã bị
kháng nghị và tạm đình chỉ thi hành để chờ xét xử theo thủ tục giám đốc thẩm).

VẤN ĐỀ 4: Xác lập hợp đồng có giả tạo và nhằm tẩu tán tài sản

4.1/ Thế nào là giả tạo trong xác lập giao dịch?
- Hành vi gian dối và thực hiện khi các bên xác lập giao dịch là cơ sở để xác lập giao
dịch giả tạo. Giao dịch giả tạo là giao dịch được xác lập nhằm che giấu việc thực hiện
một hợp đồng khác mà các bên thật sự mong muốn thực hiện. Giao dịch giả tạo mà các
bên “tự nguyện” tham gia nhưng mục đích giao dịch được thể hiện không phù hợp với
mục đích các bên thực sự quan tâm, hướng tới, mong muốn đạt được. Yếu tố giả tạo
thông qua dấu hiệu các bên thông đồng với nhau để tạo nên sự thiếu thống nhất giữa ý
chí và tuyên bố ý chí của các bên xác lập giao dịch.

14
- Tại Điều 124 BLDS 2015 có hai loại giao dịch dân sự giả tạo đó là giao dịch dân sự
nhằm che dấu một giao dịch khác và giao dịch giả tạo nhằm trốn tránh nghĩa vụ với
người thứ ba. Đặc điểm chung của hai loại giao dịch này đó là sự nhất trí, thông đồng
từ trước của các bên xác lập giao dịch giả tạo nhằm tạo nên cái nhìn sai lầm cho người
khác đối với giao dịch đó.
- Như vậy, đối với giao dịch được xác lập do giả tạo thì dấu hiệu nhận biết đặc trưng
nhất đó là yếu tố thông đồng từ trước của các bên tham gia giao dịch, các bên cố tình
thực hiện một cách tự nguyện nhưng không đúng như ý chí, suy nghĩ thực tế của bản
thân mình. Mặt khác, không phải giao dịch nào thể hiện ý chí giả tạo cũng được coi là
giả tạo mà chỉ có những giao dịch có sự nhất trí từ các chủ thể khi tham gia xác lập
giao dịch.

4.2/ Đoạn nào của Quyết định cho thấy các bên có giả tạo trong giao kết hợp
đồng? Các bên xác lập giao dịch có giả tạo với mục đích gì?
- Đoạn của Quyết định cho thấy các bên có giả tạo trong giao kết hợp đồng: “Nguyên
đơn và bị đơn thống nhất ngày 23/11/2013 giữa nguyên đơn và bị đơn có thiết lập hợp
đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất. Nội dung giấy thỏa thuận chuyển nhượng
quyền sử dụng đất số AP 154638, số vào sổ H53166 do UBND thị xã (nay là thành
phố) Thủ Dầu Một cấp ngày 30/7/2009, tọa lạc tại phường Chánh Nghĩa, thành phố
Thủ Dầu Một, tỉnh Bình Dương, giá chuyển nhượng 200.000.000 đồng. Hai bên đều
thừa nhận đây là giao dịch giả tạo để che giấu cho việc nguyên đơn cho bị đơn vay số
tiền 100.000.000 đồng”.9
- Các bên xác lập giao dịch giả tạo với mục đích che giấu cho việc nguyên đơn cho bị
đơn vay số tiền 100.000.000 đồng.

4.3/ Hướng giải quyết của Tòa án với hợp đồng giả tạo và hợp đồng bị che giấu.
- Hướng giải quyết của Tòa án với trường hợp trên là: “Xét thấy quy định tại điều
124…Đối chiếu quy định trên với trường hợp giữa nguyên đơn với bà Trang thì hợp
đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất được xác lập ngày 23/11/2013 giữa nguyên
đơn và bà Trang là vô hiệu do giả tạo và giao dịch vay tài sản số tiền 100.000.000
đồng có hiệu lực”10. Từ đoạn trên cho thấy Tòa đã dùng Điều 124 BLDS 2015 nhằm để
vô hiệu hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất do giả tạo.

9
Trích Bản án số 06/2017/DS –ST ngày 17/01/2017 của Tòa án Nhân dân Thành phố Thủ Dầu Một, tỉnh Bình
Dương.
10
Trích Bản án số 06/2017/DS-ST ngày 17/07/2017 của Tòa án nhân dân TP. Thủ Dầu Một tỉnh Bình Dương.
15
- Ngoài ra Tòa áp dụng Điều 131 BLDS 2015 để xử lý hậu quả của hợp đồng bị vô
hiệu và xác định lỗi thuộc về cả hai bên vì vậy cả hai phải hoàn trả cho nhau những gì
đã nhận và không phải bồi thường: “Do hợp đồng chuyển nhượng…các bên hoàn trả
cho nhau những gì đã nhận và không phải bồi thường”11.

4.4/ Suy nghĩ của anh/chị về hướng xử lý của Toà án về hợp đồng giả tạo và hợp
đồng bị che giấu.
- Theo như Tòa án xét thấy thì các bên đều đồng thuận công nhận hợp đồng chuyển
nhượng quyền sử dụng đất là giả tạo nên không cần thu thập thêm chứng cứ chứng
minh đây là hợp đồng giả tạo, do đó, hướng xử lý của Tòa khi áp dụng Điều 124 BLDS
2015 để kết luận hợp đồng trên vô hiệu do giả tạo là đúng đắn.
- Tiếp đó, bị đơn và nguyên đơn đều biết việc cả hai lập hợp đồng này ra nhằm mục
đích che giấu cho việc vay tài sản, mà theo nguyên tắc, hợp đồng giả tạo bị vô hiệu
không làm ảnh hưởng gì đến hợp đồng bị che giấu và hợp đồng che giấu trong vụ việc
này vẫn có hiệu lực vì đã đáp ứng đủ điều kiện khi xác lập hợp đồng. Do vậy, giao dịch
vay tài sản số tiền 100.000.000 đồng vẫn còn hiệu lực, mà theo đó bị đơn không cung
cấp được chứng cứ chứng minh đã trả góp cho nguyên đơn 180 triệu đồng trong vòng 6
tháng nên Tòa yêu cầu bị đơn là bà Trang trả cho nguyên đơn là bà Thúy số tiền
95.000.000 đồng là hợp lý.

4.5/ Vì sao Tòa án xác định giao dịch giữa vợ chồng bà Anh với vợ chồng ông
Vượng là giả tạo nhằm trốn tránh thực hiện nghĩa vụ với bà Thu?
- Tòa án xác định giao dịch giữa vợ chồng bà Anh với vợ chồng ông Vượng là giả tạo
nhằm trốn tránh thực hiện nghĩa vụ với bà Thu vì xét thấy: “Quá trình giải quyết vụ án
thì vợ chồng bà Anh thừa nhận còn nợ của bà Thu 3,1 tỷ đồng, đồng thời vợ chồng bà
Anh cam kết chuyển nhượng nhà đất (đang có tranh chấp) để trả nợ cho bà Thu, nhưng
vợ chồng bà Anh không thực hiện cam kết với bà Thu mà làm thủ tục chuyển nhượng
nhà đất trên cho anh là vợ chồng ông Vượng. Thỏa thuận chuyển nhượng giữa vợ
chồng bà Anh và vợ chồng ông Vượng không phù hợp với thực tế vì giá thực tế nhà đất
là gần 5,6 tỷ đồng, nhưng hai bên thỏa thuận chuyển nhượng chỉ với giá 680 triệu
đồng và thực tế các bên cũng chưa hoàn tất thủ tục chuyển nhượng”.12

11
Trích Bản án số 06/2017/DS-ST ngày 17/07/2017 của Tòa án nhân dân TP. Thủ Dầu Một tỉnh Bình Dương.
12
Trích Quyết định số 259/2014/DS-GĐT ngày 16/06/2014 của Tòa dân sự Tòa án nhân dân tối cao.
16
4.6/ Suy nghĩ của anh/chị về hướng xác định trên của Tòa án (giả tạo để trốn
tránh nghĩa vụ)?
- Theo tôi hướng giải quyết của tòa án như trên là thuyết phục bởi trên thực tế vợ
chồng bà Anh đã cam kết sẽ chuyển nhượng nhà đất đang tranh chấp để trả nợ cho bà
Thu từ việc làm đó đã phát sinh nghĩa vụ của vợ chồng bà Anh với bà Thu nhưng vợ
chồng bà Anh không thực hiện nghĩa vụ đó mà lại đem thửa đất đang tranh chấp xác
lập hợp đồng chuyển nhượng cho vợ chồng ông Vượng với giá thấp hơn giá trị thực tế
của thửa đất. Việc làm này đã gây ảnh hưởng nghiêm trọng đến quyền lợi của bà Thu
từ đó bà Thu đã không nhận được những gì mình đáng phải nhận trong cam kết nên
việc Tòa án xác định hợp đồng chuyển nhượng giữa vợ chồng bà Anh và vợ chồng ông
Vượng vô hiệu với lý do là hợp đồng giả tạo nhằm trốn tránh nghĩa vụ với bà Thu là
hoàn toàn hợp lý để từ đó bảo vệ được quyền, lợi ích hợp pháp của bà Thu.

4.7/ Cho biết hệ quả của việc Tòa án xác định hợp đồng trên là giao dịch nhằm
trốn tránh nghĩa vụ?
- Trong bản án có nêu ra hệ quả của việc Tòa án xác định hợp đồng trên là giao dịch
nhằm trốn tránh nghĩa vụ là: “...buộc vợ chồng bà Anh trả cả nợ gốc và lãi cho bà Thu,
đồng thời tuyên bố giao dịch dân sự giữa vợ chồng bà Anh với vợ chồng ông Vượng là
vô hiệu và phong tỏa nhà đất của vợ chồng bà Anh để đảm bảo thực hiện nghĩa vụ của
vợ chồng bà Anh đối với bà Thu” 13. Như vậy Tòa án đã có những nhận định hợp lý về
trường hợp giao dịch nhằm trốn tránh nghĩa vụ của vợ chồng bà Anh, buộc vợ chồng
bà phải trả tiền gốc và lãi, làm vô hiệu hợp đồng giao dịch giữa bà Anh và vợ chồng
ông Vượng theo Điều 129 BLDS 2005: “Khi các bên xác lập giao dịch dân sự một
cách giả tạo nhằm che giấu một giao dịch khác thì giao dịch giả tạo vô hiệu, còn giao
dịch bị che giấu vẫn có hiệu lực, trừ trường hợp giao dịch đó cũng vô hiệu theo quy
định của Bộ luật này” (tương ứng với Điều 124 BLDS 2015), bảo vệ quyền và lợi ích
hợp pháp của bà Thu.

13
Trích Quyết định số 259/2014/DS-GĐT ngày 16/06/2014 của Tòa dân sự Tòa án nhân dân tối cao.
17
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
A. Văn bản quy phạm pháp luật.
- BLDS 2015, BLDS 2005;
- Bộ luật Dân sự Pháp.

B. Tài liệu tham khảo.


- Trường đại học Luật Tp. Hồ Chí Minh (2014), Giáo trình Pháp luật về hợp đồng và
bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng, Nhà xuất bản Hồng Đức, tr. 231;
- Trường đại học Luật Tp. Hồ Chí Minh (2022), Giáo trình Pháp luật về Hợp đồng và
bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng, Nhà xuất bản Hồng Đức, tr. 227-228;
- Đỗ Văn Đại (2017), Luật hợp đồng Việt Nam – Bản án và bình luận bản án Tập 1,
Nhà xuất bản Hồng Đức - Hội Luật gia Việt Nam, tr. 216;
- Đỗ Văn Đại (2017), Luật Hợp đồng Việt Nam – Bản án và bình luận bản án Tập 2,
Nhà xuất bản Hồng Đức, tr.781.
Tài liệu từ internet:
- https://www.youtube.com/watch?v=XWjsZ6ILanc
- https://www.youtube.com/watch?v=n1GdDpFXNf0

18

You might also like