You are on page 1of 16

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH


ĐOÀN KHOA CÁC CHƯƠNG TRÌNH ĐÀO TẠO CHẤT LƯỢNG CAO

MÔN HỌC: NHỮNG QUY ĐỊNH CHUNG VỀ LUẬT DÂN SỰ, TÀI SẢN VÀ
THỪA KẾ
BÀI TẬP THẢO LUẬN THỨ NĂM:
QUY ĐỊNH CHUNG VỀ THỪA KẾ
Giáo viên giảng dạy: ThS. Nguyễn Nhật Thanh
Lớp: CLC48F

NHÓM 3
STT HỌ VÀ TÊN MSSV
1 Lương Nhã Nguyên 2353801012143
2 Phan Thị Yến Nhi 2353801014141
3 Nguyễn Ngọc Anh Thư 2353801014205
4 Lê Huỳnh Phương Phương 2353801015164
5 Nguyễn Đoàn Thanh Thảo 2353801015183
6 Trương Thị Mỹ Trúc 2353801015216

Thành phố Hồ Chí Minh - năm 2024


MỤC LỤC
VẤN ĐỀ 1: DI SẢN THỪA KẾ: .................................................................................................... 4
Tóm tắt bản án số 08/2020/DSST ngày 28/8/2020 của Tòa án Nhân dân thành phố Vĩnh Yên
tỉnh Vĩnh Phúc ............................................................................................................................ 4
Câu 1.1: Ở Việt Nam, di sản là gì và có bao gồm cả nghĩa vụ của người quá cố không? Nêu cơ
sở pháp lý khi trả lời. .................................................................................................................. 4
Câu 1.3: Để được coi là di sản, theo quy định pháp luật, quyền sử dụng đất của người quá cố
có cần phải đã được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất không? Nêu cơ sở pháp lý khi trả
lời. ............................................................................................................................................... 5
Câu 1.4: Trong bản án số 08, Tòa án có coi diện tích đất tăng 85,5m2 chưa được cấp giấy
chứng nhận quyền sử dụng đất là di sản không? Đoạn nào của bản án có câu trả lời?.............. 5
Câu 1.5: Suy nghĩ của anh/chị về hướng xử lý nêu trên của Tòa án trong Bản án số 08 về diện
tích đất chưa được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất. ..................................................... 5
Câu 1.6: Ở Án lệ số 16/2017/AL, trong diện tích 398m2 đất, phần di sản của Phùng Văn N là
bao nhiêu? Vì sao?...................................................................................................................... 6
Câu 1.7: Theo Án lệ trên, phần diện tích đất đã chuyển nhượng cho ông Phùng Văn K có
được coi là di sản để chia không? Vì sao? ................................................................................. 6
Câu 1.8: Suy nghĩ của anh/chị về hướng giải quyết trong Án lệ trên liên quan đến phần diện
tích đã chuyển nhượng cho ông Phùng Văn K. .......................................................................... 6
Câu 1.9: Nếu bà Phùng Thị G bán đất trên không để lo cuộc sống của các con mà dùng cho
tiền đó cho cá nhân bà Phùng Thị G thì số tiền đó có được coi là di sản để chia không? Vì
sao? ............................................................................................................................................. 7
Câu 1.10: Ở thời điểm bà Phùng Thị G chết, di sản của bà Phùng Thị G trong diện tích đất
trên là bao nhiêu? Vì sao? .......................................................................................................... 7
Câu 1.11: Việc Tòa án xác định phần còn lại của di sản của bà Phùng Thị G là 43,5m 2 có
thuyết phục không? Vì sao? Đây có là nội dung của Án lệ số 16 không? Vì sao? .................... 7
Câu 1.12: Việc Tòa án quyết định “còn lại là 43,5m2 được chia cho 5 kỷ phần còn lại” có
thuyết phục không? Vì sao? Đây có là nội dung của Án lệ số 16 không? Vì sao? .................... 8
VẤN ĐỀ 2: QUẢN LÝ DI SẢN ...................................................................................................... 8
Tóm tắt Quyết định số 147/2020/DS-GĐT ngày 09/7/2020 của Tòa án nhân dân cấp cao tại
TP. Hồ Chí Minh. ....................................................................................................................... 8
Câu 2.1: Trong Bản án số 11,Tòa án xác định ai là người có quyền quản lý di sản của ông Đ
và bà T; việc xác định như vậy có thuyết phục không, vì sao? .................................................. 9
Câu 2.2: Trong Bản án số 11, ông Thiện trước khi đi chấp hành án có là người quản lý di sản
không? Nêu cơ sở pháp lý khi trả lời. ........................................................................................ 9
Câu 2.3: Trong Bản án số 11, việc Tòa án giao cho anh Hiếu (Tiến H) quyền quản lý di sản có
thuyết phục không? Nêu cơ sở pháp lý khi trả lời. ................................................................... 10
Câu 2.4: Khi là người quản lý di sản, người quản lý di sản có quyền tôn tạo, tu sửa lại di sản
như trong Bản án số 11 không? Nếu cơ sở pháp lý khi trả lời. ................................................ 10

2
Câu 2.5: Khi là người quản lý di sản, người quản lý di sản có quyền giao lại cho người khác
quản lý di sản (như trong Bản án số 11 là ông Thiện giao lại cho con trai) không? Nêu cơ sở
pháp lý khi trả lời...................................................................................................................... 11
Câu 2.6: Trong Quyết định số 147, Tòa án xác định người quản lý không có quyền tự thỏa
thuận mở lối đi cho người khác qua di sản có thuyết phục không? Nêu cơ sở pháp lý khi trả
lời. ............................................................................................................................................. 12
VẤN ĐỀ 3: THỜI HIỆU TRONG LĨNH VỰC THỪA KẾ ...................................................... 12
Tóm tắt Án lệ số 26/2018/AL về xác định thời điểm bắt đầu tính thời hiệu và thời hiệu yêu
cầu chia di sản thừa kế là bất động sản. ................................................................................... 12
Câu 3.1: Cho biết các loại thời hiệu trong lĩnh vực thừa kế ở Việt Nam. ................................ 13
Câu 3.2: Thời điểm mở thừa kế đối với di sản của cụ T là năm nào? Đoạn nào của Quyết định
tạo lập thành Án lệ số 26/2018/AL cho câu trả lời? ................................................................. 13
Câu 3.4: Việc Án lệ số 26/2018/AL áp dụng thời hiệu 30 năm của BLDS 2015 cho di sản của
cụ T với thời điểm bắt đầu từ thời điểm Pháp lệnh thừa kế năm 1990 được công bố có cơ sở
văn bản nào không? Có thuyết phục không? Vì sao?............................................................... 14
Câu 3.5: Suy nghĩ của anh/chị về Án lệ số 26/2018/AL nêu trên. ........................................... 14
Các tạp chí liên quan ..................................................................................................................... 15
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ..................................................................................... 16

3
VẤN ĐỀ 1: DI SẢN THỪA KẾ:
Tóm tắt bản án số 08/2020/DSST ngày 28/8/2020 của Tòa án Nhân dân thành phố Vĩnh
Yên tỉnh Vĩnh Phúc
Xét về vụ việc tranh chấp thừa kế tài sản giữa nguyên đơn là ông Trần Văn Hòa cùng người
đại diện theo ủy quyền của nguyên đơn là ông Tạ Ngọc Toàn và bị đơn là anh Trần Hoài Nam,
Chị Trần Thanh Hương. Ông Hòa và bà Mai kết hôn với nhau có 2 người con là anh Nam và chị
Hương. Tài sản do ông bà tạo lập được trong thời gian kết hôn: 1 ngôi nhà 3 tầng, 1 lán bán hàng
xây dựng năm 2006, làm trên diện tích đất 169,5m2 thuộc thửa số 301, tờ bản đồ 02, vị trí đất
được cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng mang tên ông Hòa. Năm 1993, 2 ông bà nhận chuyển
nhượng của ông Dũng với diện tích 84m2 còn diện tích đất tăng so với giấy chứng nhận quyền sử
dụng đất là do hành lang đường đặt giáp liền kề với đất ông Hòa. Khi bà Mai chết, trước khi chết
bà không để lại di chúc nên ông Hòa vẫn trực tiếp quản lý toàn bộ tài sản. Đối với tiền chi phí
mai táng phí cho bà Mai: tiền chế độ tử tuất bà Mai hưởng khoảng 20.000.000đ, ông Hòa là người
nhận sau đó giao cho chị Hương phúng viếng. Toàn bộ số tiền chị Hương quản lý và đứng ra
thanh toán. Năm 2019, ông Hòa kết hôn với bà Xinh có mua 1 ngôi nhà cấp 4 trên diện tích đất
81m2 đã được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất mang tên ông Hòa và có đăng ký tạm trú ở
đó nhưng vẫn đi lại cả 2 nơi. Do ông Hòa tuổi cao không có sức khở để xây dựng nhà nên
nguyện vọng của ông là được sở hữu và sử dụng bằng hiện vật toàn bộ nhà đất và có trách nhiệm
thanh toán kỷ phần thừa kế cho anh Nam và chị Hương theo quy định của pháp luật.
Sau khi nghiên cứu thì về tố tụng, Tòa án đã triệu tập và giao quyết định đưa vụ án ra xét xử,
quyết định hoãn phiên tòa hợp lệ cho anh Nam và chị Hương, anh Trinh và UBND phường Đống
Đa. Tuy nhiên do bận công việc nên mọi người đều có đơn đề nghị xét xử vắng mặt. Xét thấy sự
vắng mặt của họ không trở ngại gì cho việc xét xử. Căn cứ khoản 1 Điều 227 và khoản 1 Điều
228 của Bộ luật Tố tụng dân sự, Tòa án tiến hành xét xử vắng mặt bị đơn và người có nghia vụ
liên quan theo thủ tục chung. Về thẩm quyền và quan hệ pháp luật tranh chấp thì do không thỏa
thuận được nên ông hòa làm đơn khởi kiện yêu cầu chia di sản thừa kế của bà Mai để lại. Căn cứ
khoản 5 Điều 26, Điều 35, Điều 39 Bộ luật Tố tụng dân sự. Về thời hiệu thì theo quy định tại
khoản 1 Điều 623 BLDS 2015 thì thời hiệu để người thừa kế yêu cầu chia di sản là 30 năm đối
với bất động sản, 10 năm đối với động sản kể từ thời điểm mở thừa kế và trong vụ án, bà Mai
chết năm 2017, việc ông Hòa khởi kiện năm 2018 nên yêu cầu khởi kiện là trong thời hiệu luật
định. Tài sản được hình thành trong thời gian hôn nhân nên được chia đôi và khi bà Mai chết
không để lại di chúc nên di sản của bà được chia theo pháp luật.
Câu 1.1: Ở Việt Nam, di sản là gì và có bao gồm cả nghĩa vụ của người quá cố không? Nêu
cơ sở pháp lý khi trả lời.
Cơ sở pháp lý: Điều 612 BLDS 2005: “Di sản bao gồm tài sản riêng của người chết, phần
tài sản của người chết trong tài sản chung với người khác.”
Cơ sở pháp lý: Điều 658 BLDS 2015: Thứ tự ưu tiên thanh toán. Vậy nên, bản thân nghĩa vụ
không được coi là di sản. Khi một người chết đi thì tài sản được lấy ra để thực hiện nghĩa vụ và
còn dư bao nhiêu thì mới đem chia. Từ đó, ta có thể thấy di sản không bao gồm nghĩa vụ của
người quá cố.
Câu 1.2: Khi tài sản do người quá cố để lại ở thời điểm mở thừa kế bị thay thế bởi một tài

4
sản mới sau đó thì tài sản mới có là di sản không? Vì sao?
Tài sản do người quá cố để lại ở thời điểm mở thừa kế bị thay thế bởi một tài sản mới sau đó
thì tài sản mới phải được xem xét nguyên nhân thay thế là gì thì mới có phải là tài sản hay không.
Có 2 lý do để giải thích vấn đề này:
Thứ nhất, nếu việc di sản đó được thay thế bởi nguyên nhân khách quan là những nguyên nhân
con người không biết trước, lường trước được hậu quả, nằm ngoài tầm kiểm soát của con người
có tác động đến di sản thừa kế làm hư hỏng và thay vào đó là di sản mới, bởi di sản cũ không còn
giá trị hiện thực. Điều này để đảm bảo quyền lợi của những người thừa kế tài sản mới thay thế
cho di sản có hiệu lực pháp luật và phần tài sản mới sẽ được chia theo pháp luật.
Thứ hai, nếu di sản được thay thế bởi nguyên nhân chủ quan do có sự tác động phần nào đó
bởi yếu tố con người vì mục đích, nhằm chiếm đoạt toàn bộ di sản thừa kế cũ hay mục đích khác
thì sự thay thế bởi tài sản mới thì tài sản mới sẽ không được coi là di sản thừa kế.
Câu 1.3: Để được coi là di sản, theo quy định pháp luật, quyền sử dụng đất của người quá
cố có cần phải đã được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất không? Nêu cơ sở pháp lý khi
trả lời.
Cơ sở pháp lý: Theo khoản 16 Điều 3 Luật đất đai 2013: “Giấy chứng nhận quyền sử dụng
đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất là chứng thư pháp lý để Nhà nước xác
nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở, tài sản khác gắn liền với đất hợp pháp của người
có quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và quyền sở hữu tài sản khác gắn liền với đất.”
Quyền sử dụng đất được coi là di sản thừa kế hợp pháp nếu như thửa đất đó đã được cấp giấy
chứng nhận quyền sử dụng đất hoặc chưa có giấy chứng nhận quyền sử dụng đất nhưng đủ điều
kiện được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, cụ thể là có một trong các giầy tờ về quyền sử
dụng đất quy định tại Điều 100 Luật đất đai 2013 hoặc không có giấy tờ theo điều 100 nhưng đủ
điều kiện được cấp giấy chứng nhận chứng nhận quyền sử dụng đất theo Điều 101 Luật đất đai
2013. Do vậy, theo quy định của pháp luật, quyền sử dụng đất của người quá cố cần phải được cấp
giấy chứng nhận quyền sử dụng đất
Câu 1.4: Trong bản án số 08, Tòa án có coi diện tích đất tăng 85,5 m 2 chưa được cấp giấy
chứng nhận quyền sử dụng đất là di sản không? Đoạn nào của bản án có câu trả lời?
Trong bản án số 08, diện tích đất tăng 85,5m2 chưa được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng
đất không được Tòa án coi là di sản.
“Đối với diện tích đất tăng 85,5m2 chưa được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất: Tại
phiên tòa đại diện Viện kiểm sát nhận định và lập luận cho rằng không được coi là di sản thừa
kế, cần tiếp tục tạm giao cho ông Hòa có trách nhiệm thực hiện nghĩa vụ tài chính với Nhà nước
để được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất. [...] Do đó, đây vẫn là tài sản của ông Hòa, bà
Mai chỉ có điều là đương sự phải thực hiện nghĩa vụ thuế đối với Nhà nước, nếu không xác định
là di sản thừa kế và phân chia thì sẽ ảnh hưởng đến quyền và lợi ích hợp pháp của các bên đương
sự. Phần đề nghị này của đại diện Viện kiểm sát không được Hội đồng xét xử chấp nhận. Các
phần đề nghị khác của đại diện Viện kiểm sát tại phiên tòa là có căn cứ, được Hội đồng xét xử
xem xét để quyết định.”
Câu 1.5: Suy nghĩ của anh/chị về hướng xử lý nêu trên của Tòa án trong Bản án số 08 về

5
diện tích đất chưa được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất.
Theo em, hướng xử lý nêu trên của Tòa án trong Bản án số 08 về diện tích đất chưa được cấp
giấy chứng nhận quyền sử dụng đất là thuyết phục, bởi vì:
Tòa án đã xem phần diện tích đất 85,5m2 là tài sản của ông Hòa, bà Mai và đương sự phải
thực hiện nghĩa vụ nộp thuế đối với nhà nước, nếu không xác định là di sản và phân chia thì sẽ
ảnh hưởng đến quyền và lợi ích hợp pháp của các bên đương sự dù cho theo quy định pháp luật
Điều 162 BLDS 2015 thì đây không phải là di sản vì chưa có giấy chứng nhận quyền sở hữu đất.
Theo đó ta có thể thấy diện tích đất này ông Hòa đã quản lý, sử dụng nhiều năm ổn định, các hộ
liền kề xây dựng mốc giới rõ ràng không có tranh chấp, không thuộc diện quy hoạch phải di dời
thì việc xem phần đất trên là di sản thừa kế khi bà Mai chết đi không để lại di chúc thì phần đất
đó được chia đôi giữa 2 ông bà và ½ đất của bà Mai sẽ được chia theo pháp luật giúp bảo vệ
quyền lợi của các bên được hưởng thừa kế. Và hội đồng xét xử đã giao phần đất chưa được cấp
giấy phép liên quan đến ngôi nhà cho anh Nam quản lý do là con trai duy nhất của ông Hòa, bà
Mai còn phần đất có liên quan đến lán bán hàng chưa được cấp giấy phép thì giao cho ông Hòa
quan lý, sử dụng. Anh Nam và ông Hòa phải có trách nhiệm liên hệ với cơ quan Nhà nước có
thẩm quyền đề nghị cấp giấy chứng nhận sau khi đã thực hiện nghĩa vụ thuế với Nhà nước.
Câu 1.6: Ở Án lệ số 16/2017/AL, trong diện tích 398m2 đất, phần di sản của Phùng Văn N
là bao nhiêu? Vì sao?
Ông Phùng Văn N mất vào ngày 7/7/1984 và trước khi mất ông không để lại di chúc nên xác
định di sản theo quy định của pháp luật và theo thời điểm mở thừa kế. Ông Phùng Văn N có quan
hệ vợ chồng với bà Phùng Thị G, có tài sản chung là 398m2 đất, vì không xác định được phần của
mỗi người nên theo pháp luật sẽ chia đôi. Do đó phần di sản của ông N là 199m2.
Câu 1.7: Theo Án lệ trên, phần diện tích đất đã chuyển nhượng cho ông Phùng Văn K có
được coi là di sản để chia không? Vì sao?
Theo án lệ phần diện tích đất đã chuyển nhượng cho ông Phùng Văn K không được coi là di
sản để chia vì bà Phùng Thị G đã chuyển nhượng 131m2 đất có sự đồng ý, không có sự phản đối
của các con bà G, việc chuyển nhượng này là hợp pháp và ông N mất thì quyền sỡ hữu tài sản
thuộc về vợ và các con và ông Phùng Văn K đã được nhà nước cấp giấy chứng nhận quyền sử
dụng đất. Và trong Án lệ Tòa án cấp phúc thẩm không đưa diện tích đất bà Phùng Thị G đã bán
cho ông Phùng Văn K vào khối tài sản để chia là có căn cứ. Tòa án cấp sơ thẩm xác định di sản
là tổng diện tích đất 398m2 (bao gồm cả phần đất đã bán cho ông Phùng Văn K) để chia là không
đúng. Vì thế, phần đất chuyển nhượng không được coi là di sản để chia.
Câu 1.8: Suy nghĩ của anh/chị về hướng giải quyết trong Án lệ trên liên quan đến phần
diện tích đã chuyển nhượng cho ông Phùng Văn K.
Theo em hướng giải quyết trong Án lệ trên liên quan đến phần diện tích đã chuyển nhượng
cho ông Phùng Văn K là thỏa đáng, bởi vì :
Bà Phùng Thị G chuyển nhượng cho ông Phùng Văn K diện tích 131m2 trong tổng diện tích
398m2 của thửa đất trên. Năm 1999 bà Phùng Thị G đã được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng
đất, diện tích 267,4m2, bà Phùng Thị G cùng vợ chồng anh Phùng Văn T vẫn quản lý sử dụng nhà
đất này. Việc bà Phùng Thị G chuyển nhượng đất cho ông Phùng Văn K các con bà Phùng Thị G đều
biết, nhưng không ai có ý kiến phản đối và hoàn toàn đồng ý với việc chuyển nhượng, các con của bà G

6
có lời khai bà G bán đất để lo cuộc sống của bà và các con.
Theo Điều 223 BLDS 2015: “Người được giao tài sản thông qua hợp đồng mua bán, tặng
cho, trao đổi, cho vay hoặc hợp đồng chuyển quyền sở hữu khác theo quy định của pháp luật thì
có quyền sở hữu tài sản đó” do đó ông Phùng Văn K có quyền sở hữu, sử dụng và ông K đã được
cơ quan nhà nước cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất.
Vì vậy, có cơ sở để xác định phần diện tích 131m2 không còn thuộc quyền sở hữu của bà G và
các con Tòa án cấp phúc thẩm không đưa diện tích đất bà Phùng Thị G đã bán cho ông Phùng
Văn K vào khối tài sản để chia là hoàn toàn hợp lý.
Câu 1.9: Nếu bà Phùng Thị G bán đất trên không để lo cuộc sống của các con mà dùng
cho tiền đó cho cá nhân bà Phùng Thị G thì số tiền đó có được coi là di sản để chia không? Vì
sao?
Phần tiền thu được khi bán chuyển nhượng 131m2 được sử dụng vào việc cá nhân của bà G
như tiêu xài, cờ bạc,..thì bà G phải trả lại và số tiền đó vẫn được coi là di sản vì đáng lẽ ra phần
tiền nhận được khi chuyển nhượng là số tiền sẽ được chia đều cho các đồng thừa kế. Và khi biết
bà G bán đất để chăm lo cho gia đình nên những người thừa kế mới đồng ý và không phản đối vì
khi số tiền đó để chăm lo cho gia đình thì những người thừa kế hưởng như nhau, ai cũng có phần.
Vì thế nên nếu sử dụng vào việc cá nhân thì bà G phải trả lại vì phần tiền đó là di sản để chia.
Câu 1.10: Ở thời điểm bà Phùng Thị G chết, di sản của bà Phùng Thị G trong diện tích đất
trên là bao nhiêu? Vì sao?
Theo khoản 2 Điều 59 của Luật Hôn nhân Gia đình 2014 thì tài sản chung của vợ chồng sẽ
được Tòa quyết định chia đôi nếu như giữa vợ chồng không có thỏa thuận. Theo điểm a khoản 1
Điều 650 BLDS 2015 và điểm a khoản 1 Điều 651 BLDS 2015 thì khi ông N chết không để lại di
chúc thì phần di sản của ông N sẽ do bà G thừa kế theo đúng quy định của pháp luật. Việc bà G
chuyển nhượng 131m2 đất cho ông K đều được các con biết, không ai trong số họ lên tiếng phản
đối nên phần đất được chuyển nhượng cho ông K đó được thực hiện trên tổng diện tích đất chung
của vợ chồng bà. Vì vậy, tại thời điểm bà Phùng Thị G chết, di sản của bà trong tổng diện tích đất
trên là 133,5m2.
Câu 1.11: Việc Tòa án xác định phần còn lại của di sản của bà Phùng Thị G là 43,5m2 có
thuyết phục không? Vì sao? Đây có là nội dung của Án lệ số 16 không? Vì sao?
Việc Tòa án xác định phần còn lại của di sản của bà Phùng Thị G như vậy là thuyết phục. Bởi:
Khi ông N chết không có di chúc nên phần di sản của ông được chia theo pháp luật, là ½ di
sản sẽ được chia cho bà G bởi vì phần đất đó là tài sản chung của vợ chồng bà và ½ phần còn lại
của di sản sẽ được chia cho 6 người con của ông bà. Khi bà G thực hiện việc chuyển nhượng đất
cho ông K và ông K cũng đã được cơ quan nhà nước cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất nêu
trên là chứng tỏ cho việc các con của bà G biết việc bà thực hiện chuyển nhượng cũng như không
lên tiếng phản đối việc làm đó. Nên việc chuyển nhượng đất đó được thực hiện trên phần đất
398m2 là hợp tình hợp lý vì cả hai bên có quyền với phần đất đó theo pháp luật đều đồng ý cho
giao dịch này được xác lập. Vì vậy, phần đất còn lại sau khi thực hiện việc chuyển nhượng trên
có diện tích là 267m2 sẽ được tiến hành chia thừa kế theo pháp luật quy định, là bà G được ½ và
6 người con sẽ chia ½ diện tích đất còn lại, có nghĩa là phần diện tích đất bà G được hưởng sẽ là
133,5m2. Và trước khi chết, bà G lập di chúc để lại 90m2 phần đất di sản của mình cho chị Phùng

7
Thị H1 nên khi bà chết di sản sẽ được chia theo di chúc trước, tức là chị H1 sẽ nhận được 90m 2
phần đất từ bà G. Thế nên, phần đất di sản còn lại của bà Phùng Thị G sẽ trừ thêm 90m 2 đất đó
nữa, là diện tích đất di sản của bà còn lại 43,5m2.
Nội dung của Án lệ số 16 là: “[2] Năm 1991, bà Phùng Thị G chuyển nhượng cho ông Phùng
Văn K diện tích 131m2 trong tổng diện tích 398m2 của thửa đất trên; phần diện tích đất còn lại
của thửa đất là 267,4m2, bà Phùng Thị G đều biết, nhưng không ai có ý kiến phản đối gì, các con
của bà Phùng Thị G có lời khai bà Phùng Thị G bán đất để lo cuộc sống của bà và các con. Nay
ông Phùng Văn K cũng đã được cơ quan nhà nước cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất. Vì
vậy, có cơ sở để xác định các con bà Phùng Thị G đã đồng ý để bà Phùng Thị G chuyển nhượng
diện tích 131m2 nêu trên cho ông Phùng Văn K. Tòa án cấp phúc thẩm không đưa diện tích đất
bà Phùng Thị G đã bán cho ông Phùng Văn K vào khối tài sản để chia là có căn cứ. Tòa án cấp
sơ thẩm xác định di sản là tổng diện tích đất 398m2 (bao gồm cả phần đất đã bán cho ông Phùng
Văn K) để chia là không đúng.”
Thế nên phần còn lại của di sản của bà Phùng Thị G không được đề cập trong nội dung của
Án lệ số 16 là bởi vì Tòa án đã xác định việc chuyển nhượng đất giữa bà G và ông K là được các
con của bà biết, không có ai phản đối và việc chuyển nhượng đó vì lo cho cuộc sống của bà G và
cả cuộc sống của các con của mình, thêm vào đó là phần diện tích đất được chuyển nhượng đã
được cơ quan có thẩm quyền cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho ông K. Bởi lẽ đó, phần
diện tích đất được chuyển nhượng cho ông K không được tính vào phần đất di sản thừa kế để chia
nên nó không được đề cập trong nội dung của Án lệ số 16.
Câu 1.12: Việc Tòa án quyết định “còn lại là 43,5m2 được chia cho 5 kỷ phần còn lại” có
thuyết phục không? Vì sao? Đây có là nội dung của Án lệ số 16 không? Vì sao?
Việc Tòa án quyết định “còn lại là 43,5m2 được chia cho 5 kỷ phần còn lại” là thuyết phục.
Bởi vì:
Sau khi ông N chết và trừ đi 131m2 diện tích đất đã chuyển nhượng cho ông K thì phần diện
tích đất còn lại là 267m2 sẽ được chia đôi cho bà G (hưởng 133,5m2) theo khoản 2 Điều 59 của
Luật Hôn nhân Gia đình năm 2014 và ½ diện tích còn lại sẽ chia đều cho 6 người con (vì họ thuộc
hàng thừa kế thứ nhất theo điềm a khoản 1 Điều 651 BLDS 2015). Và theo di chúc bà G lập trước
khi chết thì bà sẽ để lại cho chị Phùng Thị H1 90m2 đất, thế nên trừ đi phần diện tích đất đó thì
phần di sản còn lại của bà là 43,5m2 sẽ được chia theo pháp luật cho 5 người con còn lại.
Và quyết định của Tòa án là “còn lại là 43,5m2 được chia cho 5 kỷ phần còn lại” không
được đề cập trong nội dung của Án lệ số 16 bởi vì nội dung của Án lệ chỉ đề cập đến việc Tòa án
công nhận việc chuyển nhượng đất cho ông K của bà G là hợp pháp khi các con của bà biết và
không có sự phản đối cũng như việc chuyển nhượng ấy nhằm vào mục đích lo cho cuộc sống của
bà và các con, cũng như ông K đã nhận được giấy chứng nhận quyền sử dụng đất do cơ quan có
thẩm quyền cấp phép. Thế nên, trong nội dung của Án lệ số 16 chỉ đề cập đến việc Tòa án công
nhận việc chuyển nhượng đất này chứ không nhắc gì đến việc phân chia phần di sản còn lại của
bà G.
VẤN ĐỀ 2: QUẢN LÝ DI SẢN
Tóm tắt Quyết định số 147/2020/DS-GĐT ngày 09/7/2020 của Tòa án nhân dân cấp cao tại
TP. Hồ Chí Minh.

8
Ông Trà Văn Đạm khởi kiện yêu cầu xin mở lối đi ngang 1,5m, dài 21m qua thửa đất 525 của
ông Phạm Văn Ngót do ông Phạm Văn Sơn Nhỏ quản lý và sử dụng. Ông Đạm đại diện gia đình
đứng tên giấy chứng quyền sử dụng đất có diện tích 1.497m2 thuộc thửa 528 nằm trong thừa 525
của ông Ngót do ông Nhỏ quản lý, sử dụng. Giữa ông Đạm và ông Nhỏ có thỏa thuận cho ông
Đạm mở lối đi qua đất ông Nhỏ rộng 2m dài 21m, toàn bộ chi phí ông Đạm chịu là 42.205.000
đồng. Sau đó ông Đạm khởi kiện yêu cầu ông Nhỏ, bà Chơi cùng các đồng thừa kế thứ nhất với
ông Nhỏ xin mở lối đi ngang 1,5m và dài 21m qua thửa đất 525 nêu trên. Xét thấy còn nhiều sai
sót tại Bản án dân sự sơ thẩm số 120/2017/DS-ST ngày 6/9/2017 và Bản án dân sự phúc thẩm số
22/2018/DS-PT ngày 11/01/2018, Tòa án nhân dân cấp cao đã giao hồ sơ cho Tòa án nhân dân
tỉnh Tiền Giang xét xử phúc thẩm theo quy định của pháp luật.
Câu 2.1: Trong Bản án số 11,Tòa án xác định ai là người có quyền quản lý di sản của ông
Đ và bà T; việc xác định như vậy có thuyết phục không, vì sao?
Trong Bản án số 11, Toà án xác định anh Phạm Tiến H là người có quyền quản lý di sản của
ônh Đ và bà T, điều này được thể hiện ở đoạn quyết định của toà án: “Chấp nhận yêu cầu khởi
kiện của anh Phạm Tiến H. Giao cho anh Phạm Tiến H được quyền quản lý di sản thừa kế của
ông Phạm Tiến Đ và bà Đoàn Thị T gồm nhà, đất và tài sản trên đất mang tên bà Đoàn Thị T số
0010/QSDĐ/323/QĐUB do UBND huyện M cấp ngày 02/4/2004 tại Tiểu khu C, thị trấn nông
trường M, huyện M, tỉnh Sơn La. (Có sơ đồ trích đo hiện trạng khu đất kèm theo).”
Việc xác định như vậy hoàn toàn thuyết phục, bởi vì :
- Anh Phạm Tiến H là một trong những người thừa kế thuộc hàng thừa kế thứ nhất của ông Đ
và bà T.
- Ngoài ông Thiện, các người đồng thừa kế gồm bà Liền, Nhi, Nhường, Hoài, Hài đã đồng ý
uỷ quyền cho anh H quản lý khối tài sản của ông Đ và bà T, đứng ra trông coi, quản lý, sửa chữa
và tôn tạo lại đất. Trong những người thừa kế còn lại đều có đầy đủ năng lực hành vi dân sự, đều
quyết định dựa trên cơ sở tự nguyện không ép buộc, không vi phạm các điều cấm của pháp luật.
Như vậy, việc ông Phạm Tiến H là người có quyền quản lý di sản của ông Đ và bà T là hoàn
toàn phù hợp với quy định của pháp luật hiện hành, được quy định tại Điều 616 BLDS 2015:
“Người quản lý di sản là người được chỉ định trong di chúc hoặc do những người thừa kế thỏa
thuận cử ra”.
Câu 2.2: Trong Bản án số 11, ông Thiện trước khi đi chấp hành án có là người quản lý di
sản không? Nêu cơ sở pháp lý khi trả lời.
Trong Bản án số 11, ông Thiện trước khi đi chấp hành án không phải là người quản lý tài sản.
Cơ sở pháp lý :
Căn cứ vào khoản 1 Điều 616 BLDS 2015 quy định về người quản lý tài sản: “Người quản
lý di sản là người được chỉ định trong di chúc hoặc do những người thừa kế thỏa thuận cử ra”.
Khi ông Đ và bà T chết, cả hai ông bà đều không để lại di chúc đối với khối di sản nêu trên và
cũng không giao quyền quản lý di sản thừa kế cho ai. Các thành viên trong gia đình thay nhau
trông coi, quản lý khối di sản đó. Người được các đồng thừa kế nhất trí cử ra để quản lý di sản
của ông Đ và bà T là anh H nên anh H mới là người có quyền quản lý di sản này.
- Căn cứ vào khoản 2 Điều 616 BLDS 2015: “Trường hợp di chúc không chỉ định người quản

9
lý di sản và những người thừa kế chưa cử được người quản lý di sản thì người đang chiếm hữu,
sử dụng, quản lý di sản tiếp tục quản lý di sản đó cho đến khi những người thừa kế cử được người
quản lý di sản”. Ông Thiện là người đang trực tiếp sinh sống tại nhà và đất, nhưng việc quản lý
di sản của ông Thiện không được sự nhất trí bằng văn bản của các đồng thừa kế. Điều này cho
thấy, việc quản lý di sản của ông Thiện là không có căn cứ của pháp luật và ông Thiện không có
quyền giao lại cho anh Nghĩa trong coi di sản của ông bà.
Câu 2.3: Trong Bản án số 11, việc Tòa án giao cho anh Hiếu (Tiến H) quyền quản lý di
sản có thuyết phục không? Nêu cơ sở pháp lý khi trả lời.
Trong Bản án số 11, việc Toà án giao cho anh Hiếu (Tiến H) quyền quản lý di sản là hoàn toàn
thuyết phục vì như đã nêu trên, các đồng thừa kế đều nhất trí giao di sản thừa kế cho anh Hiếu
trong coi, quản lý trên cơ sở tự nguyện, bình đẳng không ép buộc. Bên cạnh đó, anh Hiếu cũng là
một trong số những người thừa kế thuộc hàng thừa kế thứ nhất của ông Đ và bà T.
Cơ sở pháp lý: Căn cứ vào khoản 1 và khoản 2 Điều 616 BLDS 2015 có quy định về người
quản lý tài sản:
“1. Người quản lý di sản là người được chỉ định trong di chúc hoặc do những người thừa kế
thỏa thuận cử ra.
2. Trường hợp di chúc không chỉ định người quản lý di sản và những người thừa kế chưa cử
được người quản lý di sản thì người đang chiếm hữu, sử dụng, quản lý di sản tiếp tục quản lý di
sản đó cho đến khi những người thừa kế cử được người quản lý di sản.”
Câu 2.4: Khi là người quản lý di sản, người quản lý di sản có quyền tôn tạo, tu sửa lại di
sản như trong Bản án số 11 không? Nếu cơ sở pháp lý khi trả lời.
Khi là người quản lý di sản, người quản lý di sản có quyền tôn tạo, tu sửa lại di sản như trong
Bản án số 11.
CSPL: khoản 1 Điều 617 BLDS 2015:
“1. Người quản lý di sản quy định tại khoản 1 và khoản 3 Điều 616 của Bộ luật này có nghĩa
vụ sau đây:
a) Lập danh mục di sản; thu hồi tài sản thuộc di sản của người chết mà người khác đang chiếm
hữu, trừ trường hợp pháp luật có quy định khác;
b) Bảo quản di sản; không được bán, trao đổi, tặng cho, cầm cố, thế chấp hoặc định đoạt tài
sản bằng hình thức khác, nếu không được những người thừa kế đồng ý bằng văn bản;
c) Thông báo về tình trạng di sản cho những người thừa kế;
d) Bồi thường thiệt hại nếu vi phạm nghĩa vụ của mình mà gây thiệt hại;
đ) Giao lại di sản theo yêu cầu của người thừa kế.”
Theo khoản 1 Điều 617 BLDS 2015 thì một trong những nghĩa vụ của người quản lý di sản là
bảo quản di sản và trong quá trình bảo quản, di sản có khả năng bị hư hỏng nên cần có sự sửa
chữa, tôn tạo. Chính vì vậy, việc tôn tạo, tu sửa lại di sản là hành động được thực hiện với mục
đích bảo quản di sản chứ không sử dụng sai mục đích như cho thuê, cho mượn hoặc tự ý thực hiện
các giao dịch mua bán, chuyển nhượng di sản nên hành vi này không trái quy định của pháp luật.
Do đó, để thực hiện nghĩa vụ bảo quản này, người quản lý di sản cũng có quyền tôn tạo, tu sửa lại
di sản như trong Bản án số 11.

10
Câu 2.5: Khi là người quản lý di sản, người quản lý di sản có quyền giao lại cho người
khác quản lý di sản (như trong Bản án số 11 là ông Thiện giao lại cho con trai) không? Nêu cơ
sở pháp lý khi trả lời.
Khi là người quản lý di sản, người quản lý di sản không có quyền giao lại cho người khác quản
lý di sản (như trong Bản án số 11 là ông Thiện giao lại cho con trai).
CSPL:
- Điều 616 BLDS 2015:
“1. Người quản lý di sản là người được chỉ định trong di chúc hoặc do những người thừa kế
thỏa thuận cử ra.
2. Trường hợp di chúc không chỉ định người quản lý di sản và những người thừa kế chưa cử
được người quản lý di sản thì người đang chiếm hữu, sử dụng, quản lý di sản tiếp tục quản lý di
sản đó cho đến khi những người thừa kế cử được người quản lý di sản.
3. Trường hợp chưa xác định được người thừa kế và di sản chưa có người quản lý theo quy
định tại khoản 1 và khoản 2 Điều này thì di sản do cơ quan nhà nước có thẩm quyền quản lý.”
- Điều 618 BLDS 2015:
“1. Người quản lý di sản quy định tại khoản 1 và khoản 3 Điều 616 của Bộ luật này có quyền
sau đây:
a) Đại diện cho những người thừa kế trong quan hệ với người thứ ba liên quan đến di sản thừa
kế;
b) Được hưởng thù lao theo thỏa thuận với những người thừa kế;
c) Được thanh toán chi phí bảo quản di sản.
2. Người đang chiếm hữu, sử dụng, quản lý di sản quy định tại khoản 2 Điều 616 của Bộ luật
này có quyền sau đây:
a) Được tiếp tục sử dụng di sản theo thỏa thuận trong hợp đồng với người để lại di sản hoặc
được sự đồng ý của những người thừa kế;
b) Được hưởng thù lao theo thỏa thuận với những người thừa kế;
c) Được thanh toán chi phí bảo quản di sản.
3. Trường hợp không đạt được thỏa thuận với những người thừa kế về mức thù lao thì người
quản lý di sản được hưởng một khoản thù lao hợp lý.”
Theo quy định tại khoản 1 Điều 616 BLDS 2015 thì “người quản lý di sản là người được chỉ định
trong di chúc hoặc do những người thừa kế thỏa thuận cử ra”. Tuy nhiên, trong phần nhận định của
Bản án số 11 có đoạn “Năm 2012, sau khi bà T chết, ông Thiện là người đang trực tiếp sinh sống tại
nhà và đất, tiếp tục quản lý di sản của ông bà Đ T…Ông Đ bà T chết, không để lại di chúc; việc quản
lý di sản của ông Thiện không có sự nhất trí bằng văn bản của các đồng thừa kế” nên ông Thiện thuộc
trường hợp người đang chiếm hữu, sử dụng, quản lý di sản theo quy định tại khoản 2 Điều 616 BLDS
2015. Tuy nhiên việc quản lý di sản của ông Thiện không được sự nhất trí bằng văn bản của các
đồng thừa kế nên việc quản lý di sản của ông Thiện là không có căn cứ của pháp luật. Theo Điều
618 quy định về quyền của người quản lý di sản thì dù là người quản lý di sản hay là người đang

11
chiếm hữu, sử dụng, quản lý di sản như ông Thiện thì cũng không có quyền giao lại cho người
khác quản lý di sản (như trong Bản án số 11 là ông Thiện giao lại cho con trai).
Câu 2.6: Trong Quyết định số 147, Tòa án xác định người quản lý không có quyền tự thỏa
thuận mở lối đi cho người khác qua di sản có thuyết phục không? Nêu cơ sở pháp lý khi trả
lời.
Trong Quyết định số 147, việc Tòa án xác định người quản lý không có quyền tự thỏa thuận
mở lối đi cho người khác qua di sản là thuyết phục.
CSPL: Điểm b khoản 1 Điều 617 BLDS 2015: “b) Bảo quản di sản; không được bán, trao đổi,
tặng cho, cầm cố, thế chấp hoặc định đoạt tài sản bằng hình thức khác, nếu không được những
người thừa kế đồng ý bằng văn bản”.
Trong phần nhận định của Quyết định số 147, có đoạn “Thửa 525 nêu trên là tài sản chung
của ông Ngót và bà Chơi tạo dựng trong thời kỳ hôn nhân. Ông Nhỏ chỉ là người quản lý di sản
của ông Ngót và phần diện tích đất thuộc quyền sử dụng của bà Chơi, chứ không có quyền định
đoạt. Tuy nhiên, ông Nhỏ lại tự ý thỏa thuận cho ông Đạm mở lối đi khi không được sự đồng ý
của bà Chơi cùng các đồng thừa kế thứ nhất của ông Ngót là vị phạm quy định tại điểm b khoản
1 Điều 617 Bộ luật dân sự năm 2015; Điều 167 và Điều 168 Luật đất đai năm 2013”. Bên cạnh
đó, theo lời khai của ông Nhỏ thì việc thỏa thuận cho ông Đạm mở lối đi là ý kiến cá nhân không
có được sự đồng ý từ gia đình của ông và hơn hết là sự đồng ý của bà Chơi; vì vậy ông Nhỏ đã vi
phạm nghĩa vụ của người quản lý di sản khi tự định đoạt phần diện tích đất thuộc quyền sử dụng
của bà Chơi; gây ảnh hưởng đến việc thực hiện quyền của người sử dụng đất, cụ thể là bà Chơi.
Do đó, việc Tòa án xác định người quản lý không có quyền tự thỏa thuận mở lối đi cho người
khác qua di sản trong Quyết định số 147 là hoàn toàn thuyết phục.
VẤN ĐỀ 3: THỜI HIỆU TRONG LĨNH VỰC THỪA KẾ
Tóm tắt Án lệ số 26/2018/AL về xác định thời điểm bắt đầu tính thời hiệu và thời hiệu
yêu cầu chia di sản thừa kế là bất động sản.
Nội dung Bản án:
Cụ Hoàng Thị T và Cấn Văn K có 08 người con Cấn Xuân V, Cấn Thị N1, Cấn Thị N2, Cấn
Thị M1, Cấn Thị T1, Cấn Thị H, Cấn Xuân T, Cấn Văn S (chết 2008) có vợ là bà Nguyễn Thị M
và hai con là Cấn Thùy L và Cấn Hoàng K. Năm 1972, cụ bà T chết. Năm 1973, cụ ông Cấn Văn
K kết hôn với cụ bà Nguyễn Thị L sinh được 4 người con: Cấn Thị C, Cấn Thị M2, Cấn Anh C và
Cấn Thị T2. Sinh thời cụ K và cụ T tạo lập được 612m2 đất, trên đất có 2 căn nhà 3 gian, tọa lạc
tại thôn T, xã P, huyện Th, TP Hà Nội. Năm 2002, diện tích đất trên được cấp Giấy chứng nhận
quyền sử dụng đất đứng tên hộ cụ Cấn Văn K. Thời điểm này, hộ có 06 người gồm: cụ Cấn Văn
K, cụ Nguyễn Thị L, ông Cấn Xuân T, bà Cấn Thị M2, bà Cấn Thị T2 và ông Cấn Anh C. Cuối
năm 2002 cụ Cấn Văn K chết, toàn bộ nhà đất trên do cụ Nguyễn Thị L và ông Cấn Anh C quản
lý. Cụ K và cụ T chết không để lại di chúc. Ngày 02/11/2010, Các đồng nguyên đơn là 08 người
con của cụ Hoàng Thị T khởi kiện yêu cầu chia tài sản chung của cụ T và chia di sản thừa kế của
cụ K theo quy định của pháp luật. Đề nghị kỷ phần được hưởng của mỗi ông bà đều giao lại cho
ông Cấn Xuân V làm nơi thờ cúng cha mẹ, tổ tiên. Bị đơn là cụ Nguyễn Thị L và ông Cấn Anh C
đề nghị giải quyết theo quy định của pháp luật.
Nội dung án lệ:

12
[5] Tuy nhiên, theo quy định tại khoản 1 Điều 623 BLDS 2015 (có hiệu lực thi hành từ ngày
01-01-2017), thì thời hiệu để người thừa kế yêu cầu chia di sản là 30 năm đối với bất động sản,
kể từ thời điểm mở thừa kế.
[6] Theo quy định tại điểm d khoản 1 Điều 688 BLDS 2015, đối với giao dịch dân sự được xác
lập trước ngày BLDS này có hiệu lực, thì thời hiệu được áp dụng theo quy định của Bộ luật này.
[7] Như vậy kể từ ngày Bộ luật Dân sự năm 2015 có hiệu lực thi hành, Tòa án áp dụng quy
định tại Điều 623 BLDS 2015 để xác định thời hiệu đối với trường hợp mở thừa kế trước ngày
01-01-2017. Căn cứ quy định tại khoản 4 Điều 36 Pháp lệnh thừa kế ngày 30-8-1990 và BLDS
2015, trong trường hợp này thời hiệu khởi kiện chia di sản của cụ T cho các đồng thừa kế vẫn
còn theo quy định của pháp luật.
Câu 3.1: Cho biết các loại thời hiệu trong lĩnh vực thừa kế ở Việt Nam.
Ở Việt Nam, thời hiệu thừa kế được quy định tại Điều 623 BLDS 2015 như sau:
“1. Thời hiệu để người thừa kế yêu cầu chia di sản là 30 năm đối với bất động sản, 10 năm
đối với động sản, kể từ thời điểm mở thừa kế. Hết thời hạn này thì di sản thuộc về người thừa kế
đang quản lý di sản đó. Trường hợp không có người thừa kế đang quản lý di sản thì di sản được
giải quyết như sau:
a) Di sản thuộc quyền sở hữu của người đang chiếm hữu theo quy định tại Điều 236 của Bộ
luật này;
b) Di sản thuộc về Nhà nước, nếu không có người chiếm hữu quy định tại điểm a khoản này.
2. Thời hiệu để người thừa kế yêu cầu xác nhận quyền thừa kế của mình hoặc bác bỏ quyền
thừa kế của người khác là 10 năm, kể từ thời điểm mở thừa kế.
3. Thời hiệu yêu cầu người thừa kế thực hiện nghĩa vụ về tài sản của người chết để lại là 03
năm, kể từ thời điểm mở thừa kế.”
Câu 3.2: Thời điểm mở thừa kế đối với di sản của cụ T là năm nào? Đoạn nào của
Quyết định tạo lập thành Án lệ số 26/2018/AL cho câu trả lời?
Theo quy định tại khoản 1 Điều 611 BLDS 2015 thì thời điểm mở thừa kế là thời điểm mà
người có tài sản chết. Do cụ T chết năm 1972 nên thời điểm mở thừa kế đối với di sản của cụ T
là năm 1972. Quyết định tạo lập thành Án lệ số 26/2018/AL cho câu trả lời như sau: “Như vậy,
kể từ ngày BLDS 2015 có hiệu lực thi hành, Tòa án áp dụng quy định tại Điều 623 BLDS 2015
để xác định thời hiệu đối với trường hợp mở thừa kế trước ngày 1/1/2017 căn cứ quy định tại
khoản 4 Điều 36 của Pháp lệnh thừa kế ngày 30/8/1990 và BLDS 2015. Trong trường hợp này,
thời hiệu khởi kiện chia di sản của cụ T cho các đồng thừa kế vẫn còn theo quy định của pháp
luật”.
Câu 3.3: Việc Án lệ số 26/2018/AL áp dụng thời hiệu 30 năm của BLDS 2015 cho di sản
của cụ T có cơ sở văn bản nào không? Có thuyết phục không? Vì sao?
Việc Án lệ số 26/2018/AL áp dụng thời hiệu 30 năm của BLDS 2015 cho di sản của cụ T
không có cơ sở văn bản tuy nhiên lại mang tính thuyết phục cao, bởi vì:
Thứ nhất, căn cứ vào điểm d khoản 1 Điều 688 BLDS 2015: “Thời hiệu được áp dụng theo
quy định của Bộ luật này.”. Nhưng trong khoản 1 Điều luật trên đã nêu rõ quy định chỉ được áp

13
dụng đối với giao dịch dân sự được xác lập trước ngày BLDS 2015 có hiệu lực, tức là ngày
1/01/2017. Đối với Án lệ số 26/2018/AL, việc chia tài sản của cụ T là không có di chúc nên sẽ áp
dụng thừa kế theo pháp luật nên không phải là giao dịch dân sự. Tuy nhiên việc Tòa án áp dụng
thời hiệu 30 năm của BLDS 2015 cho di sản của cụ T đã góp phần mở rộng thời hiệu thừa kế và
lĩnh vực áp dụng của quy định không chỉ dừng lại ở giao dịch dân sự mà còn là các trường hợp
khác như trường hợp của Án lệ nêu trên.
Thứ hai, việc Án lệ số 26 áp dụng thời hiệu 30 năm của BLDS 2015 đã đảm bảo lợi ích của
những người được chia thừa kế cũng như bảo vệ trật tự xã hội. Bởi lẽ nếu không áp dụng thời
hiệu 30 năm của BLDS 2015 thì dẫn đến việc nhiều vụ tranh chấp về thừa kế có thời điểm mở
thừa kế trước khi BLDS 2015 được thi hành (tức ngày 1/01/2017) sẽ không được Tòa án giải
quyết, và khi đó thì tranh chấp tiếp tục tồn tại đến một lúc nào đó không thể điều hòa được thì
các bên sẽ giải quyết với nhau bằng con đường bạo lực từ đó ảnh hưởng xấu đến xã hội. Bởi lẽ
đó việc mở rộng quy định cho phép áp dụng thời hiệu mới sẽ góp phần giúp người dân có cơ hội
được yêu cầu Tòa án giải quyết, từ đó, hạn chế việc từ chối xử lý của Tòa án trong việc giải quyết
các tranh chấp về thừa kế cũng như tăng cường sự tiếp cận của người dân với Tòa án và công lý.
Câu 3.4: Việc Án lệ số 26/2018/AL áp dụng thời hiệu 30 năm của BLDS 2015 cho di
sản của cụ T với thời điểm bắt đầu từ thời điểm Pháp lệnh thừa kế năm 1990 được công bố
có cơ sở văn bản nào không? Có thuyết phục không? Vì sao?
Việc Án lệ số 26/2018/AL áp dụng thời hiệu 30 năm của BLDS 2015 cho di sản của cụ T với
thời điểm bắt đầu từ thời điểm Pháp lệnh thừa kế năm 1990 được công bố không có cơ sở văn
bản, tuy nhiên, việc áp dụng đó là hoàn toàn thuyết phục, bởi:
Căn cứ vào khoản 1 Điều 623 BLDS 2015: “Thời hiệu để người thừa kế yêu cầu chia di sản
là 30 năm đối với bất động sản, 10 năm đối với động sản, kể từ thời điểm mở thừa kế…” BLDS
không hề đề cập đến việc thừa kế mở trước khi ban hành Pháp lệnh thừa kế ngày 30/8/1990 thì
áp dụng thời điểm bắt đầu là kể từ thời điểm mở thừa kế hay từ ngày Pháp lệnh trên được công
bố. Vì thế, Án lệ số 26 áp dụng thời hiệu 30 năm của BLDS 2015 cho di sản của cụ T vào thời
điểm bắt đầu thời điểm pháp lệnh thừa kế năm 1990 được công bố là chưa có cơ sở văn bản. Tuy
nhiên, việc Tòa án áp dụng như thế đã góp phần làm chậm giúp kéo dài thời gian hơn so với thời
điểm mở thừa kế là năm 1972. Từ đó, tạo điều kiện cho các chủ thể có liên quan có thể yêu cầu
Tòa án giải quyết tranh chấp, qua đó, quyền, lợi ích hợp pháp của người thừa kế được bảo vệ;
tranh chấp được Tòa án giải quyết; người dân được tiếp cận nhiều hơn với công lý.
Câu 3.5: Suy nghĩ của anh/chị về Án lệ số 26/2018/AL nêu trên.
Án lệ số 26/2018/AL cho ta biết thời điểm bắt đầu thời hiệu và thời hiệu yêu cầu phân chia
thừa kế là bất động sản. Đây là một vấn đề cực kỳ phức tạp, đặc biệt khi có sự thay đổi về giai
đoạn và những thay đổi về luật áp dụng của Tòa án khiến quá trình xét xử trở nên khó khăn. Các
phán quyết của Tòa án chủ yếu xem xét một số khía cạnh quan trọng và hữu hiệu nhất để có thể
trở thành án lệ. Việc áp dụng thời hiệu 30 năm của BLDS 2015 và áp dụng thời hiệu 30 năm của
BLDS 2015 với thời điểm bắt đầu từ thời điểm Pháp lệnh thừa kế năm 1990 được công bố đã góp
phần kéo dài thời hiệu yêu cầu chia di sản từ đó mà quyền và lợi ích hợp pháp của những người
thừa kế được bảo vệ, tranh chấp về thừa kế có thời điểm mở thời hiệu trước ngày BLDS 2015
được thi hành được Tòa án giải quyết một cách thỏa đáng. Từ đó, nâng cao sự tiếp cận của công

14
dân với Tòa án cũng như công lý.
Các tạp chí liên quan
Họ và tên tác Số và năm
TT Tên bài viết Tên tạp chí Số trang
giả của tạp chí
“ Quan hệ giữa
phong tục, tập quán
Hồ Thị Vân Tạp chí Số 8
1 với pháp luật về thừa Tr30-31, 55
Anh kiểm sát (11/2020)
kế trong thời kỳ
phong kiến”
“Nhầm lẫn giữa
quyền hưởng thừa kế
của vợ đối với di sản
Tạp chí Toà
Phan Thị của chồng và quyền
2 án nhân dân 25/6/2021
Hồng hưởng thừa kế của
điện tử
con dâu đối với di
sản của cha mẹ
chồng”
“ Di sản dùng vào
Hồ Thị Bảo việc thờ cúng theo Tr. 33-37,
3 Nghề Luật Số 6/ 2020
Ngọc quy định của pháp 44
luật Việt Nam”
“ Thời hiệu thừa kế
theo pháp luật dân sự Tạp chí Toà
Nguyễn Trần
4 và thực trạng vận án nhân dân 20/10/2021
Ngà
dụng pháp luật của điện tử
Toà án”
“ Bàn luận về quyền
Nguyễn thừa kế của cá nhân Khoa học
5 Số 4/2020 Tr. 54-58
Minh Oanh được sinh ra bằng kỹ Kiểm sát
thuật hỗ trợ sinh sản”

Để tìm những được những bài viết trên, em tham khảo tạp chí, những bài báo và cả google.

15
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
A. VĂN BẢN QUY PHẠM PHÁP LUẬT :
1. Bộ luật dân sự năm 2005.
2. Bộ luật dân sự năm 2015.
3. Luật Đất đai năm 2013
4. Luật Hôn nhân gia đình năm 2014.
B. BẢN ÁN, ÁN LỆ, QUYẾT ĐỊNH:
1. Bản án số 08/2020/DSST ngày 28/8/2020 của Tòa án Nhân dân thành phố Vĩnh Yên tỉnh
Vĩnh Phúc;
2. Án lệ số 16/2017/AL của Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao.
3. Bản án số 11/2020/DS-PT ngày 10/6/2020 của Tòa án nhân dân tỉnh Sơn La.
4. Quyết định số 147/2020/DS-GĐT ngày 09/7/2020 của Tòa án nhân dân cấp cao tại TP. Hồ
Chí Minh.
5. Án lệ số 26/2018/AL về xác định thời điểm bắt đầu tính thời hiệu và thời hiệu yêu cầu chia di
sản thừa kế là bất động sản.
C. SÁCH, GIÁO TRÌNH, BÀI VIẾT TẠP CHÍ, TÀI LIỆU KHÁC:
1. Nguyễn Xuân Quang, Giáo trình Pháp luật về tài sản, quyền sở hữu và thừa kế của Đại học
Luật TP. HCM, Nxb. Hồng Đức 2023, Chương V;
2. Đỗ Văn Đại, Luật thừa kế Việt Nam-Bản án và bình luận bản án, Nxb. Hồng Đức 2022 (xuất
bản lần thứ năm), Bản án số 4-7, 8-10 và 11-13;
3. Nguyễn Xuân Quang, Lê Nết và Nguyễn Hồ Bích Hằng, Luật dân sự Việt Nam, Nxb. Đại học
quốc gia 2007, tr.236 đến 237, tr.269 đến 271, tr.244 đến 245.

16

You might also like