You are on page 1of 25

TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

BÀI THẢO LUẬN THỨ TƯ: BẢO ĐẢM THỰC HIỆN NGHĨA VỤ
MÔN: HỢP ĐỒNG & BỒI THƯỜNG THIỆT HẠI NGOÀI HỢP ĐỒNG
GIẢNG VIÊN: Ngô Thị Anh Vân
LỚP: TM44B3- Nhóm 2
STT HỌ VÀ TÊN MSSV GHI CHÚ
1 Đoàn Thanh Thủy 1953801011295
2 Nguyễn Thị Ngọc Thương 1953801011291
3 Lâm Văn Tình 1953801011302
4 Nguyễn Hà Trâm 1953801011304
5 Hoàng Thị Quỳnh Trang 1953801011307
6 Nguyễn Thị Ngọc Trang 1953801011309
7 Phạm Ngọc Quỳnh Trang 1953801011310
8 Trần Thị Ánh Trinh 1953801011314
9 Đặng Duy Trung 1953801011318
10 Võ Trần Phương Uyên 1953801011328
11 Nguyễn Đỗ Anh Vũ 1953801011339
12 Nguyễn Phương Ánh Vy 1953801011344
13 Nguyễn Thị Như Ý 1953801011353
14 Phan Thị Hải Yến 1953801011355

NỘI DUNG THẢO LUẬN


I. VẤN ĐỀ 1: ĐỐI TƯỢNG DÙNG ĐỂ ĐẢM BẢO THỰC HIỆN NGHĨA
VỤ
A. TÓM TẮT TÌNH HUỐNG
Tóm tắt bản án số 208/2010/DS-PT ngày 09/03/2010 của Toà án nhân dân
TP. HCM
Nguyên đơn:Ông Phạm Bá Minh
Bị đơn: Bà Bùi Thị Khen và ông Nguyễn Khắc Thảo
Ông Minh là chủ doanh nghiệp cầm đồ Bá Minh. Vào ngày 14/09/2007 bà
Khen, ông Thảo thế chấp một giấy phép sử dụng sạp D2-9 tại chợ Tân Hương
cho ông Minh để vay 60.000.000đ, lãi suất 3%/tháng và quá hạn nhưng không
có khả năng thanh toán. Ông Thảo và bà Khen đã đóng 36.800.000đ tiền lãi
trong 22 tháng nên tổng tiền nợ vốn và lãi cần phải trả là 70.000.000đ. Ông
Minh yêu cầu trả ngay, bị đơn xin gia hạn 12 tháng. Mặc dù hai bên tự nguyện
nhưng không phù hợp với lãi suất do Nhà nước quy định, Tòa án buộc ông
Thảo, bà Khen trả cho ông Minh 39.914.800đ và ông Minh phải trả cho bà
Khen giấy đăng kí sử dụng sạp D2-9 vì chứ không phải quyền sở hữu sạp.
Quyết định của Tòa: bác đơn kháng cáo của ông Minh, buộc ông Thảo bà khen
thanh toán cho ông Minh số tiền 39.914.800đ
Tóm tắt Quyết định số 02/2014/QĐ-UBTP ngày 28/2/2014 của Tòa án nhân
dân tỉnh Tiền Giang
Nguyên đơn: Nguyễn Văn Ôn (SN 1955) và Lê Thị Xanh (SN 1963).
Bị đơn: Nguyễn Văn Rành (SN 1963).
Ông Nguyễn Văn Ôn và bà Lê Thị Xanh có 1 mảnh đất 5835m2 tọa lạc ở tỉnh
Tiền Giang theo giấy chứng nhận quyền sử dụng đất năm 1997. Vào năm 1995,
ông bà có cầm cố cho ông Rành 3000m2 với giá 30 chỉ vàng và thỏa thuận 3
năm sẽ chuộc lại. Nếu quá hạn không chuộc sẽ giao lại phần đất trên cho ông
Rành. Trong hạn 3 năm, ông bà có chuộc lại nhưng ông Rành nói còn khó khăn
nên không cho chuộc đất. Nay yêu cầu ông Rành trả đất sau 3 tháng nữa (vì
đang canh tác lúa, khoảng 2,5 tháng thu hoạch) bà sẽ trả lại cho 30 vàng 24k
theo như thoả thuận. Ông Rành lại không đồng ý, đòi chuộc lại đất với giá thị
trường. Tại bản án dân sự sơ thẩm số 348/2012/DS-ST ngày 24/12012 của Toà
án nhân dân huyện Châu Thành quyết định chấp nhận yêu cầu của nguyên đơn,
hủy hợp đồng cầm cố quyền sử dụng đất giữa ông Nguyễn Văn Ôn, bà Lê Thị
Xanh và ông Nguyễn Văn Rành. Buộc ông Rành trả lại đất cho ông, bà Nguyễn
Văn Ôn với số tiền chộc là 30 chỉ vàng 24k. Tại quyết định kháng nghị số
02/2014/KN-DS ngày 20/01/2014 của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tỉnh
Tiền Giang, cho rằng việc TAND huyện Châu Thành xác định giao dịch “thực
đất làm ruộng” vô hiệu là không có căn cứ, trái với quy định của pháp luật.

1
Quyết định của Toà án: Chấp nhận kháng nghị số 02/2014/KN- DS ngày
20/01/2014 của Viện trưởng Viện kiểm soát nhân dân tỉnh Tiền Giang.
Tóm tắt bản án số 4/01/DSPT
Ngày 8/7/2003 bà Phạm Thị Hồng Ngọc làm biên nhận vay của bà Vương Kiêm
Long 60 triệu đồng, lãi suất 3%/ tháng, ngày 8/7/2005, bà Hồng vay thêm 300
triệu, kèm theo thế chấp 3 quyền sử dụng đất do ông Phạm Ngọc Bính và Phạm
Ngọc Chấp đứng tên. Đến tháng 12/2006 thì ngưng trả lãi nên bà Long kiện ra
Toà. Ông Chấp cho bà Hồng mượn giấy chứng nhận quyền sử dụng đất để vay
ngân hàng chứ không phải vay tiền bà Long nên yêu cầu trả lại giấy. Bà Ngọc
giao giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho bà Long để vay tiền là không đúng
pháp luật nên không có hiệu lực. Toà án quyết định buộc bà Vương Kim Long
trả lại giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho ông Phạm Ngọc Bích và những
người thừa kế của ông Phạm Ngọc Chấp.
B. CÂU HỎI THẢO LUẬN
1.1 Những điểm mới của BLDS năm 2015 so với BLDS năm 2005 liên quan
đến tài sản có thể dùng để bảo đảm thực hiện nghĩa vụ dân sự.
BLDS 2015 đã có sự thay đổi về chế định liên quan đến tài sản có thể dùng để
đảm bảo thực hiện nghĩa vụ dân sự so với BLDS 2005. BLDS 2015 (Điều 295)
chỉ có 1 điều luật còn BLDS 2005 có tới 3 điều luật quy định về tài sản đảm bảo
(Điều 320, 321, 322). Việc quy định của BLDS 2005 theo hướng liệt kê, do vậy
BLDS 2005 cũng chỉ là sự lặp lại các loại tài sản theo quy định tại Điều 163 của
Bộ luật và sự liệt kê trên sẽ dẫn đến tình trạng quy định không đầy đủ. Và,
BLDS 2015 đã khắc phục được những nhược điểm này.
Khoản 1 Điều 320 BLDS 2005 về Vật bảo đảm thực hiện nghĩa vụ dân sự:
“1. Vật bảo đảm thực hiện nghĩa vụ dân sự phải thuộc quyền sở hữu của bên
bảo đảm và được phép giao dịch”.
Và Khoản 1 Điều 295 BLDS 2015 về Tài sản đảm bảo:
“1. Tài sản bảo đảm phải thuộc quyền sở hữu của bên bảo đảm, trừ trường hợp
cầm giữ tài sản, bảo lưu quyền sở hữu”.
Quy định tại BLDS 2015 đã bỏ đi quy định “được phép giao dịch” và chỉ quy
định “trừ trường hợp cầm giữ, bảo lưu quyền tài sản”. Bởi lẽ, việc bỏ quy định
này không phải là cho phép sử dụng tài sản không được phép giao dịch để đảm
bảo mà là ở các quy định chung đã có hướng giải quyết.
Tại Khoản 2 Điều 320 BLDS 2005 về Vật bảo đảm thực hiện nghĩa vụ dân sự:
“2. Vật dùng để bảo đảm thực hiện nghĩa vụ dân sự là vật hiện có hoặc được
hình thành trong tương lai. Vật hình thành trong tương lai là động sản, bất
động sản thuộc sở hữu của bên bảo đảm sau thời điểm nghĩa vụ được xác lập
hoặc giao dịch bảo đảm được giao kết”.
2
Và Khoản 3 Điều 295 BLDS 2015 về Tài sản đảm bảo:
“3. Tài sản bảo đảm có thể là tài sản hiện có hoặc tài sản hình thành trong
tương lai”.
Theo đó, BLDS 2005 có liệt kê những vật hình thành trong tương lai là động
sản, bất động sản thuộc sở hữu của bên bảo đảm sau thời điểm nghĩa cụ được
xác lập hoặc giao dịch đảm bảo được giao kết. BLDS 2015 đã bỏ phần quy định
này, tại Khoản 3, Điều 295 không làm rõ thế nào là tài sản hiện có hay tài sản
hình thành trong tương lai. Việc thay đổi như vậy là tránh được sự khó hiểu và
rườm rà vì đã có quy định trong phần Tài sản thuộc những vấn đề chung của
BLDS (như Điều 108, BLDS 2015).
BLDS 2015 cũng bổ sung thêm quy định về giá trị của tài sản đảm bảo tại
Khoản 4 Điều 295: “Giá trị của tài sản bảo đảm có thể lớn hơn, bằng hoặc nhỏ
hơn giá trị nghĩa vụ được bảo đảm”. Quy định này tránh được thực tế là đôi khi
có người yêu cầu giá trị tài sản bảo đảm phải lớn hơn giá trị nghĩa vụ được bảo
đảm.
1.2 Đoạn nào của Bản án 208 cho thấy bên vay dùng giấy chứng nhận sạp
để bảo đảm thực hiện nghĩa vụ trả tiền vay?
Đoạn của bán án cho thấy bên vay dùng giấy chứng nhận sạp để bảo đảm thực
hiện nghĩa vụ trả tiền vay: “Bị đơn bà Bùi Thị Khen và ông Nguyễn Khắc Thảo
xác nhận: Có thế chấp một tờ giấy sạp D2-9 tại chợ Tân Hương để vay
60.000.000đ cho ông Phạm Bá Minh là chủ dịch vụ cầm đồ Bá Minh. Lãi suất
3%/tháng”.
1.3 Giấy chứng nhận sạp có là tài sản không? Vì sao?
Giấy chứng nhận sạp không phải là tài sản.
Căn cứ theo Khoản 1 Điều 105 BLDS 2015 (hoặc Điều 163, BLDS 2005) về
Tài sản:
“1. Tài sản là vật, tiền, giấy tờ có giá và quyền tài sản”.
Khoản 9 Điều 3 Nghị định số 163/2006/NĐ-CP cũng đề cập:
“9. Giấy tờ có giá bao gồm cổ phiếu, trái phiếu, hối phiếu, kỳ phiếu, chứng chỉ
tiền gửi, séc, giấy tờ có giá khác theo quy định của pháp luật, trị giá được
thành tiền và được phép giao dịch”.
Giấy chứng nhận sạp chỉ ghi nhận quyền được sử dụng sạp để bà Khen buôn
bán tại chợ Tân Hương, chứ sạp đó không thuộc quyền sở hữu của bà Khen, bà
chỉ được sử dụng chứ không có đặc quyền nào khác đối với cái sạp, cái sạp đó
không phải tài sản của bà, nên giấy chứng nhận sử dung sạp không nằm trong
danh mục các loại giấy tờ có giá tại Khoản 9 Điều 3 NĐ 163 và cũng không là
vật, tiền và quyền tài sản, do vậy giấy chứng nhận sạp không là tài sản.

3
1.4 Việc dùng giấy chứng nhận sạp để bào đảm nghĩa vụ dân sự có được
Tòa án chấp nhận không? Đoạn nào của bản án cho câu trả lời?
Việc dùng giấy chứng nhận sạp để đảm bảo thực hiện nghĩa vụ dân sự không
được Tòa án chấp nhận. Đoạn của bản án cho câu trả lời: “Xét sạp thịt heo do bà
Khen đứng tên và cầm cố, nhưng giấy chứng nhận sạp D2-9 tại chợ Tân Hương
là giấy đăng kí sử dụng sạp, không phải quyền sở hữu nên giấy chứng nhận trên
không đủ cơ sở pháp lý để bà Khen thi hành án trả tiền cho ông Minh”.
1.5 Suy nghĩ của anh/chị về hướng giải quyết và cơ sở pháp lí của Tòa án
đối với việc dùng giấy chứng nhận sạp để đảm bảo nghĩa vụ.
Tòa án xét thấy, sạp thịt heo do bà Khen đứng tên và cầm cố, nhưng giấy chứng
nhận rạp D2-9 tại chợ Tân Hương là giấy đăng kí sử dụng sạp, không phải
quyền sở hữu, nên giấy chứng nhận trên không đủ cơ sở pháp lí mà để bà Khen
thi hành án trả tiền cho ông Minh.
Căn cứ vào Khoản 1 Điều 320 BLDS 2005 về Vật đảm bảo thực hiện nghĩa vụ
dân sự:
“1. Vật bảo đảm thực hiện nghĩa vụ dân sự phải thuộc quyền sở hữu của bên
bảo đảm và được phép giao dịch”.
Vậy, hướng giải quyết của Tòa án là hợp lí. Theo đó, tài sản cầm cố đó nếu
không thuộc quyền sở hữu của bà Khen thì bà Khen có quyền sử dụng nó chứ
không có quyền định đoạt nó trong giao dịch cầm cố sạp để trả nợ.
1.6 Đoạn nào của Quyết định số 02 cho thấy các bên đã dung quyền sử
dụng đất để cầm cố?
Đoạn của Quyết định số 02 cho thấy các bên đã dung quyền sử dụng đất để cầm
cố:
“Ngày 30/08/1995 vợ chồng ông Võ Văn Ôn và Lê Thị Xanh cùng ông Nguyễn
Văn Rành thảo thuận việc thực đất. Hai bên có lập “Giấy thực đất làm ruộng”
với nội dung giống như việc cầm cố tài sản.
Theo lời khai của nguyên đơn và bị đơn đều thừa nhận là cầm cố đất (BL số 08,
09,10, 19, 20)”.
1.7 Văn bản hiện hành có cho phép dung quyền sử dụng đất để cầm cố
không? Nêu cơ sở văn bản khi trả lời?
Văn bản hiện hành cho phép quyền sử dụng đất để cầm cố.
Theo Điều 309 BLDS 2015 về Cầm cố tài sản: “Cầm cố tài sản là việc một bên
(sau đây gọi là bên cầm cố) giao tài sản thuộc quyền sở hữu của mình cho bên
kia (sau đây gọi là bên nhận cầm cố) để bảo đảm thực hiện nghĩa vụ.”.
Và theo Khoản 2 Điều 310 BLDS 2015 còn quy định: “Trường hợp bất động
sản là đối tượng của cầm cố theo quy định của luật thì việc cầm cố bất động
sản có hiệu lực đối kháng với người thứ ba kể từ thời điểm đăng ký”.Như vậy,
4
BLDS 2015 đã ghi nhận rõ ràng khả năng cầm cố bất động sản nếu luật cho
phép.
Bên cạnh đó với quy định hiện nay của BLDS 2015 và Luật Đất đai 2013 thì
hoàn toàn có thể cầm cố quyền sử dụng đất miễn không vi phạm điều cấm của
luật, không trái đạo đức xã hội. Bởi lẽ, BLDS 2015 cho phép cầm cố bất động
sản, Luật Đất đai 2013 không cấm cầm cố quyền sử dụng đất. Luật Đất đai 2013
quy định người sử dụng đất “được” thực hiện các quyền chuyển đổi, chuyển
nhượng, cho thuê, cho thuê lại, thừa kế, tặng cho, thế chấp, góp vốn quyền sử
dụng đất theo quy định của Luật Đất đai (Khoản 1 Điều 167) mà không có quy
định hạn chế quyền của người sử dụng. Do đó, người sử dụng đất hoàn toàn có
quyền cầm cố quyền sử dụng đất theo quy định của BLDS 2015.
1.8 Trong Quyết định trên, Tòa án có chấp nhận cho phép dùng quyền sử
dụng đất để cầm cố không? Đoạn nào của Quyết định cho câu trả lời?
Trong Quyết định trên, Tòa án chấp nhận cho phép dùng quyền sử dụng đất để
cầm cố.
Đoạn cho câu trả lời: “Xét việc giao dịch thực đất nêu trên là tương tự với giao
dịch cầm cố tài sản, do đó phải áp dụng nguyên tắc tương tự để giải quyết. Về
nội dung, giao dịch thực đất nêu trên phù hợp với quy định về cầm cố tài sản
của BLDS (tại Điều 326,327), do đó cần áp dụng các quy định về cầm cố tài sản
của BLDS để giải quyết mới đảm bảo quyền lợi hợp pháp của các bên giao
dịch”.
1.9 Suy nghĩ của anh/chị về hướng giải quyết trên của Tòa án trong Quyết
định số 02.
Hướng giải quyết của Tòa án là phù hợp với quy định của BLDS 2005 tại thời
điểm đang giải quyết và pháp luật hiện hành, cũng như BLDS 2015 và Đất đai
2013.Theo quy định tại Điều 326 BLDS 2015: “ Cầm cố tài sản là việc một bên
(sau đây gọi là bên cầm cố) giao tài sản thuộc quyền sở hữu của mình cho bên
kia (sau đây gọi là bên nhận cầm cố) để bảo đảm thực hiện nghĩa vụ dân sự.”.
Và Khoản 2 Điều 322 BLDS 2005: “2. Quyền sử dụng đất được dùng để bảo
đảm thực hiện nghĩa vụ dân sự theo quy định của Bộ luật này và pháp luật về
đất đai.”.
Đến BLDS 2015, bên cạnh quy định cầm cố tài sản là việc một bên (sau đây gọi
là bên cầm cố) giao tài sản thuộc quyền sở hữu của mình cho bên kia (sau đây
gọi là bên nhận cầm cố) để bảo đảm thực hiện nghĩa vụ theo Điều 309, Điều
310 BLDS 2015 còn quy định: “Trường hợp bất động sản là đối tượng của cầm
cố theo quy định của luật thì việc cầm cố bất động sản có hiệu lực đối kháng
với người thứ ba kể từ thời điểm đăng ký”. Với quy định tại Khoản 1 Điều 105
BLDS 2015: “Tài sản là vật, tiền, giấy tờ có giá và quyền tài sản” và Điều 115
BLDS 2015: “Quyền tài sản là quyền trị giá được bằng tiền, bao gồm quyền

5
tài sản đối với đối tượng quyền sở hữu trí tuệ, quyền sử dụng đất và các quyền
tài sản khác”.
Khoản 1 Điều 167 Luật đất đai 2013 quy định: “1. Người sử dụng đất được
thực hiện các quyền chuyển đổi, chuyển nhượng, cho thuê, cho thuê lại, thừa kế,
tặng cho, thế chấp, góp vốn quyền sử dụng đất theo quy định của Luật này.”.
Từ đó, ta thấy BLDS 2015 cho phép cầm cố bất động sản vàLuật Đất đai 2013
không cấm cầm cố quyền sử dụng đất. Mặc dù BLDS 2015 không quy định
quyền sử dụng đất là bất động sản nhưng trong Luật Kinh doanh bất động sản
đã có nhiều điều khoản quy định cho thấy quyền sử dụng đất là bất động sản.
Do đó, cầm cố quyền sử dụng đất là cầm cố tài sản vì quyền sử dụng đất là một
loại tài sản.
1.10: Đoạn nào trong bản án số 4 cho thấy người nhận thế chấp quyền sử
dụng đất là cá nhân?
Đoạn trong bản án số 4 cho thấy người nhận thế chấp quyền sử dụng đất là cá
nhân: trong đoạn bà Vương Kim long trình bày rằng “Bà Phạm Thị Hồng Ngọc
làm biên nhận vay 60 triệu đồng….. Khi vay có thế chấp 3 giấy chứng nhận
quyền sử dụng đất….”. Điều đó cho thấy Bà Long đã nhận thế chấp quyền sử
dụng đất cho bà hong vay 360 triệu.
1.11 Có quy định nào cho phép cá nhân nhận quyền sử dụng đất để đảm
bảo thực hiện nghĩa vụ không? Nếu có, nêu cơ sở văn bản?
Có. Tại Khoản 1 Điều 317 BLDS 2015
“Thế chấp tài sản là việc một bên (sau đây gọi là bên thế chấp) dùng tài sản
thuộc sở hữu của mình để bảo đảm thực hiện nghĩa vụ và không giao tài sản
cho bên kia (sau đây gọi là bên nhận thế chấp).”
Theo đó Pháp luật không có quy định hạn chế cá nhân không được nhận thế
chấp quyền sử dụng đất.
Và tại Điểm g Khoản 1 Điều 179 Luật đất đai 2013 quy định hộ gia đình, cá
nhân sử dụng đất có quyền thế chấp quyền sử dụng đất tại tổ chức tín dụng được
phép hoạt động tại Việt Nam, tại tổ chức kinh tế hoặc cá nhân theo quy định của
pháp luật.
Vì vậy, cá nhân vẫn có quyền nhận thế chấp quyền sử dụng đất để đảm bao thực
hiện nghĩa vụ.
1.12 Đoạn nào trong văn bản số 4 cho thấy Toà án không chấp nhận cho cá
nhân nhận quyền sử dụng đất để đảm bảo thực hiện nghĩa vụ?
Trong phần Hội đồng xét xử quyết định: “Theo quy định của Khoản 1 Điều 106
và Điểm d Khoản 2 Điều 110 Luật đất đai quy định người sử dụng đất được thế
chấp quyền sử dụng đất để bảo lãnh tại cơ sở tín dụng được cho phép hoạt động

6
tại Việt Nam để vay vốn. Pháp luật chưa cho phép thế chấp quyền sử dụng đất
giữa cá nhân với nhau”.
1.13 Suy nghĩ của anh/chị về hướng giải quyết?
Hướng giải quyết của Toà là đúng luật vì lúc toàn xét xử thì chưa áp dụng Luật
đất đai 2013. Nếu theo luật mới thì cách giải quyết đó là chưa thoả đáng, vì cá
nhân vẫn được nhận thế chấp quyền sử dụng đất. Tuy nhiên, bà Hồng lại sử
dụng giấy chứng nhận quyền sử dụng đất của người khác chứ không phải chính
chủ.
II. VẤN ĐỀ 2: ĐĂNG KÍ GIAO DỊCH BẢO ĐẢM
A. TÓM TẮT TÌNH HUỐNG
Tóm tắt bản án số  90/2019/KDTM- PT ngày 16/8/2019
Nguyên đơn: Ngân hàng N ( Kế thừa quyền tố tụng của Công ty TNHH
VAMC)
Bị đơn: Công ty TNHH Xây dựng và Thương mại V
Người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan có yêu cầu độc lập: Ông Đỗ Văn Q và
Bà Phạm Thị V.
Theo hợp đồng mua bán nợ giữa Công ty VAMC và Ngân hàng. Ngân hàng bán
khoản nợ của công ty V cho VAMC. Sau đó VAMC khởi kiện đòi nợ công ti V
và ủy quyền cho Ngân hàng tham gia tố tụng.Trong quá trình khởi kiện và Tòa
án giải quyết thì Ngân hàng mua lại khoản nợ của công ty V từ VAMC. Ngân
hàng lại tiếp tục ký Hợp đồng hạn mức tín dụng và gia hạn cho công ty thêm 12
tháng với hạn mức tín dụng như cũ. Quá trình thực hiện hợp đồng này, Ngân
hàng chưa giải ngân mà chỉ theo dõi phần dư nợ chuyển sang. Quá trình thực
hiện hợp đồng, công ty V không thanh toán được khoản tiền gốc và lãi vay theo
hợp đồng trong thỏa thuận tín dụng. Tại hợp đồng thế chấp, ông Q và bà V có
ký hợp đồng thế chấp về quyền sử dụng đất và tài sản để đảm bảo quyền vay
cho công ti V vào ngày 07/9/2009 nhưng đơn đăng ký thế chấp ngày 30/9/2009
thì không phải chữ ký của ông Q và bà V là giả mạo nên bị đơn không chấp
nhận yêu cầu của nguyên đơn yêu cầu kê biên, phát mại tài sản thế chấp nhà đất.
Tuy nhiên theo đơn đăng kí yêu cầu ngày 30/9 thì bên chấp nhận thế chấp là
ngân hàng có đăng ký đóng dấu vào đơn này nên đơn đăng ký vẫn đúng quy
định và phát sinh theo hiệu lực. Vì vậy, Tòa án Nhân dân Thành phố Hà Nội
chấp nhận yêu cầu khởi kiện của Ngân hàng, buộc công ty xây dựng thương mại
V thanh toán nợ gốc, lãi và lãi chậm trả phát sinh từ hợp đồng tín dụng. 
B. CÂU HỎI THẢO LUẬN
2.1 Điểm mới của BLDS 2015 so với BLDS 2005 về đăng ký giao dịch bảo
đảm.

7
BLDS 2005 đề cập đến vấn đề đăng kí giao dịch bảo đảm, còn BLDS 2015 thì
quy định đăng kí biện pháp bảo đảm. Bản chất của hai thuật ngữ “giao dịch bảo
đảm” và “biện pháp bảo đảm” có sự khác nhau. Giao dịch bảo đảm là giao dịch
dân sự do các bên thoả thuận hoặc pháp luật quy định về việc thực hiện biện
pháp bảo đảm. Do đó, việc sử dụng thuật ngữ đăng kí biện pháp đảm bảo sẽ phù
hợp hơn.
Ngoài ra, Khoản 1 Điều 298 BLDS 2015 còn quy định: “…Việc đăng ký là điều
kiện để giao dịch bảo đảm có hiệu lực chỉ trong trường hợp luật có quy định”.
Việc sử dụng cụm từ “luật quy định” thay thế cho cụm từ “pháp luật có quy
định” đã thể hiện sự thay đổi trong tư duy lập pháp, phù hợp với quy định của
Hiến pháp và các quy định khác có liên quan. Bởi lẽ, chỉ khi luật có quy định
đăng kí là điều kiện có hiệu lực của biện pháp bảo đảm thì các bên mới phải
tuân thủ quy định đó.
Đoạn 2 Khoản 1 nêu trên kế thừa quy định trong Khoản 2 Điều 323 BLDS 2005
và thay thế từ “pháp luật” bằng từ “luật”.
Điều 323 BLDS 2005 về Đăng ký giao dịch bảo đảm:
“1. Giao dịch bảo đảm là giao dịch dân sự do các bên thoả thuận hoặc pháp
luật quy định về việc thực hiện biện pháp bảo đảm được quy định tại khoản 1
Điều 318 của Bộ luật này.
  2. Việc đăng ký giao dịch bảo đảm được thực hiện theo quy định của pháp
luật về đăng ký giao dịch bảo đảm. Việc đăng ký là điều kiện để giao dịch bảo
đảm có hiệu lực chỉ trong trường hợp pháp luật có quy định.
  3. Trường hợp giao dịch bảo đảm được đăng ký theo quy định của pháp luật
thì giao dịch bảo đảm đó có giá trị pháp lý đối với người thứ ba, kể từ thời điểm
đăng ký”.
Điều 298 BLDS 2015 về Đăng ký biện pháp bảo đảm”:
“1. Biện pháp bảo đảm được đăng ký theo thỏa thuận hoặc theo quy định của
luật.
  Việc đăng ký là điều kiện để giao dịch bảo đảm có hiệu lực chỉ trong trường
hợp luật có quy định.
  2. Trường hợp được đăng ký thì biện pháp bảo đảm phát sinh hiệu lực đối
kháng với người thứ ba kể từ thời điểm đăng ký.
 3. Việc đăng ký biện pháp bảo đảm được thực hiện theo quy định của pháp
luật về đăng ký biện pháp bảo đảm”.
2.2 Hợp đồng thế chấp số 07/9/2009 có thuộc trường hợp phải đăng kí
không? Vì sao?

8
Hợp đồng thế chấp số 07/9/2009 trong Quyết định trên có thuộc trường hợp
phải đăng kí không. Căn cứ theo Khoản 1 Điều 2 Nghị định số 08/2000/NĐ-CP
về đăng kí giao dịch đảm bảo :
“ 1. Những trường hợp sau đây phải được đăng ký tại cơ quan đăng ký giao
dịch bảo đảm:
a ) Việc cầm cố , thế chấp tài sản mà pháp luật quy định tài sản đó phải đăng
ký quyền sở hữu;
b ) Việc cầm cố, thế chấp tài sản không thuộc quy định tại Điểm a Khoản 1
Điều này nhưng các bên thoả thuận bên cầm cố, bên thể chấp hoặc người thứ
ba giữ tài sản;
c ) Việc cầm cố, thế chấp một tài sản để bảo đảm thực hiện nhiều nghĩa vụ;
d ) Văn bản thông báo về việc xử lý tài sản bảo đảm."
Như vậy , hợp đồng số 07/9/2009 là hợp đồng thế chấp tài sản do vậy thuộc
trường hợp phải đăng kí .
2.3 Hợp đồng thế chấp số 07/9/2009 đã được đăng ký phù hợp với quy định
không? Đoạn nào của bản án cho thấy câu trả lời?
Hợp đồng thế chấp số 07/9/2009 đã được đăng ký phù hợp với quy định: ‘’Xem
xét việc thế chấp này, HĐXX thấy: Đối với việc sử dụng đất và tài sản gắn liền
với đất của bên thứ ba ngày 07/9/2009. Sau khi các bên ký kết hợp đồng thì
công chứng viên thực hiện việc công chứng theo trình tự: lập lời chứng của
công chứng viên ghi nhận rõ các bên tham gia ký kết hợp đồng thế chấp gồm :
Bên thế chấp, bên nhận thế chấp và bên vay ghi nhận rõ việc bên thế chấp và
bên vay ký tên và Hợp đồng trước mặt công chứng viên tại địa chỉ số 60 V,
phường 1, quận H, Hà Nội. Sau đó công chứng viên đóng dấu và trả hồ sơ cho
phía Ngân hàng. Công chứng viên, ông Khúc Mạnh C khẳng định khi ký kết
hợp đồng, ông Q và bà V đã xuất trình đầy đủ chứng minh thư nhân dân, hộ
khẩu và Giấy chứng nhận quyền sở hữu nhà ở và quyền sử dụng đất. Bên ngân
hàng đã có Giấy đề nghị Công chứng và Biên bản định giá tài sản, hợp đồng thế
chấp đều ghi ngày 07/9/2009 được ký và đóng dấu bởi người có thẩm quyền của
Ngân hàng. Ngoài ra Biên bản định giá có đầy đủ chữ ký của bên thế chấp là vợ
chồng ông Q và bà V; bên khách hàng vay là Công ty V do ông Nguyễn Tử D
làm đại diện ký tên và đóng dấu tại Văn phòng công chức,đã thực hiện đúng
pháp luật công chứng, nội dung văn bản công chứng không trái với quy định
của pháp luật, không vi phạm Điều 122 Bộ luật dân sự năm 2005 nên không thể
tự vô hiệu.”
2.4 Theo Tòa án nếu không được đăng ký, hợp đồng thế chấp số 07/9/2009
có vô hiệu không? Vì sao?
Theo Tòa án, nếu không đăng ký thì hợp đồng thế chấp số 07/9/2009 vô hiệu.

9
Vì theo đơn yêu cầu đăng ký thế chấp ngày 30/9/2009 thì bên nhận thế chấp là
Ngân hàng có ký đóng dấu vào đơn này nên Đơn đăng ký vẫn đúng quy định và
phát sinh hiệu lực. Mà khi đăng ký hợp lệ thì chỉ phát sinh quyền ưu tiên xử lý
tài sản thế chấp chứ không phải sẽ vô hiệu hợp đồng thế chấp do chưa đăng ký
giao dịch đảm bảo như phía gia đình ông Q bà V đề nghị (Điều 298 BLDS 2015
và Điều 323 BLDS 2005)
Điều 298 BLDS 2015 về Đăng kí bảo đảm:
“1. Biện pháp bảo đảm được đăng ký theo thỏa thuận hoặc theo quy định của
luật.
Việc đăng ký là điều kiện để giao dịch bảo đảm có hiệu lực chỉ trong trường
hợp luật có quy định.
2. Trường hợp được đăng ký thì biện pháp bảo đảm phát sinh hiệu lực đối
kháng với người thứ ba kể từ thời điểm đăng ký.
3. Việc đăng ký biện pháp bảo đảm được thực hiện theo quy định của pháp luật
về đăng ký biện pháp bảo đảm.”
Điều 323 BLDS 2005 về Đăng ký giao dịch bảo đảm:
 “1. Giao dịch bảo đảm là giao dịch dân sự do các bên thoả thuận hoặc pháp
luật quy định về việc thực hiện biện pháp bảo đảm được quy định tại khoản 1
Điều 318 của Bộ luật này.
  2. Việc đăng ký giao dịch bảo đảm được thực hiện theo quy định của pháp
luật về đăng ký giao dịch bảo đảm. Việc đăng ký là điều kiện để giao dịch bảo
đảm có hiệu lực chỉ trong trường hợp pháp luật có quy định.
  3. Trường hợp giao dịch bảo đảm được đăng ký theo quy định của pháp luật
thì giao dịch bảo đảm đó có giá trị pháp lý đối với người thứ ba, kể từ thời điểm
đăng ký”.
2.5 Hướng giải quyết của Tòa án có thuyết phục không? Vì sao? 
Hướng giải quyết của Tòa án thuyết phục. Vì tại thời điểm làm thủ tục đăng ký
thế chấp ngày 30/9/2009 thì Thông tư số 05/TTLB-BTP-BTNMT ngày
16/05/2005 đang có hiệu lực, tại Điều 4 người yêu cầu đăng ký có quy định:
“Người yêu cầu đăng ký là một trong các bên hoặc các bên ký hợp đồng thế
chấp, bảo lãnh,…’’ chỉ đến ngày 1/3/2010 thì mới có Thông tư số 06/2010
TTLT-BTP-BTNMT và tại Điều 1 mà Thông tư số 06 mới có quy định khi đăng
ký thế chấp lần đầu thì các bên phải đăng ký thay đổi, bổ sung thì chỉ cần một
bên. Vì vậy hướng giải quyết của Tòa án là hoàn toàn đúng với quy định của
Pháp luật, đảm bảo được tính văn minh, chính xác và thuyết phục.
III. VẤN ĐỀ 3: ĐẶT CỌC
A. TÓM TẮT TÌNH HUỐNG

10
Tóm tắt Quyết định số 49/2018/KDTM- GĐT ngày 18/10/2018 của Tòa án
nhân dân cấp cao Thành phố Hồ Chí Minh
Công ty Cổ phần TV-TM-DV Địa ốc Hoàng Quân, kiện Công ty TNHH
Thương mại và Xây dựng Sơn Long Thuận, Ngân hàng thương mại cổ phần
Đầu tư và Phát triển Việt Nam. Buộc bị đơn hoàn trả 1.000.000.000 đồng,
không yêu cầu lãi suất. Bởi vào ngày 20/02/2008, công ty Cổ phần du lịch Ninh
Thuận ký kết thỏa thuận bán 39.192 cổ phiếu ( 100.000đ/ cổ phiếu) tổng giá trị
là 3.919.200.000 đồng, thuộc sở hữu SCIC tại Công ty cổ phần du lịch Ninh
Thuận cho Công ty Cổ phần TV-TM-DV Địa ốc Hoàng Quân. Ngày 22/2/2008,
Công ty cổ phần TV-TM-DV Địa ốc Hoàng Quân đã đặt cọc trước 1 tỉ đồng vào
tài khoản của công ty Cổ phần du lịch Ninh Thuận tại Ngân hàng thương mại cổ
phần đầu tư và phát triển Việt Nam. Nhưng Ngân hàng này đã trích số tiền ấy
trừ vào khoản nợ và lãi suất quá hạn của Công ty du lịch Ninh Thuận. Nay Công
ty cổ phần du lịch Ninh Thuận đã sáp nhập vào Công ty TNHH Thương mại và
xây dựng Sơn Thuận. Vì thế nguyên đơn yêu cầu khởi kiện bị đơn hoàn trả lại 1
tỉ đồng, không yêu cầu lãi suất. Tòa án cấp sơ thẩm chấp nhận yêu cầu khởi
kiện của Nguyên đơn và buộc Ngân hàng thương mại cổ phần đầu tư phát triển
Việt Nam hoàn trả lại 1 tỉ đồng cho công ty Hoàng Quân. Tòa án cấp phúc
thẩm, không chấp nhận kháng cáo của Ngân hàng, giữ nguyên bản án sơ thẩm.
Quyết định của Giám đốc thẩm: kháng nghị bản án phúc thẩm, không kháng
nghị bản án giám đốc thẩm, giữ nguyên bản án phúc thẩm số 01/2018/KDTM-
PT ngày 8/3/2018 của Tòa án nhân dân Ninh Thuận.
B. CÂU HỎI THẢO LUẬN
3.1 Khác biệt cơ bản giữa đặt cọc và cầm cố, đặt cọc và thế chấp.
Sự khác nhau giữa đặt cọc và cầm cố:

Đặt cọc Cầm cố


Là việc một bên giao tài sản Là việc một bên giao tài
thuộc quyền cầm cố của mình sản thuộc quyền sở hữu của
cho nên kia để đảm bảo giao mình cho bên kia để đảm
kết hoặc thực hiện hợp đồng. bảo thực hiện nghĩa vụ.
Khái niệm
(Điều 328 -BLDS 2015) (Điều 309 BLDS 2015)
 Không giao tài sản cho bên  Giao tài sản cho bên kia
kia

Tài sản bảo Liệt kê những tài sản đặt cọc: Không liệt kê tài sản cầm
đảm một khoản tiền hoặc kim khí cố (không giới hạn tài sản
quý, đá quý hoặc vật có giá trị cầm cố)
khác (có giới hạn về tài sản đặt
11
cọc) theo Điều 328 BLDS 2015
Không có quy định về các Điều 315 BLDS 2015
trường hợp chấm dứt. Nhưng “1. Nghĩa vụ được bảo
sẽ dẫn đến một số vấn đề sau: đảm bằng cầm cố chấm
(Khoản 2 Điều 328 BLDS dứt.
2015): “Trường hợp hợp đồng
được giao kết, thực hiện thì tài 2. Việc cầm cố tài sản
sản đặt cọc được trả lại cho được hủy bỏ hoặc được
bên đặt cọc hoặc được trừ để thay thế bằng biện pháp
thực hiện nghĩa vụ trả tiền;” bảo đảm khác.
Các trường Bên đặt cọc từ chối việc giao 3. Tài sản cầm cố đã được
hợp chấm kết thực hiện  tài sản đặt cọc xử lý.
dứt sẽ thuộc về bên nhận cọc; 4. Theo thỏa thuận của các
Nếu bên nhận đặt cọc từ chối bên”
việc giao kết thực hiện hợp
đồng  thì phải trả cho bên đặt
cọc tài sản đặt cọc và một
khoản tiền tương đương giá trị
tài sản đặt cọc, trừ trường hợp
có thỏa thuận khác.

Sự khác nhau giữa đặt cọc và thế chấp:

Đặt cọc Thế chấp


Là việc một bên giao tài sản Là việc một bên dùng tài sản
thuộc quyền cầm cố của mình thuộc sở hữu của mình để
cho nên kia để đảm bảo giao bảo đảm thực hiện nghĩa vụ
Khái niệm kết hoặc thực hiện hợp đồng. và không giao tài sản cho
(Điều 328 BLDS 2015) bên thế chấp (Điều 317
BLDS 2015)
Các trường Không có quy định về các Điều 327 BLDS 2015:
hợp chấm dứt trường hợp chấm dứt. Nhưng “1. Nghĩa vụ được bảo đảm
sẽ dẫn đến một số vấn đề sau: bằng thế chấp chấm dứt.
(Khoản 2 Điều 328 BLDS 2. Việc thế chấp tài sản
2015): “Trường hợp hợp đồng được hủy bỏ hoặc được thay
được giao kết, thực hiện thì tài thế bằng biện pháp bảo đảm
sản đặt cọc được trả lại cho khác.
bên đặt cọc hoặc được trừ để 3. Tài sản thế chấp đã được
thực hiện nghĩa vụ trả tiền;” xử lý.
12
Bên đặt cọc từ chối việc giao 4. Theo thỏa thuận của các
kết thực hiện  tài sản đặt cọc bên.”
sẽ thuộc về bên nhận cọc;
Nếu bên nhận đặt cọc từ chối
việc giao kết thực hiện hợp
đồng  thì phải trả cho bên đặt
cọc tài sản đặt cọc và một
khoản tiền tương đương giá trị
tài sản đặt cọc, trừ trường hợp
có thỏa thuận khác.

3.2 Thay đổi giữa BLDS 2015 và BLDS 2005 về đặt cọc.
Ở BLDS 2005 có thêm quy định “Việc đặt cọc phải thành lập văn bản” còn ở
BLDS 2015 đã bỏ quy định này.
Bởi lẽ, việc đặt cọc là một trong các biện pháp bảo đảm thực hiện nghĩa vụ, vì
thế chỉ cần đảm bảo đúng mục đích, ngoài ra không đòi hỏi đáp ứng về điều
kiện xác lập. Do đó việc kí kết hợp đồng đặt cọc được thành lập văn bản hay
không là do cả hai bên cùng thỏa thuận. Vì thế, tại Điều 328 BLDS 2015 đã bỏ
quy định “Việc đặt cọc phải thành lập văn bản”.
3.3 Theo BLDS, khi nào bên đặt cọc mất cọc, bên nhận cọc bị phạt cọc?
Khoản 2 Điều 328 BLDS 2015
- Hợp đồng không được giao kết, không được thực hiện, do cố ý, do một bên từ
chối thì bên từ chối sẽ bị phạt cọc:
- Nếu bên đặt cọc từ chối phạt cọc (có nghĩa là bên đặt cọc mất cọc).
- Nếu bên nhận cọc từ chối (nghĩa là: 1. Hoàn trả tài sản đặt cọc, 2. Trả một
khoản tiền bồi thường, trừ trường hợp có thỏa thuận khác).
3.4 Nếu hợp đồng được đặt cọc, không được giao kết, thực hiện vì lí do
khách quan, bên nhận cọc có nghĩa vụ trả lại tài sản đặt cọc cho bên đặt
cọc không? Vì sao?
Nếu hợp đồng được đặt cọc, không được giao kết, không được thực hiện vì lí do
khách quan, bên nhận cọc có nghĩa vụ trả lại tài sản cho bên đặt cọc.
Bởi lẽ, trong thực tế có những trường hợp, Hợp đồng có đặt cọc không được
giao kết, không được thực hiện mà không bên nào từ chối do nguyên nhân
khách quan. Nhưng BLDS chưa có quy định về vấn đề này. Vì thế ta áp dụng
Án lệ số 25/2018/AL về không phải chịu phạt cọc vì lí do khách quan. Án lệ đã

13
đưa ra tình huống: Hợp đồng đặt cọc để bảo đảm giao kết hợp đồng mua bán
nhà có thỏa thuận trong một thời hạn nhất định bên nhận đặt cọc phải hoàn tất
các thủ tục để được cấp giấy chứng nhận quyền sở hữu nhà, nếu vi phạm thì
phải chịu phạt cọc; Hết thời hạn theo thỏa thuận, bên nhận đặt cọc chưa được
cấp giấy chứng nhận quyền sở hữu nhà do nguyên nhân từ phía cơ quan nhà
nước có thẩm quyền. Giải pháp pháp lý án lệ đề ra trong trường hợp này là phải
xác định việc bên nhận đặt cọc không thể thực hiện đúng cam kết là do khách
quan và bên nhận đặt cọc không phải chịu phạt cọc.
3.5 Theo Quyết định được bình luận, bên đặt cọc đã chuyển tài sản đặt cọc
cho bên nhận cọc như thế nào?
Theo Quyết định được bình luận, bên đặt cọc đã chuyển tài sản đặt cọc cho bên
nhận cọc như sau: Công ty Cổ phần TV-TM-DV Địa ốc Hoàng Quân chuyển 1
tỷ đồng tiền đặt cọc vào tài khoản của Công ty Cổ phần du lịch Ninh Thuận tại
Ngân hàng Thương mại cổ phần Đầu tư và Phát triển Việt Nam – Chi nhánh
tỉnh Ninh Thuận.
3.6 Theo Tòa giám đốc thẩm trong Quyết định được bình luận, tài sản đặt
cọc còn thuộc sở hữu của bên đặt cọc không? Vì sao?
Theo Tòa giám đốc thẩm trong Quyết định được bình luận, tài sản đặt cọc vẫn
còn thuộc sở hữu của bên đặt cọc. Vì theo Khoản 1 Điều 328 BLDS 2015 “Đặt
cọc là việc một bên giao cho bên kia một khoản tiền… trong một thời hạn để
đảm bảo giao kết hoặc thực hiện hợp đồng.”. Ngoài ra, Công ty Hoàng Quân có
ghi rõ nội dung chuyển tiền là tiền đặc cọc mua cổ phần khi chuyển tiền vào tài
khoản Công ty Ninh Thuận. Nếu việc mua bán cổ phần diễn ra thành công thì số
tiền sẽ được chuyển trả cho SCIC. Hơn nữa, ông Liêm – Giám đốc Công ty
Ninh Thuận) tự ý kí biên bản bán cổ phần cho Công ty Hoàng Quân là trái pháp
luật do ông không được SCIC ủy quyền để thực hiện chuyển nhượng cổ phần.
3.7 Suy nghĩ của anh/chị về hướng giải quyết trên của Tòa giám đốc thẩm
liên quan đến quyền sở hữu tài sản đặt cọc.
Theo nhóm em, hướng giải quyết của Toà giám đốc thẩm về xử lý tài sản đặt
cọc là hợp lý vì Toà án cấp sơ thẩm và Toà án cấp phúc thẩm chưa xác minh,
làm rõ những lý do bà Hạnh chậm trễ hoàn tất các thủ tục để được sang tên
quyền sở hữu là lỗi chủ quan, lỗi hoàn toàn thuộc về bà Hạnh hay là lỗi khách
quan thuộc về cơ quan thi hành án dân sự chậm trễ trong việc chuyển tên quyền
sở hữu cho bà Hạnh. Nếu nó là lỗi chủ quan thuộc về bà Hạnh thì bên nhận cọc
(tức bên bà Hạnh) sẽ phải trả lại tiền cọc cho bên cọc (tức bên ông Lộc) và bị
phạt cọc một số tiền tương đương căn cứ theo Khoản 2 Điều 304 BLDS 2005,
còn nếu nó là lỗi khách quan thuộc về cơ quan thi hành án dân sự thì bên nhận

14
cọc (tức bên bà Hạnh) chỉ phải trả lại tiền cọc cùng với lãi suất theo mức lãi suất
của ngân hàng cho bên đặt cọc (tức bên ông Lộc).
IV. VẤN ĐỀ 4: BẢO LÃNH
A. TÓM TẮT TÌNH HUỐNG
Tóm tắt Quyết định số 02/2013/KDTM-GĐT
Nguyên đơn: quỹ tín dụng nhân dân Trung ương – chi nhánh Đồng Nai (theo
Tòa án cấp sơ thẩm và Tòa án cấp phúc thẩm xác định) do bà Phan Thị Tân Mỹ
- giám đốc chi nhanh Đồng Nai làm đại diện.
Bị đơn: Bà Đỗ Thị Tỉnh – Chủ Doanh nghiệp tư nhân Đại Lộc Tân.
Người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan: Ông Trần Văn Miễn và bà Nguyễn
Thị Cà.
Nội dung vụ việc: Ngày 26/9/2006, Qũy tín dụng nhân dân Trung ương – Chi
nhánh Đồng Nai ký Hợp đồng cho Doanh nghiệp tư nhân Đại Lộc Tân do bà
Tỉnh làm chủ vay 900 triệu. Tài sản bảo đảm cho khoản vay là quyển sử dụng
đất do Uỷ ban nhân dân huyện Vĩnh Cửu cấp cho ông Trần Văn Miễn, do vợ
chồng ông Miễn và bà Cà đem thế chấp cho Qũy tín dụng để đảm bảo nghĩa vụ
trả nợ của Chủ Doanh nghiệp tư nhân Đại Lộc Tân bằng Hợp đồng thế chấp
quyền sử dụng đất của người thứ ba ngày 22/9/2006 giữa Qũy tín dụng (Bên
nhận thế chấp) với ông Miễn và bà Cà (Bên thế chấp) và bà Tỉnh – Chủ Doanh
nghiệp tư nhân Đại Lộc Tân (Bên vay vốn) được UBND xã Thạnh Phú chứng
thực ngày 22/9/2006 và đăng kí giao dịch bảo đảm tại Văn phòng đăng ký
quyền sử dụng đất huyện Vĩnh Cửu ngày 25/9/2006. Do bà Tỉnh còn nợ 630
triệu tiền gốc và tiền lãi nên quỹ tín dụng khởi kiện yêu cầu bà Tỉnh trả nợ, nếu
bà Tỉnh không trả được nợ thì buộc người bảo lãnh là ông Miễn và bà Cà có
trách nhiệm với số nợ, nhưng vợ chồng ông Miễn đề nghị Tòa buộc bà Tỉnh trả
tiền cho Qũy tín dụng và buộc quỹ tín dụng trả lại giấy chứng nhận quyền sử
dụng đất cho ông bà. Trong quá trình điều tra và xét xử vụ việc còn có nhiều
tình tiết mâu thuẫn, không rõ ràng của Tòa án cấp sơ thẩm và Tòa án cấp phúc
thẩm, do đó Hội đồng thẩm phán quyết định hủy bản án kinh doanh ngày
27/11/2008 của Tòa phúc thẩm Tòa án nhân dân tối cao tại Thành phố HCM và
Bản án kinh doanh ngày 23/9/2008 của Tòa án nhân dân tỉnh Đồng Nai.
Tóm tắt bản án Quyết định 968/2011/DS-GĐT ngày 27/12/2011 của Tòa
dân sự Tòa án nhân dân tối cao
Nguyên đơn: Bà Vũ Thị Hồng Nhung.
Bị đơn: Bà Nguyễn Thị Thắng.

15
Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan: Bà Nguyễn Thị Mát và Ông Nguyễn
Văn Tam.
Nội dung: bà Nhung cho bà Mát mượn tiền với sự bảo lãnh của bà Thắng. Do
bà Mát không trả cả tiền gốc lẫn lãi nên bà Nhung khởi kiện yêu cầu bà Mát và
bà Thắng phải có trách nhiệm trả tiền cho bà. Quyết định của Tòa án: Tòa sơ
thẩm: Chấp nhận đơn khởi kiện của bà Nhung, bà Thắng phải thực hiện nghĩa
vụ thay cho bà Mát, ông Tam để trả tiền cho bà Nhung cả gốc và lãi. Tòa phúc
thẩm: giữ nguyên bản án sơ thẩm. - Tòa án giám đốc thẩm: Hủy bản án sơ thẩm
và phúc thẩm, giao hồ sơ vụ án cho Tòa án nhân dân huyện Trảng Bom, tỉnh
Đồng Nai xét sử sơ thẩm lại theo quy định của pháp luật.
B. CÂU HỎI THẢO LUẬN
4.1 Những đặc trưng của bảo lãnh
Theo Khoản 1 Điều 335 BLDS 2015: “Bảo lãnh là việc người thứ ba (sau đây
gọi là bên bảo lãnh) cam kết với bên có quyền (sau đây gọi là bên nhận bảo
lãnh) sẽ thực hiện nghĩa vụ thay cho bên có nghĩa vụ (sau đây gọi là bên được
bảo lãnh), nếu khi đến thời hạn thực hiện nghĩa vụ mà bên được bảo lãnh
không thực hiện hoặc thực hiện không đúng nghĩa vụ”.
Chủ thể trong quan hệ bảo lãnh: Quan hệ bảo lãnh là quan hệ 3 bên gồm bên
có quyền, bên có nghĩa vụ và bên thứ ba. Trong đó, bên có quyền là bên nhận
bảo lãnh, bên có nghĩa vụ là bên được bảo lãnh, bên thứ ba là bên bảo lãnh. Bên
bảo lãnh phải có năng lực hành vi dân sự đầy đủ và có khả năng tài chính. Bên
bảo lãnh có thể là tổ chức, cá nhân có năng lực hành vi dân sự đầy đủ, có tài sản
riêng. Ngoài ra, có thể có nhiều người bảo lãnh cho một cá nhân trong một quan
hệ bảo lãnh.
Quyền và nghĩa vụ của các bên:
◙ Bên nhận bảo lãnh
Trường hợp bên được bảo lãnh không thực hiện hoặc thực hiện không
đúng nghĩa vụ của mình thì bên nhận bảo lãnh có quyền yêu cầu bên bảo lãnh
phải thực hiện nghĩa vụ bảo lãnh, trừ trường hợp các bên có thỏa thuận bên bảo
lãnh chỉ phải thực hiện nghĩa vụ thay cho bên được bảo lãnh trong trường hợp
bên được bảo lãnh không có khả năng thực hiện nghĩa vụ.
Trường hợp bên bảo lãnh không thực hiện đúng nghĩa vụ bảo lãnh thì bên
nhận bảo lãnh có quyền yêu cầu bên bảo lãnh thanh toán giá trị nghĩa vụ vi
phạm và bồi thường thiệt hại.
Bên nhận bảo lãnh không được yêu cầu bên bảo lãnh thực hiện nghĩa vụ
thay cho bên được bảo lãnh khi nghĩa vụ chưa đến hạn.
◙ Bên bảo lãnh

16
Bên được bảo lãnh không thực hiện hoặc thực hiện không đúng nghĩa vụ
thì bên bảo lãnh phải thực hiện nghĩa vụ đó.
Bên bảo lãnh không phải thực hiện nghĩa vụ bảo lãnh trong trường hợp
bên nhận bảo lãnh có thể bù trừ nghĩa vụ với bên được bảo lãnh.
Bên bảo lãnh có quyền yêu cầu bên được bảo lãnh thực hiện nghĩa vụ đối
với mình trong phạm vi nghĩa vụ bảo lãnh đã thực hiện, trừ trường hợp có thỏa
thuận khác.
Bên bảo lãnh được hưởng thù lao nếu bên bảo lãnh và bên được bảo lãnh
có thỏa thuận.
◙ Bên được bảo lãnh
Bên được bảo lãnh có nghĩa vụ trả thù lao cho bên bảo lãnh nếu có thỏa
thuận
Trường hợp bên bảo lãnh phải thực hiện nghĩa vụ bảo lãnh mà bên nhận
bảo lãnh miễn việc thực hiện nghĩa vụ cho bên bảo lãnh thì bên được bảo lãnh
không phải thực hiện nghĩa vụ đối với bên nhận bảo lãnh, trừ trường hợp có
thỏa thuận hoặc pháp luật có quy định khác.
Phạm vi của bảo lãnh:
Theo Điều 336 BLDS 2015 quy định về phạm vi bảo lãnh như sau:
“1. Bên bảo lãnh có thể cam kết bảo lãnh một phần hoặc toàn bộ nghĩa vụ cho
bên được bảo lãnh.
2. Nghĩa vụ bảo lãnh bao gồm cả tiền lãi trên nợ gốc, tiền phạt, tiền bồi thường
thiệt hại, lãi trên số tiền chậm trả, trừ trường hợp có thoả thuận khác.
3. Các bên có thể thỏa thuận sử dụng biện pháp bảo đảm bằng tài sản để bảo
đảm thực hiện nghĩa vụ bảo lãnh.
4. Trường hợp nghĩa vụ được bảo lãnh là nghĩa vụ phát sinh trong tương lai thì
phạm vi bảo lãnh không bao gồm nghĩa vụ phát sinh sau khi người bảo lãnh
chết hoặc pháp nhân bảo lãnh chấm dứt tồn tại.”
Chấm dứt bảo lãnh:
Bảo lãnh sẽ chấm dứt trong trường hợp sau đây:
- Nghĩa vụ được bảo lãnh chấm dứt
- Việc bảo lãnh được hủy bỏ hoặc được thay thế bằng biện pháp bảo đảm khác
- Bên bảo lãnh đã thực hiện nghĩa vụ bảo lãnh
- Theo thỏa thuận của các bên.
Bảo lãnh là biện pháp bổ trợ cho một nghĩa vụ chính. Do đó, khi chưa
chứng minh được nghĩa vụ chính không được thực hiện đầy đủ thì người bảo
lãnh chưa phải thực hiện trách nhiệm bảo lãnh.
Chế định bảo lãnh luôn làm phát sinh hai mối quan hệ:

17
Mối quan hệ giữa bên bảo lãnh và bên nhận bảo lãnh được quy định tại
Điều 339 BLDS 2015. Theo đó, điều luật này tập trung chủ yếu vào việc bảo vệ
quyền lợi của bên bảo lãnh khi so sánh với bên nhận bảo lãnh vì bên bảo lãnh
luôn tồn tại nhiều rủi ro hơn. Như vậy một khi nghĩa vụ mà bên được bảo lãnh
cần phải thực hiện chưa đến thời hạn, tức là chưa đến thời điểm thực hiện nghĩa
vụ thì bên nhận bảo lãnh không có nghĩa vụ phải thực hiện nghĩa vụ đã cam kết
bảo lãnh. Đồng thời BLDS cũng đề xuất các trường hợp mà bên bảo lãnh không
cần phải thực hiện nghĩa vụ bảo lãnh tại Điều 314 BLDS 2015.
Mối quan hệ giữa bên bảo lãnh và bên được bảo lãnh được quy định tại
Điều 337, Điều 340 BLDS 2015 có thể thấy một khi bên bảo lãnh đã dùng
những tài sản của mình để thực hiện nghĩa vụ thay cho bên được bảo lãnh, thì
họ có quyền yêu cầu bên được bảo lãnh thực hiện nghĩa vụ trở lại đối với mình.
4.2 Những thay đổi giữa BLDS 2015 và BLDS 2005 về bảo lãnh.
◙ So với Điều 361 BLDS 2005 thì tại Khoản 1 Điều 335 BLDS 2015 có bổ
sung cụm từ “thực hiện nghĩa vụ” sau cụm từ “thời hạn” có ý làm rõ nghĩa hơn,
việc thêm cụm từ “thực hiện nghĩa vụ” không làm thay đổi nội dung mà chỉ
mang tính kỹ thuật để làm điều luật rõ nghĩa hơn.
Điều 361 BLDS 2005 về chế định bảo lãnh: “Bảo lãnh là việc người thứ ba
(sau đây gọi là bên bảo lãnh) cam kết với bên có quyền (sau đây gọi là bên
nhận bảo lãnh) sẽ thực hiện nghĩa vụ thay cho bên có nghĩa vụ (sau đây gọi là
bên được bảo lãnh), nếu khi đến thời hạn mà bên được bảo lãnh không thực
hiện hoặc thực hiện không đúng nghĩa vụ. Các bên cũng có thể thoả thuận về
việc bên bảo lãnh chỉ phải thực hiện nghĩa vụ khi bên được bảo lãnh không có
khả năng thực hiện nghĩa vụ của mình.”
Khoản 1 Điều 335 BLDS 2015 về bảo lãnh: “Bảo lãnh là việc người thứ ba
(sau đây gọi là bên bảo lãnh) cam kết với bên có quyền (sau đây gọi là bên
nhận bảo lãnh) sẽ thực hiện nghĩa vụ thay cho bên có nghĩa vụ (sau đây gọi là
bên được bảo lãnh), nếu khi đến thời hạn thực hiện nghĩa vụ mà bên được bảo
lãnh không thực hiện hoặc thực hiện không đúng nghĩa vụ.”
◙ BLDS 2015 đã bổ sung thêm một số nội dung mới so với BLDS 2005.
Cụ thể tại Khoản 2 Điều 336 BLDS 2015 đã thêm cụm từ “lãi trên số tiền
chậm trả” vào nghĩa vụ bảo lãnh. Việc bổ sung này vào phạm vi bảo lãnh là phù
hợp với thực tế và tương thích với các quy định có liên quan. Bởi lẽ, khi hết thời
hạn thực hiện nghĩa vụ mà bên có nghĩa vụ không thực hiện hoặc thực hiện hoặc
thực hiện không đúng thì nên có chế tài phù hợp để thúc đẩy quá trình thực hiện
nghĩa vụ diễn ra đúng thời hạn, nhanh chóng.

18
Tại Khoản 4 Điều 336 BLDS 2015 quy định thêm trường hợp người bảo
lãnh chết hoặc pháp nhân chấm dứt. Việc quy này phù hợp với các vụ việc xảy
ra trên thực tế.
Điều 363 BLDS 2005 quy định về phạm vi bảo lãnh: “Bên bảo lãnh có thể cam
kết bảo lãnh một phần hoặc toàn bộ nghĩa vụ cho bên được bảo lãnh. Nghĩa vụ
bảo lãnh bao gồm cả tiền lãi trên nợ gốc, tiền phạt, tiền bồi thường thiệt hại,
trừ trường hợp có thỏa thuận khác.”
Điều 336 BLDS 2015 về phạm vi bảo lãnh.
◙ BLDS 2015 bổ sung thêm quy định về mối quan hệ giữa bên bảo lãnh với bên
nhận bảo lãnh tại Khoản 1 Điều 339 BLDS 2015 so với Điều 366 BLDS 2005:
“Trường hợp bên được bảo lãnh không thực hiện hoặc thực hiên không đúng
nghĩa vụ của mình thì bên nhận bảo lãnh có quyền yêu cầu bên bảo lãnh thực
hiện nghĩa vụ bảo lãnh, trừ trường hợp các bên có thỏa thuận bên bảo lãnh
phải thực hiện nghĩa vụ thay cho bên đuôc bảo lãnh trong trường hợp bên được
bảo lãnh không có khả năng thực hiện nghĩa vụ.”. Đây là quy định khẳng định
rõ ràng nghĩa vụ thực hiện việc bảo lãnh của bên bảo lãnh đối với bên nhận bảo
lãnh và thực chất chỉ là phần tiếp theo của quy định về khái niệm bảo lãnh được
quy định tại Điều 335.
◙ Điều 342 BLDS 2015 đã sử dụng tiêu đề là “Trách nhiệm dân sự của bên bảo
lãnh” thay vì tiêu đề là “Xử lí tài sản của bên bảo lãnh” tại Điều 369 BLDS
2005. Tại Khoản 2 Điều 342 BLDS 2015 đã quy định “thanh toán giá trị nghĩa
vụ vi phạm và bồi thường thiệt hại” thay cho quy định “đưa tài sản thuộc sở
hữu của mình để thanh toán cho bên nhận bảo lãnh” tại Điều 369 BLDS 2005.
Việc thay đổi trên đã thể hiện một cách rõ ràng, minh bạch và phù hợp hơn
quyền của bên nhận bảo lãnh và tăng cường trách nhiệm của bên bảo lãnh.
4.3 Đoạn nào cho thấy Tòa án xác định quan hệ giữa ông Miễn, bà Cà với
Qũy tín dụng là quan hệ bảo lãnh?
Ở phần xét thấy tại đoạn thứ 6: “Trong trường hợp xác định Hợp đồng thế chấp
quyền sử dụng đất của người thứ ba số 01534 ngày 22/9/2006 giữa các bên có
hiệu lực thì phải tuyên theo đúng quy định tại Khoản 1 Điều 5 và Khoản 1 Điều
7 của Hợp đồng thế chấp; Điều 361 Bộ luật dân sự là khi Chủ Doanh nghiệp tư
nhân Đại Lộc Tân không trả nợ hoặc trả không đủ thì ông Miễn, bà Cà phải trả
thay; nếu ông Miễn, bà Cà không trả nợ hoặc trả không đủ thì mới xử lý tài sản
thế chấp để thu hồi nợ.”
4.4 Suy nghĩ của anh/chị về việc xác định trên của Hội đồng thẩm phán.
Theo nhóm em, có hai nhóm ý kiến trái ngược nhau về việc xác định trên của
Tòa án:

19
- Ý kiến thứ nhất, có bạn cho rằng cách xác định trên của Tòa án là hợp lí và
phù hợp với pháp luật hiện hành vì ông Miễn và bà Cà đã lấy tài sản của mình
để bảo đảm cho khoản vay của chủ Doanh nghiệp tư nhân Đại Lộc Tân bằng
Hợp đồng thế chấp quyền sử dụng đất của người thứ ba số 01534 ngày
22/9/1006 giữa Qũy tín dụng (Bên nhận thế chấp) với ông Miễn và bà Cà (bên
thế chấp) và bà Tỉnh – Chủ Doanh nghiệp Tư nhân Đại Lộc Tân (bên vay vốn).
Hợp đồng thế chấp đã được chứng thực và đăng kí giao dịch bảo đảm. Do đó,
khi Doanh nghiệp tư nhân không trả hoặc trả không đủ thì ông Miễn, bà Cà trả
thay và nếu ông Miễn và bà Cà không trả hoặc trả không đủ thì mới xử lý tài
sản thế chấp để thu hồi nợ. Và quỹ tín dụng trong trường hợp này nhận thế chấp
bằng tài sản của bên thứ ba hoàn toàn phù hợp quy định pháp luật vì bản chất
của bảo lãnh bằng tài sản chính là thế chấp bằng tài sản của bên thứ ba. Hơn
nữa trên thực tế xử lý tranh chấp Toà án nào cũng công nhận giao dịch này.
- Nhóm ý kiến thứ hai, các bạn không đồng tình với cách xác định trên của Tòa
án vì cho rằng ông Miễn và bà Cà ký hợp đồng thế chấp trong hoàn cảnh bị bắt
buộc chứ không phải hoàn toàn tự nguyện, và trong quá trình điều tra còn một
số chi tiết không sáng tỏ do mâu thuẫn trong lời khai của nguyên đơn, bị đơn
cũng như người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan, do đó hợp đồng này có thể
bị vô hiệu do người được bảo lãnh lợi dụng, thông qua giao dịch vay vốn theo
cách thế chấp tài sản của người thứ ba, mà cụ thể ở đây là ông Miễn và bà Cà để
lấy tiền của quỹ tín dụng rồi không trả nợ, đẩy trách nhiệm trả nợ cho bên thứ
ba. Nhưng không có bất kỳ quy định nào, sau khi bên thứ ba trả nợ thay cho
người vay, người vay phải có nghĩa vụ hoàn trả lại cho người thứ ba. Vì vậy,
hợp đồng có thể bị vô hiệu theo Điều 123 BLDS năm 2015, hợp đồng tín dụng
bị vô hiệu vì “Giao dịch dân sự có mục đích, nội dung vi phạm điều cấm của
luật, trái đạo đức xã hội thì vô hiệu. Điều cấm của luật là những quy định của
luật không cho phép chủ thể thực hiện hành vi nhất định.”. Và Theo quy định
của Điều 342, Điều 715 BLDS năm 2005 “Hợp đồng thế chấp quyền sử dụng
đất là sự thoả thuận giữa các bên, theo đó bên sử dụng đất (sau đây gọi là bên
thế chấp) dùng quyền sử dụng đất của mình để bảo đảm việc thực hiện nghĩa vụ
dân sự với bên kia (sau đây gọi là bên nhận thế chấp)…”. Theo Điều 317 BLDS
năm 2015, thế chấp quyền sử dụng đất là dùng quyền sử dụng đất của mình để
bảo đảm nghĩa vụ với ngân hàng, không có quy định nào quy định thế chấp
quyền sử dụng đất để bảo đảm cho nghĩa vụ của người khác. Để cụ thể hóa hơn
quy định về việc không cho cho bảo lãnh bằng quyền sử dụng đất, tại Điều 167
Luật Đất đai năm 2013 có hiệu lực từ ngày 01/7/2014, đã quy định “Người sử
dụng đất được thực hiện các quyền chuyển đổi, chuyển nhượng cho thuê, cho
thuê lại, thừa kế, tặng cho, thế chấp, góp vốn quyền sử dụng đất theo quy định
của luật này”, không quy định cho phép người sử dụng đất bảo lãnh bằng quyền
sử dụng đất.

20
Bản chất của việc bảo đảm thực hiện nghĩa vụ thay cho người khác là quan hệ
bảo lãnh được quy định tại Điều 335 BLDS năm 2015, quy định “Bảo lãnh là
việc người thứ ba (sau đây gọi là bên bảo lãnh) cam kết với bên có quyền (sau
đây gọi là bên nhận bảo lãnh) sẽ thực hiện nghĩa vụ thay cho bên có nghĩa vụ
(sau đây gọi là bên được bảo lãnh), nếu khi đến thời hạn mà bên được bảo lãnh
không thực hiện hoặc thực hiện không đúng nghĩa vụ. Các bên cũng có thể thoả
thuận về việc bên bảo lãnh chỉ phải thực hiện nghĩa vụ khi bên được bảo lãnh
không có khả năng thực hiện nghĩa vụ của mình.
Như vậy, trên thực tế, để “lách luật” tránh việc ký hợp đồng bảo lãnh bằng
quyền sử dụng đất không được pháp luật cho phép, ngân hàng đã ký hợp đồng
thế chấp quyền sử dụng đất của người thứ ba để bảo đảm cho nghĩa vụ trả nợ
cho ngân hàng là giả tạo nhằm che đậy quan hệ bảo lãnh, bị vô hiệu theo quy
định tại Điều 129 BLDS năm 2005, Điều 124 BLDS năm 2015 “Khi các bên
xác lập giao dịch dân sự một cách giả tạo nhằm che giấu một giao dịch khác thì
giao dịch giả tạo vô hiệu, còn giao dịch bị che giấu vẫn có hiệu lực, trừ trường
hợp giao dịch đó cũng vô hiệu theo quy định của Bộ luật này”.
Việc tuyên ngân hàng có quyền phát mại nhà đất của người thế chấp (bản chất
là người bảo lãnh) để thu hồi nợ là không công bằng đối với người thế chấp, đã
và đang tạo ra bất công, bất ổn trong xã hội hàng nghìn gia đình đã mất nhà đất,
vì đã ký hợp đồng thế chấp tài sản nhà đất của mình cho người khác vay tiền
của ngân hàng. Đồng thời, lợi dụng kẻ hở này người đi vay đã lừa người khác
thế chấp nhà đất để họ chiếm đoạt tiền của ngân hàng, một cách mà hiện nay
không bị pháp luật xử lý.
4.5 Theo Tòa án, quyền sử dụng đất của ông Miễn, bà Cà được sử dụng để
đảm bảo cho nghĩa vụ nào? Vì sao?
Theo Tòa án, quyền sử dụng đất của ông Miễn, bà Cà được sử dụng để đảm bảo
cho nghĩa vụ bảo lãnh cho bà Đỗ Thị Tỉnh – Chủ Doanh nghiệp tư nhân Đại
Lộc Tân.
Vì ngày 29/6/2006, Qũy tín dụng nhân dân Trung ương – Chi nhánh Đồng Nai
ký Hợp đồng tín dụng cho Doanh nghiệp tư nhân Đại Lộc Tân vay 900.000.000
đồng. Tài sản bảo đảm cho khoản vay này là quyền sử dụng 20.408 m 2 đất do
vợ chồng ông Miễn bà Cà đem thế chấp cho Qũy tín dụng để đảm bảo nghĩa vụ
trả nợ cho chủ Doanh nghiệp tư nhân Đại Lộc Tân. Như vậy vợ chồng ông Miễn
bà Cà đã đứng ra bảo lãnh cho bà Tỉnh. Vì vậy ông Miễn và bà Cà phải có trách
nhiệm đối với nghĩa vụ này.
4.6 Đoạn nào cho thấy Tòa án địa phương đã theo hướng người bảo lãnh và
người được bảo lãnh liên đới thực hiện nghĩa vụ cho người có quyền?

21
Đoạn cho thấy Tòa án địa phương đã theo hướng người bảo lãnh và người được
bảo lãnh liên đới thực hiện nghĩa vụ cho người có quyền:
“Tại bản án dân sự sơ thẩm số 376/2009/DS-ST ngày 28-9-2009, Tòa án nhân
dân thành phố Biên Hòa, tỉnh Đồng Nai quyết định:
Chấp nhận đơn khởi kiện của bà Vũ Thị Hồng Nhung.
Bà Nguyễn Thị Thắng phải thực hiện nghĩa vụ thay cho bà Nguyễn Thị Mát,
ông Nguyễn Văn Tam trả cho bà Vũ Thị Hồng Nhung số tiền 607.106.000 đồng
(trong đó, nợ gốc 500.000.000 đồng, lãi suất 107.106.000 đồng)…
Tại Bản án dân sự phúc thẩm số 24/2010/DS-PT ngày 29-01-2010, Tòa án nhân
dân tỉnh Đồng Nai quyết định:
Bác kháng cáo của nguyên đơn bà Vũ Thị Hồng Nhung và bị đơn bà Nguyễn
Thị Thắng. Giữ nguyên bản án sơ thẩm.”
4.7 Hướng liên đới trên có được Tòa giám đốc thẩm chấp nhận không?
Hướng liên đới không được Tòa giám đốc thẩm chấp nhận. Qua đoạn: “Tòa án
các cấp chưa thu thập, xác định rõ ràng khả năng thực hiện nghĩa vụ dân sự của
bà Mát, nhưng Tòa án cấp sơ thẩm (Tòa án nhân dân huyện Trảng Bom) đã
buộc bà Thắng cùng liên đới thực hiện nghĩa vụ dân sự cùng bà Mát là chưa
chính xác. Tòa án cấp phúc thẩm hủy bản án sơ thẩm hướng dẫn đương sự lựa
chọn có thể khởi kiện bà Mát hoặc bà Thắng là không đúng quy định của pháp
luật.”
4.8 Suy nghĩ của anh/chị về hướng giải quyết trên của Tòa giám đốc thẩm
liên quan đến vấn đề liên đới nêu trên.
Căn cứ theo Điều 335 BLDS 2015:
“1. Bảo lãnh là việc người thứ ba (sau đây gọi là bên bảo lãnh) cam kết với bên
có quyền (sau đây gọi là bên nhận bảo lãnh) sẽ thực hiện nghĩa vụ thay cho bên
có nghĩa vụ (sau đây gọi là bên được bảo lãnh), nếu khi đến thời hạn thực hiện
nghĩa vụ mà bên được bảo lãnh không thực hiện hoặc thực hiện không đúng
nghĩa vụ.
2. Các bên có thể thỏa thuận về việc bên bảo lãnh chỉ phải thực hiện nghĩa vụ
thay cho bên được bảo lãnh trong trường hợp bên được bảo lãnh không có khả
năng thực hiện nghĩa vụ bảo lãnh.”
Theo quy định trên, vì các bên không có thỏa thuận khác về việc bảo lãnh của
bà Thắng nên bà Thắng chỉ có nghĩa vụ trả nợ thay cho bà Mát trong trường hợp
bà Mát không thực hiện được hoặc thực hiện không đúng nghĩa vụ trả nợ của
mình đối với bà Nhung.
Do Tòa án địa phương chưa xác minh rõ ràng về khả năng nghĩa vụ dân sự của
bà Mát mà đã buộc bà Thắng cùng liên đới thực hiện nghĩa vụ cho bà Mát là
22
chưa đảm bảo quyền lợi của bà Thắng. Nên Tòa giám đốc thẩm hủy bản án sơ
thẩm và phúc thẩm để yêu cầu làm rõ lại về khả năng trả nợ của bà Mát là hợp
tình hợp lý.
4.9 Phân biệt thời điểm phát sinh nghĩa vụ bảo lãnh và thời điểm thực hiện
nghĩa vụ bảo lãnh.
Thời điểm phát sinh nghĩa vụ bảo lãnh là khi người thứ ba cam kết với bên có
quyền sẽ thực hiện nghĩa vụ thay cho bên có nghĩa vụ nếu khi đến thời hạn thực
hiện nghĩa vụ mà bên được bảo lãnh không thực hiện hoặc không thực hiện
đúng nghĩa vụ. Lúc này nghĩa vụ được bảo lãnh phát sinh.
Thời điểm thực hiện nghĩa vụ bảo lãnh là thời điểm bên có quyền yêu cầu bên
có nghĩa vụ thực hiện nghĩa vụ, hoặc bên có nghĩa vụ hết thời hạn mà không
thực hiện được nghĩa vụ của mình với bên có quyền.
4.10 Theo BLDS, khi nào người bảo lãnh phải thực hiện nghĩa vụ bảo lãnh?
Theo Điều 335 BLDS 2015: “1. Bảo lãnh là việc người thứ ba (sau đây gọi là
bên bảo lãnh) cam kết với bên có quyền (sau đây gọi là bên nhận bảo lãnh) sẽ
thực hiện nghĩa vụ thay cho bên có nghĩa vụ (sau đây gọi là bên được bảo
lãnh), nếu khi đến thời hạn thực hiện nghĩa vụ mà bên được bảo lãnh không
thực hiện hoặc thực hiện không đúng nghĩa vụ.
2. Các bên có thể thỏa thuận về việc bên bảo lãnh chỉ phải thực hiện nghĩa vụ
thay cho bên được bảo lãnh trong trường hợp bên được bảo lãnh không có khả
năng thực hiện nghĩa vụ bảo lãnh.”
Vậy người bảo lãnh phải thực hiện nghĩa vụ bảo lãnh khi đến tời hạn mà bên
được bảo lãnh không thực hiện hoặc thực hiện không đúng nghĩa vụ. Hay trong
trường hợp thỏa thuận chỉ phải thực hiện nghĩa vụ bảo lãnh khi bên được bảo
lãnh không có khả năng thực hiện nghĩa vụ bảo lãnh.
4.11 Theo Quyết định, khi nào người bảo lãnh phải thực hiện nghĩa vụ bảo
lãnh?
Theo Quyết định, người bảo lãnh phải thực hiện nghĩa vụ bảo lãnh khi bà Mát
không có khả năng thực hiện nghĩa vụ trả nợ hoặc chỉ có thể thực hiện một
phần, thì phần không thực hiện được bà Thắng (bên bảo lãnh) có trách nhiệm
thực hiện nghĩa vụ bảo lãnh thay.
Qua đoạn: “Như vậy, căn cứ vào các tài liệu nêu trên có cơ sở xác định bà Mát
là người vay tiền của bà Nhung còn bà Thắng và ông Ân (Nhơn) chỉ là người
bảo lãnh cho bà Mát nên trước hết cần xác định bà Mát phải là người thực hiện
nghĩa vụ dân sự của mình đối với bà Nhung; nếu bà Mát không có khả năng
thực hiện nghĩa vụ dân sự hoặc chỉ có thể thực hiện được một phần, thì phần
không thực hiện được bà Thắng và ông Ân mới phải có trách nhiệm thực hiện
thay theo quy định tại Điều 361, 363, và Điều 365 Bộ luật dân sự.”

23
4.12 Có bản án, quyết định nào theo hướng giải quyết trên về thời điểm
thực hiện nghĩa vụ bảo lãnh chưa? Nêu rõ bản án, quyết định mà anh/chị
biết.
Đã có bản án, quyết định 45/2018/KDTM-PT ngày 12/04/2018 về tranh chấp
yêu cầu thực hiện nghĩa vụ bảo lãnh của tòa án nhân dân thành phố hà nội.
4.13 Suy nghĩ của anh/chị về hướng giải quyết trên của Tòa giám đốc thẩm.
Hướng giải quyết trên của Tòa giám đốc thẩm là hoàn toàn hợp tình hợp lý. Vì
việc lập giấy biên nhận có sự bảo lãnh của ông Ân và bà Thắng đã có nghĩa là
thực hiện thay cho bên có nghĩa vụ, đó là căn cứ để ông Ân và bà Thắng có
trách nhiệm hoàn trả cho bà Nhung thay cho bà Mát trong trường hợp bà Mát
không thực hiện được nghĩa vụ của mình.
Đây là nghĩa vụ có điều kiện. Vì điều 335 BLDS 2015 có quy định người bảo
lãnh sẽ thực hiện thay nếu người được bảo lãnh không thực hiện được hoặc thực
hiện không đủ, không đúng nghĩa vụ.

24

You might also like