You are on page 1of 17

TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

KHOA QUẢN TRỊ


----------------------------------

MÔN HỌC: HỢP ĐỒNG VÀ BỒI THƯỜNG THIỆT HẠI NGOÀI


HỢP ĐỒNG
BUỔI THẢO LUẬN THỨ BA: VẤN ĐỀ CHUNG CỦA
HỢP ĐỒNG (tiếp theo)
GIẢNG VIÊN: ĐẶNG THÁI BÌNH

Lớp: QTKD45.1 - NHÓM 4

STT HỌ VÀ TÊN MSSV


1 Phạm Minh Khang 1853401010063
2 Tạ Thị Thảo Hiền 2053401010029
3 Trần Thị Hiển 2053401010031
4 Đinh Ngọc Huy 2053401010035
5 Khiếu Thị Hồng Ngọc 2053401010064
MỤC LỤC

Vấn đề 1: Hợp đồng vi phạm quy định về hình thức ........................................................ 1


1.1. Đoạn nào trong Bản án số 16 cho thấy hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất
được xác lập trước ngày BLDS năm 2015 có hiệu lực và chưa được công chứng, chứng
thực? ................................................................................................................................... 2
1.2. Đoạn nào trong Bản án số 16 cho thấy Toà án đã áp dụng Điều 129 BLDS 2015 cho
hợp đồng chuyển nhượng dù hợp đồng được xác lập trước ngày BLDS năm 2015 có
hiệu lực? ............................................................................................................................. 3
1.3. Việc Toà án áp dụng Điều 129 BLDS 2015 trong trường hợp như trên có thuyết
phục không? Vì sao? .......................................................................................................... 3
1.4. Trong Bản án số 16, Tòa án áp dụng Điều 129 BLDS 2015 khi chỉ xác định Nguyên
đơn thực hiện 2/3 nghĩa vụ có thuyết phục không? Vì sao? .............................................. 3
1.5. Trong Bản án số 16, đoạn nào cho thấy, khi áp dụng Điều 129 BLDS, bên bán
không cần phải làm thủ tục chuyển nhượng và bên nhận chuyển nhượng được liên hệ cơ
quan Nhà nước có thẩm quyền để được công nhận quyền sử dụng đất theo bản án đã có
hiệu lực pháp luật? ............................................................................................................. 4
1.6. Hướng giải quyết như nêu trên của Tòa án có thuyết phục không? Vì sao? .............. 4
1.7. Đoạn nào trong Quyết định số 93 cho thấy hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng
đất ngày 10/8/2009 chưa được công chứng, chứng thực? ................................................. 5
1.8. Theo BLDS 2015, hệ quả pháp lý của việc hết thời hiệu yêu cầu Tòa án tuyên bố
hợp đồng vô hiệu về hình thức........................................................................................... 5
1.9. Đoạn nào trong Quyết định số 93 cho thấy Toà án đã áp dụng quy định về thời hiệu
tại Điều 132 BLDS 2015 để công nhận hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất
ngày 10/8/2009 dù chưa được công chứng, chứng thực? .................................................. 5
1.10. Trong quyết định số 93, việc Toà án công nhận hợp đồng chuyển nhượng quyền sử
dụng đất ngày 10/8/2009 dù chưa được công chứng, chứng thực có thuyết phục không?
Vì sao? ............................................................................................................................... 5
Vấn đề 2: Đơn phương chấm dứt, hủy bỏ do không thực hiện đúng hợp đồng. ............ 6
2.1. Điểm giống nhau và khác nhau giữa hợp đồng vô hiệu và hủy bỏ hợp đồng do có vi
phạm. .................................................................................................................................. 6
2.2. Theo Toà án nhân dân tỉnh Vĩnh Long, hợp đồng vô hiệu hay bị huỷ bỏ?................. 8
2.3. Suy nghĩ của anh/chị về hướng giải quyết trên của Tòa án nhân dân tỉnh Vĩnh Long
(về huỷ bỏ hay vô hiệu hợp đồng). .................................................................................... 8
2.4. Nếu hợp đồng bị vô hiệu thì có áp dụng phạt vi phạm hợp đồng không? Vì sao? ..... 8
2.5. Hướng giải quyết của Tòa án nhân dân tỉnh Vĩnh Long đối với câu hỏi trên như thế
nào và suy nghĩ của anh/chị về hướng giải quyết này của Toà án nhân dân tỉnh Vĩnh
Long. .................................................................................................................................. 8
2.6. Điểm giống nhau và khác nhau giữa đơn phương chấm dứt hợp đồng và hủy bỏ hợp
đồng do có vi phạm. ........................................................................................................... 8
2.7. Ông Minh có được quyền hủy bỏ hợp đồng chuyển nhượng nêu trên không? Vì sao?
Nếu có, nêu rõ văn bản cho phép hủy bỏ. .......................................................................... 9
Vấn đề 3: Đứng tên dùm mua bất động sản .................................................................... 10
3.1. Việc Tòa án nhân dân tối cao xác định nhà có tranh chấp do bà Tuệ bỏ tiền ra mua
và nhờ ông Bình, bà Vân đứng tên hộ có thuyết phục không? Vì sao? ........................... 10
3.2. Ở thời điểm mua nhà trên, bà Tuệ có được đứng tên không? Vì sao? ...................... 10
3.3. Ở thời điểm hiện nay, bà Tuệ có được đứng tên mua nhà ở tại Việt Nam không?... 10
3.4. Ngày nay, theo Tòa án nhân dân tối cao, bà Tuệ được công nhận quyền sở hữu nhà
trên không? Hướng giải quyết này của Tòa án nhân dân tối cao đã có tiền lệ chưa? ...... 11
3.5. Theo Tòa án nhân dân tối cao, phần giá trị chênh lệch giữa số tiền bà Tuệ bỏ ra và
giá trị hiện tại của nhà đất có tranh chấp được xử lý như thế nào?.................................. 11
3.6. Hướng giải quyết trên của Tòa án nhân dân tối cao đã có Án lệ chưa? Nếu có, nêu
Án lệ đó. ........................................................................................................................... 12
3.7. Suy nghĩ của anh/chị về hướng giải quyết trên của Tòa án nhân dân tối cao. .......... 12
Vấn đề 4: Tìm kiế m tài liệu ............................................................................................... 13
4.1. Những bài viết liên quan đến pháp luật hợp đồng được công bố trên các Tạp chí
chuyên ngành Luật từ đầu năm 2019 đến nay (Tháng 9/2022): ...................................... 13
4.2. Nguồn tài liệu............................................................................................................ 14
Vấn đề 1: Hợp đồng vi phạm quy định về hình thức
Tóm tắt Bản án số 16/2019/DS-PT ngày 19/3/2019 của Tòa án nhân dân tỉnh
Quảng Ngãi :
Chủ thể: - Nguyên đơn: Ông Võ Sĩ M, sinh năm 1970 và bà Phùng Thị N, sinh năm
1974. Địa chỉ: Thôn TD, xã PT, huyện ĐP, tỉnh Quảng Ngãi.
- Bị đơn: Ông Đoàn C, sinh năm 1946 và bà Trần Thị L, sinh năm 1946.
Địa chỉ: Thôn TD, xã PT, huyện ĐP, tỉnh Quảng Ngãi.
- Người đại diện theo ủy quyền của bị đơn: Ông Trương Quang T, sinh
năm 1950. Địa chỉ: số 135 đường ND, thành phố QN, tỉnh Quảng Ngãi. (Theo văn
bản ủy quyền ngày 18/12/2017).
- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:
+ Anh Đoàn Tấn L1 – sinh năm 1976. Địa chỉ: Thôn TD, xã PT,
huyện ĐP, tỉnh Quảng Ngãi.
+ Bà Nguyễn Thị M1 – sinh năm 1963. Địa chỉ: Thôn LV, xã PT,
huyện ĐP, tỉnh Quảng Ngãi.
+ Anh Đoàn Tấn N1 – sinh năm 1987. Địa chỉ: Thôn TD, xã PT,
huyện ĐP, tỉnh Quảng Ngãi.
+ Chị Đoàn Thị Mỹ N2 – sinh năm 1991. Địa chỉ: Thôn TB1, xã PT,
huyện ĐP, tỉnh Quảng Ngãi.
+ Chị Đoàn Thị Thu V – sinh năm 1979. Địa chỉ: Thôn LT1, xã PT,
huyện ĐP, tỉnh Quảng Ngãi.
- Người kháng cáo: Bị đơn ông Đoàn C, bà Trần Thị L và những người có
quyền lợi, nghĩa vụ liên quan là các anh, chị Đoàn Tấn L1, Đoàn Tấn N1, Đoàn Thị
Thu V, Đoàn Thị Mỹ N2.
Viện kiểm sát kháng nghị: Viện kiểm sát nhân dân huyện Đức Phổ, tỉnh Quảng
Ngãi.
Tranh chấp vấn đề: Chuyển nhượng quyền sử dụng đất.
Lý do tranh chấp: Ngày 10/8/2009, nguyên đơn và bị đơn có thỏa thuận và giao kết
với nhau hợp đồng chuyển nhượng lô đất B với giá 90.000.000 đồng nhưng chưa
công chứng, chứng thực. Bên nguyên đơn đã thanh toán đủ 90.000.000 đồng cho bị
đơn. Đến năm 2011, Nhà nước đã chỉ mốc giới vị trí đất cấp cho bị đơn là 03 lô đất
liền kề ở mặt tiền, bị đơn và anh Đoàn Tấn L1 yêu cầu phía nguyên đơn đưa thêm
30.000.000 đồng vì giá đất mặt tiền cao hơn, nguyên đơn đồng ý đưa tiếp
20.000.000 đồng, còn 10.000.000 đồng khi nào làm thủ tục chuyển nhượng xong thì
đưa đủ. Đến tháng 10/2016 Nhà nước cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho
bị đơn, nhưng phía bị đơn và anh Đoàn Tấn L1 chỉ đưa giấy chứng nhận quyền sử
dụng đất thửa đất số 877 tờ bản đồ số 24 xã PT (Sau đây viết tắt là thửa 877) cho
nguyên đơn nhưng không làm thủ tục chuyển nhượng cho nguyên đơn, hiện nay
nguyên đơn đã xây móng đá chẻ trên thửa 877. Nay nguyên đơn yêu cầu bị đơn phải
làm thủ tục chuyển nhượng thửa 877 tờ bản đồ số 24 xã PT, huyện ĐP, tỉnh Quảng
Ngãi cho nguyên đơn.

1
Quyết định của Toà án:
- Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn. Công nhận hợp đồng chuyển
nhượng quyền sử dụng đất ngày 10/8/2009. Buộc bị đơn phải làm thủ tục
chuyển nhượng thửa 877 cho nguyên đơn.
- Không chấp nhận yêu cầu phản tố của bị đơn về việc hủy hợp đồng chuyển
nhượng quyền sử dụng đất ngày 10/8/2009.
- Ngoài ra, bản án sơ thẩm còn giải quyết về chi phí tố tụng, án phí và tuyên
quyền kháng cáo của các đương sự.
Tóm tắt Quyết định số 93/2018/DS-GĐT ngày 29/11/2018 của Toà án
nhân dân cấp cao tại Đà Nẵng :
Vụ án Tranh chấp hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất giữa các bên:
Chủ thể: - Nguyên đơn: Ông Võ Sĩ M, sinh năm 1970 và bà Phùng Thị N, sinh năm
1974
- Bị đơn: Ông Đoàn C, sinh năm 1946 và bà Trần Thị L, sinh năm 1946
Nội dung: Vợ chồng ông C và bà L chuyển nhượng cho vợ chồng ông M và bà N
đất thổ cư với giá 90.000.000 đồng. Sau đó lấy thêm 1 khu nữa với giá 30 triệu
đồng. Ông M, bà N giao tiền 110.000.000 đồng. Trong hợp đồng không có công
chứng, chức thực nên vi phạm về hình thức. Tuy nhiên do quá 2 năm, bị đơn không
yêu cầu tuyên bố hợp đồng vô hiệu, do đó hợp đồng vẫn có hiệu lực. Tại tòa giám
đốc thẩm, Tòa án Nhân dân cấp cao tại Đà Nẵng quyết định: Chấp nhận Quyết định
kháng nghị giám đốc thẩm số 68/2018/KN-DS, huỷ toàn bộ bản án dân sự phúc
thẩm số 24/2018/DS-PT, giao hồ sơ vụ án cho Toà án nhân dân tỉnh Quảng Ngãi xét
xử lại thủ tục phúc thẩm.
1.1. Đoạn nào trong Bản án số 16 cho thấy hợp đồng chuyển nhượng quyền sử
dụng đất được xác lập trước ngày BLDS năm 2015 có hiệu lực và chưa được
công chứng, chứng thực?
Nhận định [3] của Toà án trong Bản án số 16 đã cho thấy hợp đồng chuyển
nhượng quyền sử dụng đất được xác lập trước ngày BLDS năm 2015 có hiệu lực
(10/08/2009) và chưa được công chứng, chức thực. Trích dẫn nhận định [3] :
“[3] Bị đơn ông C, bà L và người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan anh L1
thừa nhận, vì biết thông tin gia đình bị đơn bị thu hồi đất sẽ được cấp ba lô đất tái
định cư, trong đó có một lô A và hai lô B, nên ngày 10/08/2009 nguyên đơn ông M,
bà N cùng phía bị đơn ông C, bà L và anh Đoàn Tấn L1 thỏa thuận và lập “Giấy
chuyển nhượng đất thổ cư” (Bút lục 27), nội dung thỏa thuận là bị đơn và anh L1
chuyển nhượng cho nguyên đơn một lô đất thuộc lô B, diện tích 5m x 20m (tự chọn
khi Nhà nước cấp đất) trong phần đất của gia đình bị đơn sẽ được cấp tái định cư
với giá 90.000.000 đồng, anh L1 có trách nhiệm làm giấy chứng nhận quyền sử
dụng đất và giao đất trên thực địa cho nguyên đơn, các bên tham gia giao dịch đều
thống nhất ký tên; bị đơn đã giao đủ 90.000.000 đồng cho phía nguyên đơn. Đây là
những tình tiết không phải chứng minh theo quy định tại khoản 2 Điều 92 Bộ luật tố
tụng dân sự.”

2
1.2. Đoạn nào trong Bản án số 16 cho thấy Toà án đã áp dụng Điều 129 BLDS
2015 cho hợp đồng chuyển nhượng dù hợp đồng được xác lập trước ngày
BLDS năm 2015 có hiệu lực?
Trong nhận định [6] của Toà án (Bản án số 16), Toà án đã áp dụng khoản 2
Điều 129 BLDS 2015 cho hợp đồng chuyển nhượng dù hợp đồng được xác lập
trước ngày BLDS năm 2015 có hiệu lực (Hợp đồng được xác lập vào ngày
10/08/2009 )
“[6] Về thời hạn thực hiện giao dịch được hai bên xác định là từ khi xác lập
giao dịch cho đến khi phía bị đơn thực hiện xong nghĩa vụ sang tên trong giấy
chứng nhận quyền sử dụng đất cho nguyên đơn, nên đây là giao dịch đang được
thực hiện. Về nội dung, hình thức phù hợp với quy định của Bộ luật dân sự năm
2015 nên áp dụng Bộ luật dân sự năm 2015 là đúng với quy định tại điểm b khoản 1
Điều 688 Bộ luật dân sự năm 2015. Như vậy, tuy thời điểm các bên thỏa thuận việc
chuyển nhượng quyền sử dụng đất thì phía bị đơn chưa được cấp đất nên chỉ lập
giấy viết tay thể hiện nội dung thỏa thuận, nhưng khi được cấp đất các bên đã thay
đổi thỏa thuận bằng lời nói thành chuyển nhượng thửa 877 và tiếp tục thực hiện
hợp đồng bằng việc giao thêm tiền, giao đất, giao giấy chứng nhận quyền sử dụng
đất, thời điểm giao giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đang đứng tên bị đơn là đã
đủ điều kiện để chuyển nhượng…”
1.3. Việc Toà án áp dụng Điều 129 BLDS 2015 trong trường hợp như trên có
thuyết phục không? Vì sao?
Việc Toà án áp dụng Điều 129 BLDS 2015 trong trường hợp như trên là
hoàn toàn thuyết phục.
Vì trong vụ việc này tuy thời điểm các bên thỏa thuận việc chuyển nhượng
quyền sử dụng đất thì phía bị đơn chưa được cấp đất nên chỉ lập giấy viết tay thể
hiện nội dung thỏa thuận, nhưng khi được cấp đất các bên đã thay đổi thỏa thuận
bằng lời nói thành chuyển nhượng thửa 877 và tiếp tục thực hiện hợp đồng bằng
việc giao thêm tiền, giao đất, giao giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, thời điểm
giao giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đang đứng tên bị đơn là đã đủ điều kiện để
chuyển nhượng.
Và Theo quy định tại Điều 116, khoản 2 Điều 129 BLDS năm 2015 thì tuy
giao dịch chuyển nhượng quyền sử dụng đất của các bên không tuân thủ về hình
thức được quy định tại khoản 1, Điều 502 Bộ luật dân sự năm 2015 nhưng bên
nguyên đơn đã thực hiện giao cho phía bị đơn 110.000.000 đồng, phía bị đơn đã
giao quyền sử dụng đất cho nguyên đơn là đã thực hiện hơn 2/3 nghĩa vụ trong giao
dịch nên giao dịch được công nhận hiệu lực.
1.4. Trong Bản án số 16, Tòa án áp dụng Điều 129 BLDS 2015 khi chỉ xác định
Nguyên đơn thực hiện 2/3 nghĩa vụ có thuyết phục không? Vì sao?
Theo quan điểm của nhóm, việc tòa án áp dụng Điều 129 BLDS 2015 cho
trường hợp như trên là chưa thuyết phục. Bởi vì :
- Theo quy định tại khoản 2, điều 129 BLDS 2015 thì: “Giao dịch dân sự
đã được xác lập bằng văn bản nhưng vi phạm quy định bắt buộc về công
chứng, chứng thực mà một bên hoặc các bên đã thực hiện ít nhất hai
phần ba nghĩa vụ trong giao dịch thì theo yêu cầu của một bên hoặc các
3
bên, tòa án ra quyết định công nhận hiệu lực của giao dịch đó. Trong
trường hợp này, các bên không phải thực hiện công chứng, chứng thực.”
- Quy định này nêu rõ chỉ áp dụng cho các loại giao dịch mà luật bắt buộc
phải công chứng, chứng thực, không áp dụng cho trường hợp khác về
điều kiện có hiệu lực hình thức của giao dịch .
- Trong trường hợp này, điều kiện có hiệu lực của hợp đồng chuyển
nhượng đất là phải đăng ký theo quy định tại Điều 188 Luật Đất đai 2013.
- Vậy nên dù một trong hai đã thực hiện 2/3 nghĩa vụ hay thậm chí thực
hiện xong nghĩa vụ thì cũng không thể áp dụng điều 129 BLDS 2015.
1.5. Trong Bản án số 16, đoạn nào cho thấy, khi áp dụng Điều 129 BLDS, bên
bán không cần phải làm thủ tục chuyển nhượng và bên nhận chuyển nhượng
được liên hệ cơ quan Nhà nước có thẩm quyền để được công nhận quyền sử
dụng đất theo bản án đã có hiệu lực pháp luật?
Trong nhận định [6] của Toà án cho thấy khi áp dụng Điều 129 BLDS, bên
bán không cần phải làm thủ tục chuyển nhượng và bên nhận chuyển nhượng được
liên hệ cơ quan Nhà nước có thẩm quyền để được công nhận quyền sử dụng đất
theo bản án đã có hiệu lực pháp luật. Trích dẫn trong nhận định [6] :
“…Theo quy định tại Điều 116, khoản 2 Điều 129 Bộ luật dân sự năm 2015
thì tuy giao dịch chuyển nhượng quyền sử dụng đất của các bên không tuân thủ về
hình thức được quy định tại khoản 1 Điều 502 Bộ luật dân sự năm 2015 nhưng bên
nguyên đơn đã thực hiện giao cho phía bị đơn 110.000.000 đồng, phía bị đơn đã
giao quyền sử dụng đất cho nguyên đơn là đã thực hiện hơn 2/3 nghĩa vụ trong giao
dịch nên giao dịch được công nhận hiệu lực. Tòa án cấp sơ thẩm công nhận hiệu
lực của giao dịch là đúng pháp luật nhưng buộc bị đơn phải làm thủ tục chuyển
nhượng thửa 877 cho nguyên đơn là không cần thiết, khi Tòa án công nhận hiệu lực
của giao dịch thì nguyên đơn liên hệ cơ quan Nhà nước có thẩm quyền để được
công nhận quyền sử dụng đất theo bản án đã có hiệu lực pháp luật.”
1.6. Hướng giải quyết như nêu trên của Tòa án có thuyết phục không? Vì sao?
Hướng giải quyết của Toà án: Công nhận hợp đồng chuyển nhượng quyền sử
dụng đất ngày 10/8/2009 có hiệu lực, buộc bị đơn phải làm thủ tục chuyển nhượng
thửa 877 cho nguyên đơn và không chấp nhận yêu cầu phản tố của bị đơn về việc
hủy hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất ngày 10/8/2009 là hoàn toàn
thuyết phục.
Bởi vì theo Khoản 2 Điều 129 quy dịnh: “Giao dịch dân sự đã được xác lập
bằng văn bản nhưng vi phạm quy định bắt buộc về công chứng, chứng thực mà một
bên hoặc các bên đã thực hiện ít nhất hai phần ba nghĩa vụ trong giao dịch thì theo
yêu cầu của một bên hoặc các bên, Tòa án ra quyết định công nhận hiệu lực của
giao dịch đó. Trong trường hợp này, các bên không phải thực hiện việc công chứng,
chứng thực.”
Trong trường hợp này bên nguyên đơn đã thanh toán cho phía bị đơn
110.000.000 đồng, phía bị đơn đã giao quyền sử dụng đất cho nguyên đơn là đã
thực hiện hơn 2/3 nghĩa vụ trong giao dịch nên giao dịch được công nhận hiệu lực.
Tuy hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất không được công chứng, chứng
thực nhưng theo Khoản 2 Điều 132 quy định khi hết thời hiệu quy định tại Khoản 1

4
Điều này mà không có yêu cầu tuyên bố giao dịch dân sự vô hiệu thì giao dịch dân
sự có hiệu lực. Vì trong 2 năm kể từ ngày xác lập giao dịch ông C, bà L không có
yêu cầu tuyên bố hợp đồng vô hiệu vì vi phạm về mặt hình thức nên hợp đồng vẫn
có hiệu lực.
1.7. Đoạn nào trong Quyết định số 93 cho thấy hợp đồng chuyển nhượng quyền
sử dụng đất ngày 10/8/2009 chưa được công chứng, chứng thực?
Đoạn trong Quyết định số 93 cho thấy hợp đồng chuyển nhượng quyền sử
dụng đất ngày 10/8/2009 chưa được công chứng, chứng thực: “Về hình thức của
hợp đồng: Đối với các giao dịch dân sự được xác lập trước ngày 01-01-2017, thời
hiệu được áp dụng theo quy định của Bộ luật Dân sự năm 2015 (điểm d khoản 1
Điều 688 BLDS 2015). Giao dịch chuyển nhượng quyền sử dụng đất ngày 10-8-
2009 giữa vợ chồng ông Cưu, bà Lắm với vợ chồng ông Mến, bà Nhiễm không được
công chứng, chứng thực là vi phạm về hình thức”.
1.8. Theo BLDS 2015, hệ quả pháp lý của việc hết thời hiệu yêu cầu Tòa án
tuyên bố hợp đồng vô hiệu về hình thức.
Theo Khoản 2 Điều 132 BLDS 2015 thì khi hết tời hiệu quy định tại Khoản 1
Điều này mà không có yêu cầu tuyên bố giao dịch dân sự vô hiệu thì giao dịch dân
sự có hiệu lực. Cho nên hệ quả pháp lí của việc hết thời hạn yêu cầu của Toà án
tuyên bố hợp đồng vô hiệu về hình thức là hợp đồng sẽ có hiệu lực.
1.9. Đoạn nào trong Quyết định số 93 cho thấy Toà án đã áp dụng quy định về
thời hiệu tại Điều 132 BLDS 2015 để công nhận hợp đồng chuyển nhượng
quyền sử dụng đất ngày 10/8/2009 dù chưa được công chứng, chứng thực?
Đoạn Tòa áp dụng quy định về thời hiệu tại Điều 132 BLDS 2015 để công
nhận hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất là: “[5] Về hình thức của hợp
đồng…Tuy nhiên từ khi xác lập hợp đồng đến ngày nguyên đơn khởi kiện
18/4/2017, đã quá thời hạn hai năm, bị đơn không yêu cầu tuyên bố hợp đồng vô
hiệu theo quy định tại khoản 1 Điều 132 Bộ luật dân sự 2015. Do đó, hợp đồng
chuyển nhượng quyền sử dụng đất trên có hiệu lực theo khoản 2 Điều 132 Bộ luật
dân sự 2015.”
1.10. Trong quyết định số 93, việc Toà án công nhận hợp đồng chuyển nhượng
quyền sử dụng đất ngày 10/8/2009 dù chưa được công chứng, chứng thực có
thuyết phục không? Vì sao?
Quyết định của Tòa khi công nhận hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng
đất dù chưa được công chứng, chứng thực là thuyết phục. Vì:
- Căn cứ vào Khoản 1 Điều 132 Bộ luật dân sự 2015 thì thời hiệu để Tòa
tuyên giao dịch dân sự vô hiệu là 2 năm, nhưng trong vụ việc thì ông C,
bà L trong suốt 2 năm đó không yêu cầu Tòa tuyên giao dịch vô hiệu. Mà
mãi đến khi ông M, bà N khởi kiện ông C, bà L vì 2 ông bà không thực
hiện nghĩa vụ sang tên quyền sử dụng đất cho họ thì ông C, bà L mới
phản tố yêu cầu Tòa hủy hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất
giữa 2 bên. Hơn nữa, giao dịch dân sự vô hiệu và hủy hợp đồng là hoàn
toàn khác nhau và hợp đồng không được công chứng, chứng thực không
phải là căn cứ để Tòa tuyên hủy hợp đồng theo Điều 423 BLDS 2015.

5
- Nên tiếp tục căn cứ vào khoản 2 Điều 132 thì Tòa tuyên giao dịch dân sự
chuyển nhượng quyền sử dụng đất ngày 10/08/2009 có hiệu lực.
Vấn đề 2: Đơn phương chấm dứt, hủy bỏ do không thực hiện đúng
hợp đồng.
Tóm tắt bản án số 06/2017/KDTM-PT ngày 26/05/2017 của Tòa án nhân
dân tỉnh Vĩnh Long.
Chủ thể: - Nguyên đơn: Công ty TNHH MTV Đông Phong Cần Thơ (đại diện là
ông Nguyễn Thành Tơ).
- Bị đơn: bà Nguyễn Thị Dệt và ông Trương Văn Liêm.
Tranh chấp vấn đề: Hợp đồng mua bán xe ô tô ngày 26/5/2012 nhưng hợp đồng đã
bị vô hiệu.
Lí do tranh chấp:
- Thứ nhất, do trong hợp đồng ghi bên mua “Trang trí nội thất Thanh Thảo”
nhưng bà Dệt không phải là đại diện bên này.
- Thứ hai, do bên mua là bà Dệt nhưng khi ký kết hợp đồng lại là ông Trương
Văn Liêm.
- Thứ ba, nguyên đơn yêu cầu các bị đơn tiếp tục thực hiện hợp đồng mua bán,
thanh toán số tiền mua xe còn lại 181.000.000VND và tiền lãi chậm trả.
Quyết định của Tòa án:
- Tòa án tuyên chiếc ô tô vẫn thuộc quyền sở hữu của Công ty Đông Phong, và
kiến nghị Công an tỉnh Vĩnh Long thu hồi lại giấy đăng ký xe ô tô cho bà
Dệt đứng tên.
- Buộc ông Liêm, bà Dệt phải trả số tiền là 4.880.000 đồng cho Công ty
TNHH MTV Đông Phong Cần Thơ do ông Tơ thừa quyền.
- Buộc Công ty TNHH MTV Đông Phong Cần Thơ do ông Tơ kế thừa nghĩa
vụ trả cho ông Liêm, bà Dệt số tiền là 67.361.600 đồng.
Tóm tắt tình huống:
Chủ thể: - Nguyên đơn: ông Minh
- Bị đơn: ông Cường
Tranh chấp vấn đề: Nghĩa vụ trả tiền hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất.
Lý do tranh chấp: Ông Minh ký hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất cho
ông Cường. Tuy nhiên khi hợp đồng được giao kết hợp pháp và ông Minh đã giao
đất cho ông Cường thì ông Cường không trả tiền cho ông Minh mặc dù ông Minh
đã nhiều lần nhắc nhở. Nay ông Minh yêu cầu Tòa án hủy bỏ hợp đồng chuyển
nhượng để nhận lại đất
2.1. Điểm giống nhau và khác nhau giữa hợp đồng vô hiệu và hủy bỏ hợp đồng
do có vi phạm.
Có 3 điểm giống nhau, căn cứ Điều 407 và Điều 423 BLDS 2015.
- Đều không có giá trị thi hành. Chấm dứt hiệu lực của hợp đồng đã được ký
kết.

6
- Các bên phải hoàn trả cho nhau những gì đã nhận. Nếu không hoàn trả được
bằng vật thì hoàn trả bằng tiền.
- Bên có lỗi phải bồi thường thiệt hại.
Theo nhóm, có 5 điểm khác nhau dựa trên các yếu tố: điều kiện chấm dứt,
tính chất, phạm vi ảnh hưởng, hậu quả pháp lý và thẩm quyền quyết định.

Hợp đồng vô hiệu Hủy bỏ hợp đồng do có vi phạm


Vi phạm các quy định của pháp Vi phạm của 01 trong các bên khi
Điều kiện luật trong quá trình giao kết. thực hiện hợp đồng. (Điều 423
chấm dứt (Điều 122, Điều 407, Điều 408 BLDS 2015)
BLDS 2015)

Hợp đồng không có giá trị pháp lí: Hợp đồng có hiệu lực từ thời điểm
Không bao giờ phát sinh quyền và giao kết. Nhưng khi 1 trong các bên
Tính chất nghĩa vụ giữa các bên. tuyên hủy thì hiệu lực của hợp đồng
này không còn tồn tại.

Theo Điều 407 BLDS 2015: Hủy bỏ toàn bộ hợp đồng. (Điều
- Khi hợp đồng chính vô hiệu thì 427 BLDS 2015).
hợp đồng phụ cũng vô hiệu (trừ
trường hợp các bên có thỏa thuận
Phạm vi ảnh
hợp đồng phụ được thay thế hợp
hưởng
đồng chính).
- Khi hợp đồng phụ vô hiệu thì
hợp đồng chính không bị vô hiệu
(trừ trường hợp có thỏa thuận
khác).

Theo Điều 131 BLDS 2015: Theo Điều 427 BLDS 2015, Điều
- Các bên khôi phục lại tình trạng 314 Luật thương mại 2005:
ban đầu,trả lại cho nhau những gì - Các bên phải hoàn trả cho nhau
đã nhận hoặc trả lại bằng tiền những gì đã nhận sau khi trừ chi
tương ứng. phí hợp lý trong thực hiện hợp
- Không có thoả thuận về phạt vi đồng và chi phí bảo quản, phát triển
Hậu quả phạm hoặc bồi thường do vi phạm tài sản.
pháp lí hợp đồng. - Các bên không phải thực hiện
nghĩa vụ đã thỏa thuận, trừ thỏa
thuận về phạt vi phạm, bồi thường
thiệt hại và thỏa thuận về giải quyết
tranh chấp.
- Có quyền đòi lại phần lợi ích do
việc đã thực hiện phần nghĩa vụ
theo hợp đồng.

7
Thẩm quyền Tòa án. - Một trong các bên.
quyết định - Tòa án hoặc Trọng tài.
2.2. Theo Toà án nhân dân tỉnh Vĩnh Long, hợp đồng vô hiệu hay bị huỷ bỏ?
Theo toà án nhân dân tỉnh Vĩnh Long thì hợp đồng vô hiệu. Điều này được
thấy rõ trong Quyết định tuyên xử của Bản án: “Vô hiệu hợp đồng mua bán xe ô tô
ngày 26/05/2012 giao kết giữa công ty TNHH MTV Đông Phong Cần Thơ với ông
Trương Văn Liêm”.
2.3. Suy nghĩ của anh/chị về hướng giải quyết trên của Tòa án nhân dân tỉnh
Vĩnh Long (về huỷ bỏ hay vô hiệu hợp đồng).
Hướng giải quyết về vô hiệu hợp đồng của Tòa án Nhân dân tỉnh Vĩnh Long
trong trường hợp này là hợp lý.
Căn cứ Khoản 1 Điều 142 BLDS 2015, thì hợp đồng vô hiệu vì lý do sau:
- Trong hợp đồng ghi bên mua là “Trang trí nội thất Thanh Thảo” nhưng
người đại diện Nguyễn Thị Dệt là không đúng vì bà Dệt không đại diện cho
“Trang trí nội thất Thanh Thảo” mà thực chất là Công ty TNHH-SX-TM
Thanh Thảo do Trương Hoàng Thành là Giám đốc đại diện.
- Hợp đồng ghi đại diện bên mua là bà Dệt nhưng đứng ra giao dịch ký kết lại
là ông Trương Văn Liêm là không đúng quy định của pháp luật.
Căn cứ vào Khoản 1, Khoản 2 Điều 131 BLDS 2015 thì lỗi dẫn đến vô hiệu
hợp đồng của các bên là ngang nhau nên các bên không phát sinh quyền và nghĩa
vụ, 2 bên hoàn trả cho nhau những gì đã nhận là có cơ sở.
2.4. Nếu hợp đồng bị vô hiệu thì có áp dụng phạt vi phạm hợp đồng không? Vì
sao?
Nếu hợp đồng bị vô hiệu thì không thể áp dụng phạt vi phạm. Vì phạt vi
phạm chỉ có giá trị khi hợp đồng có hiệu lực. Khi hợp đồng có hiệu lực thì các điều
khoản mà các bên đã thỏa thuận mới có giá trị pháp lý ràng buộc giữa các bên.
Ngược lại, nếu hợp đồng vô hiệu thì thỏa thuận phạt vi phạm cũng không có hiệu
lực pháp luật. (Căn cứ theo Điều 418 BLDS 2015).
2.5. Hướng giải quyết của Tòa án nhân dân tỉnh Vĩnh Long đối với câu hỏi trên
như thế nào và suy nghĩ của anh/chị về hướng giải quyết này của Toà án nhân
dân tỉnh Vĩnh Long.
Hướng giải quyết trên của tòa án là hợp lý vì hợp đồng bị tuyên vô hiệu thì
đương nhiên không ràng buộc trách nhiệm các bên đã giao kết trong hợp đồng theo
khoản 1 Điều 131 BLDS 2015. Vì vậy vấn đề phạt vi phạm của các bên không được
xét đến.
2.6. Điểm giống nhau và khác nhau giữa đơn phương chấm dứt hợp đồng và
hủy bỏ hợp đồng do có vi phạm.
Có 4 điểm giống nhau, căn cứ Điều 423 và Điều 428 BLDS 2015:
- Do 1 bên thực hiện.Một bên có quyền huỷ bỏ hoặc đơn phương chấm dứt
hợp đồng và không phải bồi thường thiệt hại khi bên kia vi phạm nghĩa vụ

8
nghiêm trọng trong hợp đồng. Đây cũng là điều kiện để áp dụng việc hủy bỏ
hoặc đơn phương chấm dứt hợp đồng.
- Ai có lỗi dẫn đến hợp đồng bị huỷ bỏ hay đơn phương chấm dứt thì người đó
phải có trách nhiệm bồi thường.
- Phải thông báo ngay cho bên kia biết về việc chấm dứt hoặc hủy bỏ, nếu
không thông báo mà gây thiệt hại thì phải bồi thường.
- Đều có hậu quả là kết thúc việc thực hiện hợp đồng.
Theo nhóm, có 3 điểm khác nhau dựa trên điều kiện áp dụng và hậu quả
pháp lý:
Đơn phương chấm dứt hợp đồng Hủy bỏ hợp đồng do có vi phạm
Theo Điều 428 BLDS 2015: Theo Điều 423, Điều 424, Điều
- Không bắt buộc phải có sự vi 425, Điều 426 BLDS 2015
phạm hợp đồng bởi hai bên có thể - Phải có sự vi phạm hợp đồng và
thỏa thuận hoặc do pháp luật quy đây cũng là điều kiện để hủy bỏ
Điều kiện định. hợp đồng.
áp dụng
- Các trường hợp pháp luật có quy
định, như: Chậm thực hiện nghĩa
vụ; hợp đồng không có khả năng
thực hiện; tài sản bị mất, hư hỏng.

Theo Điều 428 BLDS 2015: Theo Điều 427 BLDS 2015:
- Hợp đồng chấm dứt kể từ thời - Khi hợp đồng bị hủy bỏ thì hợp
điểm bên kia nhận được thông báo đồng không có hiệu lực từ thời
Hậu quả chấm dứt. điểm giao kết.
pháp lí
- Bên đã thực hiện nghĩa vụ có - Hoàn trả cho nhau những gì đã
quyền yêu cầu bên kia thanh toán nhận sau khi trừ đi chi phí hợp lý.
phần nghĩa vụ đã thực hiện.
2.7. Ông Minh có được quyền hủy bỏ hợp đồng chuyển nhượng nêu trên
không? Vì sao? Nếu có, nêu rõ văn bản cho phép hủy bỏ.
Ông Minh có quyền hủy bỏ hợp đồng chuyển nhượng.
Vì trong hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất của ông Minh cho ông
Cường (hợp đồng được giao kết hợp pháp) không có ghi rõ thời hạn thanh toán,
nhưng do ông Minh đã giao đất cho ông Cường mà ông Cường không thực hiện
việc thanh toán tiền cho ông Minh và còn để cho ông Minh nhắc nhở nhiều lần.
Từ đó có thể thấy ông Minh được quyền đơn phương chấm dứt hợp đồng.
Văn bản cho phép ông Minh thực hiện quyền này là Điểm b, Khoản 1, Điều 424 và
Khoản 1, Điều 428 BLDS 2015.
Ngoài ra, theo Điều 312 Luật thương mại 2005 cho phép các bên huỷ bỏ hợp
đồng khi bên kia có sự vi phạm cơ bản.

9
Vấn đề 3: Đứng tên dùm mua bất động sản
Tóm tắt quyết định số 17/2015/DS-GĐT ngày 19/05/2015 của Hội đồng
Thẩm phán Toà án nhân dân tối cao:
Chủ thể: - Nguyên đơn: bà Nguyễn Thị Tuệ.
- Bị đơn: ông Nguyễn Văn Bình và bà Nguyễn Thị Vân
- Người có quyền và nghĩa vụ liên quan: Lê Thị Lũng, Nguyễn thị Cẩm
Vân, Nguyễn Hồng Hạnh, Nguyễn Hồng Phương, ông Nguyễn Xuân Hải.
Tranh chấp về vấn đề: Đứng tên và mua giùm bất động sản.
Lý do tranh chấp: Bà Tuệ định cư ở nước ngoài, muốn mua nhà ở Việt Nam và nhờ
ông Bình, bà Vân mua và đứng tên hộ, có giấy cam đoan xác định và có chữ ký của
ông Bình, bà Vân. Bà Tuệ yêu cầu ông Bình trả nhà đất nhưng ông Bình không trả.
Bà Tuệ khởi kiện yêu cầu ông Bình và bà Vân trả lại căn nhà.
Quyết định của Tòa án:
- Tòa án sơ thẩm buộc ông Bình trả nhà nhưng không tính phí quản lý.
- Tòa phúc thẩm cho rằng bà Tuệ chỉ có quyền đòi lại số tiền đã đưa ông Bình.
- Tòa án tối cao quyết định hủy toàn bộ hai bản án sơ thẩm và phúc thẩm về vụ
án “Kiện đòi tài sản” và yêu cầu xét xử sơ thẩm lại.
3.1. Việc Tòa án nhân dân tối cao xác định nhà có tranh chấp do bà Tuệ bỏ tiền
ra mua và nhờ ông Bình, bà Vân đứng tên hộ có thuyết phục không? Vì sao?
Việc Tòa án nhân dân tối cao xác định nhà có tranh chấp do bà Tuệ bỏ tiền ra
mua và nhờ ông Bình, bà Vân đứng tên hộ là hoàn toàn hợp lý vì:
Căn cứ vào “giấy cam đoan xác định tài sản nhà ở” lập ngày 7/6/2001 có nội
dung xác nhận căn nhà số 16-B20 do bà Tuệ bỏ tiền ra mua và nhờ ông Bình, bà
Vân đứng tên hộ, đều có chữ ký của ông bình và bà Vân.
Căn cứ vào “giấy khai nhận tài sản” ngày 9/8/2001 của bà Tuệ có nội dung
bà Tuệ mua căn nhà số 16-B20, có chữ ký xác nhận của bà Tuệ, ông Bình và bà
Vân cùng ký tên dưới mục người đứng tên mua hộ.
Tại biên bản ngày 5/10/2010 và 14/10/2010 ông Bình thừa nhận nhà số 16-
B20 là bà Tuệ cho tiền mua và bà Vân là người đứng tên giùm. Anh Nguyễn Xuân
Hải, con ông Bình cũng khẳng định bà Tuệ là người mua nhà.
3.2. Ở thời điểm mua nhà trên, bà Tuệ có được đứng tên không? Vì sao?
Ở thời điểm mua nhà trên, Bà Tuệ không được đứng tên vào thời điểm mua
nhà trên vì tại thời điểm bà Tuệ nhờ ông Bình mua nhà vào năm 1992 thì căn cứ
Điều 126 Luật nhà ở 2005 và Điều 121 luật đất đai 2003. Bản án cũng cho thấy bà
Tuệ vốn định cư ở Nhật Bản và chỉ về Việt Nam không quá thời hạn 6 tháng trở lên
nên không được đứng tên mua nhà ở thời điểm đó theo các điều luật trên.
3.3. Ở thời điểm hiện nay, bà Tuệ có được đứng tên mua nhà ở tại Việt Nam
không?
Ở thời điểm hiện nay, bà tuệ được đứng tên mua nhà tại Việt Nam vì:

10
- Theo quy định tại Điều 1 Luật số 34/2019/QH12 ngày 18/06/2009 của Quốc
hội về sửa đổi, bổ sung điều 126 Luật nhà ở và 121 Luật đất đai.
- Theo “giấy chứng nhận” ngày 12/06/2009 của Tổng lãnh sự quán nước Cộng
hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam tại Nhật Bản thì bà Tuệ vẫn có quốc tịch ở
Việt Nam, đồng thời bà còn được cấp “Giấy miễn thị thực” để bà Tuệ nhập
cảnh Việt Nam nhiều lần đến ngày 18/06/2014, mỗi lần nhập cảnh tạm trú
không quá 90 ngày.
Như vậy, bà Tuệ có đủ điều kiện để đứng tên mua nhà ở tại Việt Nam.
3.4. Ngày nay, theo Tòa án nhân dân tối cao, bà Tuệ được công nhận quyền sở
hữu nhà trên không? Hướng giải quyết này của Tòa án nhân dân tối cao đã có
tiền lệ chưa?
Ngày nay, theo Tòa án nhân dân tối cao, bà Tuệ được công nhận quyền sở
hữu nhà ở, vì:
- Theo “giấy chứng nhận” ngày 12/6/2009 của Tổng lãnh sự quán nước Cộng
hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam tại Nhật Bản, thì bà Tuệ vẫn có quốc tịch
Việt Nam.
- 18/6/2009, bà Tuệ được cấp “Giấy miễn thị thực”
- Theo quy định tại Điều 1 Luật số 34/2019/QH12 ngày 18/06/2009 của Quốc
hội về sửa đổi, bổ sung điều 126 Luật nhà ở và 121 Luật đất đai thì bà Tuệ
đủ điều kiện sở hữu nhà tại Việt Nam.
Hướng giải quyết trên của Tòa án nhân dân tối cao đã có tiền lệ: Bản án số
06/2009/DS-ST ngày 05/10/2009 của Tòa án Nhân dân tỉnh Đồng Tháp về tranh
chấp giữa ông Paul (người nhờ đứng tên) và bà Hạnh, bà Hương (người được nhờ
đứng tên).
Cụ thể: “Ông Paul là người nước ngoài có nhu cầu định cư tại Việt Nam.
Tuy nhiên, do pháp luật Việt Nam không cho phép người nước ngoài được quyền sở
hữu nhà ở tại Việt Nam, nên đã gửi tiền bà Hạnh, bà Hương nhờ mua đất và xây
nhà. Sau đó, giữa người nhờ đứng tên và người được nhờ đứng tên có tranh chấp.
Tòa án đã quyết định người được nhờ đứng tên được tiếp tục sở hữu đối với căn
nhà và đất, nhưng phải trả lại khoản tiền tương đương với giá trị tài sản ban đầu và
giá trị tăng thêm của tài sản”1.
3.5. Theo Tòa án nhân dân tối cao, phần giá trị chênh lệch giữa số tiền bà Tuệ
bỏ ra và giá trị hiện tại của nhà đất có tranh chấp được xử lý như thế nào?
Theo Toà án nhân dân tối cao thì phần giá trị chênh lệch giữa số tiền bà Tuệ
bỏ ra và giá trị hiện tại của nhà đất có tranh chấp được chia đôi cho bà Tuệ và ông
Bình, cụ thể trong bản án có ghi nhận là "xem xét công sức quản lý, giữ gìn nhà cho
gia đình ông Bình trên cơ sở xác định giá nhà đất theo giá thị trường ở thời điểm
xét xử sơ thẩm, trừ đi số tiền mua nhà đất do bà Tuệ bỏ ra, phần giá trị còn lại chia
đôi cho bà Tuệ và ông Bình"

1Ngô Thị Kim Anh, “Nhờ người đứng tên thay trong giao dịch mua bất động sản theo pháp luật dân sự tại
Việt Nam”, Tạp chí Công Thương, đăng ngày 28/05/2022
11
3.6. Hướng giải quyết trên của Tòa án nhân dân tối cao đã có Án lệ chưa? Nếu
có, nêu Án lệ đó.
Hướng giải quyết trên đã có án lệ: Quyết định giám đốc thẩm số
27/2010/DS-GĐT ngày 8/7/2010 của Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao
về vụ án tranh chấp đòi lại tài sản2.
Nội dung vụ án: “Tuy bà Thảnh là người bỏ 21,99 chỉ vàng để chuyển
nhượng đất (tương đương khoảng 27.047.700 đồng). Nhưng giấy tờ chuyển nhượng
đứng tên ông Tám và sau khi nhận chuyển nhượng ông Tám quản lý đất, sau đó
chuyển nhượng cho người khác. Như vậy, lẽ ra phải xác định ông Tám có công sức
trong việc bảo quản, giữ gìn, tôn tạo làm tăng giá trị đất nên phải xác định số tiền
trên (sau khi trừ tiền gốc tương đương 21,99 chỉ vàng của bà Thảnh) là lợi nhuận
chung của bà Thảnh và ông Tám. Đồng thời xác định công sức của ông Tám để
chia cho ông Tám một phần tương ứng với công sức của ông mới đúng và đảm bảo
quyền lợi của các đương sự (Trường hợp không xác định được chính xác công sức
của ông Tám thì phải xác định bà Thảnh, ông Tám có công sức ngang nhau để
chia)”.
Khái quát nội dung án lệ: Trường hợp người Việt Nam định cư ở nước ngoài
đã bỏ tiền để nhượng chuyển nhượng quyền sử dụng đất và nhờ người ở trong nước
đứng tên trên giấy tờ đồng thời trong coi mảnh đất. Khi giải quyết tranh chấp thì
Tòa án:
- Phải xem xét và tính công sức bảo quản, giữ gìn, tôn trọng làm tăng giá trị
quyền sử dụng đất cho người đứng tên hộ.
- Nếu không xác định được chính xác công sức thì cần xác định hai người có
công sức ngang nhau để chia phần giá trị chênh lệch tăng thêm so với giá trị
mảnh đất ban đầu.
3.7. Suy nghĩ của anh/chị về hướng giải quyết trên của Tòa án nhân dân tối
cao.
Theo nhóm, hướng giải quyết trên của Tòa án nhân dân tối cao là phù hợp,
áp dụng các quy định mới của Luật nhà ở 2014 và Luật đất đai 2013 để đảm bảo
quyền lợi của các bên. Vì:
Việc xác định những đối tượng được quyền mua nhà, đất ở Việt Nam theo
quy định mới mặc dù việc xác lập các giao dịch về nhà đất đã diễn ra trước đó và
các đối tượng này lại không được mua nhà, đất theo các quy định cũ.
Tòa đã xem xét đến công sức quản lý, giữ gìn nhà cho gia đình ông Bình.
Chia đôi cho bà Tuệ và ông Bình giá trị chênh lệch giữa số tiền bà Tuệ bỏ ra và giá
trị hiện tại của nhà đất có tranh chấp.

2Án lệ 02/2016/AL người Việt Nam định cư ở nước ngoài nhờ người ở Việt Nam đứng tên mua bất động
sản.
12
Vấn đề 4: Tìm kiếm tài liệu
4.1. Những bài viết liên quan đến pháp luật hợp đồng được công bố trên các
Tạp chí chuyên ngành Luật từ đầu năm 2019 đến nay (Tháng 9/2022):
1. Nguyễn Phương Thảo, “Bình luận bản án: Bồi thường thiệt hại do xâm phạm
quyền sở hữu trí tuệ”, Tạp chí khoa học pháp lý Việt Nam số 01(122)/2019 tr. 31
2. Nguyễn Thị Bích Ngọc, “Bồi thường thiệt hại do hành vi xâm phạm quyền sở
hữu Công Nghiệp theo luật định”, Tạp chí Khoa học pháp lý Việt Nam số
05(126)/2019 từ tr. 25-34
3. Ngô Thị Anh Vân – Đặng Lê Phương Uyên, “Thỏa thuận chia tài sản chung của
vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân”, Tạp chí Khoa học pháp lý Việt Nam số
06(127)/2019 từ tr. 24-36
4. Đặng Thái Bình, “Điều kiện áp dụng chế định hợp đồng vì lợi ích của người thứ
ba trong Bộ luật Dân sự Việt Nam - So sánh với pháp luật Nhật Bản”, Tạp chí khoa
học pháp lý Việt Nam số 08(129)/2019 từ tr. 39-50.
5. Đinh Thị Chiến, “Quyền đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động của người sử
dụng lao động”, Tạp chí Khoa học pháp lý Việt Nam số 09(130)/2019 từ tr. 49-60
6. Đỗ Văn Đại – Lê Ngọc Anh, “Thỏa thuận không cạnh tranh sau khi chấm dứt
hợp đồng lao động - kinh nghiệm của nước ngoài cho Việt Nam”, Tạp chí Khoa học
pháp lý Việt Nam số 09(130)/2019 từ tr. 61-76
7. Trần Thăng Long, “Giải quyết tranh chấp phát sinh từ hợp đồng đầu tư quốc tế”,
Tạp chí Khoa học pháp lý Việt Nam số 04(134)/2020 từ tr. 103-hết
8. Nguyễn Hoàng Thái Hy, “Trách nhiệm của bên vi phạm nghĩa vụ hợp đồng do sự
thay đổi cơ bản của hoàn cảnh theo quy định của công ước VIENNA 1980”, Tạp chí
Khoa học pháp lý Việt Nam số 05(135)/2020 từ tr. 49-61
9. Nguyễn Thị Hồng Trinh – Bùi Thị Huyền Trang, “Bồi thường thiệt hại tinh thần
cho pháp nhân trong phạm vi vi phạm hợp đồng trong khuôn khổ CISG”, Tạp chí
Khoa học pháp lý Việt Nam số 06(136)/2020 từ tr. 78-93
10. Lê Thị Hồng Vân, “Lỗi trong trách nhiệm bồi thường thiệt hại do hàng hóa
không bảo đảm chất lượng gây ra cho người tiêu dùng”, Tạp chí Khoa học pháp lý
Việt Nam số 07(137)/2020 từ tr. 40-53
11. Đoàn Xuân Quang, “Bất cập trong pháp luật về giải quyết tranh chấp hợp đồng
của viên chức và một số kiến nghị”, Tạp chí Khoa học pháp lý Việt Nam số
07(137)/2020 từ tr. 64-71
12. Nguyễn Minh Hằng – Đoàn Thanh Huyền, “Luật áp dụng và lựa chọn luật áp
dụng trong hợp đồng thương mại quốc tế”, Tạp chí Khoa học pháp lý Việt Nam số
07(137)/2020 từ tr. 83-98
13. Huỳnh Quang Thuận – Đặng Thái Bình, “Quyền khởi kiện và sự ràng buộc của
thỏa thuận trọng tài đối với người thứ ba vì lợi ích của người thứ ba”, Tạp chí khoa
học pháp lý Việt Nam số 08/2020 từ tr. 39-50

13
14. Nguyễn Thị Thanh Huyền, “Tính dự liệu trước của thiệt hại và vấn đề giới hạn
trách nhiệm thiệt hại trong pháp luật hợp đồng”, Tạp chí khoa học pháp lý Việt Nam
số 08(138)/2020 từ tr. 60-72
15. Giản Thị Lê Na, “Nghĩa vụ cung cấp thông tin trong hợp đồng dưới góc độ kinh
tế”, Tạp chí khoa học pháp lý Việt Nam số 08(138)/2020 từ tr. 72-84
16. Phan Trung Pháp – Nguyễn Hoàng Thái Hy, “Nghĩa vụ hạn chế thiệt hại của
bên bị vi phạm hợp đồng theo công ước VIENNA 1980 về công ước bán hàng quốc
tế”, Tạp chí khoa học pháp lý Việt Nam số 01(140)/2021 từ tr. 120-hết
17. Nguyễn Chí Công – Phạm Thị Hằng, “Áp dụng pháp luật nước ngoài trong giải
quyết định tranh chấp hợp đồng thương mại quốc tế tại tòa án Việt Nam những khó
khăn vướng mắc”, Tạp chí khoa học pháp lý Việt Nam số 05(144)/2021 từ tr. 39-46
18. Trần Thanh Hương – Dương An Sơn, “Áp dụng pháp luật hợp đồng qua vụ án
tranh chấp hợp đồng dịch vụ quảng cáo tại Thành phố Hồ Chí Minh”, Tạp chí khoa
học pháp lý Việt Nam số 01(149)/2022 từ tr.78-90
19. Trần Việt Dũng – Nguyễn Thị Hoa, “Hợp đồng đầu tư theo phương thức đối tác
công tư: Một số phân tích và đánh giá về khung pháp lý hiện hành của Việt Nam”,
Tạp chí khoa học pháp lý Việt Nam số 02(150)/2022 từ tr. 13-22
20. Nguyễn Mai Linh, “Hợp đồng mẫu trong lĩnh vực xây dựng quốc tế – Thực tiễn
sử dụng tại một số quốc gia và Việt Nam”, Tạp chí khoa học pháp lý Việt Nam số
02(150)/2022 từ tr. 23-24
21. Nguyễn Thanh Huyền, “Bản chất pháp lý của biện pháp buộc thực hiện đúng
hợp đồng theo công ước VIENNA về hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế”, Tạp chí
khoa học pháp lý Việt Nam số 04(152)/2022 từ tr. 21-35
22. Trần Thăng Long – Phan Thị Thu, “Điều chỉnh điều khoản hợp đồng không
công bằng trong hợp ddoognf theo mẫu theo pháp luật Việt Nam và một số kiến
nghị hoàn thiện”, Tạp chí khoa học pháp lý Việt Nam số 05(153)/2022 từ tr.23-27
23. Trần Ngọc Hiệp, “Kiểm soát nội dung hợp đồng theo mẫu theo quy định của
pháp luật dân sự Việt Nam”, Tạp chí khoa học pháp lý Việt Nam số 07(155)/2022 từ
tr. 77-87
4.2. Nguồn tài liệu
https://tapchikhplvn.hcmulaw.edu.vn/module/SoTapChiTheoNam

14

You might also like