You are on page 1of 20

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT TP. HỒ CHÍ MINH


---oOo---

BÀI THẢO LUẬN


MÔN: PHÁP LUẬT VỀ HỢP ĐỒNG VÀ BỒI THƯỜNG THIỆT
HẠI NGOÀI HỢP ĐỒNG
BUỔI 3:

VẤN ĐỀ CHUNG CỦA HỢP ĐỒNG


Danh sách thành viên nhóm 3
Lớp: Quản trị - Luật CLC 42

HỌ VÀ TÊN MSSV
1. Lưu Thị Thùy Linh 1751101030065
2. Phạm Thị Hoàng Ngân 1751101030082
3. Đinh Thị Hải Ngọc 1751101030086
4. Lý Ngọc Phụng 1751101030107
5. Lê Thanh Thảo 1751101030139
6. Trần Thị Thuận 1751101030152
7. Tạ Thị Thanh Trúc 1751101030173
8. Hồ Lạc Vũ Uyên 1751101030181
9. Trần Bảo Ngân 1651101030091
VẤN ĐỀ 1:
BUỘC TIẾP TỤC THỰC HIỆN ĐÚNG HỢP ĐỒNG
1. Đối với vụ việc trong Quyết định số 36, đoạn nào cho thấy Tòa án địa phương đã
buộc các bên tiếp tục thực hiện đúng hợp đồng?
Đoạn cho thấy Tòa án địa phương đã buộc các bên tiếp tục thực hiện đúng hợp đồng tại
phần Nhận thấy của bản án, cụ thể là:
- Tại Bản án kinh doanh, thương mại sơ thẩm số 06/2010/KDTM-ST ngày 27/8/2015,
TAND huyện Tân Uyên đã quyết định “Buộc Công ty TNHH Damool tiếp tục thực hiện
hợp đồng số 007/09/DMVN-HHDT ngày 10/10/2009 giữa Công ty TNHH Damool VINA
với Công ty cổ phần Hồng Hà Bình Dương.”
- Tại Bản án kinh doanh, thương mại phúc thẩm số 21/2010/KDTM-PT ngày
23/11/2010. TAND tỉnh Bình Dương đã quyết định “Không chấp nhận kháng cáo của
Công ty TNHH Damood VINA Và Công ty cổ phần vật liệu xây dựng Thế Giới nhà . Giữ
nguyên Bản án kinh doanh, thương mại sơ thẩm số 06/2010/KDTM-ST ngày 27/8/2010
của Tòa án nhân dân huyện Tân Uyên, tỉnh Bình Dương.”

2. Hướng của Tòa án địa phương có được Tòa án nhân dân tối cao chấp nhận
không? Đoạn nào của Quyết định cho câu trả lời?
Tòa án nhân dân tối cao không chấp nhận hướng giải quyết của Tòa án địa phương. Căn
cứ vào phần Xét thấy của bản án.
- Đoạn thứ hai của phần Xét thấy: Vì vậy, Tòa án cấp sơ thẩm và Tòa án cấp phúc
thẩm buộc Công ty Hồng Hà Bình Dương và Công ty VINA tiếp tục thực hiện Hợp đồng
nguyên tắc 007 là không đúng.
- Đoạn thứ ba của phần Xét thấy: Tòa án cấp sơ thẩm và Tòa án cấp phúc thẩm lại
xác định là tranh chấp “Hợp đồng mua bán tài sản gắn liền với quyền sử dụng đất” là
không đúng. Mặt khác, nguyên đơn và bị đơn trong vụ án này là hai doanh nghiệp đều có
đăng ký kinh doanh: thực hiện Hợp đồng nguyên tắc số 007 về việc chuyển nhượng tài
sản và nhà xưởng gắn liền với quyền sử dụng đất, mục đích nhằm phục vụ cho việc kinh
đoanh, nên xác định đây là vụ án kinh doanh, thương mại được quy định tại Điều 29 Bộ
luật tố tụng dân sự 2005.

3. Vì sao Tòa án nhân dân tối cao theo hướng nêu trên? Đoạn nào của Quyết định
cho câu trả lời?
TAND tối cao dựa trên những lập luận ở phần Xét thấy để theo hướng nêu trên. Bao
gồm:
- Công ty VINA đã vi phạm Hợp đồng nguyên tắc số 007, nên phải chịu đền bù 5%
giá trị hợp đồng theo như hai bên đã thỏa thuận tại Điều 05 của Hợp đồng nguyên tắc số
007.
1
- Trước và trong quá trình giải quyết vụ án. Công ty VINA đều từ chối việc thực hiện
Hợp đồng theo nguyên tắc số 007 và đồng ý chịu phạt 5% giá trị hợp đồng.

4. Suy nghĩ của anh/ chị về hướng giải quyết trên của Tòa án nhân dân tối cao.
Hướng giải quyết của TAND tối cao là hợp lý. Vì:
- Theo quy định tại Điều 352 BLDS thì khi bên có nghĩa vụ thực hiện không đúng
nghĩa vụ thì bên có quyền được yêu cầu bên có nghĩa vụ tiếp tục thực hiện nghĩa vụ. Điều
này phụ thuộc vào ý chí của bên có quyền, mà trong trường hợp này là Công ty cổ phần
Hồng Hà Bình Dương. Công ty cổ phần Hồng Hà Bình Dương khởi kiện Công ty VINA
yêu cầu buộc công ty VINA “nếu không thực hiện hợp đồng thì phải thanh toán cho
Công ty cổ phần Hồng Hà Bình Dương theo tiền phạt thỏa thuận là 290.000 USD x 5% =
14.500 USD”. Công ty cổ phần Hồng Hà Bình Dương không yêu cầu Công ty VINA tiếp
tục thực hiện nghĩa vụ mà đưa ra yêu cầu có tính chất lựa chọn hoặc tiếp tục thực hiện,
hoặc thanh toán tiền phạt theo thoản thuận. Ý chí của bên có quyền là không rõ ràng.
- Công ty VINA từ chối việc thực hiện Hợp đồng nguyên tắc số 007 và đồng ý chịu
phạt 5% giá trị hợp đồng.
- Tòa theo hướng không buộc tiếp tục thực hiện hợp đồng xuất phát từ lí do bên vi
phạm từ chối thực hiện và chịu phạt cùng với sự do dự của bên bị vi phạm1.

5. Đối với vụ việc trong Bản án số 01, bên bán có vi phạm nghĩa vụ giao cà phê
không? Vì sao?
Vì căn cứ theo bản án, ông Hữu và bà Thanh đã nhận số tiền 188.600.000 đồng của bà
Phượng qua 4 lần xác lập hợp đồng mua bán cà phê, quy ra số cà phê nhân xô đã quy
chuẩn mà ông Hữu bà Thanh phải bán cho bà Phượng là 7729,627 kg nhưng từ khi nhận
tiền cho đến nay, ông Hữu bà Thanh không giao cà phê cho bà Phượng. Hơn nữa, hợp
đồng mua bán trên là một hình thức của hợp đồng song vụ và theo quy định tại khoản 1
Điều 414 BLDS 2005:“1. Trong hợp đồng song vụ, khi các bên đã thoả thuận thời hạn
thực hiện nghĩa vụ thì mỗi bên phải thực hiện nghĩa vụ của mình khi đến hạn; không
được hoãn thực hiện với lý do bên kia chưa thực hiện nghĩa vụ đối với mình, trừ trường
hợp quy định tại Điều 415 và Điều 417 của Bộ luật này.”
Bà Phượng đã thực hiện đúng nghĩa vụ của mình còn ông Hữu bà Thanh khi đến hạn đã
không giao số cà phê nói trên cho bà Phượng tức ông Hữu bà Thanh đã vi phạm nghĩa vụ
trong hợp đồng.

6. Toà án có buộc bên bán phải tiếp tục giao cà phê không?
1
Đỗ Văn Đại, Luật hợp đồng việt Nam-Bản án và Bình luận bản án, Nxb. Hồng Đức – Hội luật gia Việt Nam (tái
bản lần thứ sáu), tr. 443

2
Toà án có buộc bên bán phải tiếp tục giao cà phê căn cứ theo phần quyết định của Bản
án đã nêu rõ “Buộc ông Trần Duy Hữu và bà Trần Thị Thanh có trách nhiệm giao trả cho
bà Nguyễn Thị Phượng 7.729,67 kg cà phê nhân xô đã quy chuẩn.”

7. Trên cơ sở văn bản, có quy định nào cho phép Toà án buộc bên bán phải tiếp tục
giao cà phê không? Nêu rõ cơ sở văn bản khi trả lời.
Trên cơ sở văn bản, không có quy định nào cho phép Tòa án buộc bên bán phải tiếp
tục giao cà phê. Vì căn cứ theo điều 352 BLDS 2015: Khi bên có nghĩa vụ thực hiện
không đúng nghĩa vụ của mình thì bên có quyền được yêu cầu bên có nghĩa vụ tiếp tục
thực hiện nghĩa vụ. Căn cứ theo điều luật trên thì Tòa án chỉ có thể ra quyết định buộc
bên bán phải tiếp tục giao cà phê nếu như có sự yêu cầu, đề nghị của bên có quyền lợi bị
xâm phạm, tức bên mua. Tòa án không thể đơn phươ buộc bên bán tiếp tục thực hiện
nghĩa vụ vì hợp đồng dân sự được giao kết dựa trên tinh thần bình đẳng, hòa thuận nên
trong quá trình xét xử, giải quyết tranh chấp cũng cần dựa trên tinh thần đó, tôn trọng
quyền tự quyết của các bên.

8. Cho biết những thay đổi và suy nghĩ của anh/chị về những thay đổi giữa BLDS
2015 và BLDS 2005 về chủ đề đang được nghiên cứu.
Bộ luật dân sự 2015 Bộ luật dân sự 2005
Điều 352. Trách nhiệm tiếp tục thực hiện
nghĩa vụ
Khi bên có nghĩa vụ thực hiện không đúng
nghĩa vụ của mình thì bên có quyền được
yêu cầu bên có nghĩa vụ tiếp tục thực hiện
nghĩa vụ.
Điều 356. Trách nhiệm do không thực hiện Điều 303. Trách nhiệm dân sự do không
nghĩa vụ giao vật thực hiện nghĩa vụ giao vật
1. Trường hợp nghĩa vụ giao vật đặc định 1. Khi bên có nghĩa vụ không thực hiện
không được thực hiện thì bên bị vi phạm có nghĩa vụ giao vật đặc định thì người có
quyền yêu cầu bên vi phạm phải giao đúng quyền được quyền yêu cầu bên có nghĩa
vật đó; nếu vật không còn hoặc bị hư hỏng vụ phải giao đúng vật đó; nếu vật không
thì phải thanh toán giá trị của vật. còn hoặc bị hư hỏng thì phải thanh toán
2. Trường hợp nghĩa vụ giao vật cùng loại giá trị của vật.
không được thực hiện thì bên bị vi phạm có 2. Khi bên có nghĩa vụ không thực hiện
quyền yêu cầu bên vi phạm phải giao vật được nghĩa vụ giao vật cùng loại thì phải
3
cùng loại khác; nếu không có vật cùng loại thanh toán giá trị của vật.
khác thay thế thì phải thanh toán giá trị của 3. Trong trường hợp bên có nghĩa vụ
vật. không thực hiện được nghĩa vụ theo quy
3. Trường hợp việc vi phạm nghĩa vụ quy định tại khoản 1 và khoản 2 Điều này mà
định tại khoản 1 và khoản 2 Điều này mà gây thiệt hại cho bên có quyền thì ngoài
gây thiệt hại cho bên bị vi phạm thì bên vi việc thanh toán giá trị của vật còn phải bồi
phạm phải bồi thường thiệt hại. thường thiệt hại cho bên có quyền.
Điều 357. Trách nhiệm do chậm thực hiện
nghĩa vụ trả tiền
1. Trường hợp bên có nghĩa vụ chậm trả
tiền thì bên đó phải trả lãi đối với số tiền
chậm trả tương ứng với thời gian chậm trả.
2. Lãi suất phát sinh do chậm trả tiền được
xác định theo thỏa thuận của các bên nhưng
không được vượt quá mức lãi suất được quy
định tại khoản 1 Điều 468 của Bộ luật này;
nếu không có thỏa thuận thì thực hiện theo
quy định tại khoản 2 Điều 468 của Bộ luật
này.
Điều 358. Trách nhiệm do không thực hiện Điều 304. Trách nhiệm dân sự do không
hoặc không được thực hiện một công việc thực hiện nghĩa vụ phải thực hiện hoặc
1. Trường hợp bên có nghĩa vụ không thực không được thực hiện một công việc
hiện một công việc mà mình phải thực hiện 1. Trong trường hợp bên có nghĩa vụ
thì bên có quyền có thể yêu cầu bên có không thực hiện một công việc mà mình
nghĩa vụ tiếp tục thực hiện hoặc tự mình phải thực hiện thì bên có quyền có thể yêu
thực hiện hoặc giao người khác thực hiện cầu bên có nghĩa vụ tiếp tục thực hiện
công việc đó và yêu cầu bên có nghĩa vụ hoặc tự mình thực hiện hoặc giao cho
thanh toán chi phí hợp lý, bồi thường thiệtngười khác thực hiện công việc đó và yêu
hại. cầu bên có nghĩa vụ thanh toán chi phí
2. Khi bên có nghĩa vụ không được thực hợp lý và bồi thường thiệt hại.
hiện một công việc mà lại thực hiện công 2. Khi bên có nghĩa vụ không được thực
việc đó thì bên có quyền được quyền yêu hiện một công việc mà lại thực hiện công
cầu bên có nghĩa vụ phải chấm dứt việc việc đó thì bên có quyền được quyền yêu
thực hiện, khôi phục tình trạng ban đầu và cầu bên có nghĩa vụ phải chấm dứt việc
bồi thường thiệt hại. thực hiện, khôi phục tình trạng ban đầu và

4
bồi thường thiệt hại.
Điều 305. Trách nhiệm dân sự do chậm
thực hiện nghĩa vụ dân sự
1. Khi nghĩa vụ dân sự chậm được thực
hiện thì bên có quyền có thể gia hạn để
bên có nghĩa vụ hoàn thành nghĩa vụ; nếu
quá thời hạn này mà nghĩa vụ vẫn chưa
được hoàn thành thì theo yêu cầu của bên
có quyền, bên có nghĩa vụ vẫn phải thực
hiện nghĩa vụ và bồi thường thiệt hại; nếu
việc thực hiện nghĩa vụ không còn cần
thiết đối với bên có quyền thì bên này có
quyền từ chối tiếp nhận việc thực hiện
nghĩa vụ và yêu cầu bồi thường thiệt hại.
2. Trong trường hợp bên có nghĩa vụ
chậm trả tiền thì bên đó phải trả lãi đối với
số tiền chậm trả theo lãi suất cơ bản do
Ngân hàng Nhà nước công bố tương ứng
với thời gian chậm trả tại thời điểm thanh
toán, trừ trường hợp có thoả thuận khác
hoặc pháp luật có quy định khác.
Điều 359. Trách nhiệm do chậm tiếp nhận Điều 306. Trách nhiệm dân sự do chậm
việc thực hiện nghĩa vụ tiếp nhận việc thực hiện nghĩa vụ dân sự
Bên có quyền chậm tiếp nhận việc thực Bên có quyền chậm tiếp nhận việc thực
hiện nghĩa vụ làm phát sinh thiệt hại cho hiện nghĩa vụ dân sự làm phát sinh thiệt
bên có nghĩa vụ thì phải bồi thường thiệt hại cho bên có nghĩa vụ thì phải bồi
hại cho bên đó và phải chịu mọi rủi ro, chi thường thiệt
phí phát sinh kể từ thời điểm chậm tiếp
nhận, trừ trường hợp luật có quy định khác.

- Bộ luật dân sự 2005 quy định về trách nhiệm dân sự và buộc tiếp tục thực hiện đúng
hợp đồng đối với những nghĩa vụ cụ thể từ Điều 303 đến 306 theo hình thức liệt kê.
- Bộ luật dân sự 2015 không liệt kê như BLDS 2015 mà quy định nguyên tắc chung
cho vấn đề này.

5
- Việc quy định nguyên tắc chung là hợp lý và tiến bộ của BLDS 2015, vì nếu chỉ liệt
kê một vài loại nghĩa vụ cụ thể thì sẽ dẫn đến thiếu sót bởi luật không thể dự liệu hết
những vấn đề xảy ra trong thực tiễn, dẫn đến tình trạng không có luật để giải quyết tranh
chấp, việc áp dụng tương tự pháp luật và sử dụng các nguồn bổ sung của pháp luật trong
hệ thống tư pháp Việt Nam vẫn còn hạn chế.
Những phân tích về vấn đề này trong bình luận án của tác giả Đỗ Văn Đại:
- Bộ luật dân sự 2005 có những quy định theo hướng bên có quyền được yêu cầu bên
có nghĩa vụ phải tiếp tục thực hiện hợp đồng. Tuy nhiên, các quy định này chỉ liên quan
đến một số nghĩa vụ cụ thể mà chưa có tính bao quát cho các loại nghĩa vụ phát sinh từ
hợp đồng. Chẳng hạn, liên quan đến vật, khoản 1 Điều 303 BLDS 2005 chỉ đề cập đến
giao vật đặc định nên chỉ phù hợp với nghĩa vụ hợp đồng có đối tượng là vật đặc định
như nghĩa vụ giao nhà trong vụ việc thứ tư, còn đối với nghĩa vụ giao vật khác (như vật
cùng loại trong vụ việc thứ hai), chúng ta không có hướng giải quyết trong BLDS 20052.
- Như vậy, nhìn từ góc độ so sánh pháp luật, hướng quy định như BLDS 2005 là rất
hạn chế, thiếu tính bao quát cho các trường hợp không thực hiện đúng hợp đồng3 .
- Cuối cùng, BLDS 2015 đã theo hướng trên. Cụ thể, trách nhiệm dân sự đầu tiên
trong các trách nhiệm dân sự do không thực hiện đúng nghĩa vụ đã được ghi nhận tại
Điều 352 với nội dung “khi bên có nghĩa vụ thực hiện không đúng nghĩa vụ của mình thì
bên có quyền được yêu cầu bên có nghĩa vụ tiếp tục thực hiện nghĩa vụ”4.

2
Đỗ Văn Đại, Luật hợp đồng việt Nam-Bản án và Bình luận bản án, Nxb. Hồng Đức – Hội luật gia Việt Nam (tái
bản lần thứ sáu), tr. 431.
3
Đỗ Văn Đại, Luật hợp đồng việt Nam-Bản án và Bình luận bản án, Nxb. Hồng Đức – Hội luật gia Việt Nam (tái
bản lần thứ sáu), tr. 432 đến 433.
4
Đỗ Văn Đại, Luật hợp đồng việt Nam-Bản án và Bình luận bản án, Nxb. Hồng Đức – Hội luật gia Việt Nam (tái
bản lần thứ sáu), tr. 437.
6
VẤN ĐỀ 2:
ĐƠN PHƯƠNG CHẤM DỨT, HỦY BỎ DO KHÔNG THỰC HIỆN ĐÚNG HỢP
ĐỒNG

1. Điểm giống nhau và khác nhau giữa hợp đồng vô hiệu và hủy bỏ hợp đồng do có
vi phạm.

Điểm giống nhau:


- Cả hai trường hợp hợp đồng vô hiệu và hủy bỏ hợp đồng đều dẫn đến một kết quả
chung đó là làm chấm dứt hợp đồng. Tức là hai trường này, hợp đồng đều đang tồn tại
nhưng nay bị triệt tiêu5.
- Hậu quả pháp lý chung: Hợp đồng không có hiệu lực kể từ thời điểm giao kết.
- Trách nhiệm hoàn trả: Các bên có trách nhiệm hoàn trả lại cho nhau những gì đã
nhận và khôi phục lại tình trạng ban đầu.
- Bên có lỗi gây thiệt hại thì phải bồi thường.
Điểm khác nhau:
Hợp đồng vô hiệu Hợp đồng bị hủy bỏ
(Điều 407 BLDS 2015) (Điều 423 BLDS 2015)
Nguyên nhân Do giao kết hợp đồng không tuân thủ Do trong quá trình thực hiện hợp
chấm dứt hợp các điều kiện có hiệu lực do pháp luật đồng có vi phạm
đồng quy định
Hợp đồng dân sự vi phạm một trong -Một bên đề nghị hủy bỏ hợp đồng.
các điều kiện có hiệu lực của hợp -Một trong các bên vi phạm các điều
đồng (do luật định) khoản có trong hợp đồng hay vi
-Vi phạm điều kiện về chủ thể (không phạm nghiêm trọng nghĩa vụ hợp
có năng lực pháp luật, năng lực hành đồng.
Điều kiện vi tương ứng để xác lập HĐ)
chấm dứt hợp -Vi phạm điều kiện về sự tự nguyện -Hoặc do bên có nghĩa vụ: Chậm
đồng thực hiện nghĩa vụ (Điều 424
(xác lập HĐ trong trường hợp giả tạo, BLDS); Không có khả năng thực
trong lúc không nhận thức và làm chủ hiện (Điều 425 BLDS);
hành vi, hoặc bị nhầm lẫn, bị lừa dối,
đe dọa…) Hoặc trường hợp một bên làm mất,
hư hỏng tài sản (Điều 426 BLDS).
-Vi phạm điều kiện về nội dung, mục
đích của hợp đồng (vi phạm điều cấm
của luật hoặc trái đạo đức xã hội)
-Vi phạm điều kiện về hình thức của
hợp đồng
-Có đối tượng không thể thực hiện
5
Đỗ Văn Đại, Luật hợp đồng Việt Nam-Bản án và bình luận bản án, NXB. Hồng Đức-Hội Luật gia Việt Nam 2018
(xuất bản lần thứ bảy), tr. 760.
7
được.

Hợp đồng có hiệu lực nhưng đã bị


Hiệu lực pháp Hợp đồng không có hiệu lực ngay từ
chấm dứt trong quá trình thực hiện
lý thời điểm giao kết hợp đồng.
do có vi phạm.
Bên hủy hợp đồng phải thông báo
cho bên kia về việc hủy bỏ hợp đồng.
Trách nhiệm Hợp đồng không đủ điều kiện có hiệu Nếu không thông báo thì phải bồi
thông báo lực thì đương nhiên vô hiệu. thường khi gây ra thiệt hại. (Khoản 3
Điều 423 BLDS)
-Một trong 2 bên có lỗi phải bồi
Bên có lỗi làm cho hợp đồng vô hiệu thường thiệt hại (phần hợp đồng đã
Trách nhiệm có trách nhiệm bồi thường thiệt hại do thực hiện).
bồi thường mình gây ra (không nhất thiết là một -Bên yêu cầu hủy hợp đồng không
trong 2 bên mà có thể là bên thứ ba). phải bồi thường nếu không có lỗi.

2. Theo Tòa án nhân dân tỉnh Vĩnh Long, hợp đồng vô hiệu hay bị hủy bỏ?

Theo Tòa án nhân dân tỉnh Vĩnh Long, hợp đồng này là hợp đồng vô hiệu. Đoạn của
bản án cho thấy đó là: “Xét hợp đồng mua bán xe ngày 26/05/2012 nêu trên là vô hiệu
theo quy định tại các Điều 122 của Bộ luật dân sự nên không có căn cứ tuyên hủy hợp
đồng cũng không xét yêu cầu phạt vi phạm hợp đồng của cả nguyên và bị đơn vì hợp
đồng vô hiệu không làm phát sinh quyền và nghĩa vụ của các bên ngay từ thời điểm giao
kết, không ràng buộc trách nhiệm các bên đã giao kết trong hợp đồng mà phải tuyên hợp
đồng vô hiệu và xử lý hậu quả theo Điều 131 của Bộ luật dân sự...”

3. Suy nghĩ của anh chị về hướng giải quyết trên của Tòa án nhân dân tỉnh Vĩnh
Long (về hủy bỏ hay vô hiệu hợp đồng).

Hướng giải quyết trên của Tòa án nhân dân tỉnh Vĩnh Long là hợp lý. Vì hợp đồng
mua bán xe ngày 26/05/2012 vô hiệu căn cứ theo quy định tại Điều 407 BLDS 2015 và
Điều 122 BLDS 2015. Hợp đồng trong bản án vô hiệu vì những lý do sau :

“Về chủ thể, hợp đồng ghi bên mua là “Trang trí nội thất Thanh Thảo”, người đại diện
Nguyễn Thị Dệt là không đúng vì bà Dệt không đại diện cho Trang trí nội thất Thanh
Thảo mà thực chất là công ty TNHH-SX-TM Thanh Thảo do Trương Hoàng Thành là
Giám đốc đại diện.

Mặt khác, hợp đồng ghi đại diện bên mua là bà Nguyễn Thi Dệt nhưng đứng ra giải
quyết lại là ông Trương Văn Liêm là không đúng quy định của pháp luật.”

8
4. Nếu hợp đồng bị vô hiệu thì có áp dụng phạt vi phạm hợp đồng không? Vì sao?

Hợp đồng bị vô hiệu thì không áp dụng phạt vi phạm hợp đồng. Căn cứ theo Khoản 4
Điều 131 BLDS quy định về Hậu quả pháp lý của giao dịch dân sự vô hiệu thì theo đó,
bên có lỗi phải bồi thường thiệt hại cho bên bị thiệt hại (bồi thường thiệt hại ở đây không
phải bồi thường thiệt hại do vi phạm hợp đồng do các bên thỏa thuận trong hợp đồng)
nhưng luật không quy định rằng bên có lỗi phải chịu phạt vi phạm hợp đồng. Khoản 1
Điều 418 BLDS quy định về Thỏa thuận phạt vi phạm: “Phạt vi phạm là sự thỏa thuận
giữa các bên trong hợp đồng, theo đó bên vi phạm nghĩa vụ phải nộp một khoản tiền cho
bên bị vi phạm”, do đó phạt vi phạm hợp đồng chỉ áp dụng trong trường hợp một bên có
vi phạm về nghĩa vụ đã thỏa thuận trong hợp đồng. Đối với hợp đồng vô hiệu, hợp đồng
bị vô hiệu xuất phát từ việc vi phạm các điều kiện được áp đặt ở thời điểm giao kết hợp
đồng, vì vậy, ngay từ đầu đã không phát sinh việc thực hiện hợp đồng đẫn tới không thể
có vi phạm hợp đồng nên không áp dụng phạt vi phạm hợp đồng.

Theo quan điểm của thầy Đỗ Văn Đại: “Chẳng hạn, trong hợp đồng có thể có thỏa
thuận về bồi thường thiệt hại do vi phạm hợp đồng, về phạt vi phạm hợp đồng. Trong
trường hợp này, hệ quả của hủy bỏ hay vô hiệu là rất khác nhau. Bởi lẽ, theo khoản 1
Điều 427 Bộ luật dân sự 2015, “khi hợp đồng bị hủy bỏ thì hợp đồng không có hiệu lực
từ thời điểm giao kết, các bên không phải thực hiện nghĩa vụ đã thỏa thuận, trừ thỏa
thuận về phạt vi phạm, bồi thường thiệt hại”. Điều đó có nghĩa là việc hủy bỏ hợp đồng
vẫn cho phép áp dụng thỏa thuận về phạt vi phạm, về bồi thường thiệt hại nhưng quy
định này không tồn tại trong khuôn khổ của hợp đồng vô hiệu.

Sở dĩ có sự khác biệt trên là vì khi hợp đồng bị vô hiệu thì hợp đồng không phải thực
hiện và khi hợp đồng không phải thực hiện thì không có vi phạm hợp đồng và khi không
có vi phạm hợp đồng và khi không có vi phạm hợp đồng thì thỏa thuận về phạt vi phạm
hợp đồng, về bồi thường thiệt hại do vi phạm hợp đồng không có ý nghĩa.6”

5. Hướng giải quyết của Tòa án nhân dân tỉnh Vĩnh Long đối với câu hỏi trên như
thế nào và suy nghĩ của anh chị về hướng giải quyết này của Tòa án nhân dân tỉnh
Vĩnh Long.

 Hướng giải quyết của Tòa án nhân dân tỉnh Vĩnh Long đối với câu hỏi trên:
- Trong Nhận đinh của Tòa án:
“Xét hợp đồng mua bán xe ngày 26/05/2012 nêu trên là vô hiệu theo quy định tại các
Điều 122 của Bộ luật dân sự nên không có căn cứ tuyên hủy hợp đồng cũng không xét
6
Đỗ Văn Đại, Luật hợp đồng Việt Nam-Bản án và bình luận bản án, NXB. Hồng Đức - Hội Luật gia Việt Nam 2018
(xuất bản lần thứ bảy), tr. 764.
9
yêu cầu phạt vi phạm hợp đồng của cả nguyên và bị đơn vì hợp đồng vô hiệu không làm
phát sinh quyền và nghĩa vụ của các bên ngay từ thời điểm giao kết, không ràng buộc
trách nhiệm các bên đã giao kết trong hợp đồng mà phải tuyên hợp đồng vô hiệu và xử lý
hậu quả theo Điều 131 của Bộ luật dân sự..”
- Trong Quyết định:
“Không chấp nhận một phần yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn về các yêu cầu bị đơn
chịu phạt gấp đôi tiên cọc bằng 126.000.000đ và số tiền đóng trước bạ 5.220.000 đồng
tổng cộng số tiền không được chấp nhận 131.220.000đ (Một tram ba mươi mốt triệu hai
trăm hai mươi nghìn đồng).
Không chấp nhận một phần yêu cầu phản tố của bị đơn ông Trương Văn Liêm về việc
buộc nguyên đơn chịu phạt một lần tiền cọc 63.000.000đ cùng số lãi chậm trả
157.404.000đ, số tiền phạt 1 lần múa bảo hiểm xa 4.361.600 đồng tổng cộng số tiền
không được chấp nhận 224.765.000 đồng (Hai trăm hai mươi bốn triệu bảy trăm sáu
mươi lăm nghìn đồng).”
 Suy nghĩ về hướng giải quyết này của Toà án nhân dân tỉnh Vĩnh Long:
Hướng giải quyết này của Tòa án nhân dân tỉnh Vĩnh Long là hợp lý. Vì Tòa án đã giải
quyết vô hiệu hợp đồng mua bán xe ô tô ngày 26/5/2012 giao kết giữa công ty TNHH
MTV Đông Phong Cần Thơ với ông Trương Văn Liêm nên hợp đồng giữa hai bên không
phải thực hiện dẫn đến không có việc vi phạm hợp đồng và vì vậy, không áp dụng phạt vi
phạm hợp đồng đối với hai bên căn cứ theo Điều 131 BLDS quy định về Hậu quả pháp lý
của giao dịch dân sự vô hiệu, trong Điều 131 BLDS không có quy đinh về vấn đề bên có
lỗi chịu phạt vi phạm. Như vậy, việc Tòa án không chấp nhận yêu cầu chịu phạt của
nguyên đơn đối với bị đơn và của bị đơn đối với nguyên đơn là hợp lý.

6. Điểm giống nhau và khác nhau giữa đơn phương chấm dứt hợp đồng và hủy bỏ
hợp đồng do có vi phạm.

Điểm giống nhau:


- Đều là một bên đơn phương tuyên bố chấm dứt/hủy bỏ hợp đồng khi có những điều
kiện do các bên thỏa thuận hoặc do pháp luật/luật quy định.
- Bên đơn phương chấm dứt/hủy bỏ không phải bồi thường nếu bên còn lại vi phạm
nghĩa vụ mà đó là điều kiện do các bên thỏa thuận hoặc do pháp luật/luật quy định.
- Bên đơn phương chấm dứt/hủy bỏ phải thông báo cho bên còn lại, nếu không thông
báo mà gây thiệt hại thì phải bồi thường.
- Bên nào có lỗi dẫn đến hợp đồng bị chấm dứt/hủy bỏ thì bên đấy phải có trách
nhiệm bồi thường.
- Cả đơn phương chấm dứt hợp đồng và hủy bỏ hợp đồng đều áp dụng các thỏa thuận
về phạt vi phạm, bồi thường thiệt hại và thỏa thuận về giải quyết tranh chấp.

10
Điểm khác nhau:

Đơn phương chấm dứt hợp đồng Hủy bỏ hợp đồng do có vi phạm
(Điều 428 BLDS 2015) (Điều 423 BLDS 2015)
Một bên vi phạm nghĩa vụ hợp đồng mà
đó là điều kiện hủy bỏ hợp đồng do các
bên thỏa thuận; vi phạm nghiêm trọng
Một bên vi phạm nghiêm trong nghĩa nghĩa vụ hợp đồng hoặc do luật quy
vụ trong hợp đồng; do các bên thỏa định.
Điều kiện
thuận trong hợp đồng hoặc do pháp Ngoài ra BLDS còn có các quy định cụ
áp dụng
luật quy định mà không cần xuất phát thể về nguyên nhân dẫn đến hủy bỏ hợp
từ sự vi phạm hợp đồng. đồng như: do chậm thực hiện nghĩa vụ,
do không có khả năng thực hiện hoặc do
trong trường hợp tài sản bị mất, bị hư
hỏng.
Hợp đồng chấm dứt kể từ thời điểm
bên còn lại nhận được thông báo chấm Hợp đồng không có hiệu lực kể từ thời
dứt. Các bên không phải thực hiện tiếp điểm giao kết, các bên không phải thực
nghĩa vụ hợp đồng. Hợp đồng có hiệu hiện nghĩa vụ đã thỏa thuận.
Hệ quả lực từ thời điểm chấm dứt trở về Các bên hoàn trả cho nhau những gì đã
pháp lý trước. nhận sau khi trừ chi phí hợp lý trong thực
Bên đã thực hiện nghĩa vụ có quyền hiện hợp đồng và chi phí bảo quản, phát
yêu cầu bên còn lại hoàn trả phần triển tài sản.
nghĩa vụ đã thực hiện. (Khoản 1, 2 Điều 427 BLDS)
(Khoản 3 Điều 428 BLDS)

Câu 7: Ông Minh có được quyền hủy bỏ hợp đồng chuyển nhượng nêu trên không?
Vì sao? Nếu có, nêu rõ văn bản cho phép hủy bỏ.

Ông Minh được quyền huỷ bỏ hợp đồng chuyển nhượng. Căn cứ theo Khoản 1 Điều
424 BLDS 2015 quy định về việc Huỷ bỏ hợp đồng do chậm thực hiện nghĩa vụ:

“1. Trường hợp bên có nghĩa vụ không thực hiện đúng nghĩa vụ mà bên có quyền yêu
cầu thực hiện nghĩa vụ trong một thời hạn hợp lý nhưng bên có nghĩa vụ không thực hiện
thì bên có quyền có thể huỷ bỏ hợp đồng.

2. Trường hợp do tính chất của hợp đồng hoặc do ý chí của các bên, hợp đồng sẽ không
đạt được mục đích nếu không được thực hiện trong thời hạn nhất định mà hết thời hạn
đó bên có nghĩa vụ không thực hiện đúng nghĩa vụ thì bên kia có quyền hủy bỏ hợp đồng
mà không phải tuân theo quy định tại khoản 1 Điều này.”

11
Mặc dù ông Minh đã nhiều lần nhắc nhở nhưng ông Cường vẫn không trả tiền theo
hợp đồng cho ông Minh đối chiếu với Khoản 1 Điều 424 BLDS. Như vậy, ông Minh đã
yêu cầu ông Cường thực hiện nghĩa vụ nhiều lần nhưng ông Cường vẫn không thực hiện
nên ông Minh được quyền hủy bỏ hợp đồng chuyển nhượng.

12
VẤN ĐỀ 3:
ĐỨNG TÊN GIÙM MUA BẤT ĐỘNG SẢN

1. Việc Tòa án nhân dân tối cao xác định nhà có tranh chấp do bà Tuệ bỏ tiền ra
mua và nhờ ông Bình, bà Vân đứng tên hộ có thuyết phục không? Vì sao?

Việc Tòa án nhân dân tối cao xác định nhà có tranh chấp do bà Tuệ bỏ tiền ra mua và
nhờ ông Bình, bà Vân đứng tên hộ là thuyết phục. Vì các lý do sau đây:

Thứ nhất, căn cứ “Giấy cam đoan xác định tài sản nhà ở” lập ngày 07/6/2001 có nội dung
xác nhận căn nhà số 16-B20 do bà Tuệ bỏ tiền mua và nhờ ông Bình, bà Vân đứng tên
hộ. Giấy cam đoan này có chữ ký của ông Bình và bà Vân.

Thứ hai, “Giấy khai nhận tài sản” ngày 09/8/2001 của bà Tuệ cũng có nội dung năm
1993 bà Tuệ mua căn nhà 16-B20 phường Nghĩa Tân, quận Cầu Giấy, thành phố Hà Nội
có tổng diện tích sử dụng 134m2 xây 02 tầng trên 68,5m2 đất trên Công ty xây dựng nhà
ở dân dụng và đã được Ủy ban nhân dân thành phố Hà Nội cấp Giấy chứng nhận quyền
sử dụng đất và quyền sở hữu nhà ở ngày 25/5/201; do bà Tuệ là người Việt Nam định cư
ở nước ngoài không được đứng tên mua nhà tại Việt Nam nên bà Tuệ có nhờ ông Bình và
bà Vân đứng tên hộ. Giấy này có chữ ký của bà Tuệ; bà Vân và ông Bình ký tên dưới
mục người đứng tên mua hộ.

Thứ ba, tại Biên bản hòa giải ngày 05/10/2010 và ngày 14/10/2010, ông Bình cũng thừa
nhận nhà 16-B20 là bà Tuệ cho tiền mua và nhờ bà Vân đứng tên cùng mua. Anh Nguyễn
Xuân Hải là con ông Bình cũng khẳng định nhà 16-B20 do bà Tuệ mua.

2. Ở thời điểm mua nhà trên, bà Tuệ có được đứng tên không? Vì sao?

Ở thời điểm mua nhà trên, bà Tuệ không được đứng tên.

Vì tại thời điểm ông Bình mua nhà (cuối năm 1992) pháp luật chưa có quy định cụ thể
về trường hợp của bà Tuệ (bà là Việt kiều định cư ở nước ngoài), tại Điều 19 NĐ 61/CP
ngày 5/7/1994 về mua bán và kinh doanh nhà ở chỉ quy định: “Cá nhân là người nước
ngoài định cư ở Việt Nam được mua 1 nhà ở của các doanh nghiệp Nhà nước chuyên
kinh doanh nhà ở của Việt Nam để ở cho bản thân và các thành viên gia đìnhhọ tại địa
phương được phép định cư.” Sau khi được cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất và
quyền sở hữu nhà ở (ngày 25/5/2001), pháp luật nước ta đã có quy định cụ thể hơn về
việc người Việt Nam định cư tại nước ngoài mua nhà ở tại Việt Nam tại khoản 1 Điều 3
Nghị định 81/2001/NĐ-CP: “Người Việt Nam định cư ở nước ngoài thuộc một trong
những đối tượng dưới đây có đủ các điều kiện quy định tại Điều 6 Nghị định này thì
được mua nhà để ở gắn liền với quyền sử dụng đất ở tại Việt Nam:
13
a) Người về đầu tư lâu dài tại Việt Nam;
b) Người có công đóng góp với đất nước;
c) Nhà văn hóa, nhà khoa học có nhu cầu về hoạt động thường xuyên tại Việt Nam;
d) Người có nhu cầu về sống ổn định tại Việt Nam.”

Tuy nhiên, bà Tuệ là người Việt Nam định cư ở Nhật Bản, thường xuyên về thăm gia
đình nhưng lại không đáp ứng đủ các điều kiện để mua nhà ở gắn liền với quyền sử dụng
đất ở tại Việt Nam như đã nêu trên. Vì vậy, ở thời điểm mua nhà trên, bà Tuệ không được
đứng tên theo phát luật.

3. Ở thời điểm hiện nay, bà Tuệ có được đứng tên mua nhà ở tại Việt Nam không?

Ở thời điểm hiện nay, bà Tuệ được đứng tên mua nhà ở tại Việt Nam. Do ở thời điểm
hiện nay, Luật nhà ở 2014 và Luật đất đai 2013 đang có hiệu lực.

Cơ sở pháp lý:
- Khoản 2 Điều 7 Luật nhà ở 2014 quy định đối tượng được sở hữu nhà ở tại Việt
Nam: “Người Việt Nam định cư ở nước ngoài.”
- Khoản 1 Điều 8 Luật nhà ở 2014 quy định điều kiện được công nhận quyền sở hữu
nhà ở: “Tổ chức, hộ gia đình, cá nhân trong nước; đối với người Việt Nam định cư ở
nước ngoài thì phải được phép nhập cảnh vào Việt Nam; đối với tổ chức, cá nhân nước
ngoài thì phải có đủ điều kiện quy định tại Điều 160 của Luật này.”
- Khoản 6 Điều 5 Luật đất đai 2013 quy định về người sử dụng đất: “Người sử
dụng đất được Nhà nước giao đất, cho thuê đất, công nhận quyền sử dụng đất, nhận
chuyển quyền sử dụng đất theo quy định của luật này bao gồm:
…6. Người Việt Nam định cư ở nước ngoài theo quy định của pháp luật về quốc tịch…”

- Khoản 1 Điều 186 Luật đất đai 2013 quy định quyền và nghĩa vụ về sử dụng đất ở
của người Việt Nam định cư ở nước ngoài được sở hữu nhà ở tại Việt Nam; người nước
ngoài hoặc người Việt Nam định cư ở nước ngoài không thuộc đối tượng được mua nhà ở
gắn liền với quyền sử dụng đất ở tại Việt Nam: “Người Việt Nam định cư ở nước ngoài
thuộc các đối tượng có quyền sở hữu nhà ở theo quy định của pháp luật về nhà ở thì có
quyền sở hữu nhà ở gắn liền với quyền sử dụng đất ở tại Việt Nam.”

Do đó, để được sở hữu nhà ở tại Việt Nam, người Việt Nam định cư ở nước ngoài phải
được cơ quan có thẩm quyền của Việt Nam cho phép nhập cảnh vào Việt Nam, có quyền
sở hữu nhà ở gắn liền với quyền sử dụng đất ở tại Việt Nam; là người Việt Nam định cư
ở nước ngoài theo quy định của pháp luật về quốc tịch.

14
Theo “Giấy chứng nhận” ngày 12/6/2009 của Tổng lãnh sự quán nước Cộng hòa xã
hội chủ nghĩa Việt Nam tại Nhật Bản thì bà Tuệ vẫn có quốc tịch Việt Nam. Ngày
18/6/2009 bà Tuệ còm được cấp “Giấy miễn thị thực” để bà Tuệ nhập cảnh Việt Nam
nhiều lần đến ngày 18/6/2014, mỗi lần nhập cảnh tạm trú không quá 90 ngày.

Vì vậy, bà Tuệ có đủ điều kiện đứng tên mua nhà ở tại Việt Nam.

4. Ngày nay, theo Tòa án nhân dân tối cao, bà Tuệ được công nhận quyền sở hữu
nhà trên không? Hướng giải quyết này của Tòa án nhân dân tối cao đã có tiền lệ
chưa?

Theo Tòa án nhân dân tối cao thì bà Tuệ được công nhận quyền sở hữu nhà vì lý do
sau:

Theo “giấy chứng nhận” ngày 12/6/2009 của Tổng lãnh sự quán nước Cộng hòa xã hội
chủ nghĩa Việt Nam tại Nhật Bản thì bà Tuệ vẫn có quốc tịch Việt Nam. Ngày 18/6/2009
bà Tuệ còn được cấp “Giấy miễn thị thực” để bà Tuệ nhập cảnh Việt Nam nhiều lần đến
ngày 18/6/2004, mỗi lần nhập cảnh không quá 90 ngày. Theo quy định tại Điều 1 Luật số
34/2009/QH12 ngày 18/6/2009 của Quốc hội về sửa đổi ,bổ sung Điều 126 Luật nhà ở và
Điều 121 của Luật đất đai thì bà Tuệ có đủ điều kiện được sở hữu nhà ở tại Việt Nam.

Hướng giải quyết này của Tòa án nhân dân tối cao đã có tiền lệ. Theo Quyết định số
61/2012/DS-GĐT ngày 21-2-2012 của Tòa dân sự Tòa án nhân dân tối cao.

Tòa dân sự Tòa án nhân dân tối cao cũng theo hướng trên trong một vụ việc giám đốc
thẩm năm 2012. Cụ thể, ở thời điểm người Việt Nam đứng tên giùm mua bất động sản thì
người nhờ đứng tên giùm chưa đủ điều kiện nhưng từ “năm 2009 bà Huệ đã về sống ở
Việt Nam” nên có đủ điều kiện đứng tên sở hữu bất động sản và Tòa giám đốc thẩm đã
cho rằng “Tòa án sơ thẩm và Tòa án cấp phúc thẩm xác định nhà, đất tranh chấp trong vụ
án này thuộc quyền sở hữu, sử dụng của bà Huệ là có căn cứ”.

5. Theo Tòa án nhân dân tối cao, phần giá trị chênh lệch giữa số tiền bà Tuệ bỏ ra
và giá trị hiện tại của nhà đất có tranh chấp được xử lý như thế nào?

Theo Tòa án nhân dân tối cao, phần giá trị chênh lệch giữa số tiền bà Tuệ bỏ ra và giá
trị hiện tại của nhà đất có tranh chấp được chia đôi cho bà Tuệ và ông Bình. Và được
trình bày tại phần xét thấy của bản án như sau:

15
“…xem xét đến công sức quản lý, giữ gìn nhà cho gia đình ông Bình trên cơ sở xác định
giá nhà đất theo giá trị thị trường ở thời điểm xét xử sơ thẩm, trừ đi số tiền mua nhà đất
do bà Tuệ bỏ ra, phần giá trị còn lại chia đôi cho bà Tuệ và ông Bình.”

6. Hướng giải quyết trên của Tòa án nhân dân tối cao đã có Án lệ chưa? Nếu có, nêu
Án lệ đó.

Hướng giải quyết trên của Tòa án nhân dân tối cao đã có Án lệ. Đó là Án lệ số
02/2016/AL.

- Nguồn Án lệ: Quyết định giám đốc thẩm số 27/2010/DS-GĐT ngày 08-7-2010 của
Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao về vụ án “Tranh chấp đòi lại tài sản” tại
tỉnh Sóc Trăng giữa nguyên đơn là bà Nguyễn Thị Thảnh với bị đơn là ông Nguyễn Văn
Tám; người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan là bà Nguyễn Thị Yêm.

- Khái quát nội dung của án lệ: Trường hợp người Việt Nam định cư ở nước ngoài đã
bỏ tiền ra để nhận chuyển nhượng quyền sử dụng đất và nhờ người ở trong nước đứng tên
nhận chuyển nhượng quyền sử dụng đất hộ mình, khi giải quyết tranh chấp thì Tòa án
phải xem xét và tính công sức bảo quản, giữ gìn, tôn tạo làm tăng giá trị quyền sử dụng
đất cho người đứng tên hộ; trường hợp không xác định được chính xác công sức của
người đó thì cần xác định người thực chất trả tiền để nhận chuyển nhượng quyền sử dụng
đất và người đứng tên nhận chuyển nhượng quyền sử dụng đất hộ có công sức ngang
nhau để chia phần giá trị chênh lệch tăng thêm so với tiền gốc nhận chuyển nhượng
quyền sử dụng đất ban đầu.

- Nội dung án lệ: “Tuy bà Thảnh là người bỏ 21,99 chỉ vàng để chuyển nhượng đất
(tương đương khoảng 27.047.700 đồng). Nhưng giấy tờ chuyển nhượng đứng tên ông
Tám và sau khi nhận chuyển nhượng ông Tám quản lý đất, sau đó chuyển nhượng cho
người khác. Như vậy, lẽ ra phải xác định ông Tám có công sức trong việc bảo quản, giữ
gìn, tôn tạo làm tăng giá trị đất nên phải xác định số tiền trên (sau khi trừ tiền gốc tương
đương 21,99 chỉ vàng của bà Thảnh) là lợi nhuận chung của bà Thảnh và ông Tám. Đồng
thời xác định công sức của ông Tám để chia cho ông Tám một phần tương ứng với công
sức của ông mới đúng và đảm bảo quyền lợi của các đương sự (Trường hợp không xác
định được chính xác công sức của ông Tám thì phải xác định bà Thảnh, ông Tám có công
sức ngang nhau để chia)”7.

7. Suy nghĩ của anh/chị về hướng giải quyết trên của Tòa án nhân dân tối cao.

7
Tòa án nhân dân tối cao, http://www.toaan.gov.vn/portal/page/portal/tandtc.
16
Hướng giải quyết trên của Tòa án nhân dân tối cao là thuyết phục, đảm bảo được
quyền lợi cho các bên. Mặc dù, giao dịch giữa người đứng tên giùm với người thứ ba là
giao dịch giả tạo và giao dịch giữa người nhờ đứng tên giùm và người thứ ba thực chất bị
che giấu nhưng Tòa án đã không vận dụng quy định của Bộ luật dân sự về giả tạo trong
giao dịch. Cụ thể, theo Điều 129 Bộ luật dân sự 2005 và Điều 124 Bộ luật dân sự 2015,
giao dịch giả tạo (bề ngoài) vô hiệu và giao dịch che giấu có giá trị pháp lý nếu giao dịch
này không vi phạm các quy định khác 8 . Trong thực tiễn xét xử cũng như trong bản án
này, Tòa án nhân dân tối cao không xác định giao dịch giả tạo cũng không tuyên bố vô
hiệu. Mà Tòa án theo hướng giải quyết không làm ảnh hưởng đến lợi ích của các bên -
người đứng tên giùm, người nhờ đứng tên giùm và người thứ ba. Vẫn công nhận giao
dịch giữa người đứng tên giùm với người thứ ba. Trong trường hợp cả hai phía đều đủ
điều kiện đứng tên quyền sở hữu tài sản thì ưu tiên cho người nhờ đứng tên giùm để đảm
bảo cam kết trong giao dịch đứng tên giùm. Xem xét và tính công sức bảo quản, giữ gìn,
tôn tạo làm tăng giá trị quyền sử dụng đất cho người đứng tên hộ. Trừ đi số tiền của bên
thực chất bỏ ra và phân chia giá trị tăng thêm cho các bên liên quan.

8
Đỗ Văn Đại, Luật hợp đồng Việt Nam - Bản án và Bình luận bản án, Nxb. Hồng Đức – Hội Luật gia Việt Nam
(xuất bản lần thứ sáu), tr.753.
17
VẤN ĐỀ 4: TÌM KIẾM TÀI LIỆU.

Yêu cầu 1:
Những bài viết liên quan đến pháp luật hợp đồng được công bố trên các Tạp chí chuyên
ngành Luật từ đầu năm 2016 đến nay.
1. Hồ Thị Vân Anh, Bình luận một số quy định về căn cứ chấm dứt hợp đồng trong Bộ
luật dân sự 2015, Tạp chí Pháp luật và Thực tiễn (số 35), năm 2018, từ tr. 11 đến
25.
2. Nguyễn Thị Phương Châm, Những hạn chế của chế định thực hiện hợp đồng trong
Bộ luật Dân sự năm 2015 dưới góc nhìn Luật so sánh, Tạp chí Luật học (số 12),
năm 2017, từ tr. 3 đến 12.
3. Đỗ Văn Đại, Gía trị pháp lý của UCP và tính độc lập của L/C, Tạp chí Khoa học
pháp lý (số 03), năm 2018, từ tr. 71 đến 80.
4. Đỗ Văn Đại, Nguyễn Trương Tín, Những điểm mới về bồi thường thiệt hại ngoài
hợp đồng trong Bộ luật Dân sự năm 2015 – Những trường hợp cụ thể: Tiếp theo kì
trước và hết, Tạp chí Tòa án nhân dân (số 13), năm 2016, từ tr. 13 đến 16.
5. Đàm Thị Diễm Hạnh, Lê Thị Kim Oanh, Một số bình luật về Điều 420 Bộ luật Dân
sự năm 2015: Thực hiện hợp đồng khi hoàn cảnh thay đổi cơ bản, Tạp chí Nhà
nước và Pháp luật (số 07), năm 2018, từ tr. 19 đến 23.
6. Dương Quỳnh Hoa, Thực hiện hợp đồng khi hoàn cảnh thay đổi trong Bộ luật dân
sự 2015, Tạp chí Luật sư Việt Nam (số 9), năm 2016, từ tr. 33 đến 37.
7. Trần Thị Huệ, Lê Thị Hải Yến, Những điểm mới và một số bất cập về các điều kiện
có hiệu lực của hợp đồng trong quy định của Bộ luật Dân sự Việt Nam năm 2015,
Tạp chí Pháp luật và Thực tiễn (số 01), năm 2017, từ tr. 36 đến 45.
8. Phạm Quang Huy, “Consideration” theo pháp luật hợp đồng Hoa Kỳ, Tạp chí Luật
học (số 11), năm 2016, từ tr. 93 đến 100.
9. Bùi Sỹ Lợi, Gỉai pháp nâng cao chất lượng hoạt động đưa người lao động đi làm
việc ở nước ngoài theo hợp đồng, Tạp chí Lao động và xã hội (số 580), năm 2018,
từ tr. 09 đến 11.

18
10. Đoàn Đức Lương, Nguyễn Thị Hồng Trinh, Ý chí và tự do ý chi trong các điều
hiện có hiệu lực của hợp đồng, Tạp chí Pháp luật và Thực tiễn (số 35), năm 2018, từ
tr. 01 đến 10.
11. Trần Thị Thu Ngân, Bùi Thị Hằng Nga, Điều kiện huỷ bỏ hợp đồng theo qui định
Bộ luật Dân sự, Tạp chí Kiểm sát (số 21), năm 2016, từ tr. 46 đến 50.
12. Nguyễn Thị Minh Phượng, Những điểm mới của quy định về giao kết hợp đồng
trong Bộ luật Dân sự năm 2015, Tạp chí Toà án nhân dân (số 22), năm 2016, từ tr.
13 đến 15.
13. Nguyễn Hồng Thái, Phòng trừ rủi ro trong việc thực hiện hợp đồng, Tạp chí Luật
sư Việt nam (số 5), năm 2017, từ tr. 42 đến 43.
14. Nguyễn Thị Phương Thuý, Hợp đồng lao động giúp việc gia đình – từ quy định
đến thực tiễn, Tạp chí Lao động và Xã hội (số 530), năm 2016, từ tr. 21 đến 25.
15. Nguyễn Thị Thuỷ, Mối quan hệ pháp lý giữa quyền lợi được bảo hiểm và hiệu lực
của hợp đồng bảo hiểm tài sản, Tạp chí Luật học (số 10), từ tr. 52 đến 61.
16. Lý Văn Toán, Nguyễn Thị Kim Lan, Công nhận giao dịch về dân sự không tuân
thủ quy định về hình thức, Tạp chí Nhà nước và Pháp luật (số 7), năm 2018, từ tr. 12
đến 18.

Yêu cầu 2:

Để tiếp cận các bài viết trên, nhóm đã dựa vào nguồn tài liệu tại trung tâm thông tin - thư
viện của Trường Đại học Luật TP.HCM.

19

You might also like