You are on page 1of 49

TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

KHOA LUẬT QUỐC TẾ

Môn học: Pháp luật về hợp đồng và bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng

BUỔI THẢO LUẬN THỨ TƯ:

BẢO ĐẢM THỰC HIỆN NGHĨA VỤ


GV hướng dẫn: Lê Thanh Hà

Lớp: 128 – QT46B Nhóm 1

Nhóm thực hiện: Nhóm 1

STT MSSV HỌ VÀ TÊN GHI CHÚ


1 2153801015225 Nguyễn Quốc Toàn Nhóm trưởng
2 2153801015180 Nguyễn Thiện Nhân  
3 2153801015220 Trần Thị Mỹ Tâm  
4 2153801015221 Cao Hà Nhật Tiên  
5 2153801015191 Nguyễn Thị Thảo Nhi  
6 2153801015156 Đoàn Thị Ngân  
7 2153801015188 Nguyễn Hoàng Yến Nhi  
8 2153801015177 Nguyễn Thị Ánh Nguyệt  
MỤC LỤC
VẤN ĐỀ 1: ĐỐI TƯỢNG DÙNG ĐỂ ĐẢM BẢO VÀ TÍNH CHẤT PHỤ CỦA BIỆN PHÁP BẢO
ĐẢM...........................................................................................................................................................5
Câu 1.1. Những điểm mới của BLDS 2015 so với BLDS 2005 liên quan đến tài sản có thể dùng để thực
hiện nghĩa vụ...........................................................................................................................................5

Câu 1.2. Đoạn nào của bản án số 208 cho thấy bên vay dùng giấy chứng nhận sạp để bảo đảm thực hiện
nghĩa vụ trả tiền vay................................................................................................................................7

Câu 1.3. Giấy chứng nhận sạp có là tài sản không? Vì sao?....................................................................7

Câu 1.4. Việc dùng giấy chứng nhận sạp để bảo đảm nghĩa vụ dân sự có được Tòa án chấp nhận
không? Đoạn nào của bản án cho câu trả lời?..........................................................................................8

Câu 1.5. Suy nghĩ của anh/chị về hướng giải quyết và cơ sở pháp lý của Tòa án đối với việc dùng giấy
chứng nhận sạp để bảo đảm nghĩa vụ......................................................................................................9

Câu 1.6. Đoạn nào của Quyết định số 02 cho thấy các bên đã dùng quyền sử dụng đất để cầm cố?......10

Câu 1.7. Văn bản hiện hành có cho phép dùng quyền sử dụng đất để cầm cố không? Nêu cơ sở văn bản
khi trả lời?.............................................................................................................................................10

Câu 1.8. Trong Quyết định trên, Tòa án có chấp nhận cho phép quyền sử dụng đất để cầm cố không?
Đoạn nào của Quyết định cho câu trả lời?.............................................................................................11

Câu 1.9. Suy nghĩ của anh/chị về hướng giải quyết trên của Tòa án trong Quyết định số 02................11

Câu 1.10. Trong Quyết định số 27, thế chấp được sử dụng để bảo đảm cho nghĩa vụ nào? Vì sao?......13

Câu 1.11. Đoạn nào trong Quyết định số 27 cho thấy Tòa án xác định hợp đồng thế chấp đã chấm dứt?
...............................................................................................................................................................13

Câu 1.12. Vì sao Tòa án xác định hợp đồng thế chấp nêu trên đã chấm dứt..........................................14

Câu 1.13. Việc Tòa án xác định hợp đồng thế chấp nêu trên đã chấm dứt có thuyết phục không? Vì
sao?........................................................................................................................................................15

Câu 1.14. Khi xác định hợp đồng thế chấp chấm dứt, Tòa án theo hướng bên nhận thế chấp (Ngân
hàng) có trách nhiệm hoàn trả Giấy chứng nhận quyền sở hữu nhà và quyền sử dụng đất có thuyết phục
không? Vì sao?......................................................................................................................................16

VẤN ĐỀ 2: ĐĂNG KÝ GIAO DỊCH BẢO ĐẢM.................................................................................17


Câu 2.1. Điểm mới của BLDS 2015 so với BLDS 2005 về đăng ký giao dịch bảo đảm........................17

Câu 2.2. Hợp đồng thế chấp số 1013/2019/HĐTC ngày 07/9/2009 có thuộc trường hợp phải đăng ký
không? Vì sao?......................................................................................................................................19

2
Câu 2.3. Hợp đồng thế chấp số 07/9/2019 đã được đăng ký phù hợp với quy định không? Đoạn nào của
bản án cho câu trả lời?...........................................................................................................................19

Câu 2.4. Theo Tòa án, nếu không được đăng ký, hợp đồng thế chấp số 07/9/2019 có vô hiệu không? Vì
sao?........................................................................................................................................................20

Câu 2.5. Hướng của Tòa án như trong câu hỏi trên có thuyết phục không? Vì sao?..............................21

Câu 2.6. Hợp đồng thế chấp trong Quyết định số 21 có hiệu lực đối kháng với người thứ ba không? Vì
sao?........................................................................................................................................................21

Câu 2.7. Theo quy định về đòi tài sản (Điều 166 và tiếp theo BLDS năm 2015), Ngân........................22

hàng có quyền yêu cầu ông Tân (người thứ ba so với hợp đồng thế chấp) trả lại..................................22

tài sản thế chấp (xe ô tô) không? Vì sao?...............................................................................................22

Câu 2.8. Việc Tòa án buộc ông Tân trả lại tài sản thế chấp (xe ô tô) cho Ngân hàng có thuyết phục
không? Vì sao?......................................................................................................................................23

VẤN ĐỀ 3: ĐẶT CỌC............................................................................................................................24


Câu 3.1. Khác biệt cơ bản giữa đặt cọc và cầm cố, đặt cọc và thế chấp.................................................24

Câu 3.2. Thay đổi giữa BLDS 2015 và BLDS 2005 về thế chấp...........................................................27

Câu 3.3. Theo BLDS, khi nào bên đặt cọc mất cọc, bên nhận cọc bị phạt cọc?.....................................28

Câu 3.4. Nếu hợp đồng được đặt cọc không được giao kết, thực hiện vì lý do khách quan, bên nhận cọc
có nghĩa vụ trả lại tài sản đặt cọc cho bên đặt cọc không? Vì sao?........................................................29

Câu 3.5. Theo Quyết định được bình luận, bên đặt cọc đã chuyển tài sản đặt cọc cho bên nhận cọc như
thế nào?.................................................................................................................................................30

Câu 3.6. Theo Tòa giám đốc thẩm trong Quyết định được bình luận, tài sản đặt cọc còn thuộc sở hữu
của bên đặt cọc không? Vì sao?.............................................................................................................30
Câu 3.7. Suy nghĩ của anh/chị về hướng giải quyết trên của Tòa giám đốc thẩm liên quan đến quyền sở
hữu tài sản đặt cọc.................................................................................................................................31

Câu 3.8. Đoạn nào cho thấy Tòa án đã áp dụng Án lệ số 25/2018/AL?.................................................32

Câu 3.9. Việc Tòa án áp dụng Án lệ số 25/2018/AL vào hoàn cảnh trong vụ việc này có thuyết phục
không? Vì sao?......................................................................................................................................33

Câu 3.10. Việc Tòa án “không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của ông P, về việc yêu cầu ông I phải trả số
tiền phạt cọc là 450.000.000đ” có phù hợp với Án lệ số 25/2018/AL không? Vì sao?..........................35

VẤN ĐỀ 4: BẢO LÃNH..........................................................................................................................36


Câu 4.1. Những đặc trưng của bảo lãnh.................................................................................................36

Câu 4.2. Những thay đổi giữa BLDS 2015 và BLDS 2005 về bảo lãnh................................................36

3
Câu 4.3. Đoạn nào cho thấy Tòa án xác định quan hệ giữa ông Miễn, bà Cà với Quỹ tín dụng là quan
hệ bảo lãnh?...........................................................................................................................................39

Câu 4.4. Suy nghĩ của anh/chị vế việc xác định trên cảu Hội đồng thẩm phán......................................40

Câu 4.5. Theo Tòa án, quyền sử dụng đất của ông Miễn, bà Cà được sử dụng để bảo đảm cho nghĩa vụ
nào? Vì sao?..........................................................................................................................................40

Câu 4.6. Đoạn nào cho thấy Tòa án địa phương đa theo hướng người bảo lãnh và người dược bảo lãnh
liên đới thực hiện nghĩa vụ cho người có quyền?..................................................................................41

Câu 4.7. Hướng liên đới trên có được Tòa giám đốc thẩm chấp nhận không?.......................................42

Câu 4.8. Suy nghĩ của anh/chị về hướng giải quyết trên của Tòa giám đốc thẩm liên quan đến vấn đề
liên đới nêu trên.....................................................................................................................................42

Câu 4.9. Phân biệt thời điểm phát sinh nghĩa vụ bảo lãnh và thời điểm thực hiện nghĩa vụ bảo lãnh....43

Câu 4.10 Theo BLDS, khi nào người bảo lãnh phải thực hiện nghĩa vụ bảo lãnh?................................44

Câu 4.11. Theo Quyết định, khi nào người bảo lãnh phải thực hiện nghĩa vụ bảo lãnh?.......................44

Câu 4.12: Có bản án, quyết định nào theo hướng giải quyết trên về thời điểm thực hiện nghĩa vụ bảo
lãnh chưa? Nêu rõ Bản án, Quyết định mà anh/chị biết.........................................................................45

Câu 4.13. Suy nghĩ của anh/chị về hướng giải quyết trên của Tòa Giám đốc Thẩm..............................46

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO...................................................................................................47

4
VẤN ĐỀ 1: ĐỐI TƯỢNG DÙNG ĐỂ ĐẢM BẢO VÀ TÍNH CHẤT
PHỤ CỦA BIỆN PHÁP BẢO ĐẢM
Câu 1.1. Những điểm mới của BLDS 2015 so với BLDS 2005 liên quan đến tài sản có
thể dùng để thực hiện nghĩa vụ.
Trả lời:

Về tài sản được sử dụng để bảo đảm, BLDS 2015 có nhiều thay đổi so với BLDS 2005.
Ngày nay, Điều 295 quy định:

“1. Tài sản bảo đảm phải thuộc quyền sở hữu của bên bảo đảm, trừ trường hợp cầm giữ
tài sản, bảo lưu quyền sở hữu.

2. Tài sản bảo đảm có thể được mô tả chung, nhưng phải xác định được.

3. Tài sản bảo đảm có thể là tài sản hiện có hoặc tài sản hình thành trong tương lai.

4. Giá trị của tài sản bảo đảm có thể lớn hơn, bằng hoặc nhỏ hơn giá trị nghĩa vụ được
bảo đảm”.

So với BLDS 2005 và so với Dự thảo mà Chính phủ trình Quốc hội, BLDS có nhiều thay
đổi:

Thứ nhất, BLDS 2015 có một điều luật trong khi đó BLDS 2005 có tới ba điều
luật về tài sản bảo đảm là Điều 320 về “Vật bảo đảm thực hiện nghĩa vụ dân sự”, Điều
321 về “Tiền, giấy tờ có giá dùng để bảo đảm thực hiện nghĩa vụ” và Điều 322 về
“Quyền tài sản dùng để bảo đảm thực hiện nghĩa vụ dân sự”. Với các quy định theo
hướng liệt kê như trên, BLDS 2005 “dường như cũng chỉ là sự lặp lại các loại tài sản theo
quy định tại Điều 163 của Bộ luật” nhưng việc rút gọn thành một điều luật đã gây lo ngại
trong quá trình chỉnh lý Dự thảo tại Quốc hội. Tuy nhiên, sự lo ngại này đã được trấn an
do càng liệt kê càng không đủ trong khi đó việc sử dụng thuật ngữ chung “tài sản” mà
không liệt kê từng loại tài sản cho phép khai thác nhiều nhất tài sản và biện pháp bảo đảm
và đây là hướng cần làm đối với BLDS.1

1
PGS.TS Đỗ Văn Đại, Bình luận khoa học những điểm mới của Bộ luật Dân sự 2015, Nxb Hồng Đức – Hội Luật
gia Việt Nam.

5
Thứ hai, trong phần về Biện pháp bảo đảm, BLDS 2005 có quy định làm rõ yếu tố
“tương lai” của các tài sản bảo đảm tại khoản 2 Điều 320 theo đó “vật hình thành trong
tương lai là động sản, bất động sản thuộc sở hữu của bên bảo đảm sau thời điểm nghĩa vụ
được xác lập hoặc giao dịch bảo đảm được giao kết”. Dự thảo theo hướng làm rõ tài sản
hiện có với quy định “tài sản hiện có là tài sản đã hình thành tại thời điểm ký kết hợp
đồng bảo đảm”. Cuối cùng, trong Điều 295 nêu trên (thuộc phần Biện pháp bảo đảm thực
hiện nghĩa vụ), BLDS không có quy định làm rõ thế nào là tài sản hiện có hay tài sản
hình thành trong tương lai. Sở dĩ phần Biện pháp bảo đảm không có quy định nào về chủ
đề này là vì đã có quy định trong phần “Tài sản” thuộc những vấn đề chung của BLDS
như Điều 108 theo đó “tài sản hiện có là tài sản đã hình thành và chủ thể đã xác lập quyền
sở hữu, quyền khác đối với tài sản trước hoặc tại thời điểm xác lập giao dịch” và “tài sản
hình thành trong tương lai bao gồm: Tài sản chưa hình thành, tài sản đã hình thành nhưng
chủ thể xác lập quyền sở hữu tài sản sau thời điểm xác lập giao dịch”. Cách xây dựng quy
định như vừa nêu trên là rất thuyết phục, làm cho BLDS không rườm rà mà nội dung
không thiếu.

Thứ ba, vấn đề sở hữu tài sản bảo đảm cũng được đặt ra trong quá trình sửa đổi
BLDS. Dự thảo mà Chính phủ trình Quốc hội đã theo hướng “tài sản bảo đảm là tài sản
thuộc quyền sở hữu của bên bảo đảm hoặc tài sản thuộc sở hữu của người khác”. Đoạn
in nghiêng ở trên chủ yếu tập trung vào hoàn cảnh như sau: A cho B vay và dùng tài sản
của C để bảo đảm. Tuy nhiên, nội dung này gây tranh cãi trong quá trình chỉnh lý Dự
thảo tại Quốc hội và không được giữ lại trong BLDS 2015 vì BLDS 2015 chỉ quy định
“Tài sản bảo đảm phải thuộc quyền sở hữu của bên bảo đảm, trừ trường hợp cầm giữ tài
sản, bảo lưu quyền sở hữu”. Về trường hợp dùng tài sản của người thứ ba so với hợp
đồng vay, BLDS 2015 hướng xử lý trong phần bảo lãnh với nội dung “Các bên có thể
thỏa thuận sử dụng biện pháp bảo đảm bằng tài sản để bảo đảm thực hiện nghĩa vụ bảo
lãnh” (Khoản 3 Điều 336)

Ngoài ra, BLDS 2015 cũng bổ sung quy định về giá trị của tài sản bảo đảm là có
thể lớn hơn, bằng hoặc nhỏ hơn giá trị nghĩa vụ được bảo đảm. Quy định này được đưa
vào để loại bỏ một thực tế là đôi khi có người yêu cầu giá trị tài sản bảo đảm phải lớn hơn
giá trị nghĩa vụ được bảo đảm. Tại Khoản 1 Điều 320 BLDS 2005 quy định: “Vật bảo
đảm thực hiện nghĩa vụ dân sự phải thuộc quyền sở hữu của bên bảo đảm và được phép
giao dịch. Tuy nhiên, đến BLDS 2015, quy định này không được giữ lại. Sở dĩ phần Biện

6
pháp bảo đảm thực hiện nghĩa vụ bỏ quy định này không phải là cho phép sử dụng tài sản
không được phép giao dịch để bảo đảm mà là do các quy định chung đã có hướng giải
quyết.”.

Tóm tắt bản án số 208/2010/DS_PT ngày 09/03/2010 của TAND TP.HCM:


Nguyên đơn: Ông Phạm Bá Minh.
Bị đơn: bà Bùi Thị Khen và ông Nguyễn Khắc Thảo.
Nội dung vụ án: Ngày 14/09/2017 bà Khen và ông Thảo thế chấp cho ông Minh một
giấy sử dụng sạp D2-9 tại chợ Tân Hương để vay 60.000.000đ, thời hạn vay là 6 tháng,
lãi suất 3%/1 tháng. Khi hết thời hạn hợp đồng, ông Thảo bà Khen không thanh toán
được nên đã kéo dài số nợ trên. Cho đến nay thì mới thanh toán được tiền lãi của 22
tháng là 29.600.000đ, còn nợ 10.000.000đ tiền lãi nên ông Minh yêu cầu trả vốn lẫn lãi
là 70.000.000đ trong vòng 1 tháng. Về phần mình, ông Thảo và bà Khen đề nghị trả số
tiền trên trong thời hạn 12 tháng.
Quyết định của Tòa án phúc thẩm: Bác yêu cầu kháng cáo của nguyên đơn, ông
Phạm Bá Minh. Xử lý theo Tòa sơ thẩm.

Câu 1.2. Đoạn nào của bản án số 208 cho thấy bên vay dùng giấy chứng nhận sạp để
bảo đảm thực hiện nghĩa vụ trả tiền vay.
Trả lời:

Theo Bản án số 208, đoạn cho thấy bên vay dùng giấy chứng nhận sạp để bảo đảm
thực hiện nghĩa vụ trả tiền vay là:

“Bị đơn bà Bùi Thị Khen và ông Nguyễn Khắc Thảo xác nhận:

Có thế chấp một giấy tờ sạp D2-9 tại chợ Tân Hương để vay 60.000.000 đồng cho
ông Phạm Bá Minh là chủ dịch vụ cầm đồ Bá Minh. Lãi suất là 3%/ tháng. Ông bà đã
đóng lãi 36.800.000 đồng từ tháng 9/2007 đến tháng 7/2008 thì ngưng không đóng nữa,
nên còn nợ tiền lãi là 10.000.000 đồng. Việc trả lãi không có giấy tờ. Nay ông bà đồng ý
trả số tiền 70.000.000 đồng cho ông Minh, nhưng xin trả trong hạn là 12 tháng.”

Câu 1.3. Giấy chứng nhận sạp có là tài sản không? Vì sao?
Trả lời:

7
Giấy chứng nhận sạp không phải là tài sản.
Theo khoản 1 Điều 105 BLDS 2015 thì: “Tài sản là vật, tiền, giấy tờ có giá trị và quyền
tài sản.” Trong đó:
- Vật phụ thuộc vào ý chí của các bên hướng đến để xét khi nào là vật và khi nào
không phải là vật.
- Tiền do Ngân hàng nhà nước phát hành, Giấy chứng nhận sạp không phải do nhà
nước phát hành nên không phải là tiền theo khoản 9 Điều 3 Nghị định
163/2006/NĐ-CP.
- Theo khoản 8 Điều 6 Luật Ngân hàng thì: Giấy tờ có giá là bằng chứng xác nhận
nghĩa vụ trả nợ giữa tổ chức phát hành giấy tờ có giá với người sở hữu giấy tờ có
giá trong một thời hạn nhất định, điều kiện trả lãi và các điều kiện khác. Do đó
giấy chứng nhận sạp không phải là giấy tờ có giá.
- Theo Điều 115 BLDS 2015 thì quyền tài sản là quyền trị giá được bằng tiền, bao
gồm quyền tài sản đối với dối tượng quyền sở hữu trí tuệ, quyền sử dụng đất và
quyền tài sản khác. Vì thế giấy chứng nhận sạp cũng không phải là một tài sản.
Như vậy, giấy chứng nhận sạp chỉ ghi nhận quyền được sử dụng sạp để bà Khen buôn
bán tại chợ Tân Hưng, không thuộc quyền sở hữu của bà Khen, bà chỉ được sử dụng chứ
không có đặc quyền nào khác đối với cái sạp, cái sạp đó không phải là tài sản của bà nên
giấy chứng nhận sử dụng sạp không nằm trong danh mục các loại giấy tờ có giá trị tại
khoản 9 Điều 3 Nghị định 163/2006/NĐ–CP và cũng không là vật, tiền và quyền tài sản,
do vậy giấy chứng nhận sạp không là tài sản.

Câu 1.4. Việc dùng giấy chứng nhận sạp để bảo đảm nghĩa vụ dân sự có được Tòa
án chấp nhận không? Đoạn nào của bản án cho câu trả lời?
Trả lời:
Việc dùng giấy chứng nhận sạp để đảm bảo thực hiện nghĩa vụ dân sự không được
Tòa án chấp nhận.

Theo bản án số 208/2010/DS-PT ngày 09/03/2010 của Tòa án nhân dân TP Hồ Chí Minh,
tại trang 2 có đoạn: "Xét sạp thịt heo do bà Khen đứng tên và cầm cố, nhưng giấy chứng
nhận sạp D2-9 tại chợ Tân Hương là giấy đăng kí sử dụng sạp, không phải quyền sở hữu,
nên giấy chứng nhận trên không đủ cơ sở pháp lý để ba khen thi hành án trả tiền cho ông
Minh".

8
Câu 1.5. Suy nghĩ của anh/chị về hướng giải quyết và cơ sở pháp lý của Tòa án đối
với việc dùng giấy chứng nhận sạp để bảo đảm nghĩa vụ.
Trả lời:

Đối với hướng giải quyết và cơ sở pháp lý của Tòa án đối với việc dùng giấy
chứng nhận sạp để bảo đảm nghĩa vụ ở bản án trên là hợp lý và thuyết phục.

Tòa án xét thấy, sạp thịt heo do bà Khen đứng tên và cầm cố, nhưng có giấy chứng
nhận sạp D2-9 tại chợ Tân Hương là giấy đăng ký sử dụng sạp, không phải quyền sở hữu,
nên giấy chứng nhận trên không đủ cơ sở pháp lí để bà Khen thi hành án trả tiền cho ông
Minh.

Căn cứ vào Khoản 1 Điều 295 BLDS 2015 về tài sản đảm bảo thực hiện nghĩa vụ
dân sự: “Tài sản bảo đảm phải thuộc quyền sở hữu của bên bảo đảm, trừ trường hợp cầm
giữ tài sản, bảo lưu quyền sở hữu.”

Trong đó:
- Giấy chứng nhận sạp không phải là vật, ý chí của các bên hướng đến để xét khi
nào là vật và khi nào không phải là vật.
- Giấy chứng nhận sạp không phải tiền, tiền do Ngân hàng nhà nước phát hành,
Giấy chứng nhận sạp không phải do nhà nước phát hành nên không phải là tiền
theo khoản 9 Điều 3 Nghị định số 163/2006/NĐ-CP.
- Giấy chứng nhận sạp không phải là giấy tờ có giá, theo khoản 8 Điều 6 Luật Ngân
hàng thì: Giấy tờ có giá là bằng chứng xác nhận nghĩa vụ trả nợ giữa tổ chức phát
hành giấy tờ có giá với người sở hữu giấy tờ có giá trong một thời hạn nhất định,
điều kiện trả lãi và các điều kiện khác, như vậy, giấy chứng nhận sạp cũng không
phải là giấy tờ có giá.
- Theo Điều 115 BLDS 2015 thì quyền tài sản là quyền trị giá được bằng tiền, bao
gồm quyền tài sản đối với dối tượng quyền sở hữu trí tuệ, quyền sử dụng đất và
quyền tài sản khác. Vì thế giấy chứng nhận sạp cũng không phải là một tài sản.
Như vậy, giấy chứng nhận sạp chỉ ghi nhận quyền được sử dụng sạp để bà Khen buôn
bán tại chợ Tân Hưng, không thuộc quyền sở hữu của bà Khen. Hướng giải quyết của
Tòa án trong bản án số 208 trên là hoàn toàn hợp lý. Theo đó, tài sản cầm cố đó nếu
không thuộc quyền sở hữu của bà Khen thì bà Khen có quyền sử dụng nó chứ không có
quyền định đoạt nó trong giao dịch cầm cố sạp để trả nợ cho ông Minh.

9
Tóm tắt quyết định số 02/2014/QĐ-UBTP ngày 28/2/2014 của Tòa án nhân dân
tỉnh Tiền Giang V/v “Tranh chấp hợp đồng cầm cố quyền sử dụng đất”.
Nguyên đơn: Ông Nguyễn Văn Ôn, bà Lê Thị Xanh.
Bị đơn: Ông Nguyễn Văn Rành.
Nội dung: Vào năm 1995, ông Ôn và bà Xanh có cầm cố cho ông Rành 3000m2 đất
với giá 30 chỉ vàng 24k. Vợ chồng ông Rành đã giao đủ vàng, hai bênthỏa thuận 3 năm
sẽ chuộc lại, nếu không chuộc lại thì ông sẽ canh tác vĩnh viễn. Hiện tại, phần đất tranh
chấp vợ chồng ông Rành đang canh tác và còn 2,5 tháng sẽ thu hoạch.
Quyết định của Tòa án Tại Quyết định Giám đốc thẩm đã chấp nhận kháng nghị của
Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Tiền Giang và cho rằng: giao dịch giữa ông
Ôn, bà Xanh và ông Rành là giao dịch tương tự như là giao dịch cầm cố tài sản phải áp
dụng nguyên tắc tương tự là các quy định về cầm cố tài sản để giải quyết, cũng như
hủy bản án dân sự sơ thẩm của Tòa án nhân dân huyện Châu Thành về việc “Tranh
chấp hợp đồng cầm cố quyền sử dụng đất”.

Câu 1.6. Đoạn nào của Quyết định số 02 cho thấy các bên đã dùng quyền sử dụng
đất để cầm cố?
Trả lời:

Trong Quyết định số 02 đoạn cho thấy các bên đã dùng quyền sử dụng đất để cầm
cố: “Vào ngày 30/08/1995 (âm lịch), ông Ôn, bà Xanh và ông Rành đã xác lập giao dịch
“thục đất làm ruộng” (BL31). Theo thỏa thuận này thì ông Ôn, bà Xanh là người có tài
sản là quyền sử dụng đất (QSDĐ) hợp pháp, ông Rành có tài sản là 30 chỉ vàng. Thực
hiện giao dịch ông Ôn, bà Xanh giao QSDĐ cho ông Rành canh tác, đổi lại ông Rành đưa
cho ông Ôn, bà Xanh 30 chỉ vàng 24k để sử dụng, hai bên thỏa thuận nếu quá 03 năm
ông Ôn, bà Xanh không chuộc lại đất cũng bằng số vàng trên thì ông Rành có quyền canh
tác số ruộng đất này vĩnh viễn.”

Câu 1.7. Văn bản hiện hành có cho phép dùng quyền sử dụng đất để cầm cố không?
Nêu cơ sở văn bản khi trả lời?
Trả lời:

10
Văn bản hiện hành có cho phép dùng quyền sử dụng đất để cầm cố.

Theo quy định tại khoản 1 Điều 105 BLDS 2015 “Tài sản là vật, tiền, giấy tờ có
giá và quyền tài sản” và Điều 115 BLDS 2015: “Quyền tài sản là quyền trị giá được bằng
tiền, bao gồm quyền tài sản đối với đối tượng quyền sở hữu trí tuệ, quyền sử dụng đất và
các quyền tài sản khác”. Vì quyền sử dụng đất được luật thừa nhận là quyền tài sản, là bất
động sản nên quyền sử dụng đất là tài sản thuộc sở hữu của một chủ thể có quyền sử
dụng đất đó. Theo khoản 1 Điều 167 Luật Đất đai 2013: “Người sử dụng đất được thực
hiện các quyền chuyển đổi, chuyển nhượng, cho thuê, cho thuê lại, thừa kế, tặng cho, thế
chấp, góp vốn quyền sử dụng đất theo quy định của luật này”. Theo Điều 310 BLDS
2015, pháp luật quy định cho phép cầm cố bất động sản. Do đó người sử dụng đất hoàn
toàn có quyền cầm cố quyền sử dụng đất theo quy định của pháp luật.

Câu 1.8. Trong Quyết định trên, Tòa án có chấp nhận cho phép quyền sử dụng đất
để cầm cố không? Đoạn nào của Quyết định cho câu trả lời?
Trả lời:

Trong Quyết định giám đốc thẩm thì Ủy ban Thẩm phán Tòa án nhân dân Tiền
Giang chấp nhận cho phép việc sử dụng quyền sử dụng đất là tài sản bảo đảm, thể hiện ở
phần xét thấy: “Xét việc giao dịch thửa đất nêu trên là tương tự với giao dịch cầm cố tài
sản, do đó phải áp dụng nguyên tắc tương tự để giải quyết. Về nội dung thì giao dịch thục
đất nêu trên phù hợp với quy định về cầm cố tài sản của Bộ luật dân sự (tại Điều 326,
327), do đó cần áp dụng các quy định về cầm cố tài sản của Bộ luật dân sự để giải quyết
mới bảo đảm quyền lợi hợp pháp của các bên giao dịch.

Tuy nhiên bản án sơ thẩm lại xác định giao dịch trên trái pháp luật và áp dụng các
quy định về giao dịch là vô hiệu để giải quyết nhưng không xem xét về hậu quả pháp lý
nên chưa phù hợp với trường hợp trên, như vậy có sai lầm nghiêm trọng trong việc áp
dụng pháp luật.”

Câu 1.9. Suy nghĩ của anh/chị về hướng giải quyết trên của Tòa án trong Quyết định
số 02.
Trả lời:

Hướng giải quyết của Tòa án trong việc chấp nhận cho phép dùng quyền sử dụng
đất để cầm cố là hợp lý. Vì:

11
Thứ nhất, Điều 310 BLDS 2015 quy định về cầm cố tài sản đã quy định:

“Cầm cố tài sản có hiệu lực đối kháng với người thứ ba kể từ thời điểm bên nhận
cầm cố nắm giữ tài sản cầm cố.

Trường hợp bất động sản là đối tượng của cầm cố theo quy định của luật thì việc
cầm cố bất động sản có hiệu lực đối kháng với người thứ ba kể từ thời điểm đăng ký”.

Có thể thấy, BLDS 2015 đã ghi nhận rõ ràng về việc có thể cầm cố bất động sản.

Thứ hai, với giao dịch trên giữa nguyên đơn và bị đơn, có thể thấy, mặc dù pháp
luật dân sự không có bất kỳ quy định cụ thể nào về việc cho người sử dụng đất có quyền
cầm cố QSDĐ nhưng xét về bản chất của giao dịch này, thấy rằng giữa các bên đương sự
đã thực hiện một giao dịch cầm cố tài sản cho nhau tuẩn thủ đúng theo quy định của pháp
luật về hình thức, nội dung của hợp đồng từ Điều 309 đến 316. Điều 6 BLDS 2015 cũng
đã quy định: “Trường hợp phát sinh quan hệ thuộc phạm vi điều chỉnh của pháp luật dân
sự mà các bên không có thỏa thuận, pháp luật không có quy định và không có tập quán
được áp dụng thì áp dụng quy định của pháp luật điều chỉnh quan hệ dân sự tương tự.”
Như vậy, đối với trường hợp trong vụ án trên, khi pháp luật chưa có quy định rõ ràng về
việc cầm cố quyền sử dụng đất, ta hoàn toàn có thể áp dụng pháp luật tương tự trong tình
huống này.

Thứ ba, khoản 1 Điều 167 Luật Đất đai 2013 đã quy định: “Người sử dụng đất
được thực hiện các quyền chuyển đổi, chuyển nhượng, cho thuê, cho thuê lại, thừa kế,
tặng cho, thế chấp, góp vốn quyền sử dụng đất theo quy định của Luật này.” Như vậy, có
thể thể, tuy Luật Đất đai 2013 không quy định về quyền cầm cố của người sử dụng đất,
nhưng cũng không có quy định cấm. Như vậy, trên thực tiễn, người sử dụng đất vẫn có thể
cầm cố quyền sử dụng đất.

Thứ tư, giao dịch giữa hai bên Nguyên đơn và Bị đơn đều không thuộc các trường
hợp bị vô hiệu mà BLDS quy định từ Điều 125 đến Điều 138.

Thứ năm, Điều 6 của BLDS 2015 đã quy định: “Trường hợp phát sinh quan hệ
thuộc phạm vi điều chỉnh của pháp luật dân sự mà các bên không có thỏa thuận, pháp luật
không có quy định và không có tập quán được áp dụng thì áp dụng quy định của pháp luật
điều chỉnh quan hệ dân sự tương tự.” Như vậy, đối với trường hợp trong vụ án trên, khi

12
pháp luật chưa có quy định rõ ràng về việc cầm cố quyền sử dụng đất, ta hoàn toàn có thể
áp dụng pháp luật tương tự trong tình huống này.

Dựa vào 5 luận điểm trên, có thể kết luận, việc Tòa án chấp nhận cho phép dùng
quyền sử dụng đất để cầm cố là hoàn toàn hợp lý.

Tóm tắt quyết định giám đốc thẩm số 27/2021/DS – GĐT ngày 2/6/2021 V/v
“tranh chấp hợp đồng tín dụng”.
Nguyên đơn: Ngân hàng Liên doanh V.
Bị đơn: Công ty PT.
Nội dung vụ án: Vào năm 2014, giữa Ngân hàng Liên doanh V và Công ty PT đã ký
kết các hợp đồng tín dụng với mục đích vay vốn lưu động phục vụ sản xuất và Ngân
hàng cấp đã hạn mức tín dụng tối đa 10.000.000.000 đồng. Để đảm bảo nghĩa vụ trả nợ
cho Ngân hàng, các bên bảo lãnh đã ký kết hợp đồng thế chấp. Theo phía Ngân hàng
thì nhiều hợp đồng tính dụng cụ thể phía Công ty PT đã tất toán, nhưng vẫn còn nhiều
hợp đồng chưa thanh toán. Tính đến ngày 5/09/2019, công ty PT còn thiếu Ngân hàng
Liên doanh V – chi nhánh Thành phố H số tiền là 5.235.426.579 đồng và 69.444,52
USD (bao gồm cả nợ gốc lẫn lãi). Tòa án cấp sơ thẩm và phúc thẩm tuyên buộc Công
ty PT phải trả số nợ trên và tiếp tục trả lãi phát sinh cho Ngân hàng từ ngày 5/0/2019
cho đến khi trả hết xong khoản nợ.

Câu 1.10. Trong Quyết định số 27, thế chấp được sử dụng để bảo đảm cho nghĩa vụ
nào? Vì sao?
Trả lời:

Trong Quyết định số 27, thế chấp được sử dụng để đảm bảo cho nghĩa vụ trả nợ.

Vì vào năm 2014, công ty PT đã ký kết các hợp đồng tín dụng vào nhiều mục đích
với ngân hàng Liên doanh V, do đó để đảm bảo nghĩa vụ trả nợ cho ngân hàng, các bên
đã ký kết các hợp đồng thế chấp.

13
Câu 1.11. Đoạn nào trong Quyết định số 27 cho thấy Tòa án xác định hợp đồng thế
chấp đã chấm dứt?
Trả lời:

Đoạn trong Quyết định số 27 cho thấy Tòa án xác định hợp đồng thế chấp đã chấm
dứt là:

“Tuy nhiên, theo sự xác nhận của phía Ngân hàng thì Công ty PT đã thanh toán tất
cả các khoản nợ theo các hợp đồng tín dụng cụ thể nêu trên và phía Ngân hàng cũng đã
tất toán các hợp đồng vào ngày cuối cùng 25/11/2014. Do vậy, căn cứ theo quy định tại
khoản 1 Điều 357 Bộ luật dân sự năm 2005 về việc thế chấp tài sản chấm dứt khi nghĩa
vụ được bảo đảm bằng thế chấp chấm dứt thì Hợp đồng thế chấp bất động sản số
63/2014/HĐTC ngày 06/6/2014 đã chấm dứt, hết hiệu lực từ ngày 25/11/2014”.

Câu 1.12. Vì sao Tòa án xác định hợp đồng thế chấp nêu trên đã chấm dứt.
Trả lời:

Tòa án xác định hợp đồng thế chấp đã chấp nêu trên đã chấm dứt, vì:

Thứ nhất, đến ngày 23/4/2015, giữa Ngân hàng và Công ty PT tiếp tục ký hợp
đồng số 091/2015/HDTD với hạn mức tín dụng tối đa lên 10.000.000.000 đồng nhưng
không hề có ý kiến của người thế chấp là ông Trần T và bà Trần Thị H là không đúng
quy định.

Thứ hai, quá trình giải quyết vụ án, phía Ngân hàng có cung cấp “Bản cam kết thế
chấp” để chứng minh ông T, bà H cam kết dùng tài sản để đảm bảo nghĩa vụ trả nợ thay
cho Công ty PT nhưng Bộ Công an kết luận chữ ký và chữ viết ông Trần T và bà Trần
Thị H không phải chữ ký, chữ viết thật của mình để đảm bảo nghĩa vụ trả nợ thay cho
Công ty PT đối với khoản nợ của Ngân hàng với hạn mức là 5.000.000.000 đồng.

Thứ ba, Tòa án xác nhận được nguyên đơn Ngân hàng Việt Nga thừa nhận Công
ty PT đã tất toán các khoản vay từ Hợp đồng tín dụng số 60/2014/HĐTD ngày 14/4/2014
lần lượt vào các ngày 15/10/2014; ngày 25/10/2014 và ngày 12/11/2014. Vì vậy, việc thế
chấp tài sản của ông T, bà H đã chấm dứt theo quy định tại khoản 1 Điều 357 BLDS năm
2005 và khoản 1 Điều 327 BLDS năm 2015.

14
Câu 1.13. Việc Tòa án xác định hợp đồng thế chấp nêu trên đã chấm dứt có thuyết
phục không? Vì sao?

Trả lời:

Việc tòa án xác định hợp đồng thế chấp nêu trên đã chấm dứt là thuyết phục.

Theo khoản 1 Điều 317 BLDS 2015 quy định: “Thế chấp tài sản là việc một bên
(sau đây gọi là bên thế chấp) dùng tài sản thuộc sở hữu của mình để bảo đảm thực hiện
nghĩa vụ và không giao tài sản cho bên kia (sau đây gọi là bên nhận thế chấp).” Theo đó,
trong tình huống, để đảm bảo cho khoản vay 1.500.000.000 đồng của Công ty PT theo
Hợp đồng tín dụng số 60/2014/HĐTD ngày 14/4/2014, Ông T và bà H đã thế chấp tài sản
là quyền sử dụng đất có diện tích là 120,75m2 và căn nhà 02 tầng gắn liền với đất có diện
tích sử dụng là 214,62m² đất thuộc thửa số 392; tờ bản đồ số 3, tại số 40, đường Đ,
Phường 13, quận T, Thành phố H do ông Trần T và bà Trần Thị H đứng tên giấy chứng
nhận quyền sử dụng đất.

Theo khoản 2 Điều 1 của Hợp đồng thế chấp mà 2 bên đã thỏa thuận có ghi: “Hợp
đồng này để bảo đảm thực hiện toàn bộ nghĩa vụ đã, đang và sẽ hình thành trong tương
lai theo toàn bộ các Hợp đồng tín dụng đã và sẽ ký giữa Ngân hàng với Bên vay trong
giới hạn số tiền tối đa bằng giá trị tài sản thế chấp”. Tuy nhiên, không hề có ý kiến của
người thế chấp là ông Trần T và bà Trần Thị H, Ngân hàng đã tự nâng hạn mức vay từ
1.500.000.000 đồng lên 10.000.000.000 đồng đã vượt quá giá trị tài sản thế chấp. Điều
này là trái với quy định hợp đồng hai bên đã thỏa thuận.

Thực tế, Công ty PT đã tất toán các khoản vay từ Hợp đồng tín dụng số
60/2014/HĐTD ngày 14/4/2014 lần lượt vào các ngày 15/10/2014; ngày 25/10/2014 và
ngày 12/11/2014. Vì vậy, việc thế chấp tài sản của ông T, bà H đã chấm dứt theo quy
định khoản 1 Điều 327 Bộ luật dân sự năm 2015. Do đó, hợp đồng nêu trên đã chấm dứt
theo đúng quy định của pháp luật. Ngân hàng có trách nhiệm hoàn trả bản chính Giấy
chứng nhận quyền sở hữu nhà ở và quyền sử dụng đất ở cho ông T, bà H theo khoản 1
Điều 322 BLDS 2015.

15
Câu 1.14. Khi xác định hợp đồng thế chấp chấm dứt, Tòa án theo hướng bên nhận
thế chấp (Ngân hàng) có trách nhiệm hoàn trả Giấy chứng nhận quyền sở hữu nhà
và quyền sử dụng đất có thuyết phục không? Vì sao?
Trả lời:

Khi xác định hợp đồng thế chấp chấm dứt, Tòa án theo hướng bên nhận thế chấp
(Ngân hàng) có trách nhiệm hoàn trả Giấy chứng nhận quyền sở hữu nhà và quyền sử
dụng đất là thuyết phục.

Tòa án đã xác định hợp đồng thế chấp tài sản của ông T và bà H chấm dứt theo quy
định tại khoản 1 Điều 327 BLDS 2015: “Thế chấp tài sản chấm dứt trong trường hợp sau
đây: 1. Nghĩa vụ được bảo đảm bằng thế chấp chấm dứt.” (tương ứng với khoản 1 Điều
357 BLDS 2005). Vậy nên Ngân hàng phải có trách nhiệm hoàn trả bản chính Giấy
chứng nhận quyền sở hữu nhà ở và quyền sử dụng đất theo khoản 1 Điều 322 BLDS
2015 Nghĩa vụ của bên nhận thế chấp: “1. Trả các giấy tờ cho bên thế chấp sau khi chấm
dứt thế chấp đối với trường hợp các bên thỏa thuận bên nhận thế chấp giữ giấy tờ liên
quan đến tài sản thế chấp.”

16
VẤN ĐỀ 2: ĐĂNG KÝ GIAO DỊCH BẢO ĐẢM
Câu 2.1. Điểm mới của BLDS 2015 so với BLDS 2005 về đăng ký giao dịch bảo đảm.
Trả lời:

BLDS 2005 BLDS 2015


Điều 323 BLDS 2005 về “Đăng ký giao Điều 298 BLDS 2015 về “Đăng ký biện
dịch bảo đảm”. pháp bảo đảm”.
Giao dịch bảo đảm là giao dịch dân sự Biện pháp bảo đảm được đăng ký theo
do các bên thoả thuận hoặc pháp luật thỏa thuận hoặc theo quy định của luật.
quy định về việc thực hiện biện pháp bảo (khoản 1 Điều 298).
đảm được quy định tại khoản 1 Điều 318
của Bộ luật này (khoản 1 Điều 323).
Việc đăng ký là điều kiện để giao dịch Việc đăng ký là điều kiện để giao dịch
bảo đảm có hiệu lực chỉ trong trường bảo đảm có hiệu lực chỉ trong trường
hợp pháp luật có quy định. (khoản 2 hợp luật có quy định. (khoản 1 Điều
Điều 323) 298)
Trường hợp giao dịch bảo đảm được Trường hợp được đăng ký thì biện pháp
đăng ký theo quy định của pháp luật thì bảo đảm phát sinh hiệu lực đối kháng
giao dịch bảo đảm đó có giá trị pháp lý với người thứ ba kể từ thời điểm đăng
đối với người thứ ba, kể từ thời điểm ký. (khoản 2 Điều 298)
đăng ký. (khoản 3 Điều 323)

Như vậy, có thể thấy một số điểm mới của BLDS 2015 so với BLDS 2005 về đăng ký
giao dịch bảo đảm:

Thứ nhất, BLDS 2005 đề cập đến vấn đề "Đăng ký giao dịch bảo đảm" còn BLDS
2015 thì đổi thành quy định về "Đăng ký biện pháp bảo đảm". Mà theo các khoản nêu
trên thì "biện pháp bảo đảm" được đăng ký theo thỏa thuận hoặc theo quy định của luật
còn "giao dịch bảo đảm" là giao dịch dân sự do các bên thoả thuận hoặc pháp luật quy
định về việc thực hiện biện pháp bảo đảm. Như vậy ta có thể nói rằng việc sử dụng thuật
ngữ "Đăng ký biện pháp bảo đảm" là phù hợp hơn.

17
Thứ hai, BLDS 2015 đã thay thế cụm từ “pháp luật" thành từ “luật”. Mà phạm vi
điều chỉnh của Luật sẽ hẹp hơn nhiều so với Pháp luật vì Luật chỉ điều chỉnh một ngành,
lĩnh vực, còn Pháp luật là cả một hệ thống quy tắc gắn liền với một nhà nước, giúp nhà
nước đó điều hành bộ máy của mình. Như vậy cũng đồng nghĩa với việc hạn chế về các
chủ thể có thẩm quyền để quy định về giao dịch bảo đảm và các điều kiện để giao dịch
bảo đảm có hiệu lực.

Thứ ba, ở đây, BLDS 2015 đã thay thế cụm từ “giá trị pháp lý” bằng “hiệu lực đối
kháng". Có thể nói rằng việc thay đổi từ ngữ như vậy đã giúp hạn chế các ràng buộc pháp
lý đối với bên thứ ba trong giao dịch đảm bảo tài sản, khi mà “hiệu lực đối kháng” chỉ có
thể phát sinh trong 4 trường hợp đảm bảo thực hiện nghĩa vụ: Cầm cố tài sản; Thế chấp
tài sản; Bảo lưu quyền sở hữu; Cầm giữ tài sản. Sự điều chỉnh này cũng đã cụ thể hóa
hơn quy định của luật, khiến cho việc sử dụng và áp dụng pháp luật trong thực tiễn đời
sống trở nên thuận lợi hơn.

Tóm tắt bản án số 90/2019/KDTM-PT ngày 16/08/2019 của Tòa án nhân dân TP
Hà Nội
Nguyên đơn: Ngân hàng N (sau đây gọi tắt là Ngân hàng).
Bị đơn: Công ty TNHH xây dựng và thương mại V (sau đây gọi tắt là Công ty V).
Nội dung: Hai bên đã ký hợp đồng tín dụng như sau: Hợp đồng tín dụng số 1421-
LAV-200900142/HĐTD ký ngày 29/9/2009 và số 1421-LAV-201000037/HMTD ký
ngày 21/05/2010 và 21/5/2012, Ngân hàng tiếp tục ký Hợp đồng hạn mức tín dụng số
1421-LAV-201000037, theo đó Ngân hàng tiếp tục gia hạn cho công ty thêm 12 tháng
với hạn mức tín dụng như cũ. Quá trình thực hiện hợp đồng này, Ngân hàng chưa giải
ngân mà chỉ theo dõi phần dư nợ chuyển sang giữa Ngân hàng với Công ty V. Ngân
hàng yêu cầu Công ty V phải thanh toán trả nợ gốc, lãi và lãi chậm trả phát sinh từ hợp
đồng tín dụng hạn mức. Tài sản đảm bảo cho các khoản vay trên là: Quyền sử dụng đất
và tài sản mang tên chủ sở hữu là ông Đỗ Văn Q và bà Phạm Thị V. Động sản là Hệ
thống khoan cọc nhồi KH125-3.
Quyết định Tòa phúc thẩm: Đình chỉ xét xử phúc thẩm đối với yêu cầu kháng cáo
của ông Đỗ Văn Q và bà Phạm Thị V do vắng mặt tại Phiên tòa phúc thẩm 2 lần. Bác
yêu cầu độc lập của người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan ( ông Q, bà V) về việc
yêu cầu tuyên bố Hợp đồng thế chấp tài sản vô hiệu, chưa phát sinh hiệu lực pháp luật

18
cũng như yêu cầu ngân hang phải trả lại bản gốc Giấy chứng nhận quyền sở hữu nhà sở
hữu đất.

Câu 2.2. Hợp đồng thế chấp số 1013/2019/HĐTC ngày 07/9/2009 có thuộc trường
hợp phải đăng ký không? Vì sao?
Trả lời:

Hợp đồng thế chấp số 1013/2009/HĐTC ngày 07/9/2009 thuộc trường hợp phải
đăng ký vì:

Thứ nhất, hợp đồng thế chấp ngày 07/9/2009 có nội dung thể hiện rằng ông Q, bà
V tự nguyện dùng tài sản thuộc quyền sở hữu của mình là nhà đất tại 60 V, phường T,
quận H, Hà Nội để đảm bảo cho các khoản vay của Công ty V tại Ngân hàng với số tiền
vay tối đa 06 tỷ đồng. Chính vì thế, có thể thấy hợp đồng này là hợp đồng thế chấp quyền
sử dụng nhà đất. Căn cứ vào khoản 1 Điều 502 BLDS năm 2015 về hình thức, thủ tục
thực hiện hợp đồng về quyền sử dụng đất quy định như sau: "Hợp đồng về quyền sử dụng
đất phải được lập thành văn bản theo hình thức phù hợp với quy định của Bộ luật này,
pháp luật về đất đai và quy định khác của pháp luật có liên quan".

Thứ hai, theo điểm a khoản 3 Điều 167 Luật Đất đai 2013: “Hợp đồng chuyển
nhượng, tặng cho, thế chấp, góp vốn bằng quyền sử dụng đất, quyền sử dụng đất và tài
sản gắn liền với đất phải được công chứng hoặc chứng thực, trừ trường hợp kinh doanh
bất động sản quy định tại điểm b khoản này”.

Câu 2.3. Hợp đồng thế chấp số 07/9/2019 đã được đăng ký phù hợp với quy định
không? Đoạn nào của bản án cho câu trả lời?
Trả lời:

Hợp đồng thế chấp số 07/9/2009 đã được đăng ký phù hợp với quy định của pháp
luật.

Đoạn trong bản án cho câu trả lời: “Đối với hợp đồng thế chấp quyền sử dụng đất
và tài sản gắn liền với đất của bên thứ ba ngày 07/9/2009. Sau khi các bên ký kết hợp
đồng thì công chứng viên thực hiện công chứng theo trình tự: lập lời chứng của công
chứng viên ghi nhận rõ các bên tham gia ký kết hợp đồng thế chấp gồm: Bên thế chấp,

19
bên nhận thế chấp và bên vay ghi nhận rõ việc bên thế chấp và bên vay ký tên và Hợp
đồng trước mặt công chứng viên tại địa chỉ số 60 V, phường T, quận H, Hà Nội. sau đó
công chứng viên đóng dấu và trả hồ sơ cho phía Ngân hàng. Công chứng viên, ông Khúc
Mạnh C khẳng định khi ký kết hợp đồng, ông Q và bà V đã xuất trình đầy đủ chứng minh
thư nhân dân, hộ khẩu và Giấy chứng nhận quyền sở hữu nhà ở và quyền sử dụng đất.
bên ngân hàng đã có Giấy đề nghị Công chứng và Biên bản định giá tài sản, hợp đồng thế
chấp đều ghi ngày 07/9/2009 được ký và đóng dấu bởi người có thẩm quyền của Ngân
hàng. Ngoài ra Biên bản định giá có đầy đủ chữ ký của bên thế chấp là vợ chồng ông Q
và bà V; bên khách hàng vay là Công ty V do ông Nguyễn Tử D làm đại diện ký tên và
đóng dấu Văn phòng công chức đã thực hiện đúng pháp luật công chứng, nội dung văn
bản công chứng không trái với quy định của pháp luật, không vi phạm Điều 122 Bộ luật
dân sự 2005 nên không thể tự vô hiệu”. Và đoạn: “Tại thời điểm ngày 30/9/2009 chỉ cần
một bên là bên thế chấp hoặc bên nhận thế chấp, bảo lãnh ký là được. Mà theo yêu cầu
đăng ký thế chấp ngày 30/9/2009 thì bên nhận thế chấp là Ngân hàng có ký đóng dấu vào
đơn này nên Đơn đăng ký vẫn đúng quy định và phát sinh hiệu lực.”

Câu 2.4. Theo Tòa án, nếu không được đăng ký, hợp đồng thế chấp số 07/9/2019 có
vô hiệu không? Vì sao?
Trả lời:

Nếu không được đăng ký hợp lệ thì hợp đồng thế chấp số 07/9/2009 sẽ bị vô hiệu
vì vi phạm vào điểm c khoản 1 Điều 117 BLDS 2015 về điều kiện có hiệu lực của giao
dịch dân sự. Theo điểm b mục 1 Điều 4 Nghị định số 102/2017/NĐ-CP về đăng ký biện
pháp bảo đảm có quy định về những trường hợp phải đăng ký như sau:

“a) Thế chấp quyền sử dụng đất;

b) Thế chấp tài sản gắn liền với đất trong trường hợp tài sản đó đã được chứng nhận
quyền sở hữu trên Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản
khác gắn liền với đất;

c) Cầm cố tàu bay, thế chấp tàu bay;

d) Thế chấp tàu biển”.

20
Trong trường hợp này, Hợp đồng thế chấp số 07/9/2009 thế chấp quyền sử dụng đất và
căn nhà gắn liền với đất của ông Q và bà V nên phải đăng ký biện pháp bảo đảm thì hợp
đồng mới không bị vô hiệu.

Câu 2.5. Hướng của Tòa án như trong câu hỏi trên có thuyết phục không? Vì sao?
Trả lời:

Hướng của Tòa án như trong câu hỏi trên là thuyết phục.

Tòa đã bác yêu cầu về việc tuyên bố hợp đồng thế chấp tài sản số công chứng số
1013.2009/HĐTC ngày 07/09/2009 là vô hiệu. Vì:

- Sau khi các bên ký kết, công chứng viên đã lặp lời chứng ghi nhận rõ các bên
tham gia ký kết.
- Công chứng viên khẳng định bị đơn đã xuất trình đầy đủ chứng minh thư, hộ khẩu
và giấy chứng nhận quyền sở hữu nhà đất.
- Bên ngân hàng có giấy đề nghị công chứng và biên bản định giá tài sản, hợp đồng
thế chấp đều ghi ngày 7/9/2009 đã được đại diện các bên ký đầy đủ.
- Văn phòng công chứng dã thực hiện đúng pháp luật, nội dung đầy đủ không trái
luật nên không vô hiệu.

Câu 2.6. Hợp đồng thế chấp trong Quyết định số 21 có hiệu lực đối kháng với người
thứ ba không? Vì sao?
Trả lời:

Hợp đồng thế chấp có hiệu lực đối kháng với người thứ ba.

Thứ nhất, khoản 1 Điều 297 BLDS 2015 đã quy định: "Biện pháp bảo đảm phát
sinh hiệu lực đối kháng với người thứ ba từ khi đăng ký biện pháp bảo đảm."

Thứ hai, khoản 1 Điều 6 Thông tư 08/2018/TT-BTP đã quy định:

“Các tài sản bảo đảm được đăng ký tại Trung tâm Đăng ký theo yêu cầu, gồm:

1. Ô tô, xe máy, các phương tiện giao thông cơ giới đường bộ khác; các phương tiện giao
thông đường sắt.”

21
Thứ ba, điểm a Khoản 1 Điều 5 Thông tư 08/2018/TT-BTP đã quy định:

“1. Việc đăng ký biện pháp bảo đảm theo yêu cầu tại Trung tâm Đăng ký bao gồm các
trường hợp sau đây:

a) Thế chấp động sản, trừ tàu bay, tàu biển bao gồm cả thế chấp động sản hình thành
trong tương lai;”

Qua 3 cơ sở pháp lý ta thấy, ô tô là tài sản có thể yêu cầu đăng ký bảo đảm và có hiệu lực
đối kháng với người thứ ba kể từ khi đăng ký. Tuy nhiên, theo bản án, ô tô không được
đem đi đăng ký (do luật không bắt buộc trừ trường hợp ngoại lệ). Nhưng người thứ ba
(ông Tân) biết về hợp đồng thế chấp giữa nguyên đơn và bị đơn, thể hiện ở đoạn: “Ông
Tân đồng ý trả hết nợ cho ngân hàng. Sau khi trả hết nợ, ông Tân yêu cầu ông Thọ làm
thủ tục sang tên xe.”

Do đó, nên khi hợp đồng thế chấp được thành lập, có hiệu lực thì cũng đồng thời có hiệu
lực đối kháng với người thứ ba.

Câu 2.7. Theo quy định về đòi tài sản (Điều 166 và tiếp theo BLDS năm 2015), Ngân
hàng có quyền yêu cầu ông Tân (người thứ ba so với hợp đồng thế chấp) trả lại
tài sản thế chấp (xe ô tô) không? Vì sao?
Trả lời:
Theo quy định về đòi tài sản thì ngân hàng có quyền yêu cầu ông Tân người thứ ba
so với hợp đồng thế chấp trả lại tài sản thế chấp ô tô. Vì:

Thứ nhất, theo khoản 1 Điều 166 BLDS 2015 đã quy định:

“Chủ sở hữu, chủ thể có quyền yêu cầu khác đối với tài sản có quyền đòi lại tài sản từ
người chiếm hữu, người sử dụng tài sản, người được lợi về tài sản không có căn cứ pháp
luật.”

Thứ hai, khoản 8 Điều 320 BLDS 2015 đã quy định về nghĩa vụ của bên thế chấp:
Không được bán, thay thế, trao đổi, tặng cho tài sản thế chấp, trừ trường hợp quy định tại
khoản 4 và khoản 5 Điều 321 của Bộ luật này.

22
Như vậy, có nghĩa là ông Thọ, bà Loan không được bán, thay thế, trao đổi, tặng cho tài
sản thế chấp như vậy giao dịch chuyển nhượng xe ô tô giữa các bên đương sự là không
có căn cứ pháp luật.

Thứ ba, ngoài ra, theo khoản 5 Điều 323 BLDS 2015 quy định: “Yêu cầu bên thế
chấp hoặc người thứ ba giữ tài sản thế chấp giao tài sản đó cho mình để xử lý khi bên thế
chấp không thực hiện hoặc thực hiện không đúng nghĩa vụ.”

Như vậy, phía Ngân hàng có quyền yêu cầu bên thế chấp hoặc người thứ ba giữ tài
sản thế chấp giao tài sản đó để xử lý khi nghĩa vụ không được thực hiện hoặc thực hiện
không đúng, như vậy ngân hàng có quyền đối với tài sản thế chấp. Qua đó, ngân hàng đã
thỏa mãn đủ điều kiện để đòi tài sản quy định tại Khoản 1 Điều 166 BLDS 2015.

Câu 2.8. Việc Tòa án buộc ông Tân trả lại tài sản thế chấp (xe ô tô) cho Ngân hàng
có thuyết phục không? Vì sao?
Trả lời:

Việc Tòa án buộc ông Tân trả lại tài sản thế chấp (xe ô tô) cho Ngân hàng là thuyết
phục. Vì theo quy định tại khoản 8 Điều 320 BLDS 2015 về nghĩa vụ của bên thế chấp:
“Không được bán, thay thế, trao đổi, tặng cho tài sản thế chấp, trừ trường hợp quy định
tại khoản 4 và khoản 5 Điều 321 của Bộ luật này.”

Bên thế chấp tức ông Thọ - bà Loan không được phép bán, chuyển nhượng tài sản
thế chấp. Việc ông Thọ - bà Loan tự ý chuyển nhượng xe cho bà Giao không được sự
đồng ý từ phía ngân hàng VP Bank là hoàn toàn trái pháp luật. Dẫn đến việc bà Giao lại
tiếp tục chuyển nhượng cho ông Tân là hoàn toàn sai. Vì vậy ông Tân cần phải trả lại xe
ô tô và ngân hàng có quyền xử lý tài sản thế chấp theo Khoản 7 Điều 323 BLDS 2015.

23
VẤN ĐỀ 3:

ĐẶT CỌC
Câu 3.1. Khác biệt cơ bản giữa đặt cọc và cầm cố, đặt cọc và thế chấp.
Trả lời:

Đặt cọc Cầm cố Thế chấp


Cơ sở pháp lý Điều 328 BLDS Điều 309 đến Điều Điều 317 đến Điều
2015 316 BLDS 2015 327 BLDS 2015
Khái niệm Đặt cọc là việc một Cầm cố là việc một Thế chấp tài sản là
bên (sau đây gọi là bên (sau đây gọi là việc một bên (sau
bên đặt cọc) giao bên cầm cố) giao tài đây gọi là bên thế
cho bên kia (sau sản thuộc quyền sở chấp) dùng tài sản
đây là bên nhận đặt hữu của mình cho thuộc sở hữu của
cọc) một khoản tiền bên kia (sau đây gọi mình để bảo đảm
hoặc kim khí quý, là bên nhận cầm cố) thực hiện nghĩa vụ
đá quý hoặc vật có để bảo đảm thực và không giao tài
giá trị khác (sau đây hiện nghĩa vụ sản cho bên kia (sau
gọi chung là tài sản đây gọi là bên nhận
đặt cọc) trong một thế chấp). Tài sản
thời hạn để bảo đảm thế chấp do bên thế
giao kết hoặc thực chấp giữ. Các bên
hiện hợp đồng có thể thỏa thuận
giao cho người thứ
ba giữ tài sản thế
chấp.
Đối tượng Chỉ giới hạn trong Tài sản thuộc quyền Đối tượng của thế
phạm vi hẹp gồm: sở hữu của bên cầm chấp là vật, quyền
tiền, kim khí quý, cố gồm: động sản, tài sản, giấy tờ có
đá quý hoặc các tài các loại giấy tờ có giá, có thể là tài sản
sản có giá trị khác giá (trái phiếu, cổ hiện tại hoặc tài sản
mà không bao gồm phiếu…). Không hình thành trong
các quyền tài sản, bao gồm bất động tương lai, tài sản

24
bất động sản như sản đang cho thuê, cho
trong các biện pháp mượn. Có thể thỏa
bảo đảm khác. Và thuận dùng toàn bộ
các tài sản là đối hoặc một phần tài
tượng của biện pháp sản để thế chấp tùy
đặt cọc phải thuộc theo thỏa thuận của
sở hữu của bên đặt các bên. Hoa lợi, lợi
cọc hoặc có thể tức có được từ tài
thuộc sở hữu của sản thế chấp không
người khác nhưng phải là tài sản thế
phải được chủ sở chấp trừ khi các bên
hữu đồng ý. Các tài có thỏa thuận.3
sản này cũng phải
là những tài sản
được lưu thông dân
sự và tính được giá
trị. Các vật cấm lưu
thông dân sự hoặc
hạn chế lưu thông
thì không thể là đối
tượng của đặt cọc.2
Bản chất Là biện pháp bảo Là biện pháp bảo Là biện pháp bảo
đảm thực hiện đảm thực hiện đảm thực hiện
nghĩa vụ dân sự nghĩa vụ dân sự, nghĩa vụ dân sự,
nhằm bảo đảm cho trong đó không có trong đó không có
giao kết hoặc thực sự chuyển giao tài quyền chuyển giao
hiện hợp đồng. Đặc sản cho bên nhận tài sản cho bên
biệt, đặt cọc còn có cầm cố theo đúng nhận thế chấp mà
thể thực hiện trước thỏa thuận chỉ giao các giấy tờ
khi hai bên xác lập chứng minh tình
2
Đối tượng của đặt cọc – nganhangphapluat.lawnet.vn
3
Như nào là thế chấp theo quy định của pháp luật – lawfirms.vn

25
hợp đồng có nghĩa trạng pháp lý của tài
vụ được bảo đảm sản thế chấp.
Chủ thể Bên đặt cọc và bên Bên cầm cố và bên Bên nhận thế chấp
nhận đặt cọc nhận cầm cố và bên thế chấp. Có
thể có bên thứ ba
giữ tài sản thế chấp
Chấm dứt Không có quy định Nghĩa vụ được Thế chấp tài sản
về trường hợp chấm chấm dứt trong các được chấm dứt
dứt đặt cọc nhưng trường hợp sau đây: trong trường hợp
vẫn sẽ dẫn đến một sau đây:
số vấn đề sau: (1): Nghĩa vụ được
bảo đảm bằng cầm (1): Nghĩa vụ được
(1): Do bên đặt cọc cố chấm dứt. bảo đảm bằng thế
từ chối giao kết, từ chấp chấm dứt.
chối thực hiện thì (2): Việc cầm cố tài
đây thuộc về lỗi của sản được hủy bỏ (2): Việc thế chấp
bên đặt cọc, họ sẽ hoặc được thay thế tài sản được hủy bỏ
bị phạt cọc mà mất bằng biện pháp đảm hoặc được thay thế
tài sản cọc. Vậy thì bảo khác bằng biện pháp bảo
tài sản cọc sẽ thuộc đảm khác.
(3): Tài sản cầm cố
về bên nhận cọc
đã được xử lý (3): Tài sản thế
(2): Bên nhận cọc chấp đã được xử lý.
(4): Theo thỏa
từ chối giao kết, từ
thuận của các bên (4): Theo thỏa
chối thực hiện dẫn
thuận các bên.
đến việc bên nhận
cọc bị phạt. BLDS
theo hướng bên
nhận cọc phải hoàn
trả tài sản cọc và
phải đền bù, bồi
thường một khoản
tương đương. Tuy
nhiên đây là các
26
thức phạt theo quy
định của pháp luật,
các bên vẫn được
quyền thỏa thuận
khác

Câu 3.2. Thay đổi giữa BLDS 2015 và BLDS 2005 về thế chấp.
Trả lời:

BLDS 2005 (Điều 358) BLDS 2015 (Điều 328)


1. Đặt cọc là việc một bên giao cho bên 1. Đặt cọc là việc một bên (sau đây gọi
kia một khoản tiền hoặc kim khí quí, đá là bên đặt cọc) giao cho bên kia (sau đây
quý hoặc vật có giá trị khác (sau đây gọi gọi là bên nhận đặt cọc) một khoản tiền
là tài sản đặt cọc) trong một thời hạn để hoặc kim khí quý, đá quý hoặc vật có giá
bảo đảm giao kết hoặc thực hiện hợp trị khác (sau đây gọi chung là tài sản đặt
đồng dân sự. Việc đặt cọc phải được lập cọc) trong một thời hạn để bảo đảm giao
thành văn bản. kết hoặc thực hiện hợp đồng.

2. Trong trường hợp hợp đồng dân sự 2. Trường hợp hợp đồng được giao kết,
được giao kết, thực hiện thì tài sản đặt thực hiện thì tài sản đặt cọc được trả lại
cọc được trả lại cho bên đặt cọc hoặc cho bên đặt cọc hoặc được trừ để thực
được trừ để thực hiện nghĩa vụ trả tiền; hiện nghĩa vụ trả tiền; nếu bên đặt cọc từ
nếu bên đặt cọc từ chối việc giao kết, chối việc giao kết, thực hiện hợp đồng
thực hiện hợp đồng dân sự thì tài sản đặt thì tài sản đặt cọc thuộc về bên nhận đặt
cọc thuộc về bên nhận đặt cọc; nếu bên cọc; nếu bên nhận đặt cọc từ chối việc
nhận đặt cọc từ chối việc giao kết, thực giao kết, thực hiện hợp đồng thì phải trả
hiện hợp đồng dân sự thì phải trả cho cho bên đặt cọc tài sản đặt cọc và một
bên đặt cọc tài sản đặt cọc và một khoản khoản tiền tương đương giá trị tài sản
tiền tương đương giá trị tài sản đặt cọc, đặt cọc, trừ trường hợp có thỏa thuận
trừ trường hợp có thoả thuận khác. khác.

Đặt cọc để đảm bảo giao kết hoặc thực


hiện hợp đồng dân sự Đặt cọc để đảm bảo giao kết, thực hiện

27
Việc đặt cọc phải được thành lập văn hợp đồng và cũng không nêu ra là việc
bản. đặt cọc phải thành lập văn bản.

Theo khoản 1 Điều 358 BLDS 2005 thỏa thuận đặt cọc phải được lập thành văn
bản. Thỏa thuận đặt cọc có thể được thể hiện bằng một văn bản riêng hoặc cũng có thể
được thể hiện bằng một điều khoản trong hợp đồng chính thức. Đối với đặt cọc nhằm
giao kết hợp đồng thì việc đặt cọc phải được thể hiện bằng văn bản riêng vì tại thời điểm
giao kết thỏa thuận đặt cọc thì hợp đồng chưa được hình thành. Bên cạnh đó, pháp luật
cũng không quy định thỏa thuận đặt cọc bắt buộc phải công chứng, chứng thực mà tùy
vào sự thỏa thuận của các bên. Như vậy, nếu hai bên chủ thể thỏa thuận đặt cọc vào thời
điểm BLDS năm 2005 điều chỉnh thì thỏa thuận phải được lập thành văn bản, đối với
thỏa thuận bằng miệng thì sẽ không có giá trị pháp lý. Còn tại thời điểm Bộ luật dân sự
năm 2015 điều chỉnh thì thỏa thuận đặt cọc có thể xác lập bằng bất cứ hình thức nào, đây
cũng là điểm mới mang tính chất tích cực đối với pháp luật Việt Nam. Giao dịch dân sự
được hình thành dựa trên sự thỏa thuận, thiện chí, tin tưởng lẫn nhau nên pháp luật ngày
càng hướng tới sự tự do trong các cơ chế thỏa thuận, tuy nhiên vẫn phải đảm bảo không
vi phạm điều cấm của luật, không trái đạo đức xã hội.

Câu 3.3. Theo BLDS, khi nào bên đặt cọc mất cọc, bên nhận cọc bị phạt cọc?
Trả lời:

Khoản 1 Điều 328 BLDS đã quy định về khái niệm đặt cọc như sau: “1. Đặt cọc là
việc một bên (sau đây gọi là bên đặt cọc) giao cho bên kia (sau đây gọi là bên nhận đặt
cọc) một khoản tiền hoặc kim khí quý, đá quý hoặc vật có giá trị khác (sau đây gọi chung
là tài sản đặt cọc) trong một thời hạn để bảo đảm giao kết hoặc thực hiện hợp đồng.”
Tại khoản 2 Điều 328 BLDS quy định: “nếu bên đặt cọc từ chối việc giao kết, thực
hiện hợp đồng thì tài sản đặt cọc thuộc về bên nhận đặt cọc” tương ứng với việc mất cọc.
Bên cạnh đó, còn quy định về phạt cọc: “nếu bên nhận đặt cọc từ chối việc giao kết thực
hiện hợp đồng thì phải trả cho bên đặt cọc tài sản đặt cọc và một khoản tiền tương đương
giá trị tài sản đặt cọc, trừ trường hợp có thỏa thuận khác.”

28
Câu 3.4. Nếu hợp đồng được đặt cọc không được giao kết, thực hiện vì lý do khách
quan, bên nhận cọc có nghĩa vụ trả lại tài sản đặt cọc cho bên đặt cọc không? Vì
sao?
Trả lời:

Nếu hợp đồng đặt cọc không được giao kết thực hiện vì lý do khách quan, bên
nhận cọc có nghĩa vụ trả lại tài sản đặt cọc cho bên đặt cọc, vì theo điểm d Mục 1 Nghi
quyết số 01/2003/NQ-HĐTP thì: “Trong trường hợp được hướng dẫn tại các điểm a và c
muc 1 này, nếu cả hai bên cùng có lỗi hoặc trong trường hợp có sự kiện bất khả kháng
hoặc có trở ngại khách quan thì không phạt cọc.” mà “không phạt cọc” được hiểu là bên
nhận đặt cọc chỉ có nhiệm vụ trả lại tài sản đặt cọc cho bên đặt cọc và không bị phạt một
khoản tiền tương đương với giá trị tài sản đặt cọc. Ngoài ra, việc không phạt cọc đối với
trường hợp hợp đồng giao kết không được thực hiện vì lý do khách quan còn được công
nhận trong Án lệ số 25.

*Đối với Quyết định 49

Tóm tắt Quyết định số 49/2018/KDTM-GĐT ngày 18/10/2018 của Tòa án nhân dân
cấp cao tại Thành phố Hồ Chí Minh V/v tranh chấp đòi lại tiền cọc từ việc hủy hợp
đồng mua bán cổ phần”
Nguyên đơn: Công ty Cổ phần TV-TM-DV Địa ốc Hoàng Quân
Bị đơn: Công ty TNHH Thương mại và Xây dựng Sơn Long Thuận
Nội dung: Ngày 20/02/2008, Công ty Cổ phần du lịch Ninh Thuân ký kết biên bản
thỏa thuận bán 39.192 cổ phiếu, mệnh giá 100.000 đồng/cổ phiếu cho Công ty Hoàng
Quân cổ phần thuộc sở hữu của Tổng Công ty Đầu tư và Kinh Doanh vốn Nhà nước
(SCIC). Ngày 22/02/2008, Công ty Hoàng Quân đã chuyển tiền đặt cọc là
1.000.000.000 đồng cho công ty Ninh Thuận qua Ngân hàng TMCP Đầu tư và Phát
triển Việt Nam. Tuy nhiên, khi số tiền này được chuyển vào tài khoản của Công ty
Ninh Thuận thì ngân hàng đã căn cứ vào hợp đồng tín dụng có điều khoản thỏa thuận
cho phép Ngân hàng được quyền trích tài khoản của Công ty Ninh Thuận để cấn trừ
vào số công nợ quá hạn và lãi suất của Công ty Ninh Thuận để cấn trừ vào số công nợ
quá hạn và lãi suất của Công ty Ninh Thuận là trái với quy định của Pháp luật bởi vì số
tiền 1.000.000.000 đặt cọc chưa được quyền sở hữu của Công ty Ninh Thuận. Mặt
khác, SCIC không ủy quyền bằng bất kì hình thức nào cho Giám đốc Công ty Ninh
Thuận để thực hiện việc chuyển nhượng của SCIC cho Công ty Hoàng Quân. Theo

29
công văn số 029/CV-PC ngày 01/7/2009 của Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt
Nam, chỉ đạo xử lý nợ của Công ty Ninh Thuận. Ngân hàng trích số tiền đặt cọc của
Công ty Hoàng Quân để thu nợ của Công ty Ninh Thuận là không có căn cứ pháp luật.
Quyết định của Tòa án: Chấp nhận yêu cầu đơn khởi kiện của Công ty Hoàng Quân,
buộc Ngân hàng Thương mại Cổ phần Đầu tư và Phát triển Việt Nam có trách nhiệm
hoàn trả cho Công ty Hoàng Quân 1.000.000.000 đồng là có căn cứ, đúng với quy định
của pháp luật.

Câu 3.5. Theo Quyết định được bình luận, bên đặt cọc đã chuyển tài sản đặt cọc cho
bên nhận cọc như thế nào?
Trả lời:

Theo quyết định, bên đặt cọc là công ty Hoàng Quân đã chuyển tài sản đặt cọc vào
tài khoản của Công ty Ninh Thuận mở tại ngân hàng TMCP Đầu tư và Phát triển Việt
Nam-chi nhánh Bình Thuận theo ủy nhiệm chi ngày 22/2/2008.

Đoạn thể hiện bên đặt cọc đã chuyển tài sản đặt cọc cho bên nhận cọc là: Phần
nhận định [1] "Công ty Hoàng Quân đặt cọc trước 1.000.000.000 đồng. Ngày
22/02/2008, Công ty Hoàng Quân đã chuyển số tiền đặt cọc vào tài khoản của Công ty
Ninh Thuận mở tại Ngân hàng TMCP Đầu tư và Phát triển Việt Nam."

Câu 3.6. Theo Tòa giám đốc thẩm trong Quyết định được bình luận, tài sản đặt cọc
còn thuộc sở hữu của bên đặt cọc không? Vì sao?
Trả lời:

Theo Tòa giám đốc thẩm trong Quyết định được bình luận, tài sản đặt cọc còn
thuộc sở hữu của bên đặt cọc. Đoạn thể hiện Tòa giám đốc thẩm trong Quyết định
khẳng định tài sản đặt cọc còn thuộc sỡ hữu của bên đặt cọc nằm ở đoạn xét thấy:
“Bởi lẽ, số tiền 1.000.000.000 đồng đặt cọc chưa thuộc quyền sở hữu của Công ty
Ninh Thuận, theo quy định tại Khoản 1 Điều 328 BLDS 2015 “Đặt cọc là việc một
bên (sau đây gọi là bên đặt cọc) giao cho bên kia (sau đây gọi là bên nhận đặt cọc)
một khoản tiền hoặc kim khí quý, đá quý hoặc vật có giá trị khác (sau đây gọi
chung là tài sản đặt cọc) trong một thời hạn để bảo đảm giao kết hoặc thực hiện
hợp đồng.”

30
Câu 3.7. Suy nghĩ của anh/chị về hướng giải quyết trên của Tòa giám đốc
thẩm liên quan đến quyền sở hữu tài sản đặt cọc.
Trả lời:
Hướng giải quyết của Tòa giám đốc thẩm liên quan đến quyền sở hữu tài sản đặt
cọc là hoàn toàn hợp lý.

Công ty Hoàng Quân đã chuyển số tiền đặt cọc vào tài khoản của Công ty Ninh
Thuận mở tại Ngân hàng TMCP Đầu tư và Phát triển Việt Nam - Chi nhánh tỉnh Ninh
Thuận theo ủy nhiệm chi ngày 22/02/2008. Tuy nhiên, khi số tiền này được chuyển vào
tài khoản của Công ty Ninh Thuận thì Ngân hàng đã căn cứ vào hợp đồng tín dụng có
điều khoản thỏa thuận cho phép Ngân hàng được quyền trích tài khoản của Công ty Ninh
Thuận để cấn trừ vào số công nợ quá hạn và lãi suất của Công ty Ninh Thuận là trái với
quy định của pháp luật. Bởi lẽ, số tiền 1.000.000.000 đồng đặt cọc chưa thuộc quyền sở
hữu của Công ty Ninh Thuận, theo quy định tại khoản 1 Điều 328 BLDS 2015: “ Đặt cọc
là việc một bên (sau đây gọi là bên đặt cọc) giao cho bên kia (sau đây gọi là bên nhận đặt
cọc) một khoản tiền hoặc kim khí quý, đá quý hoặc vật có giá trị khác (sau đây gọi chung
là tài sản đặt cọc) trong một thời hạn để bảo đảm giao kết hoặc thực hiện hợp đồng”.
BLDS chỉ quy định là “giao” tài sản để đảm bảo đặt cọc chứ không quy định là “chuyển
quyền sở hữu” bởi vì sau khi đặt cọc hết chức năng thì tài sản sẽ được trả lại cho bên đặt
cọc. Tài sản đặt cọc chỉ dùng để “đảm bảo” cho việc giao kết hoặc thực hiện hợp đồng.
Chính vì lúc Công ty Hoàng Quân khi chuyển tiền vào tài khoản Công ty Ninh Thuận đã
ghi rõ nội dung là tiền đặt cọc mua cổ phần, nên việc chiếm hữu của Ngân hàng là không
có căn cứ pháp luật. Hướng giải quyết của Tòa giám đốc thẩm rất thuyết phục vì nó bảo
vệ được quyền lợi của người đặt cọc.

*Đối với Bán án số 26


Tóm tắt Bản án số 26/2019/DS-PT ngày 11/6/2019 của Tòa án nhân dân tỉnh
Quảng Ninh về “Tranh chấp hợp đồng đặt cọc”.

Nguyên đơn: Ông Vũ Đình P

Bị đơn: Ông Trần Xuân I

31
Nội dung: Ngày 26/08/2016, ông Vũ Đình P và ông Trần Xuân I đã ký văn bản thỏa
thuận đặt cọc tiền mua xe với nội dung: Ông P đặt cọc trước cho ông I 450.000.000
đồng để mua loại xe ô tô Hyundai 07 chỗ nhập khẩu từ Mỹ, sản xuất năm 2016 và thời
gian giao xe trước Tết Dương lịch năm 2017. Nhưng sau đó Ông I không giao xe đúng
hạn, sau đó vào tháng 11/2017 có ký thêm bản cam kết gia hạn thời gian bàn giao xe
nhưng vẫn không được thực hiện, lúc ký lại cam kết do tin tưởng bạn bè nên ông I
không đọc nội dung, sau khi nhận lại được số tiền cọc thì ông P đã khởi kiện đòi số
tiền phạt cọc là 450.000.000 đồng.

Quyết định của Tòa án: Không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của ông Vũ Đình P về
việc yêu cầu ông Trần Xuân I phải trả số tiền phạt cọc là 450.000.000 đồng.

Tóm tắt án lệ số 25/2018/AL: Vào ngày 12/05/2009, bà H thỏa thuận bán cho ông L
căn nhà do bà H đứng tên mua đấu giá của Cơ quan thi hành án dân sự TP. Hồ Chí
Minh theo Hợp đồng đặt cọc. Hết thời hạn nêu tại Hợp Đồng, bà H vẫn không hoàn tất
các thủ tục cần thiết theo thỏa thuận. Do đó, ông L khởi kiện yêu cầu bà H trả lại tiền
cọc và phạt cọc. Bà H đồng ý trả tiền cọc và tiền lãi suất theo quy định nhưng không
đồng ý phạt cọc vì cho rằng việc bà không thực hiện đúng cam kết là do CQTHADS
chậm sang tên cho bà. Tòa án cấp sơ thẩm đã chấp nhận yêu cầu khởi kiện của ông L,
buộc bà H trả cho ông L 4.000.000.000 VNĐ. Bà H đã kháng cáo và Tòa án cấp phúc
thẩm quyết định giữ nguyên bản án sơ thẩm. Tòa án nhân dân tối cao đã xét xử lại vụ
án theo thủ tục giám đốc thẩm và đã ra quyết định hủy bản án sơ thẩm và phúc thẩm
với nhận định lỗi dẫn tới việc bà H không thể thực hiện đúng cam kết với ông L thuộc
về khách quan, và bà H không phải chịu phạt tiền cọc.

Câu 3.8. Đoạn nào cho thấy Tòa án đã áp dụng Án lệ số 25/2018/AL?


Trả lời:

Căn cứ đoạn [2.2] phần Nhận định của Tòa án cho thấy Tòa án đã áp dụng Án lệ
số 25/2018/AL:

32
“Mặt khác, thực tế ông I cũng đã từng nhờ em gái mua được ô tô nhập khẩu từ Mỹ
về Việt Nam để sử dụng (có thể dưới dạng quà tặng, quà biếu), nên ông mới đồng ý mua
hộ ông P; nhưng hoàn toàn phụ thuộc vào chính sách quản lý của Nhà nước ở từng thời
điểm và hoàn toàn phụ thuộc vào người thân bên Mỹ và Đại lý nhập khẩu. Vì ông I
không có xe ô tô để bán và cũng không có đủ điều kiện nhập khẩu xe để bán cho ông P;
ông P biết rõ điều này và không có tài liệu, chứng cứ gì chứng minh rằng ông I có khả
năng bán xe ô tô cho ông P, nhưng cố tình từ chối thực hiện. Do đó, việc ông I không
thực hiện được thỏa thuận là do yếu tố khách quan.

Căn cứ theo Án lệ số 25/2018/AL được Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối
cao thông qua ngày 17 tháng 10 năm 2018 và được công bố theo Quyết định số 269/QĐ –
CA ngày 06 tháng 11 năm 2018 của Chánh án Tòa án nhân dân tối cao: “Trường hợp bên
nhận đặt cọc không thể thực hiện đúng cam kết là do yếu tố khách quan và bên nhận đặt
cọc không phải chịu phạt cọc.”

Câu 3.9. Việc Tòa án áp dụng Án lệ số 25/2018/AL vào hoàn cảnh trong vụ việc này
có thuyết phục không? Vì sao?
Trả lời:

Theo nhóm, việc Tòa án áp dụng Án lệ số 25/2008/AL cho vụ việc này là hoàn
toàn thuyết phục.

Thứ nhất, về mặt căn cứ pháp lý: Vụ việc trong Bản án số 26 liên quan đến việc
phạt cọc do hợp đồng không thể thực hiện nhưng không phải do một trong hai bên từ chối
thực hiện mà là do yếu tố khách quan nên Toà án không thể sử dụng điều luật quy định
về đặt cọc của BLDS 2015. Tuy vấn đề của vụ việc này đã được Nghị quyết số
01/2003/NQ-HĐTP của Hội đồng thẩm phán nhân dân tối cao đưa ra hướng giải quyết
nhưng Nghị quyết này được xây dựng dựa trên BLDS 1995 nên cũng việc viện dẫn để xử
lý một vụ việc phát sinh vào năm 2019 không còn phù hợp. Do đó, việc Toà án đưa ra
hướng giải quyết cho vụ việc này căn cứ trên Án lệ số 25 là hợp lý.

Thứ hai, về mặt nội dung vụ việc: Đầu tiên, ta phải xét đến lỗi của ông I trong quá
trình giao kết hợp đồng là việc ông không có giấy phép kinh doanh theo luật định để mua
bán mặt hàng xe ô tô nhập khẩu nhưng vẫn tiến hành ký kết hợp đồng với ông P để nhập
xe từ Mỹ. Ở đây, lỗi của ông I có góp phần gián tiếp vào việc sau này ông không thể giao

33
xe cho ông P vì bản thân là một người không có chuyên môn trong việc mua bán xe nhập
khẩu, ông I không hiểu biết về các chính sách của nhà nước trong lĩnh vực này, không có
sẵn xe cũng như không đủ điều kiện để chủ động nhập xe cho ông P đúng theo hạn định.
Tuy nhiên, ông P biết rõ về điều này nhưng vẫn bỏ qua những rủi ro có thể xảy ra để giao
kết nhằm mua được xe giá rẻ hơn ở Việt Nam. Do đó, lỗi trong quá trình ký kết hợp đồng
thuộc về cả hai bên chứ không chỉ riêng ông I. Về vấn đề này, Toà án cho rằng “hợp đồng
này vô hiệu và không làm phát sinh, thay đổi, chấm dứt quyền, nghĩa vụ dân sự của các
bên” căn cứ theo Điều 117, Điều 122, Điều 123 Bộ luật Dân sự năm 2015 chứ không
phải Án lệ số 25. Sau đó, vì chính sách pháp luật thay đổi nên ông I không thể nhập và
giao xe đúng hạn theo hợp đồng cho ông P được. Tòa án đã xác định “việc ông I không
thực hiện được thỏa thuận là do yếu tố khách quan” và căn cứ theo Án lệ số 25 đã không
chấp nhận yêu cầu phạt cọc của bên nguyên đơn. Theo đó, “trường hợp bên nhận đặt cọc
không thể thực hiện đúng cam kết là do yếu tố khách quan và bên nhận đặt cọc không
phải chịu phạt cọc”. Án lệ số 25 không định nghĩa được thế nào là “yếu tố khách quan”
nhưng căn cứ vào tình huống của Án lệ “yếu tố khách quan” là việc cơ quan thi hành án
Dân sự chậm trễ trong việc chuyển tên quyền sở hữu cho bà H nên bà H không thể hoàn
tất các thủ tục để được cấp giấy chứng nhận quyền sở hữu đối với căn nhà cho ông L.

Từ đó, ta có thể rút ra một số đặc điểm của yếu tố khách quan, bao gồm: là yếu tố
xảy ra ngoài mong muốn, ý chí của hai bên; là yếu tố hai bên không thể lường trước và
hai bên không thể khắc phục dù đã sử dụng mọi biện pháp cần thiết, ngoài ra ở đoạn 3,
khoản 1 Điều 156 Bộ luật Dân sự 2015 cũng định nghĩa: “Trở ngại khách quan là những
trở ngại do hoàn cảnh khách quan tác động làm cho người có quyền, nghĩa vụ dân sự
không thể biết về việc quyền, lợi ích hợp pháp của mình bị xâm phạm hoặc không thể
thực hiện được quyền, nghĩa vụ dân sự của mình”. Đối chiếu với lý do do sự thay đổi
trong chính sách pháp luật của nhà nước nên không thể giao xe đúng hạn của ông I, ta có
thể thấy lý do này thoả mãn các yêu cầu của một yếu tố khách quan. Cụ thể, việc thay đổi
chính sách xuất nhập khẩu của Nhà nước là việc xảy ra ngoài mong muốn của ông I và
ông I cũng không có khả năng khắc phục được tình huống.

Từ những căn cứ trên, việc Tòa án áp dụng Án lệ số 25 về việc bên nhận đặt cọc
không thể thực hiện được giao kết do lý do khách quan để xét cho ông I không phải trả
tiền phạt cọc cho ông P là có căn cứ.

34
Câu 3.10. Việc Tòa án “không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của ông P, về việc yêu
cầu ông I phải trả số tiền phạt cọc là 450.000.000đ” có phù hợp với Án lệ số
25/2018/AL không? Vì sao?
Trả lời:

Việc Toà án “không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của ông P, về việc yêu cầu ông I
phải trả số tiền phạt cọc là 450.000.000đ” là phù hợp với Án lệ số 25/2018/AL.

Bởi theo Án lệ số 25 thì “Nếu có căn cứ xác định cơ quan thi hành án dân sự chậm
trễ trong việc chuyển tên quyền sở hữu cho bà H thì lỗi dẫn tới việc bà H không thể thực
hiện đúng cam kết với ông L thuộc về khách quan, và bà H không phải chịu phạt tiền
cọc” hay nói cách khác là “trường hợp bên nhận đặt cọc không thể thực hiện đúng cam
kết là do yếu tố khách quan và bên nhận đặt cọc không phải chịu phạt cọc”.

Về bản chất, chúng ta chỉ phạt một người khi người đó không chịu làm cái đáng ra
phải làm, cái họ đã cam kết nhưng ở đây người đó không thực hiện đúng cam kết là do
khách quan nên không có lý do thuyết phục để phạt cọc. Do đó như nhóm đã chứng minh
ở câu trên, trong vụ việc ở Bản án số 26 thì Tòa án đã thể hiện được rằng việc ông I
không thể thực hiện giao dịch xe cho ông P là do yếu tố khách quan (đến từ chính sách
của Nhà nước, đại lý nhập khẩu,...) nên việc không yêu cầu ông I phải trả phạt cọc số tiền
450.000.000 đồng cho ông P là đúng theo hướng giải quyết mà Án lệ đã đưa ra (bà H
không phải trả số tiền phạt cọc là 2.000.000.000 đồng cho ông L khi không thể thực hiện
được hợp đồng do yếu tố khách quan).

35
VẤN ĐỀ 4:

BẢO LÃNH
Câu 4.1. Những đặc trưng của bảo lãnh.
Trả lời:

Bảo lãnh là một trong các biện pháp bảo đảm thực hiện nghĩa vụ.

Khoản 1 Điều 335 BLDS 2015 quy định: “Bảo lãnh là việc người thứ ba (bên bảo
lãnh) cam kết với bên có quyền (bên nhận bảo lãnh) sẽ thực hiện nghĩa vụ thay cho bên
có nghĩa vụ (bên được bảo lãnh), nếu khi đến thời hạn thực hiện nghĩa vụ mà bên được
bảo lãnh không thực hiện hoặc thực hiện không đúng nghĩa vụ.”

Như vậy, có thể xác định một số đặc trưng của bảo lãnh như sau:

- Bảo lãnh chỉ phát sinh trên cơ sở có sự thỏa thuận của các bên chủ thể.
- Biện pháp bảo lãnh được coi là hợp đồng phụ, không tồn tại độc lập, luôn được
xác lập cùng một hợp đồng hoặc thỏa thuận khác tương đương giá trị hợp đồng
chính với mục đích để bảo đảm thực hiện nghĩa vụ trong một hợp đồng được xác
định.
- Bảo lãnh vừa mang tính chất pháp định, vừa mang tính chất ước định.
- Phạm vi bảo lãnh: Bên bảo lãnh có thể cam kết bảo lãnh một phần hoặc toàn bộ
nghĩa vụ cho bên được bảo lãnh, nếu không có thỏa thuận gì khác thì người bảo
lãnh phải bảo lãnh cả tiền lãi trên nợ gốc trong phạm vi bảo lãnh đồng thời phải
bảo lãnh cả tiền phạt cũng như tiền bồi thường thiệt hại. (Điều 336 BLDS 2015)
- Chế định bảo lãnh làm phát sinh hai mối quan hệ:
 Quan hệ giữa bên bảo lãnh và bên được bảo lãnh (Điều 337 BLDS 2015)
 Quan hệ giữa bên bảo lãnh và bên nhận bảo lãnh (Điều 339 BLDS 2015).
- Nghĩa vụ giữa những người cùng bảo lãnh với bên nhận bảo lãnh là nghĩa vụ liên
đới, trừ khi có thỏa thuận khác (Điều 338 BLDS 2015).

Câu 4.2. Những thay đổi giữa BLDS 2015 và BLDS 2005 về bảo lãnh.
Trả lời:

36
BLDS 2005 BLDS 2015
Hình thức bảo lãnh Việc bảo lãnh phải được Lược bỏ quy định về hình
lập thành văn bản, có thể thức
lập thành văn bản riêng
hoặc ghi trong hợp đồng
chính. Trong trường hợp
pháp luật có quy định thì
văn bản bảo lãnh phải được
công chứng hoặc chứng
thực
Phạm vi bảo lãnh Bảo lãnh một phần hoặc Bổ sung thêm 2 quy định:
toàn bộ nghĩa vụ cho bên “3. Các bên có thể thỏa
được bảo lãnh. Nghĩa vụ thuận sử dụng biện pháp
được bảo lãnh gồm cả tiền bảo đảm bằng tài sản để
lãi trên nợ gốc, tiền phạt, bảo đảm thực hiện nghĩa vụ
tiền bồi thường thiệt hại, bảo lãnh.
trừ trường hợp có thỏa
thuận khác 4. Trường hợp nghĩa vụ
được bảo lãnh là nghĩa vụ
phát sinh trong tương lai thì
phạm vi bảo lãnh không
bao gồm nghĩa vụ phát sinh
sau khi người bảo lãnh chết
hoặc pháp nhân bảo lãnh
chấm dứt tồn tại.”
Miễn thực hiện nghĩa vụ Theo Điều 368 BLDS Theo Điều 341 BLDS
bảo lãnh 2005:  2015, bổ sung thêm quy
“1. Trong trường hợp bên định tại Khoản 3:
nhận bảo lãnh miễn việc
“Trường hợp trong một
thực hiện nghĩa vụ cho bên
trong số những người nhận
bảo lãnh thì bên được bảo
bảo lãnh không phải thực

37
lãnh vẫn phải thực hiện hiện phần nghĩa vụ đối với
nghĩa vụ đối với bên nhận mình thì bên thì bên bảo
bảo lãnh, trừ trường hợp có lãnh vẫn phải thực hiện
thỏa thuận hoặc pháp luật phần nghĩa vụ còn lại đối
có quy định phải liên đới với người nhận bảo lãnh
thực hiện nghĩa vụ bảo liên đới còn lại.”
lãnh.
2. Trong trường hợp chỉ
một người trong số nhiều
người cùng nhận bảo lãnh
liên đới được miễn việc
thực hiện phần nghĩa vụ
bảo lãnh của mình thì
những người khác vẫn phải
thực hiện nghĩa vụ bảo lãnh
của họ.”

Xử lấy tài sản của bên bảo Theo Điều 369: Khoản 2 Điều 343:
lãnh “Trong trường hợp đã đến “Trường hợp bên bảo lãnh
hạn thực hiện nghĩa vụ thay không được thực hiện đúng
cho bên được bảo lãnh, mà nghĩa vụ bảo lãnh thì bên
bên bảo lãnh không thực nhận bảo lãnh có quyền
hiện hoặc thực hiện không yêu cầu bên bảo lãnh thanh
đúng nghĩa vụ thì bên bảo toán giá trị nghĩa vụ vi
lãnh phải đưa tài sản thuộc phạm và bồi thường thiệt
sở hữu của mình để thanh hại.”
toán cho bên nhận bảo
lãnh”.
BLDS 2015 chỉ quy định
 Pháp luật quy định cho
về quyền yêu cầu bên bảo
bên nhận bảo lãnh có
lãnh phải thanh toán giá trị
quyền xử lý tài sản bảo
nghĩa vụ vi phạm và bồi
đảm của bên bảo lãnh
38
thường thiệt hại (nếu có).
Hủy bỏ việc bảo lãnh Điều 370 quy định: Lược bỏ quy định này.
“Việc bảo lãnh có thể được
hủy bỏ nếu được bên nhận
bảo lãnh đồng ý, trừ trường
hợp pháp luật có quy định
khác.”

*Đối với Quyết định số 02:

Tóm tắt quyết định số 02/2014/QĐ-UBTP ngày 28/2/2014 của Tòa án nhân dân tỉnh
Tiền Giang V/v “Tranh chấp hợp đồng cầm cố quyền sử dụng đất”.
Nguyên đơn: Ông Nguyễn Văn Ôn, bà Lê Thị Xanh.
Bị đơn: Ông Nguyễn Văn Rành.
Nội dung: Vào năm 1995, ông Ôn và bà Xanh có cầm cố cho ông Rành 3000m2 đất
với giá 30 chỉ vàng 24k. Vợ chồng ông Rành đã giao đủ vàng, hai bên thỏa thuận 3
năm sẽ chuộc lại, nếu không chuộc lại thì ông sẽ canh tác vĩnh viễn. Hiện tại, phần đất
tranh chấp vợ chồng ông Rành đang canh tác và còn 2,5 tháng sẽ thu hoạch.
Quyết định của Tòa án:
Quyết định dân sự sơ thẩm của Tòa án nhân dân huyện Châu Thành: Hủy hợp đồng
cầm cố quyền sử dụng đất đối với phần đất 3.072,7m2, buộc ông Rành phải giao trả lại
phần đất 3.072,7m2 cho ông Ôn, bà Xanh và yêu cầu ông Ôn, bà Xanh liên đới trả cho
ông Rành hết 30 chỉ vàng 24k (loại vàng nhẫn).
Tại Quyết định Giám đốc thẩm đã chấp nhận kháng nghị của Viện trưởng Viện
kiểm sát nhân dân tỉnh Tiền Giang và cho rằng: giao dịch giữa ông Ôn, bà Xanh
và ông Rành là giao dịch tương tự như là giao dịch cầm cố tài sản phải áp dụng
nguyên tắc tương tự là các quy định về cầm cố tài sản để giải quyết, cũng như hủy
bản án dân sự sơ thẩm của Tòa án nhân dân huyện Châu Thành về việc “Tranh
chấp hợp đồng cầm cố quyền sử dụng đất”.

Câu 4.3. Đoạn nào cho thấy Tòa án xác định quan hệ giữa ông Miễn, bà Cà với Quỹ
tín dụng là quan hệ bảo lãnh?
Trả lời:

39
Đoạn trong Quyết định số 02 cho thấy Tòa án xác định quan hệ giữa ông Miễn, bà
Cà với Quỹ tín dụng là quan hệ bảo lãnh là: “Trong trường hợp xác định Hợp đồng thế
chấp quyền sử dụng đất của người thứ ba số 01534 ngày 22/9/2006 giữa các bên có hiệu
lực thì phải tuân theo đúng quy định tại khoản 1 Điều 5 và khoản 1 Điều 7 của Hợp đồng
thế chấp, Điều 361 của Bộ luật dân sự là khi chủ doanh nghiệp tư nhân Đại Lộc Tân
không trả nợ hoặc trả không đủ thì ông Miễn và bà Cà phải trả thay, nếu ông Miễn, bà Cà
không trả nợ hoặc trả không đủ thì mới xử lý tài sản thế chấp để thu hồi nợ.”

Câu 4.4. Suy nghĩ của anh/chị về việc xác định trên của Hội đồng thẩm phán.
Trả lời:

Việc xác định trên của Tòa là hợp lý và thuyết phục.

Ông Miễn và bà Cà đã lấy tài sản của mình để bảo đảm cho nghĩa vụ trả nợ của
Chủ Doanh nghiệp tư nhân Đại Lộc Tân bằng Hợp đồng thế chấp quyền sử dụng đất của
người thứ ba số 01534 ngày 22/9/2006 giữa bên thế chấp là ông Miễn, bà Cà còn bên
nhận thế chấp là Quỹ tín dụng với bên vay vốn là bà Tỉnh - Chủ Doanh nghiệp tư nhân
Đại Lộc Tân. Hơn nữa, hợp đồng đăng ký đã được chứng thực và đăng ký giao dịch bảo
đảm. Nên khi doanh nghiệp tư nhân không trả hoặc trả không đủ thì ông Miễn, bà Cà
phải có trách nhiệm thanh toán thay, nếu 2 ông bà không trả hoặc trả không đủ thì xử lý
thế chấp để thu hồi nợ. Căn cứ theo khoản 1 Điều 342 BLDS 2015: “Trường hợp bên
được bảo lãnh không thực hiện hoặc thực hiện không đúng nghĩa vụ thì bên bảo lãnh phải
thực hiện nghĩa vụ đó.”

Câu 4.5. Theo Tòa án, quyền sử dụng đất của ông Miễn, bà Cà được sử dụng để bảo
đảm cho nghĩa vụ nào? Vì sao?
Trả lời:

Theo Toà án, quyền sử dụng đất của ông Miễn, bà Cà được sử dụng để đảm bảo
cho nghĩa vụ trả nợ của Chủ doanh nghiệp tư nhân Đại Lộc Tân là bà Đỗ Thị Tỉnh vì:
Ngày 26/9/2006, Quỹ tín dụng nhân dân Trung ương - Chi nhánh Đồng Nai ký Hợp đồng
tín dụng số TC066/02/HĐTD cho Doanh nghiệp tư nhân Đại Lộc Tân vay 900.000.000
đồng thời gian vay là 12 tháng. Tài sản bảo đảm cho khoản vay này là quyền sử dụng
20.408 m2 đất do vợ chồng ông Miễn, bà Cà đem thế chấp cho Quỹ tín dụng để đảm bảo
nghĩa vụ trả nợ cho Chủ Doanh nghiệp tư nhân Đại Lộc Tân. Vậy nên, vợ chồng ông
Miễn bà Cà đã đứng ra bảo lãnh cho bà Tỉnh. Vì vậy, ông Miễn và bà Cà phải có trách

40
nhiệm đối với nghĩa vụ: thanh toán số nợ cho Quỹ tín dụng nếu như bà Đỗ Thị Tỉnh
không trả được.

*Đối với Quyết định số 968

Tóm tắt Quyết định giám đốc thẩm số 968/2011/DS – GĐT ngày 27/12/2011 veev vụ
án “Tranh chấp hợp đồng bảo lãnh”.
Nguyên đơn: Bà Vũ Thị Hồng Nhung.
Bị đơn: Bà Nguyễn Thị Thắng.
Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan: Bà Nguyễn Thị Mát và Ông Nguyễn Văn
Tam.
Nội dung: Bà Nhung cho bà Mát vay 500.000.000 đồng, với lãi suất 1.2% tháng và bà
Mát được ông Ân và bà Thắng bảo lãnh. Sau khi vay, bà Mát tra được 8 tháng tiền lãi
sau đỏ bà Mát không trả tiền cả gốc lẫn lãi nên bà Nhung khởi kiện yêu cầu bà Mát
phải trả tiền cho bà. Tại Toà sơ thẩm quyết định bà Mát và bà Thắng cùng liên đới chịu
trách nhiệm trả tiền cho bà Nhung. Bà Thắng kháng cáo không đồng ý với bản sơ
thẩm. Tại bản án dân sự phúc thẩm thì hủy bản án sơ thẩm và nhận xét rằng quan hệ
vay tiền và quan hệ bảo lãnh là hai quan hệ độc lập nên bà Nhung có quyền khởi kiện
bà Mặt trả tiền hoặc ba Thắng thực hiện nghĩa vụ bảo lãnh trả nợ thay cho bà Mát. Sau
đó bà Nhung khởi kiện lại yêu cầu ba Thắng phải trả tiền thay cho bà Mật. Tại quyết
định giám đốc thẩm quyết định huỷ ca bản án sơ thẩm và phúc thẩm, cho rằng trước
hết cần xác định bà Mát là người thực hiện nghĩa vụ dân sự của mình với bà Nhung,
nếu bả Mát không có khả năng thực hiện nghĩa vụ dân sự hoặc chỉ thực hiện được một
phần thì phần không thực hiện được bà Thắng và ông Ấn mới có trách nhiệm thực hiện
thay.

Câu 4.6. Đoạn nào cho thấy Tòa án địa phương đa theo hướng người bảo lãnh và
người được bảo lãnh liên đới thực hiện nghĩa vụ cho người có quyền?
Trả lời:

Đoạn trong Quyết định số 968 cho thấy Tòa án địa phương đã theo hướng người
bảo lãnh và người được bảo lãnh liên đới thực hiện nghĩa vụ cho người có quyền là:

41
“Tại bản án dân sự sơ thẩm số 376/2009/DS-ST ngày 28/09/2009, Tòa án nhân
dân thành phố Biên Hòa, tỉnh Đồng Nai quyết định:

- Chấp nhận đơn khởi kiện của bà Vũ Thị Hồng Nhung

- Bà Nguyễn Thị Thắng phải thực hiện nghĩa vụ thay cho bà Nguyễn Thị mát, ông
Nguyễn Văn Tam trả cho bà Vũ Thị Hồng Nhung số tiền 607.106.000 đồng (trong đó, nợ
gốc 500.000.000 đồng, lãi suất 107.106.000 đồng)”. “Tại Bản án dân sự phúc thẩm số
24/2010/DS-PT ngày 29/01/2010, TAND tỉnh Đồng Nai quyết định: Bác kháng cáo của
nguyên đơn bà Vũ Thị Hồng Nhung và bị đơn bà Nguyễn Thị Thắng. Giữ nguyên bản án
sơ thẩm.”

Câu 4.7. Hướng liên đới trên có được Tòa giám đốc thẩm chấp nhận không?
Trả lời:

Hướng giải quyết buộc người bảo lãnh và người được bảo lãnh liên đới thực hiện
nghĩa vụ với người có quyền được Tòa giám đốc thẩm không được chấp nhận.

Tòa giám đốc thẩm cho rằng Tòa án các cấp đi theo hướng liên đới trên là đúng
nhưng chỉ được buộc bà Thắng, ông Ân chịu trách nhiệm liên đới với bà Mát khi và chỉ
khi bà Mát không còn khả năng thực hiện nghĩa vụ của mình hay chỉ có khả năng thực
hiện được một phần nghĩa vụ của mình. Vì vậy, do Tòa án các cấp chưa xác định rõ khả
năng thực hiện nghĩa vụ của bà Mát mà đã buộc bà Thắng, ông Ân chịu trách nhiệm liên
đới thực hiện nghĩa vụ là chưa chính xác.

Cụ thể tại phần xét thấy của Quyết định số 968, Tòa án xác định rằng: "Như vậy,
căn cứ vào tài liệu nêu trên và có cơ sở xác định bà Mát là người vay tiền của bà Nhung,
còn bà Thắng và ông Ân (Nhơn) chỉ là người thực hiện nghĩa vụ dân sự của mình đối với
bà Nhung; nếu bà Mát không có khả năng thực hiện nghĩa vụ dân sự hoặc chỉ có thể thực
hiện được một phần thì phần không được thực hiện được bà Thắng và ông Ân mới phải
có trách nhiệm thực hiện thay theo theo quy định tại Điều 361, Điều 363 và Điều 365 Bộ
luật dân sự. Tòa án các cấp chưa thu thập, xác định rõ khả năng thực hiện nghĩa vụ dân sự
của bà Mát, nhưng Tòa án cấp sơ thẩm (Tòa án nhân dân huyện Trảng Bom) đã buộc bà
Thắng cùng liên đới thực hiện nghĩa vụ dân sự cùng bà Mát là chưa chính xác.”

42
Câu 4.8. Suy nghĩ của anh/chị về hướng giải quyết trên của Tòa giám đốc thẩm liên
quan đến vấn đề liên đới nêu trên.
Trả lời:

Hướng giải quyết của Tòa giám đốc thẩm là không hợp lý.
Khoản 2 Điều 335 BLDS 2015 đã quy định:
“2. Các bên có thể thỏa thuận về việc bên bảo lãnh chỉ phải thực hiện nghĩa vụ
thay cho bên được bảo lãnh trong trường hợp bên được bảo lãnh không có khả năng thực
hiện nghĩa vụ bảo lãnh”
Bên cạnh đó, Điều 338 BLDS 2015 quy định về nhiều người cùng bảo lãnh:
“Khi nhiều người cùng bảo lãnh một nghĩa vụ thì phải liên đới thực hiện việc bảo
lãnh, trừ trường hợp có thỏa thuận hoặc pháp luật có quy định bảo lãnh theo các phần độc
lập; bên có quyền có thể yêu cầu bất cứ ai trong số những người bảo lãnh liên đới phải
thực hiện toàn bộ nghĩa vụ.
Khi một người trong số những người bảo lãnh liên đới đã thực hiện toàn bộ nghĩa
vụ thay cho bên được bảo lãnh thì có quyền yêu cầu những người bảo lãnh còn lại phải
thực hiện phần nghĩa vụ của họ đối với mình.”
Từ những quy định trên, ta có thể thấy, pháp luật không có quy định về việc người
bảo lãnh và người được bảo lãnh phải liên đới thực hiện nghĩa vụ cho người có quyền.
Khoản 2 Điều 335 chỉ quy định khi các bên có thỏa thuận về việc người bảo lãnh chỉ thực
hiện nghĩa vụ trong trường hợp bên được bảo lãnh không có khả năng thực hiện nghĩa vụ.
Việc Tòa án cấp sơ thẩm yêu cầu bên bảo lãnh (bà Thắng, ông Ân) liên đới với bên được
bảo lãnh (bà Mát) cùng thực hiện nghĩa vụ trả nợ cho bà Nhung là không phù hợp với
quy định của pháp luật, không đảm bảo quyền lợi cho người bảo lãnh. Bà Mát là người
phải thực hiện nghĩa vụ trả nợ của mình cho bà Nhung, nếu bà Mát không có khả năng
thực hiện nghĩa vụ đối với bà Nhung hoặc chỉ thực hiện được một phần thì bà Thắng, ông
Ân mới thực hiện nghĩa vụ trả nợ thay cho bà Mát theo quy định của pháp luật, đảm bảo
quyền lợi cho bên bảo lãnh.

43
Câu 4.9. Phân biệt thời điểm phát sinh nghĩa vụ bảo lãnh và thời điểm thực hiện
nghĩa vụ bảo lãnh.
Trả lời:

Thời điểm phát sinh nghĩa vụ bảo lãnh là từ khi thỏa thuận giữa bên thứ 3 với bên
có quyền về việc sẽ chịu trách nhiệm cho bên được bảo lãnh khi bên được bảo lãnh
không thực hiện được trọn vẹn nghĩa vụ của mình được giao kết.

Thời điểm thực hiện nghĩa vụ bảo lãnh là thời điểm mà khi đến hạn mà bên được
bảo lãnh chưa thực hiện hoặc không hoàn thành nghĩa vụ của mình bên có quyền yêu cầu
bên bảo lãnh phải thực hiện thay lúc này thời điểm thực hiện nghĩa vụ bảo lãnh bắt đầu.

Câu 4.10 Theo BLDS, khi nào người bảo lãnh phải thực hiện nghĩa vụ bảo lãnh?
Trả lời:

Cơ sở pháp lý: Điều 338, 339 BLDS 2015.

Người bảo lãnh phải thực hiện nghĩa vụ bảo lãnh khi:

- Khi nhiều người cùng bảo lãnh một nghĩa vụ thì phải liên đới thực hiện việc bảo
lãnh, trừ trường hợp có thỏa thuận hoặc pháp luật có quy định bảo lãnh theo các phần độc
lập; bên có quyền có thể yêu cầu bất cứ ai trong số những người bảo lãnh liên đới phải
thực hiện toàn bộ nghĩa vụ.

- Khi một người trong số những người bảo lãnh liên đới đã thực hiện toàn bộ nghĩa
vụ thay cho bên được bảo lãnh thì có quyền yêu cầu những người bảo lãnh còn lại phải
thực hiện phần nghĩa vụ của họ đối với mình.

- Trong trường hợp bên nhận bảo lãnh miễn việc thực hiện nghĩa vụ cho bên bảo
lãnh thì bên được bảo lãnh vẫn phải thực hiện nghĩa vụ đối với bên nhận bảo lãnh, trừ
trường hợp có thỏa thuận hoặc pháp luật có quy định phải liên đới thực hiện nghĩa vụ bảo
lãnh.

- Trong trường hợp chỉ một người trong số nhiều người cùng nhận bảo lãnh liên
đới được miễn việc thực hiện phần nghĩa vụ bảo lãnh của mình thì những người khác vẫn
phải thực hiện nghĩa vụ bảo lãnh của họ.

44
Câu 4.11. Theo Quyết định, khi nào người bảo lãnh phải thực hiện nghĩa vụ bảo
lãnh?
Trả lời:

Theo Quyết định thì người bảo lãnh phải thực hiện nghĩa vụ bảo lãnh khi bên được
bảo lãnh không có khả năng thực hiện nghĩa vụ dân sự hoặc chỉ có thể thực hiện được
một phần, thị phần không thực hiện được bên bảo lãnh mới phải có trách nhiệm thực hiện
thay theo quy định tại Điều 361, 363 và 365 BLDS 2005 (Điều 335, 336 và 338 BLDS
2015).

Cụ thể trong Quyết định: "Như vậy, căn cứ vào các tài liệu nêu trên có cơ sở xác
định bà Mát là người vay tiền của bà Nhung còn bà Thắng và ông Ân (Nhơn) chỉ là người
bảo lãnh cho bà Mặt nên trước hết cần xác định bà Mát phải là người thực hiện nghĩa vụ
dân sự của mình đối với bà Nhưng; nếu bà Mắt không có khả năng thực hiện nghĩa vụ
dân sự hoặc chỉ có thể thực hiện được một phần, thị phần không thực hiện được bà Thắng
và ông Ân mới phải có trách nhiệm thực hiện thay theo quy định tại Điều 361, 363, và
Điều 365 Bộ luật dân sự.”

Câu 4.12: Có bản án, quyết định nào theo hướng giải quyết trên về thời điểm thực
hiện nghĩa vụ bảo lãnh chưa? Nêu rõ Bản án, Quyết định mà anh/chị biết.
Trả lời:
Đã có Quyết định theo về thời điểm thực hiện nghĩa vụ bảo lãnh theo hướng giải
quyết như trên, đó là Quyết định số 01/2010/DS-GĐT ngày 06-01-2010 của Hội đồng
Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao:
Quyết định số 01/2010/DS-GĐT ngày 06-1-2010 của Hội đồng Thẩm phán Tòa án
nhân dân tối cao
Nguyên đơn: Lê Văn Sang
Bị đơn: Nguyễn Thị Bích Thảo
Nội dung: Chị Nguyễn Thị Bích Thảo đã vay của ông Lê Văn Sang 60 triệu đồng và
đã giao
Giấy chứng nhận quyền sở hữu nhà đối với nhà số 50/3 đường Xuân An, phường 3,
thành phố Đà Lạt do ông Nguyên Văn Lộc và bà Trần Thị Phục (bố, mẹ chị Thảo)
đứng tên cho ông Sang để làm tin. Các bên lập hợp đồng thế chấp căn nhà trên (trị giá
100 triệu đồng) để đảm bảo nghĩa vụ trả nợ cho chị Thảo, hợp đồng có công chứng hợp

45
pháp vào ngày 09/11/1996, các có mặt và không phản đối. Sau đó, chị Thảo không
thực hiện không thực hiện nghĩa vụ trả nợ cho ông Sang. Bên cho vay đã khởi kiện yêu
cầu buộc bà Phục, ông Lộc (với tư cách bị đơn) thanh toán khoản nợ. Tuy nhiên, trong
vụ án này, chị Thảo là người vay tiền của ông Sang, còn ông Lộc, bà Phục là những
người dùng tài sản của mình để bảo đảm cho khoản vay của chị Thảo. Do vậy, ông
Sang phải khởi kiện yêu cầu chị Thảo trả nợ, nếu chị Thảo không trả được nợ gốc và
lãi thì ông Lộc, bà Phục có trách nhiệm trả thay; nếu ông Lộc, bà Phục không trả được
thì bà Tý có quyền yêu cầu cơ quan Nhà nước có thẩm quyền bán đấu giá tài sản bảo
lãnh để thu hồi nợ

Câu 4.13. Suy nghĩ của anh/chị về hướng giải quyết trên của Tòa Giám đốc Thẩm
Trả lời:

Hướng giải quyết trên của Tòa giám đốc thẩm là phù hợp với quy định của pháp
luật.
Bởi vì việc lập giấy biên nhận có sự bảo lãnh của ông Ân và bà Thắng đã ngầm
hàm chứa nội dung là sẽ thực hiện thay cho bên có nghĩa vụ, như là một căn cứ cho rằng
hai ông bà sẽ có trách nhiệm hoàn trả cho bà Nhung thay cho bà Mát trong trường hợp bà
Mát không thực hiện được nghĩa vụ thanh toán của mình. Hướng giải quyết trên thỏa
đáng cả cho người bảo lãnh và người được bảo lãnh. Bởi vì khi giải quyết vụ án ta phải
xem xét thực kỹ khả năng thực hiện nghĩa vụ của người được bảo lãnh để tránh việc trốn
tránh thực hiện nghĩa vụ của mình và đẩy trách nhiệm đó cho người bảo lãnh. Việc này
giúp bảo quyền quyền và lợi ích hợp pháp cho người bảo lãnh.

46
47
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
I. Văn bản quy phạm pháp luật

1. Bộ luật dân sự 2015;


2. Bộ luật dân sự 2005;
3. Luật Ngân hàng;
4. Thông tư 08/2018/TT-BTP;
5. Nghị định số 102/2017/NĐ-CP;

II. Sách, giáo trình tham khảo

1. Trường Đại học Luật Thành phố Hồ Chí Minh (2017), Giáo trình Pháp luật về
hợp đồng và bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng, Nxb. Hồng Đức – Hội Luật Gia
Việt Nam.
2. Đỗ Văn Đại, Luật các biện pháp bảo đảm thực hiện nghĩa vụ Việt Nam – Bản án
và bình luận bản án, Nxb. Hồng Đức – Hội Luật gia Việt Nam.
3. Trường Đại học Luật Thành phố Hồ Chí Minh (2017), Sách tình huống Pháp luật
về Hợp đồng và thiệt hại bồi thường về hợp đồng, Nxb. Hồng Đức – Hội Luật gia
Việt Nam.

III. Bản án, quyết định

1. Bản án số 208/2010/DS-PT ngày 09/03/2010 của Tòa án nhân dân TP. Hồ Chí
Minh;
2. Quyết định số 02/2014/QĐ-UBTP ngày 28/2/2014 của Tòa án nhân dân Tòa án
nhân dân tỉnh Tiền Giang;
3. Quyết định số 27/2021/DS-GĐT ngày 02/6/2021 của Tòa án nhân dân cấp cao tại
Tp. Hồ Chí Minh;
4. Bản án số 90/2019/KDTM-PT ngày 16/08/2019 của Tòa án nhân dân TP. Hà Nội;
5. Quyết định số 41/2021/KDTM-GĐT ngày 08/7/2021 của Tòa án nhân dân cấp cao
tại TP. Hồ Chí Minh;
6. Án lệ số 25/2018/AL;
7. Quyết định số 49/2018/KDTM-GĐT ngày 18/10/2018 của Tòa án nhân dân cấp
cao tại TP. Hồ Chí Minh;
8. Bản án số 26/2019/DS-PT ngày 11/6/2019 của Tòa án nhân dân tỉnh Quảng Ninh;

48
9. Quyết định số 02/2013/KDTM-GĐT ngày 08/1/2013 của Hội đồng thẩm phán Tòa
án nhân dân tối cao;
10. Quyết định số 968/2011/DS-GĐT ngày 27/12/2011 của Tòa dân sự Tòa án nhân
dân tối cao.

49

You might also like