You are on page 1of 20

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT TP. HỒ CHÍ MINH


KHOA HÌNH SỰ

BÀI THẢO LUẬN DÂN SỰ LẦN 4


TÊN ĐỀ TÀI: BẢO VỆ QUYỀN SỞ HỮU
GVHD: ĐẶNG LÊ PHƯƠNG UYÊN

THÀNH VIÊN THỰC HIỆN


LỚP: HS46A2

Lâm Thảo Hiền – 2153801013089 Phạm Thị Mai – 2153801013147


Hiao Hiêng – 2153801013091 Trần Minh Trúc Mai – 2153801013148
Nguyễn Hoàng Huy – 2153801013097 Đoàn Hoàng Thảo Minh – 2153801013149
Võ Quang Huy – 2153801013098 Lê Tuấn Minh – 2153801013150
Chu Thị Ngọc Huyền – 2153801013099 Trần Công Minh – 2153801013153
Phạm Ánh Thu Huyền – 2153801013104 Trần Viết Lâm – 1953801015101

TP. HỒ CHÍ MINH, THÁNG 3 NĂM 2022


MỤC LỤC
Vấn đề 1: Đòi động sản từ người thứ ba......................................................................................................1
Tóm tắt Quyết định số 123/2006/DS-GĐT ngày 30/5/2006 của Tòa dân sự Tòa án nhân dân tối cao.....1
Câu 1: Trâu là động sản hay bất động sản? Vì sao?.................................................................................1
Câu 2 Trâu là tài sản phải đăng kí quyền sở hữu không? Vì sao?............................................................2
Câu 3: Đoạn nào của Quyết định cho thấy trâu có tranh chấp thuộc quyền sở hữu của ông Tài?............2
Câu 4: Thế nào là chiếm hữu tài sản và ai đang chiếm hữu trâu trong hoàn cảnh như hoàn cảnh có tranh
chấp?.......................................................................................................................................................2
Câu 5: Việc chiếm hữu như trong hoàn cảnh của ông Dòn có căn cứ pháp luật không? Vì sao?.............3
Câu 6: Thế nào là chiếm hữu không có căn cứ pháp luật nhưng ngay tình? Nêu cơ sở pháp lý khi trả
lời?...........................................................................................................................................................3
Câu 7: Người như hoàn cảnh của ông Dòn có là người chiếm hữu ngay tình không? Vì sao?.................4
Câu 8: Thế nào là hợp đồng có đền bù và không có đền bù theo quy định về đòi tài sản trong BLDS?. .4
Câu 9: Ông Dòn có được con trâu thông qua giao dịch có đền bù hay không có đền bù? Vì sao?...........4
Câu 10: Trâu có tranh chấp có phải bị lấy cắp, bị mất hay bị chiếm hữu ngoài ý chí của ông Tài không?
................................................................................................................................................................. 4
Câu 11: Theo Tòa dân sự Tòa án nhân dân tối cao, ông Tài được đòi trâu từ ông Dòn không? Đoạn nào
của Quyết định cho câu trả lời?...............................................................................................................4
Câu 12: Suy nghĩ của anh/chị về hướng giải quyết trên của Tòa dân sự Tòa án nhân dân tối cao...........5
Câu 13: Khi ông Tài không được đòi trâu từ ông Dòn thì pháp luật hiện hành có quy định nào bảo vệ
ông Tài không?........................................................................................................................................5
Câu 14: Khi ông Tài không được đòi Trâu từ ông Dòn thì Tòa án đã theo hướng ông Tài được quyền
yêu cầu ai trả giá trị con Trâu? Đoạn nào của Quyết định cho câu trả lời?..............................................5
Câu 15: Suy nghĩ của anh/chị về hướng giải quyết trên của Tòa dân sự Tòa án nhân dân tối cao?..........6
Vấn đề 2: Đòi bất động sản từ người thứ ba................................................................................................6
Tóm tắt Quyết định số 94/2013/DS_GĐT ngày 25/7/2013 của Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối
cao...........................................................................................................................................................6
Câu 1. Đoạn nào của Quyết định cho thấy quyền sử dụng đất tranh chấp thuộc sử dụng hợp pháp của
các con cụ Ba và đang được ông Vĩnh chiếm hữu?.................................................................................7
Câu 2: Đoạn nào của Quyết định cho thấy Tòa án xác định ông Vĩnh chiếm hữu ngay tình quyền sử
dụng đất tranh chấp?................................................................................................................................7
Câu 3. Suy nghĩ của anh/chị về việc Tòa án xác định ông Vĩnh là người ngay tình?...............................8
Câu 4: Trên cơ sở các quy định hiện hành ông Vĩnh có phải hoàn quyền sử dụng sử dụng đất tranh chấp
cho các con của cụ Ba không? Vì sao? nêu cơ sở pháp lý khi trả lời.......................................................8
Câu 5. Tòa án Tối cao đã có hướng giải quyết bảo vệ các con của cụ Ba như thế nào, hướng giải quyết
này đã được quy định trong văn bản chưa? Vì sao?.................................................................................8
Câu 6: Suy nghĩ của anh/chị về hướng giải quyết bảo vệ các con cụ Ba nêu trên?..................................9
Vấn đề 3: Lấn chiếm tài sản liền kề.............................................................................................................9
Tóm tắt Quyết định số 617/2011/DS-GĐT ngày 18/08/2011 của Tòa dân sự Tòa án nhân dân tối cao.. .9
Tóm tắt Quyết định số 23/2006/DS-GĐT ngày 07/09/2006 của Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân..9
Câu 1: Đoạn nào của Quyết định số 23 cho thấy ông Hậu đã lấn sang đất thuộc quyền sử dụng của ông
Trê và bà Thi và lấn cụ thể là bao nhiêu?..............................................................................................10
Câu 2: Đoạn nào của Quyết định số 617 cho thấy gia đình ông Hòa đã lấn sang đất (không gian, mặt
đất, lòng đất) thuộc quyền sử dụng của ông Trụ, bà Nguyên?...............................................................11
Câu 3: BLDS có quy định nào điều chỉnh việc lấn chiếm đất, lòng đất và không gian đất thuộc quyền
sử dụng của người khác không?.............................................................................................................11
Câu 4: Ở nước ngoài, việc lấn chiếm như trên được xử lý như thế nào?................................................12
Câu 5. Đoạn nào của quyết định số 617 cho thấy TDS ANDTC theo hướng buộc gia đình ông Hòa tháo
dỡ tài sản thuộc phần lấn sang không gian mặt đất và lòng đất của gia đình ông Trụ, bà Nguyên?.......12
Câu 6. Suy nghĩ của anh/chị về hướng giải quyết trên của Tòa dân sự Tòa án nhân dân tối cao...........12
Câu 7: Đoạn nào của quyết định số 23 cho thấy Tòa án không buộc ông Hậu tháo dỡ nhà trên đất lấn
chiếm (52,2m)?......................................................................................................................................13
Câu 8: Ông Trê và bà Thi có biết và phản đối ông Hậu xây dựng nhà trên không?...............................13
Câu 9: Nếu ông Trê và bà Thi biết và phản đói ông Hậu xây dựng nhà trên thì ông Hậu có phải tháo dỡ
nhà để trả lại đất cho ông Trê và bà Thi không? Vì sao?.......................................................................13
Câu 10: Suy nghĩ của anh /chị về hướng giải quyết trên của Tòa án liên quan đến phần đất của ông
Hậu chiếm và xây nhà như trên ?...........................................................................................................13
Câu 11: Theo Tòa án, phần đất ông Hậu xây dựng không phải hoàn trả cho ông Trê, bà Thi được xử lý
như thế nào? Đoạn nào quyết đinh số 23 cho câu trả lời........................................................................14
Câu 12: Đã có quyết định nào của Hội động thẩm phán theo hướng giải quyết như quyết đinh số 23 liên
quan đến đất bị chiếm và xây dựng nha không? Nêu rõ quyết định mà anh chị biết?............................14
Câu 13: Anh/chị có suy nghĩ gì về hướng giải quyết trên của Hội đồng thẩm phán trong quyết định số
23 được bình luận ở đây?.......................................................................................................................14
Câu 14: Đối với phần chiếm không gian 10,71 mét vuông và căn nhà phụ có diện tích là 18,57 mét
vuông trên đất lấn chiếm Tòa án sơ thẩm và Tòa án phúc thẩm có buộc tháo dỡ không?......................15
Câu 15: Theo anh/chị thì nên xử lý phần lấn chiếm không gian 10,71 m2 và căn nhà phụ trên như thế
nào?.......................................................................................................................................................15
Câu 16: Suy nghĩ của anh/chị về xử lý việc lấn chiếm quyền sử dụng đất và không gian ở Việt Nam
hiện nay.................................................................................................................................................16
Câu 17: Hướng giải quyết trên của Tòa án trong Quyết định số 23 có còn phù hợp với BLDS 2015
không? Vì sao?......................................................................................................................................16
Vấn đề 1: Đòi động sản từ người thứ ba.

Tóm tắt Quyết định số 123/2006/DS-GĐT ngày 30/5/2006 của Tòa dân sự Tòa án nhân
dân tối cao.
Nguyên đơn ông Triệu Tiến Tài cho rằng ông Hà Văn Thơ đã trộm đi hai con trâu trong đàn
trâu nhà mình cho nên ông quyết định khởi kiện và yêu cầu anh Thơ phải trả lại giá trị hai mẹ
con trâu cho gia đình ông, còn về phía bị đơn anh Hà Văn Thơ cho rằng tháng 6/2002 anh có
mua một con trâu cái khoảng 3,5 tuổi đã, của anh Phùng Văn Tài với giá 4.300.000 đồng ông
cho thuê người chăng thả tháng 3/2003 trâu của ông đã chữa, cuối tháng 12/ 2003 thì trâu của
ông đẻ được 1 con nghé, ngày 18/3/2004 phát hiện trâu bị đi lạc nên ông đi tìm và sảy ra mâu
thuẩn với nguyên đơn. Tại bản án dân sự sơ thẩm buộc anh Thơ phải có trách nhiệm và nghĩa
vụ hoàn trả lại giá trị hai con trâu cho ông Triệu Tiến Tài là 5.900.000 đồng và trả cho ông
Tài 100.000 đồng tiền chi phí giám định. 1/9/2004 Ông Hà Văn Thơ kháng cáo và tại Tòa án
dân sự phúc thẩm Tòa án nhân dân tỉnh Lào Cai đã sửa bản án lại rằng: ông Hà Văn Thơ phải
chịu bồi thường 900.000 đồng tiền giá trị con nghé của ông Tài và bồi thường 100.000 đồng
tiền chi phí giám định, bác bỏ yêu cầu của ông Triệu Tiến Tài đòi bồi thường 5.900.000
đồng. Sau đó ông Triệu Tiến Tài khiếu nại tại Quyết định số 46 Chánh án Tòa án nhân dân
tối cao đã kháng nghị bản án dân sự phúc thẩm của Tòa án nhân dân tỉnh Lào Cai và sửa lại
rằng: hủy bản án dân sự phúc thẩm số 25 ngày 22 tháng 10 năm 2004 giữa ông Triệu Tiến
Tài và ông Hà Anh Thơ, giao hồ sơ vụ án lại cho Tòa án nhân dân tỉnh Lào Cai xét xử phúc
thẩm lại theo quy định của pháp luật.
Câu 1: Trâu là động sản hay bất động sản? Vì sao?
Trả lời:
Trâu là động sản. Vì theo Điều 174 BLDS 2005 và Điều 107 BLDS 2015 có quy định:
“1. Bất động sản bao gồm:
a) Đất đai;
b) Nhà, công trình xây dựng gắn liền với đất đai;
c) Tài sản khác gắn liền với đất đai, nhà, công trình xây dựng;
d) Tài sản khác theo quy định của pháp luật.

1
2. Động sản là những tài sản không phải bất động sản”
Như vậy, dựa vào khoản 1 của điều 107 BLDS 2015 nêu trên thì trâu không thuộc bất động
sản”.
Câu 2 Trâu là tài sản phải đăng kí quyền sở hữu không? Vì sao?
Trả lời:
Trâu là tài sản không phải đăng ký quyền sở hữu.Vì theo khoản 2 Điều 106 BLDS 2015 có
quy định: “Quyền sở hữu, quyền khác đối với tài sản là động sản không phải đăng ký, trừ
trường hợp pháp luật có quy định khác”.
Câu 3: Đoạn nào của Quyết định cho thấy trâu có tranh chấp thuộc quyền sở hữu của
ông Tài?
Trả lời:
Đoạn cho thấy trâu có tranh chấp thuộc quyền sở hữu của ông Tài của Quyết định là: “Căn
cứ vào lời khai của ông Triệu Tấn Tài (BL 06, 07, 08), lời khai của các nhân chứng là anh
Phúc (BL 19), anh Chu (BL 20) anh Bảo (BL 22) và kết quả giám định con trâu đang tranh
chấp (biên bản giám định ngày 16-8-2004, biên bản diễn giải biên bản giám định kết quả
giám định trâu ngày 20-8-2004), (BL 40, 41, 41a, 42) thì có đủ cơ sở xác định con trâu cái
màu đen 4 năm 9 tháng tuổi mới sấn mũi lần đầu và con nghé đực khoảng 3 tháng tuổi là
thuộc quyền sở hữu hợp pháp của ông Triệu Tấn Tài”.
Câu 4: Thế nào là chiếm hữu tài sản và ai đang chiếm hữu trâu trong hoàn cảnh như
hoàn cảnh có tranh chấp?
Trả lời:
Khoản 1 Điều 179 BLDS 2015 quy định: “Chiếm hữu là việc chủ thể nắm giữ, chi phối tài
sản một cách trực tiếp hoặc gián tiếp như chủ thể có quyền đối với tài sản”. Trong hoàn cảnh
tranh chấp này thì người chiếm hữu trâu là ông Dòn vì ông Dòn đang nắm giữ, chi phối con
trâu.

2
Câu 5: Việc chiếm hữu như trong hoàn cảnh của ông Dòn có căn cứ pháp luật không?
Vì sao?
Trả lời:
Việc chiếm hữu như trong hoàn cảnh của ông Dòn là không có căn cứ pháp luật. Vì theo
Khoản 2 Điều 165 quy định: “Việc chiếm hữu tài sản không phù hợp với quy định tại Khoản
1 điều này là chiếm hữu không có căn cứ pháp luật”.
Câu 6: Thế nào là chiếm hữu không có căn cứ pháp luật nhưng ngay tình? Nêu cơ sở
pháp lý khi trả lời?
Trả lời:
Chiếm hữu không có căn cứ pháp luật nhưng ngay tình là việc chiếm hữu của một người
không có căn cứ pháp luật nhưng không biết và không thể biết (pháp luật không buộc phải
biết) việc chiếm hữu là không có căn cứ. Việc chiếm hữu tài sản không phù hợp với quy định
tại khoản 1 Điều 165 BLDS 2015 là chiếm hữu không có căn cứ pháp luật:“Chiếm hữu có
căn cứ pháp luật là việc chiếm hữu tài sản trong các trường hợp sau đây:
a) Chủ sở hữu chiếm hữu tài sản;
b) Người được chủ sở hữu ủy quyền quản lý tài sản;
c) Người được chuyển giao quyền chiếm hữu thông qua giao dịch dân sự phù hợp với quy
định của pháp luật;
d) Người phát hiện và giữ tài sản vô chủ, tài sản không xác định được ai là chủ sở hữu, tài
sản bị đánh rơi, bị bỏ quên, bị chôn, giấu, bị vùi lấp, chìm đắm phù hợp với điều kiện theo
quy định của Bộ luật này, quy định khác của pháp luật có liên quan;
đ) Người phát hiện và giữ gia súc, gia cầm, vật nuôi dưới nước bị thất lạc phù hợp với điều
kiện theo quy định của Bộ luật này, quy định khác của pháp luật có liên quan;
e) Trường hợp khác do pháp luật quy định.” Điều 180 BLDS 2015 quy định về chiếm hữu
ngay tình: “Chiếm hữu ngay tình là việc chiếm hữu mà người chiếm hữu có căn cứ để tin
rằng mình có quyền đối với tài sản đang chiếm hữu.”

3
Câu 7: Người như hoàn cảnh của ông Dòn có là người chiếm hữu ngay tình không? Vì
sao?
Trả lời:
Người như hoàn cảnh ông Dòn là người chiếm hữu ngay tình. Vì theo Điều 180 BLDS 2015:
“Chiếm hữu ngay tình là việc chiếm hữu mà người chiếm hữu có căn cứ để tin rằng mình có
quyền đối với tài sản đang chiếm hữu”. Cụ thể là trong bản án, ông Thi đã đổi con trâu mẹ
cho ông Dòn nên ông Dòn có căn cứ để tin rằng mình có quyền đối với con trâu đang chiếm
hữu.
Câu 8: Thế nào là hợp đồng có đền bù và không có đền bù theo quy định về đòi tài sản
trong BLDS?
Trả lời:
Hợp đồng có đền bù là hợp đồng mà trong đó mỗi bên sau khi thực hiện cho bên kia một lợi
ích sẽ nhận được từ bên kia một lợi ích tương ứng. Lợi ích tương ứng ở đây không đồng
nghĩa với lợi ích ngang hàng vì các bên dành cho nhau không phải lúc nào cũng cùng một
tính chất hay chủng loại.
Câu 9: Ông Dòn có được con trâu thông qua giao dịch có đền bù hay không có đền bù?
Vì sao?
Trả lời:
Ông Dòn có được trâu thông qua giao dịch có đền bù. Vì con trâu mà ông Dòn có được là do
giao dịch với ông Thi, cụ thể là ông Thi đổi cho ông Dòn lấy con trâu cái sổi, từ đó ta có thể
thấy đây là giao dịch mỗi bên sau khi thực hiện cho bên kia một lợi ích sẽ nhận được từ bên
kia một lợi ích tương ứng. Do vậy, đây là giao dịch có đền bù (cụ thể là trao đổi).
Câu 10: Trâu có tranh chấp có phải bị lấy cắp, bị mất hay bị chiếm hữu ngoài ý chí của
ông Tài không?
Trả lời:
Trâu có tranh chấp bị chiếm hữu ngoài ý chí của ông Tài. Nếu có tập quán chăn nuôi thả rông
thì
Câu 11: Theo Tòa dân sự Tòa án nhân dân tối cao, ông Tài được đòi trâu từ ông Dòn
không? Đoạn nào của Quyết định cho câu trả lời?
Trả lời:

4
Theo Tòa dân sự Tòa án nhân dân tối cao thì ông Tài không có quyền đòi trâu từ ông Dòn vì
trong quyết định số 123/2006/DS-GĐT, phần xét thấy có đề cập: “…Tòa án cấp phúc thẩm
nhận định con trâu mẹ và con nghé con là của ông Tài là đúng nhưng lại cho rằng con trâu cái
đang do ông Nguyễn Văn Dòn quản lý nên ông Tài phải khởi kiện ông Dòn và quyết định chỉ
buộc ông Thơ phải trả lại giá trị con nghé là 900.000 đồng, bác yêu cầu ông Tài đòi ông Thơ
phải trả lại giá trị con trâu mẹ là không đúng pháp luật”.
Câu 12: Suy nghĩ của anh/chị về hướng giải quyết trên của Tòa dân sự Tòa án nhân dân
tối cao.
Trả lời:
Theo Điều 167 BLDS 2015 quy định về quyền đòi lại động sản không phải đăng ký quyền
sở hữu từ người chiếm hữu ngay tình: “Chủ sở hữu có quyền đòi lại động sản không phải
đăng ký quyền sở hữu từ người chiếm hữu ngay tình trong trường hợp người chiếm hữu ngay
tình có được động sản này thông qua hợp đồng không có đền bù với người không có quyền
định đoạt tài sản; trường hợp hợp đồng này là hợp đồng có đền bù thì chủ sở hữu có quyền
đòi lại động sản nếu động sản đó bị lấy cắp, bị mất hoặc trường hợp khác bị chiếm hữu
ngoài ý chí của chủ sở hữu”. Trong trường hợp này, vì ông Dòn là người chiếm hữu ngay
tình, ông có được con trâu thông qua giao dịch có đền bù và con trâu bị chiếm hữu ngoài ý
chí của ông Tài nên ông Tài có quyền đòi lại con trâu từ ông Dòn. Do đó, quyết định của Tòa
án cấp phúc thẩm là có căn cứ pháp luật nên việc Tòa dân sự Tòa án nhân dân tối cao hủy bản
án dân sự phúc thẩm là chưa hợp lý.
Câu 13: Khi ông Tài không được đòi trâu từ ông Dòn thì pháp luật hiện hành có quy
định nào bảo vệ ông Tài không?
Trả lời:
Khi ông Tài không thể đòi trâu từ ông Dòn thì pháp luật có quy định ở điều 170 BLDS 2015
để bảo vệ quyền lợi cho ông Tài như sau: “Chủ sở hữu, chủ thể có quyền khác đối với tài
sản có quyền yêu cầu người có hành vi xâm phạm quyền sở hữu, quyền khác đối với tài sản
bồi thường thiệt hại”. Ở đây có nghĩa là ông Tài có quyền đòi ông Thơ bồi thường thiệt hại.
Câu 14: Khi ông Tài không được đòi Trâu từ ông Dòn thì Tòa án đã theo hướng ông
Tài được quyền yêu cầu ai trả giá trị con Trâu? Đoạn nào của Quyết định cho câu trả
lời?
Trả lời:

5
Khi ông Tài không được đòi trâu từ ông Dòn thì Tòa án đã theo hướng ông Tài được quyền
yêu cầu ông Thơ trả lại giá trị con trâu theo đoạn: “Trong quá trình giải quyết vụ án, Tòa án
cấp sơ thẩm đã điều tra, xác minh, thu thập đầy đủ các chứng cứ và xác định con trâu tranh
chấp giữa ông Tài và ông Thơ và quyết định buộc ông Thơ là người chiếm hữu tài sản không
có căn cứ pháp luật phải hoàn trả lại giá trị con trâu và nghé cho ông Tài là có căn cứ pháp
luật”.
Câu 15: Suy nghĩ của anh/chị về hướng giải quyết trên của Tòa dân sự Tòa án nhân dân
tối cao?
Trả lời:
Hướng giải quyết trên của Tòa dân sự Tòa án nhân dân tối cao là hợp lý. Vì chưa chứng minh
rõ ông Thơ chiếm hữu có ngay tình hay không, điều này sẽ giúp đảm bảo quyền lợi cho cả
hai bên đương sự. Trong trường hợp ông Thơ chiếm hữu có ngay tình thì theo Điều 583
BLDS 2015 quy định chủ sở hữu được hoàn trả tài sản thì phải thanh toán lại chi phí cần thiết
cho người chiếm hữu tài sản không 30 có căn cứ pháp luật nhưng ngay tình. Ngược lại, nếu
ông Thơ chiếm hữu không ngay tình thì việc bồi thường sẽ theo quy định của pháp luật.

Vấn đề 2: Đòi bất động sản từ người thứ ba.

Tóm tắt Quyết định số 94/2013/DS_GĐT ngày 25/7/2013 của Hội đồng thẩm phán Tòa
án nhân dân tối cao.
Nguyên đơn bà Nguyễn Thị Nhân và ông Nguyễn Xuân Lai, khiếu nại bị Đơn ông Lê Văn
Vĩnh và bà Huỳnh Thị Như Ngọc về vụ việc tranh chấp quyền sở hữu tài sản. Năm 1973 cha
mẹ của nguyên đơn (ông Ba, bà Tình) có mua căn nhà số 2, đường Nguyễn Thái Học, thành
phố Quy Nhơn, tỉnh Bình Định của cụ Nguyễn Cậy, mua bán có giấy tờ viết tay và cụ Cậy
vẫn còn sống đã xác nhận. Sau khi đi làm ăn xa một thời gian về thăm quê thì biết căn nhà số
2 có người đang sử dụng do vậy ông bà làm đơn khiếu nại, về phía bị đơn trình bày căn nhà
tranh chấp trước giải phóng không rõ của ai sau khi giải phóng nhân dân khu 6 sử dụng làm
nơi hợp và làm lớp mẫu giáo, sau đó UBND phường Lê Hồng Phong đã bán lại cho bà Lê Thị
Thu và bà đã được nhân dân Ủy ban nhân dân tỉnh Bình Định công nhận sở hữu vào 1995,
căn nhà của bà Thu có hợp đồng mua bán được công chứng rõ ràng cho nên bị đơn không
đồng ý trả lại đất và nhà cho nguyên đơn vì mua căn nhà là hợp pháp. Tại phiên Tòa dân sự
sơ thẩm lần 1 xác định ngôi nhà số 2 Nguyễn Thái Học thuộc quyền sở hữu của cụ Ba và bà

6
Tình hiện nay là di sản thuộc hàng thừa kế thứ nhất (ông Lai và bà Nhân). Ủy ban nhân dân
phường Lê Hồng Phong, thành phố Quy Nhơn phải đền bù tiền vì không trả lại nhà được,
công nhận hợp đồng mua bán căn nhà số 2 Nguyễn Thái Học là hợp pháp, chấp nhận yêu cầu
đòi lại đất của căn nhà số 2 Nguyễn Thái Học của ông Lai và bà Nhân, bác bỏ yêu cầu đòi lại
nhà của ông Lai. Sau đó nguyên đơn và bị đơn tiếp tục kháng cáo, tại bản án dân sự phúc
thẩm lần 1 Tòa án quyết định hủy án dân sự sơ thẩm lần 1 chuyển hồ sơ vụ án lại cho Tòa án
sơ thẩm giải quyết lại. Tại phiên Tòa dân sự sơ thẩm lần 2 cho rằng căn nhà số 2 Nguyễn
Thái Học, thành phố Quy Nhơn thuộc sở hữu của ông Ba và bà Tình nay là di sản thừa kế của
hàng thừa kế của ông Nhân, Ủy ban nhân dân phường Lê Hồng Phong, thành phố Quy Nhơn
bồi thường giá trị sử dụng đất của căn nhà số 2 Nguyễn Thái Học, Thành phố Quy Nhơn, ông
Vĩnh và bà Ngọc được trọn quyền sở hữu ngôi nhà số 2 Nguyễn Thái Học, bác bỏ yêu cầu
của ông Lai và bà Nhân đòi sự dụng căn nhà số 2 Nguyễn Thái Học. Khi nhận được đơn
kháng cáo của những người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan thì tại Tòa án phúc thẩm lần 2
đã sửa lại toàn bộ bản án sơ thẩm không chấp nhận đơn khởi kiện. Tại phiên tòa giám đốc
thẩm chấp nhận kháng nghị của Chánh án Tòa án nhân dân tối cao, xử: hủy toàn bộ bản án
dân sự phúc thẩm lần 2, hủy toàn bộ bản án dân sự sơ thẩm lần 2 của tòa án nhân dân tỉnh
Bình Định về vụ tranh chấp quyền sở hữu tài sản giữa nguyên đơn và bị đơn và những người
có nghĩa vụ liên quan giao hồ sơ vụ án lại cho Tòa án nhân dân tỉnh Bình Định sét xử sơ thẩm
lại theo đúng quy định của pháp luật.
Câu 1. Đoạn nào của Quyết định cho thấy quyền sử dụng đất tranh chấp thuộc sử dụng
hợp pháp của các con cụ Ba và đang được ông Vĩnh chiếm hữu?
Trả lời:
Theo như quyết định trên thì đoạn từ ''theo đơn khởi kiện ngày 17/10/2003 nguyên đơn là ông
Nguyễn Văn Lai và bà Nguyễn Thị Nhân trình bày'' đến “nay ông không đồng ý trả nhà đất
cho nguyên đơn vì ông đã mua căn nhà này hợp pháp” cho thâý quyền sử dụng đất tranh chấp
thuộc sử dụng hợp pháp của các con cụ Ba và đang được ông Vĩnh chiếm hữu.
Câu 2: Đoạn nào của Quyết định cho thấy Tòa án xác định ông Vĩnh chiếm hữu ngay
tình quyền sử dụng đất tranh chấp?
Trả lời:
Tại bản án dân sự sơ thẩm lần thứ nhất số 12/2006 ngày 20/6/2006, TAND tỉnh Bình Định
quyết định ở khoản 3 (Công nhận hợp đồng mua bán nhà 02, Nguyễn Thái Học giữa bà Lê
Thị Thu và ông La Văn Vĩnh và bà Huỳnh Thị Như Ngọc đã hoành thành) và khoản 5 (Bác
yêu cầu của ông Nguyễn Xuân Lai đòi lại căn nhà 02 Nguyễn Thái Học, vì ông La Văn Vĩnh

7
và bà Huỳnh Thị Như Ngọc đã mua nhà của bà Lê Thị Thu và xây cất mới, sử dụng ổn định
từ năm 2005 đến nay đã được UBND tỉnh Bình Định cấp giấy chứng nhận quyền sở hữu nhà
và sử dụng đất ngày 18/11/2002) , đã cho thấy Tòa án xác định ông Vĩnh chiếm hữu ngay
tình quyền sử dụng đất tranh chấp.

Câu 3. Suy nghĩ của anh/chị về việc Tòa án xác định ông Vĩnh là người ngay tình?
Trả lời:
Theo em nghĩ là quyết định hợp lý của TAND tỉnh Bình Định vì trong hợp đồng mua bán nhà
giưax ông Vĩnh và bà Thu có giấy tờ hẳn hoi và có giá trị pháp lý. Mọi thủ tục mua bán nhà
như hợp đồng đều được công chứng, ông cũng đã làm thủ tục sang tên và được cấp giấy
chứng nhận quyền sở hữu nhà, sử dụng đất do UBND tỉnh Bình Định cấp.
Câu 4: Trên cơ sở các quy định hiện hành ông Vĩnh có phải hoàn quyền sử dụng sử
dụng đất tranh chấp cho các con của cụ Ba không? Vì sao? nêu cơ sở pháp lý khi trả lời.
Trả lời:
Vì giao dịch mua bán giữa bà Nhân và đại diện Khu vực 6 chỉ là giao dịch trên giấy viết tay
và không được công nhận bởi cơ quan pháp lý nên suy ra giao dịch này không có giá trị pháp
lý. Các giao dịch sau đó đều vô hiệu (riêng giao dịch giữa ông Vĩnh với bà THu thì được
pháp luật công nhận và có giá trị). Tuy nhiên, dù ông Vĩnh được xác nhận là người chiếm
hữu ngay tình vẫn phải hoàn trả quyền sử dụng đất cho nguyên đơn. Điều này được quy định
rõ ở Điều 168 Bộ luật dân sự năm 2015 quy định về quyền đòi lại động sản phải đăng ký
quyền sở hữu hoặc bất động sản từ người chiếm hữu ngay tình như sau: “Chủ sở hữu
được đòi lại động sản phải đăng ký quyền sở hữu hoặc bất động sản từ người chiếm hữu
ngay tình, trừ trường hợp quy định tại khoản 2 Điều 133 của Bộ luật này”. Căn cứ vào
trường hợp này ông Vĩnh vẫn phải trả lại quyền sử dụng đất cho ông Lai (nguyên đơn) và ông
Lai phải có trách nhiệm bồi thường tiền cho ông Vĩnh.
Câu 5. Tòa án Tối cao đã có hướng giải quyết bảo vệ các con của cụ Ba như thế nào,
hướng giải quyết này đã được quy định trong văn bản chưa? Vì sao?
Trả lời:
TAND tối cao đã quyết định hủy toàn bộ các bản án trước đó về vụ tranh chấp quyền sở hữu
nhà , sử dụng đất giữa nguyên đơn ông Nguyễn Xuân Lai bà Nguyễn Thị Nhân với bị đơn La
Văn Vĩnh cùng các người có quyền lợi liên quam để bảo vệ lợi ích các con của cụ Ba. Sau đó

8
giao vụ án lại cho TAND tỉnh Bình Định xét xử sơ thẩm lại theo quy định của pháp luật.
Quyết định trên đã được quy định trong văn bản, vì Giám đốc thẩm là thủ tục xét lại bản án,
quyết định của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật nhưng bị kháng nghị vì phát hiện có vi phạm
pháp luật nghiêm trọng trong việc giải quyết vụ án. Và trong trường hợp này có đơn kháng
nghị của Chánh Án TAND tối cao.
Câu 6: Suy nghĩ của anh/chị về hướng giải quyết bảo vệ các con cụ Ba nêu trên?
Trả lời:
Theo em thấy hướng giải quyết để bảo vệ các con cụ Ba của TAND tối cao là vừa hợp tình lại
hợp lý. Không làm hàng thừa kế thứ nhất của cụ Ba mất đi quyền lợi đáng có, vừa không làm
mất đi quyền lợi của người chiếm hữu ngay tình là ông Vĩnh . Điều tra, xem xét kỹ hơn các
tình tiết để tìm ra hướng giải quyết thoả mãn 2 bên . Hủy các bản án trước đó để điều tra lại
kỹ hơn là một quyết định sáng suốt.

Vấn đề 3: Lấn chiếm tài sản liền kề.


.
Tóm tắt Quyết định số 617/2011/DS-GĐT ngày 18/08/2011 của Tòa dân sự Tòa án nhân
dân tối cao.
Nguyên đơn: ông Lương Ngọc Trụ, bà Đinh Thị Nguyên khiếu nại ông Ngô Văn Hòa về việc
“tranh chấp ranh đất” giữa thửa đất số 76 liền kề với thửa đất số 53. Ông Trụ cho biết gia
đình ông đã sử dụng thửa đất này từ trước năm 1975 đến nay, do đi làm ăn xa nên bị ông Hòa
lấn chiếm đất, yêu cầu gia đình ông Hòa tháo dỡ các công trình phụ và trả lại phần đất đã lấn
chiếm cho ông, còn theo bị đơn khi thiết kế xây dựng gia đình ông đã để nguyên phần tường
chỉ xây cao lên 4 tấc do đó gia đình ông không lấn chiếm đất. Theo quyết định của Tòa án sơ
thẩm chấp nhận một phần yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn, yêu cầu bị đơn Ngô Văn Hòa
tháo dỡ 4 ô văng cửa sổ, tháo dỡ 1 máng bê tông trước nhà, tháo dở mái tôn nhà sau và đòn
tay nhà sau. Không chấp nhận với quyết định đó cả nguyên đơn và bị đơn đều nộp đơn kháng
cáo lên Tòa án phúc thẩm và Tòa án phúc thẩm quyết định bác bỏ yêu cầu kháng cáo của bà
Đinh Thị Nguyên và ông Ngô Văn Hòa giữ nguyên bản án sơ thẩm. Bà Nguyên và ông Hòa
lại tiếp tục kháng cáo bản án phúc thẩm trên. Tòa án nhân dân tối cao đã kháng nghị đối với
bản án phúc thẩm ngày 13/5/2008, tại phiên Tòa giám đốc thẩm thấy rằng kháng nghị của
Chánh án Tòa án nhân dân tối cao là có căn cứ do vậy: Hủy bản án dân sự sơ thẩm và án dân

9
sự phúc thẩm giao hồ sơ vụ án lại cho Tòa án nhân dân thị xã Trà Vinh, tỉnh Trà Vinh xét xử
sơ thẩm lại theo quy định của pháp luật.
Tóm tắt Quyết định số 23/2006/DS-GĐT ngày 07/09/2006 của Hội đồng thẩm phán Tòa
án nhân dân
Theo đơn kiện ngày 18 tháng 9 năm 1999 Ủy ban nhân dân huyện CN cấp giấy sử dụng đất
cho gia đình ông Diệp Vũ Trê, gia đình ông đã sử dụng từ lâu giáp ranh đất với ông Hậu,
trong quá trình sử dụng đất sông Hậu đã lấn chiếm đất của ông Trê là 185 mét vuông do vậy
ông Trê khiếu nại và yêu cầu ông Hậu cần phải trả lại diện tích đất lấn chiếm. Gia đình bị đơn
Nguyễn Văn Hậu trình bày vào 29/3/1994 ông có mua đất của anh Kiệt thửa đất giáp ranh đất
ông Trê, nhưng chỉ viết tay, lúc xây nhà cơ bản trên phần đất ấy anh Trê không có ý kiến. Tại
bản án sơ thẩm ngày 30/6/2000 bác bỏ yêu cầu của ông Trê về việc kiện ông Hậu lấn chiếm
đất đai, giữ nguyên hiện trạng việc sử dụng đất đai. Không đồng ý nên ông Trê kháng cáo tại
bản án phúc thẩm Tòa án quyết định buộc ông Nguyễn Văn Hậu trả lại cho ông Trê 185m2 đất
theo giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, ông Hậu phải bồi thường cho ông chơi 610.000
đồng tiền chặt phá cây kiểng. Ngày 10/1/2020 ông Trê tiếp tục khiếu nại, Viện trưởng Viện
kiểm sát nhân dân tối cao đã kháng nghị bản án phúc thẩm nói trên, tại Tòa dân sự Tòa án
nhân dân tối cao quyết định hủy bản án dân sự sơ thẩm của huyện CN và bản án phúc thẩm
của nhân dân tỉnh CM, giao hồ sơ vụ án và nhân dân tỉnh CM xét xử sơ thẩm, tại bản án sơ
thẩm 21 tháng 7 năm 2003 Tòa án nhân dân quyết định buộc ông hậu trả lại cho ông Trê diện
tích là 127,8m2, yêu cầu ông Hậu bòi thường giá trị sử dụng phần đất lấn chiếm đã cất nhà là
52,2m2, sau đó bị đơn là ông Hậu tiếp tục kháng cáo sơ thẩm,tại phiên Tòa phúc thẩm 21
tháng 10 năm 2003 Tòa án phúc thẩm quyết định ông hậu phải trả cho Ông Trê diện tích đất
là 132,8m2, ông Hậu phải trả cho ông Trê giá trị quyền sử dụng đất 52,2m2 là phải chỉ 8 phân 3
vàng 24 và ông Hậu được quyền sử dụng 52,2m2 đất của căn nhà ông đã xây cất. Cơ quan thi
hành án tỉnh CM đã kháng nghị bản án phúc thẩm 21 tháng 10 năm 2003 vì cho rằng diện
tích đất giao cho ông Trê chưa rõ ràng và trên đất tranh chấp còn công trình xây dựng chưa
được giải quyết, tại phiên Tòa đại diện viện kiểm sát nhân dân tối cao nhất trí kháng nghị của
Chánh án Tòa án nhân dân tối ca hủy bản án dân sự phúc thẩm ngày 21 tháng 10 năm 2013
của toàn thẩm Tòa án nhân dân tối cao HCM và bản án dân sự sơ thẩm 21 tháng 7 năm 2003
của tòa án nhân dân tỉnh CM, giao hồ sơ vụ án lại cho Tòa án nhân dân tỉnh cm giải quyết xét
xử sơ thẩm lại theo quy định của pháp luật.
Câu 1: Đoạn nào của Quyết định số 23 cho thấy ông Hậu đã lấn sang đất thuộc quyền
sử dụng của ông Trê và bà Thi và lấn cụ thể là bao nhiêu?
Trả lời:
10
Theo sơ đồ vị trí đất được thể hiện trong giấy chứng nhận quyền sử dụng đất thì thửa đất này
có mốc giới rõ ràng, đối chiếu sơ đồ này với sơ đồ tranh chấp do Tòa án Nhân dân huyện CN
phối hợp với cơ quan chức năng đo vẽ ngày 28/3/2000 và tại công văn số 01/XN- TNMT
ngày 10/3/2006 của phòng Tài nguyên và Môi Trường huyện CN gửi Tòa án Nhân dân Tỉnh
CM vẫn khẳng định ranh giới cấp giấy chứng nhận cho bà Thi với đất ông Hậu đang sử dụng
là " ranh thẳng " thì có căn cứ xác định ông Hậu đã lấn đất của ông Trê. Và cụ thể là 52,2m2.
Câu 2: Đoạn nào của Quyết định số 617 cho thấy gia đình ông Hòa đã lấn sang đất
(không gian, mặt đất, lòng đất) thuộc quyền sử dụng của ông Trụ, bà Nguyên?
Trả lời:
Khi sửa chữa lại nhà gia đình Ông Hòa có làm 4 ô văng cửa sổ, 1 miếng bê tông và chôn dưới
đất một ống thoát nước nằm ngoài phía tường nhà. Quá trình giải quyết vụ án, Tòa án cấp sơ
thẩm và Tòa án cấp phúc thẩm xác định gia đình ông Hòa làm 4 ô văng cửa sổ (lấn phần
không gian), 1 mái bê tông (lấn phần mặt đất) chờm qua phần đất thuộc quyền sử dụng của
ông Trụ và bà Nguyên, còn lấn cả phần lòng đất là ống nước do gia đình ông chôn.
Câu 3: BLDS có quy định nào điều chỉnh việc lấn chiếm đất, lòng đất và không gian đất
thuộc quyền sử dụng của người khác không?
Trả lời:
Có. Đó là Điều 175 BLDS 2015 quy định về: Ranh giới giữa các bất động sản
“1. Ranh giới giữa các bất động sản liền kề được xác định theo thỏa thuận hoặc theo quyết
định của cơ quan nhà nước có thẩm quyền. Ranh giới cũng có thể được xác định theo tập
quán hoặc theo ranh giới đã tồn tại từ 30 năm trở lên mà không có tranh chấp. Không được
lấn, chiếm, thay đổi mốc giới ngăn cách, kể cả trường hợp ranh giới là kênh, mương, hào,
rãnh, bờ ruộng. Mọi chủ thể có nghĩa vụ tôn trọng, duy trì ranh giới chung.
2. Người sử dụng đất được sử dụng không gian và lòng đất theo chiều thẳng đứng từ ranh
giới của thửa đất phù hợp với quy định của pháp luật và không được làm ảnh hưởng đến việc
sử dụng đất của người khác”.
Điều 164 quy định về : Biện pháp bảo vệ quyền sở hữu, quyền khác đối với tài sản
“1. Chủ sở hữu, chủ thể có quyền khác đối với tài sản có quyền tự bảo vệ, ngăn chặn bất kỳ
người nào có hành vi xâm phạm quyền của mình bằng những biện pháp không trái với quy
định của pháp luật.

11
2. Chủ sở hữu, chủ thể có quyền khác đối với tài sản có quyền yêu cầu Tòa án, cơ quan nhà
nước có thẩm quyền khác buộc người có hành vi xâm phạm quyền phải trả lại tài sản, chấm
dứt hành vi cản trở trái pháp luật việc thực hiện quyền sở hữu, quyền khác đối với tài sản và
yêu cầu bồi thường thiệt hại”.
Câu 4: Ở nước ngoài, việc lấn chiếm như trên được xử lý như thế nào?
Trả lời:
Tùy vào pháp luật hiện hành của các nước và tình tiết, củng như các chứng cứ cụ thể thì sẽ có
những bản án thích hợp.
Câu 5. Đoạn nào của quyết định số 617 cho thấy Tòa dân sự Tòa án nhân dân tối cao
theo hướng buộc gia đình ông Hòa tháo dỡ tài sản thuộc phần lấn sang không gian mặt
đất và lòng đất của gia đình ông Trụ, bà Nguyên?
Trả lời:
Khi sửa chữa nhà gia đình ông Hòa có làm thêm 4 ô văng cửa sổ, 1 máng bê tông và chôn
dưới đất một ống thoát nước nằm ngoài phía tường nhà. Quá trình giải quyết vụ án, Tòa án
cấp sơ thẩm và Tòa án cấp phúc thẩm xác định gia đình ông Hòa làm 4 ô văng cửa sổ, một
máng bê tông chờm qua phần đất thuộc quyền sử dụng của gia đình ông Trụ, bà Nguyên nên
quyết định buộc ông Hòa tháo dỡ là có căn cứ. Tuy nhiên, dưới lòng đất sát tường nhà ông
Hòa còn ống nước do gia đình ông Hòa chôn, nhưng Tòa án cấp sơ thẩm và Tòa án cấp phúc
thẩm không buộc gia đình ông Hòa phải tháo dỡ là không đúng, không đảm bảo được quyền
lợi của gia đình ông Trụ. Quyết định kháng nghị của Chánh án Tòa án nhân dân tối cao là có
căn cứ. Hội đồng giám đốc thẩm Tòa dân sự Tòa án nhân dân tối cao thấy cần thiết phải hủy
bản án dân sự phúc thẩm và bản án dân sự sơ thẩm để xét sơ thẩm lại theo quy định của pháp
luật.
Câu 6. Suy nghĩ của anh/chị về hướng giải quyết trên của Tòa dân sự Tòa án nhân dân
tối cao.
Trả lời:
Quyết định trên của Tòa dân sự Tòa án nhân dân tối cao là hợp lý. Vì không chỉ có 4 ô văng
cửa sổ, một mán bê tông của nhà ông Hòa chờm qua phần đất của gia đình ông Trụ mà còn
có cả ống nước được chôn lấn sang phần đất của gia đình ông Trụ nhưng Tòa án cấp sơ thẩm
và Tòa án cấp phúc thẩm lại không sử lý việc ống nước như vậy là trái với quy định của pháp
luật. Cho nên Hội đồng giám đốc thẩm Tòa dân sự Tòa án nhân dân tối cao buộc ông Hòa
phải tháo dỡ cả phần ống nước được chôn lấn sang đất nhà ông Trụ.

12
Câu 7: Đoạn nào của quyết định số 23 cho thấy Tòa án không buộc ông Hậu tháo dỡ
nhà trên đất lấn chiếm (52,2m2)?
Trả lời:
Tòa án cấp phúc thẩm buộc ông Hậu trả 132,8m2 đất đã lấn chiếm nhưng là đất trống cho ông
Trê và bà Thi, còn phần đất ông Hậu cũng lấn chiếm nhưng đã xây dựng nhà (52,2 m2) thì giao
cho ông Hậu sử dụng nhưng phải thanh toán giá trị quyền sử dụng đất cho ông Trê và bà Thi
là hợp tình hợp lý.

Câu 8: Ông Trê và bà Thi có biết và phản đối ông Hậu xây dựng nhà trên không?
Trả lời:
Ban đầu ông Trê và bà Thi không biết và không phản đối việc ông Hậu xây dựng nhà trên đất
lấn chiếm của ông Trê và bà Thi. Cụ thể ông Hòa có nói: “Vào ngày 29/3/1994, ông nhận
chuyển nhượng một phần diện tích đất của anh Trần Thanh Kiệt. Khi sang nhượng 2 bên chỉ
lập giấy tay, không kí giáp ranh và lúc đó chủ đất (anh Kiệt) chỉ ranh giới cho ông. Sau khi
chuyển nhượng xong ông đã làm nhà cơ bản trên diện tích đất đang tranh chấp, lúc ông xây
nhà gia đình ông Trê không có ý kiến gì.”
Câu 9: Nếu ông Trê và bà Thi biết và phản đói ông Hậu xây dựng nhà trên thì ông Hậu
có phải tháo dỡ nhà để trả lại đất cho ông Trê và bà Thi không? Vì sao?
Trả lời:
Có. Vì lúc đó ông Trê và bà Thi đã biết và phản đối mà ông Hậu vẫn ngang nhiên xây dựng
nhà trên đất thuộc quyền sở hữu của mình thì có thể tố cáo hoặc khởi kiện giải quyết theo quy
định của pháp luật tố tụng dân sự và Luật đất đai 2013, buộc ông Trê trả lại phần đất mà mình
đã lấn chiếm của người khác, hoặc nếu hai bên có thương lượng khác là ông Hậu sẽ không
tháo dỡ căn nhà đó nhưng phải bồi thường cho gia đình ông Trê một khoản tương thích với
phần đất đó
Câu 10: Suy nghĩ của anh /chị về hướng giải quyết trên của Tòa án liên quan đến phần
đất của ông Hậu chiếm và xây nhà như trên ?
Trả lời:

13
Hướng giải quyết trên của Tòa án là hợp lý vì phần đất của ông Trê, bà Thi đã được sử dụng
trước khi ông Hậu được nhượng đất từ anh Kiệt. Phần đất ông Hậu chiếm của gia đình ông
Trê bà Thi là 185m2 (bao gồm 132.8m2 đất và 52.2m2 xây dựng nhà). Việc Tòa án xem xét
buộc ông Hậu bồi thường số tiền 7,83 chỉ vàng 24k cho 52.2m2 đất đã xây nhà là hợp lí, thay
cho việc đập bỏ phần nhà lấn chiếm đất của ông Trê và bà Thi thì phải mất thêm một số phí
và thời gian cho việc xin nộp đơn sửa chửa và nhiều thủ tục khác. Ông Hậu mua đất từ anh
Kiệt nhưng chỉ có giấy viết tay mà không có chứng nhận của nhà nước là một phần thua
thiệc, ông Hậu không chứng nhận với Ủy ban nhân dân huyện CN để được xác nhận phần đất
đó đã được đăng kí sử dụng của gia đình ông Trê bà Thi.
Câu 11: Theo Tòa án, phần đất ông Hậu xây dựng không phải hoàn trả cho ông Trê, bà
Thi được xử lý như thế nào? Đoạn nào quyết đinh số 23 cho câu trả lời.
Trả lời:
Theo Tòa án, phần đất ông Hậu xây dựng nhà là 52.2m2 được hoàn trả cho ông Trê, bà Thi
bằng số tiền 7.83 chỉ vàng 24K. Ngoài ra, căn nhà của ông Hậu còn có 2 mảng xối đúc bê
tông chiếm khoảng không trên phần đất của ông Trê, bà Thi là 10,71 m2 chưa được Tòa án sơ
thẩm và Tòa án phúc thẩm xem xét buộc ông Hậu phải tháo dỡ hoặc bồi thường số tiền tương
đương giá trị quyền sử dụng đất cho ông Trê bà Thi là chưa bảo đảm quyền lợi của ông Trê,
bà Thi .
Câu 12: Đã có quyết định nào của Hội động thẩm phán theo hướng giải quyết như
quyết đinh số 23 liên quan đến đất bị chiếm và xây dựng nha không? Nêu rõ quyết định
mà anh chị biết?
Trả lời:
Quyết định số 45/2017/QĐST-DS, Tòa án nhân dân huyện Xuyên Mộc, tỉnh Bà Rịa, Vũng
Tàu. Quyết định công nhận thỏa thuận của các đương sự giữa nguyên đơn là ông Nguyễn
Văn Đ1 và bị đơn là ông Trần Văn L và bà Ngô Thị H . Thỏa thụân ông L và bà H đồng ý
giao trả cho ông Đ1 một phần đất có diện tích là 74 m2 thuộc một phần các thửa số 468, 469,
626, 643 tờ bản đồ số 35 của huyện M. Ông Đ1 và ông L và bà H có nghĩa vụ liên hệ với cơ
quan nhà nước có thẩm quyền để làm thủ tục hành chính cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng
đất theo yêu cầu pháp luật.
Câu 13: Anh/chị có suy nghĩ gì về hướng giải quyết trên của Hội đồng thẩm phán trong
quyết định số 23 được bình luận ở đây?
Trả lời:

14
Hướng giải quyết trên khá hợp lí, xét về mặt luật pháp và xã hội, có đủ điều kiện, chứng cớ
và hành vi để giải quyết đúng theo các qui định của nhà nước buộc ông Hậu trả lại phần đất
bị chiếm cho ông Trê bà Thi. Theo tôi thì có một hướng giải quyết, nếu như Tòa án quyết
định mời anh Kiệt (người đã kí giấy nhượng lại phần đất đó cho ông Hậu) để xác nhận về
việc giấy tờ viết tay và thừa đất thì có lẽ ông Hậu sẽ không phải chịu tổn thất về mặt tài sản.
Ông Hậu cũng đã sai khi không lên Ủy ban để xác nhận giấy chuyển nhượng đất theo quy
đinh của nhà nước. Nhưng đối với quyết định số 23 của Hội đồng thẩm phán trong bản án lần
này thì tôi hoàn toàn đồng ý. Tòa án sơ thẩm và Tòa án phúc thẩm đã không buộc tháo dỡ đối
với phần chiếm không gian 10,71m2 và căn nhà phụ có diện tích 18,57m2 trên đất lấn chiếm.
Câu 14: Đối với phần chiếm không gian 10,71 m2 và căn nhà phụ có diện tích là 18,57 m2
trên đất lấn chiếm Tòa án sơ thẩm và Tòa án phúc thẩm có buộc tháo dỡ không?
Trả lời:
Có. Vì ngoài diện tích 52,2m2 đất lấn chiếm, căn nhà của Hậu còn có 2 m3 lúc bê tông chiếm
không gian trên phần đất của ông Trê và bà Thi có diện tích 10,71 m2 chưa được Tòa án cấp sơ
thẩm và Tòa án cấp phúc thẩm xét thỏa đán cho gia đinh ông Trê, thêm vào đó còn có một
căn nhà phụ có diện tích 18,57m2của ông Hậu xây dựng trên đất mà Tòa án cấp cho ông Trê
bà Thi nhưng Tòa án các cấp cũng chưa xem xét giải quyết, gây khó khăn cho việc thi hành
án.
Câu 15: Theo anh/chị thì nên xử lý phần lấn chiếm không gian 10,71 m2 và căn nhà phụ
trên như thế nào?
Trả lời:
1. Theo nhóm, cần xử lý phần lấn chiếm không gian và căn nhà phụ như sau:
Đối với việc căn nhà ông Hậu có hai máng xối đúc bê tông chiếm khoảng không trên
phần đất của ông Trê và bà Thi có diện tích 10,71m2 thì xem xét buộc ông Hậu phải
tháo dỡ hoặc phải thanh toán giá trị quyền sử dụng đất cho ông Trê và bà Thi.
2. Đối với căn nhà phụ có diện tích 18,57 m2 của ông Hậu xây dựng trên diện tích đất mà
Tòa án các cấp buộc ông Hậu trả lại cho ông Trê, bà Thi thì xem xét ở cả hai phương
diện. Nếu ông Hậu muốn tiếp tục sử dụng căn nhà trên diện tích đất phải trả cho ông
Trê, bà Thi này thì ông Hậu phải thanh toán giá trị quyền sử dụng đất đó cho ông Trê,
bà Thi theo thỏa thuận với ông Trê và bà Thi Nếu ông Trê, bà Thi muốn lấy lại đất để
khai thác, sử dụng thì ông Trê, bà Thi phải thanh toán giá trị căn nhà của ông Hậu đã
xây trên mảnh đất đó cho ông Hậu. Tuy nhiên, nếu hai bên có thỏa thuận khác thì nên
tôn trọng sự thỏa thuận của hai bên đặt ra.

15
Câu 16: Suy nghĩ của anh/chị về xử lý việc lấn chiếm quyền sử dụng đất và không gian
ở Việt Nam hiện nay.
Trả lời:
Theo tôi, việc xử lí lấn chiếm quyền sử dụng đất và không gian ở Việt Nam hiện nay chưa
được giải quyết một cách thỏa đáng về quyền và nghĩa vụ giữa các bên. Vì về nguyên tắc, cần
phải tháo dỡ công trình để trả lại cho chủ sở hữu bị lấn chiếm toàn quyền sở hữu của mình.
Tuy nhiên, dưới góc độ kinh tế, những công trình đc xây dưng lên cũng mất 1 khoản chi phí
tương đương, k thể nói là nhỏ, việc tháo dỡ đối với công trình vi phạm sẽ góp phần hạn chế
lãng phí đồng thời bảo vệ hiệu quả quyền và lợi ích hợp pháp giữa các bên. Trong một số
trường hợp ta không nên buộc tháo dỡ lấn chiếm mà buộc người lấn chiếm phải đền bù. Nếu
chúng ta quy định theo hướng bảo vệ tuyệt đối quyền của người có tài sản bị lấn chiếm như
hiện nay thì ta chưa bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của bên có hành vi lấn chiếm. Như
trong trường hợp mà việc cho phép tồn tại công trình không ảnh hưởng nghiêm trọng lợi ích
của người có bất động sản liền kề bị xâm phạm thì ta nên có sự cân bằng: “Tất cả những
người lấn chiếm không ngay tình cần phải tháo dỡ phần đất lấn chiếm theo yêu cầu của chủ
sở hữu đích thực để sự nghiêm minh của pháp luật được đảm bảo. Do vậy, khi người liền kề
lấn chiếm quyền sử dụng đất (và không gian) của người khác mà chủ sở hữu đích thực đã
phản đối thì cần phải tháo dỡ những công trình đã được xây dựng trên phần đất lấn chiếm;
việc tháo dỡ là bắt buộc cho dù thiệt hại từ việc tháo dỡ là bao nhiêu đối với người lấn chiếm.
Tuy nhiên, nếu người lấn chiếm ngay tình và việc lấn chiếm là không đáng kể thì chúng ta
nên theo hướng là cho phép đền bù để không phải tháo dỡ phần đã lấn chiếm. Dưới góc độ
kinh tế thì đôi khi tháo dỡ ra nó sẽ mất hoàn toàn k sử dụng được nữa còn về đạo đức, quyết
định này cũng sẽ giúp cho các bên tranh chấp giữ được quan hệ láng giềng”.
Câu 17: Hướng giải quyết trên của Tòa án trong Quyết định số 23 có còn phù hợp với
BLDS 2015 không? Vì sao?
Trả lời:
Hướng giải quyết trên của Tòa án trong Quyết định số 23 còn phù hợp với BLDS 2015.
BLDS 2015 có quy định về bảo vệ quyền sở hữu, quyền khác đối với tài sản (Điều 163);
quyền yêu cầu chấm dứt các hành vi cản trở trái pháp luật đối với việc thực hiện quyền sở
hữu, quyền khác đối với tài sản (Điều 169) và quyền yêu cầu bồi thường thiệt hại (Điều 170).

16
17

You might also like