You are on page 1of 8

Phần I.

Nhận định

1. Cá nhân có thể ủy quyền cho chủ thể khác khởi kiện thay mình.
Nhận định sai.
CSPL: điểm a, khoản 2, điều 189 BLTTDS 2015 thì cá nhân có đầy đủ năng lực hành
vi tố tụng dân sự chỉ được nhờ người khác làm hộ đơn khởi kiện vụ án. Cá nhân
không được uỷ quyền cho người khác ký đơn khởi kiện mà chỉ được uỷ quyền nộp
đơn khởi kiện. Cá nhân đó phải ký tên hoặc điểm chỉ vào cuối đơn. Nghĩa là cá nhân
có đầy đủ năng lực hành vi tố tụng dân sự khi làm đơn khởi kiện thì thông tin của
người khởi kiện phải ghi đầy đủ thông tin của cá nhân đó. Vì vậy, cá nhân không thể
uỷ quyền cho chủ thể khác khởi kiện thay mình.

2. Tranh chấp ly hôn chưa được hòa giải tiền tố tụng thì Tòa án phải trả lại đơn
khởi kiện.
Nhận định sai
CSPL: Khoản 1 Điều 192 BLTTDS năm 2015; Điều 3 Nghị quyết 04/2017; Điều 52
LHNGĐ năm 2014.
Theo quy định tại Điều 52 LHNGĐ, khi vợ hoặc chồng đơn phương yêu cầu ly hôn,
Nhà nước khuyến khích việc hòa giải ở cơ sở. Theo đó, thủ tục hòa giải không phải là
điều kiện để khởi kiện nên tranh chấp ly hôn dù chưa được hòa giải tiền tố tụng sẽ
không là căn cứ để Tòa án trả lại đơn khởi kiện theo quy định tại khoản 1 Điều 192
BLTTDS. (chỉ mang tính chất khuyến khích chứ không bắt buộc)
3. Quyết định công nhận sự thỏa thuận của các đương sự có thể bị kháng nghị
giám đốc thẩm.
Nhận định đúng
CSPL: Khoản 2 Điều 213 BLTTDS 2015
Kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm là hành vi chủ thể có thẩm quyền theo quy
định của pháp luật tố tụng dân sự yêu cầu Tòa án xem xét lại những bản án, quyết
định đã có hiệu lực pháp luật, khi có căn cứ theo quy định của pháp luật về phát hiện
có vi phạm pháp luật nghiêm trọng trong giải quyết vụ án.
Quyết định công nhận sự thỏa thuận của các đương sự chỉ có thể bị kháng nghị theo
thủ tục giám đốc thẩm nếu có căn cứ cho rằng sự thỏa thuận đó là do bị nhầm lẫn, lừa
dối, đe dọa, cưỡng ép hoặc vi phạm điều cấm của luật, trái đạo đức xã hội.

4. Đương sự có thể thay đổi, bổ sung yêu cầu của mình trong giai đoạn chuẩn bị
xét xử sơ thẩm.
Nhận định sai.
CSPL: Khoản 4 Điều 70, Điều 243, 244 BLTTDS 2015.
Mặc dù tại khoản 4 Điều 70 BLTTDS 2015 có quy định về quyền thay đổi, bổ sung
yêu cầu của đương sự, tuy nhiên tại Điều 243, thủ tục chỉ bắt đầu khi chủ toạ phiên toà
hỏi đương sự về các yêu cầu trên. Do đó, việc thay đổi, bổ sung yêu cầu không thể
diễn ra trong giai đoạn chuẩn bị xét xử sơ thẩm mà chỉ có thể yêu cầu trong phiên tòa
xét xử sơ thẩm.

5. Phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải phải
có mặt tất cả các đương sự.
Nhận định sai.
Việc tổ chức phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ là bắt
buộc tuy nhiên trong một số trường hợp Thẩm phán không tiến hành mở phiên hoà
giải đối với những yêu cầu đòi bồi thường vì lí do gây thiệt hại đến tài sản nhà nước.
Những vụ án phát sinh từ giao dịch dân sự vi phạm điều cấm của luật hoặc trái với
đạo đức xã hội (Điều 206 BLTTDS). Hoặc những vụ án không tiến hành hoà giải được
do: Bị đơn, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đã được Toà án triệu tập hợp lệ lần
thứ hai mà vẫn cố tình vắng mặt, đương sự không thể tham gia hoà giải được vì lí do
chính đáng, đương sự là vợ hoặc chồng trong vụ án li hôn là người mất năng lực hành
vi dân sự, một trong các đương sự không tiến hành hoà giải (Điều 207 BLTTDS).
Phiên hoà giải giữa các đương sự có thể sẽ không được diễn ra nhưng phiên họp kiểm
tra giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ phải được Thẩm phán tổ chức.

Phần 2. Bài tập


Bài tập 1: Bà Cao Thị Thu K cho rằng vợ chồng ông Nguyễn Văn Ph và bà Phạm
Ngọc Th có vay của bà tổng cộng 710.000.000 đồng. Ông Nguyễn Văn Ph có hứa
là đến ngày 30/5/2018 (âm lịch) sẽ trả toàn bộ số tiền mà ông Ph đã vay, nhưng
đến nay ông Ph không thực hiện nghĩa vụ trả tiền như đã cam kết. Ông Ph có
làm 03 biên nhận nhận tiền và một tờ cam kết với tổng số tiền 460.000.000 đồng,
bà Th vợ ông Ph có làm biên nhận nhận 250.000.000 đồng. Tổng cộng vợ chồng
ông Ph và bà Th nợ bà 710.000.000 đồng. Bà yêu cầu Tòa án nhân dân huyện PT
giải quyết buộc vợ chồng ông Nguyễn văn Ph, bà Phạm Ngọc Th phải trả cho bà
số tiền 710.000.000 đồng, bà không yêu cầu tính lãi.
a. Giả sử trong giai đoạn chuẩn bị xét xử sơ thẩm, ông Ph bị tai nạn và đột
ngột qua đời, Tòa án phải giải quyết tình huống này như thế nào?
b. Giả sử Tòa án đã triệu tập hợp lệ lần thứ hai bà K đến phiên họp kiểm tra
việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải nhưng bà K vẫn
vắng mặt không có lý do chính đáng, không có đơn đề nghị không tiến
hành hòa giải. Nêu hướng xử lý của Tòa án trong trường hợp này.

Trả lời:
a. Căn cứ điểm a khoản 1, Điều 214 BLTTDS, Tòa án sẽ ra quyết định tạm đình
chỉ giải quyết vụ án khi đương sự là cá nhân ông Ph đã chết mà chưa có cá
nhân kế thừa quyền và nghĩa vụ tố tụng của ông. Cũng tại khoản 2 điều này,
trong vòng 03 ngày Tòa án phải gửi quyết định đó cho đương sự khởi kiện và
viện kiểm sát cùng cấp.
Căn cứ Điều 215 BLTTDS, Tòa án không xóa tên vụ án dân sự này mà ghi chú
vào sổ thụ lý số và ngày tháng năm quyết định tạm đình chỉ giải quyết vụ án.
Tiền tạm ứng án phí, lệ phí được gửi tại kho bạc nhà nước và sẽ được xử lý khi
Tòa án tiếp tục xử lý vụ án dân sự. Trong thời gian tạm đình chỉ, Thẩm phán
được phân công giải quyết vụ án vẫn có trách nhiệm giải quyết vụ án.

Nếu không có ai kế thừa quyền, nghĩa vụ tố tụng của ông Ph sau khi ông chết
thì căn cứ điểm a khoản 1, Điều 217 BLTTDS, Tòa án ra quyết định đình chỉ
vụ án.
Cũng tại khoản 3 điều này, Tòa án ra quyết định đình chỉ giải quyết vụ án, xóa
tên vụ án trong sổ thụ lý và trả lại đơn khởi kiện, tài liệu, chứng cứ kèm theo
cho bà Th và bà K nếu có yêu cầu, sao chụp trước khi trả làm cơ sở giải quyết
khiếu nại, kiến nghị khi có yêu cầu. Gửi quyết định cho đương sự và viện kiểm
sát cùng cấp.
Căn cứ khoản 2 Điều 218 BLTTDS, vì trường hợp đình chỉ vụ án này là đương
sự ông Ph chết được quy định tại điểm a khoản 1 Điều 217, do đó tiền tạm ứng
án phí mà đương sự đã nộp được sung vào công quỹ nhà nước.

Căn cứ Điều 219 BLTTDS, thẩm quyền ra quyết định tạm đình chỉ và đình chỉ
giải quyết vụ án trước khi mở phiên tòa là Thẩm phán được phân công giải
quyết vụ án. Do đó, trong trường hợp ông Ph chết trong giai đoạn chuẩn bị xét
xử sơ thẩm, người có thẩm quyền ra quyết định tạm đình chỉ và đình chỉ giải
quyết vụ án là Thẩm phán được phân công giải quyết vụ án này.

b. Căn cứ khoản 1 Điều 207 BLTTDS, bà K đã vắng mặt lần thứ 2, đã được Tòa
án triệu tập hợp lệ, không có lý do chính đáng, dù không có đơn đề nghị không
tiến hành hòa giải nhưng vụ án dân sự này trở thành vụ án dân sự không tiến
hành hòa giải được.
Khi đó, căn cứ khoản 2 Điều 208 luật này, Thẩm phán tiến hành phiên họp
kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ mà không tiến hành hòa
giải.
Sau đó, căn cứ điều 16 Nghị quyết 05/2012/NQ-HĐTP, Tòa án lập biên bản về
việc không tiến hành hòa giải được và ra quyết định đưa vụ án ra xét xử.

Bài tập 2: Ngày 15/4/2020, vợ chồng ông Bình và bà Hòa có vay của bà Thu số
tiền 600.000.000 đồng và hẹn đến ngày 14/10/2020 sẽ trả đủ. Khi vay, hai bên
thống nhất vợ chồng ông Bình, bà Hòa thế chấp cho bà một Giấy chứng nhận
quyền sử dụng đất số CH 869716 đứng tên ông Bình và bà Hòa, đất tọa lạc tại
Quận 12, TP. Hồ Chí Minh, do Ủy ban nhân dân Quận 12 cấp ngày 11/4/2017. Do
ảnh hưởng của dịch bệnh Covid-19 nên ông Bình, bà Hòa không buôn bán được,
không trả nợ cho bà Thu theo đúng thời gian đã hẹn. Nay bà Thu yêu cầu ông
Bình, bà Hòa phải trả cho bà một lần số tiền 600.000.000 đồng, nếu ông Bình, bà
Hòa không có khả năng trả nợ thì giao thửa đất đã thế chấp cho bà để trừ hết nợ.

a. Giả sử sau khi nhận được đơn khởi kiện của bà Thu, Tòa án trả lại đơn khởi
kiện vì lý do tranh chấp chưa được hòa giải tại UBND cấp xã nơi có đất tranh
chấp. Nhận xét về quyết định trả lại đơn khởi kiện của Tòa án.

Khoản 2 Điều 202 Luật đất đai 2013 quy định: “Tranh chấp đất đai mà các bên tranh
chấp không hòa giải được thì gửi đơn đến Ủy ban nhân dân cấp xã nơi có đất tranh
chấp để hòa giải.”
Theo đó, khi xảy ra tranh chấp đất đai, Nhà nước khuyến khích các bên tranh chấp tự
hòa giải hoặc giải quyết tranh chấp thông qua hòa giải ở cơ sở (thông qua hòa giải
viên).
Trường hợp các bên tranh chấp không hòa giải được thì phải hòa giải bắt buộc tại
UBND cấp xã nơi có đất nếu muốn khởi kiện hoặc đề nghị UBND cấp huyện, cấp tỉnh
giải quyết.
Khoản 2 Điều 3 Nghị quyết 04/2017/NQ-HĐTP có quy định:
Đối với tranh chấp ai là người có quyền sử dụng đất mà chưa được hòa giải tại Ủy ban
nhân dân xã, phường, thị trấn nơi có đất tranh chấp theo quy định tại Điều 202 Luật
đất đai năm 2013 thì được xác định là chưa có đủ điều kiện khởi kiện quy định tại
điểm b khoản 1 Điều 192 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015.
Đối với tranh chấp khác liên quan đến quyền sử dụng đất như: tranh chấp về giao dịch
liên quan đến quyền sử dụng đất, tranh chấp về thừa kế quyền sử dụng đất, chia tài sản
chung của vợ chồng là quyền sử dụng đất,... thì thủ tục hòa giải tại Ủy ban nhân dân
xã, phường, thị trấn nơi có đất tranh chấp không phải là điều kiện khởi kiện vụ án.
=> Ở trường hợp này, tranh chấp của bà Thu và vợ chồng ông Bình bà Hòa là tranh
chấp về giao dịch liên quan đến quyền sử dụng đất. Quyền sử dụng đất được đưa ra để
thế chấp cho giao dịch vay tiền nên sẽ thuộc trường hợp 2 “tranh chấp khác liên quan
đến quyền sử dụng đất”. Vì vậy, quyết định trả lại đơn khởi kiện của Tòa án là không
đúng quy định.

b. Tại phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải,
ông Bình và bà Hòa đều thống nhất có nợ của bà Thu 600.000.000 đồng và cam
kết sẽ trả cho bà Thu trong vòng 02 tháng kể từ khi bản án, quyết định của Tòa
án có hiệu lực pháp luật. Ông bà không đồng ý giao đất để trừ nợ vì đây là nhà
đất duy nhất của ông bà để ông bà và các con sinh sống. Nêu hướng giải quyết
của Tòa án trong trường hợp này.
Theo quy định tại Khoản 2 Điều 91: “Đương sự phản đối yêu cầu của người khác đối
với mình phải thể hiện bằng văn bản và phải thu thập, cung cấp, giao nộp cho Tòa án
tài liệu, chứng cứ để chứng minh cho sự phản đối đó”. Nên ông Bình, bà Hòa không
đồng ý giao đất để trừ nợ cho bà Thu thì phải thể hiện bằng văn bản và phải cung cấp
tài liệu, chứng cứ cho Tòa án để chứng minh nhà đất đó là nơi duy nhất của ông bà và
các con sinh sống là sự thật và là lý do chính đáng để yêu cầu Tòa án bảo vệ quyền và
lợi ích hợp pháp của mình theo Khoản 1 Điều 91.
Như vậy, Tòa án mới có thể bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của ông bà mà đồng ý
với yêu cầu trên để bảo vệ quyền, lợi ích của hai bên đương sự.
- CSPL: Khoản 1, 2 Điều 91 BLTTDS 2015
Có thể thấy, mục đích của phiên họp kiểm tra là nhằm bảo đảm mọi chứng cứ đều
được công khai (trừ trường hợp không được phép công khai) trong quá trình tố tụng;
Phiên hòa giải là để các bên thương lượng, thỏa thuận việc giải quyết tranh chấp . Từ
đó, chúng ta thấy được rằng mục đích của phiên họp kiểm tra và phiên hòa giải chỉ
nhằm đảm bảo mọi chứng cứ được công khai và nhằm để các bên thương lượng, thỏa
thuận giải quyết tranh chấp.
Căn cứ vào tình huống, có thể thấy bà Thu khởi kiện với nội dung “ông Bình, bà Hòa
phải trả cho bà một lần số tiền 600.000.000 đồng, nếu hai người không có khả năng
trả nợ thì giao thửa đất đã thế chấp cho bà để trừ hết nợ” và tại phiên họp kiểm tra và
phiên hòa giải bên bị kiện thể hiện với nội dung “thống nhất có nợ của bà Thu
600.000.000 đồng và cam kết sẽ trả cho bà Thu trong vòng 02 tháng kể từ khi bản án,
quyết định của Tòa án có hiệu lực pháp luật. Ông bà không đồng ý giao đất để trừ nợ
vì đây là nhà đất duy nhất của ông bà để ông bà và các con sinh sống”. Qua đó, có thể
thấy, các bên không thể thương lượng, thỏa thuận về việc giải quyết tranh chấp liên
quan đến quyền sử dụng đất.
Như vậy, Tòa án có thể căn cứ vào việc các bên không thể hòa giải, từ đó ghi nhận vào
biên bản hòa giải theo Điều 211 BLTTDS và Thẩm phán sẽ đưa vụ án dân sự ra xét
xử.

Phần 3. Phân tích án


- Đọc Quyết định số: 34/2021/KDTM-GĐT ngày 05/7/2021 của Tòa án nhân dân
cấp cao tại Đà Nẵng
- Thực hiện các công việc sau:
1. Xác định yêu cầu của bị đơn trong vụ án.
 Yêu cầu của bị đơn trong vụ án này bao gồm: Tuyên bố vô hiệu Giấy mượn tiền ngày
01/10/2020; Tuyên bố vô hiệu Hợp đồng chuyển nhượng vốn góp ngày 15/02/2019;
Yêu cầu trả lại con dấu của Công ty TNHH Th.
2. Nhận xét về việc Tòa án các cấp xác định các yêu cầu của bị đơn (yêu cầu phản
tố hay ý kiến phản đối)? Nhận xét về nhận định của Hội đồng xét xử giám đốc
thẩm (nêu rõ luận cứ cho các nhận xét)
- Đối với việc Toà án các cấp xác định yêu cầu của bị đơn là ý kiến phản đối, theo
nhóm tác giả, việc xác định như vậy là không phù hợp.
    Căn cứ theo tinh thần tại khoản 2 Điều 12 Nghị quyết số 05/2012/NQ-HĐTP hướng
dẫn thi hành một số quy định trong Phần thứ hai “Thủ tục giải quyết vụ án tại Tòa án
cấp sơ thẩm” của Bộ luật Tố tụng Dân sự đã được sửa đổi, bổ sung theo Luật sửa đổi,
bổ sung một số điều của Bộ luật Tố tụng Dân sự, yêu cầu của bị đơn được coi là ý
kiến phản đối nếu bị đơn có yêu cầu cùng với yêu cầu của nguyên đơn, người có
quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có yêu cầu độc lập (như yêu cầu Tòa án không chấp
nhận yêu cầu của nguyên đơn, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có yêu cầu độc
lập hoặc chỉ chấp nhận một phần yêu cầu của nguyên đơn, người có quyền lợi, nghĩa
vụ liên quan có yêu cầu độc lập).
    Trong đơn khởi kiện, nguyên đơn yêu cầu bị đơn trả khoản tiền 56 tỷ đồng theo
Giấy mượn tiền ngày 1/10/2018. Trong khi đó, bị đơn Công ty Th lại có đơn yêu cầu
phản tố, yêu cầu tuyên bố vô hiệu Giấy mượn tiền ngày 01/10/2020, yêu cầu tuyên bố
vô hiệu Hợp đồng chuyển nhượng vốn góp ngày 15/02/2019 và yêu cầu trả lại con dấu
của Công ty TNHH Th. Theo đó, yêu cầu của bị đơn là các yêu cầu độc lập, không
cùng với yêu cầu của nguyên đơn. Như vậy, các yêu cầu của bị đơn không thể được
coi là ý kiến phản đối.
- Đối với việc Hội đồng xét xử giám đốc thẩm nhận định đối với yêu cầu tuyên bố vô
hiệu Giấy mượn tiền ngày 01/10/2020 chỉ được xem là ý kiến phản đối yêu cầu của
nguyên đơn; còn đối với yêu cầu tuyên bố vô hiệu Hợp đồng chuyển nhượng vốn góp
ngày 15/02/2019 và yêu cầu trả lại con dấu của Công ty TNHH Th là yêu cầu phản tố
theo quy định tại điểm c khoản 2 Điều 200 BLTTDS, theo nhóm tác giả là không phù
hợp.
    Như đã phân tích ở trên, các yêu cầu của bị đơn là các yêu cầu độc lập, không cùng
với yêu cầu của nguyên đơn nên phải xác định các yêu cầu của bị đơn là yêu cầu phản
tố dựa trên tinh thần tại khoản 1 Điều 12 NQ 05/2012. Theo đó, đối với yêu cầu tuyên
bố vô hiệu Giấy mượn tiền, nhận thấy việc chấp nhận yêu cầu dẫn đến loại trừ việc
chấp nhận toàn bộ yêu cầu của nguyên đơn vì không còn căn cứ để nguyên đơn yêu
cầu bị đơn trả khoản tiền 56 tỷ đồng, cho nên đây là yêu cầu phản tố theo quy định tại
điểm b khoản 2 Điều 200 BLTTDS. Đối với yêu cầu tuyên bố vô hiệu Hợp đồng
chuyển nhượng vốn góp ngày 15/02/2019 và yêu cầu trả lại con dấu của Công ty
TNHH Th, nhóm đồng ý với nhận định của Hội đồng xét xử, đây là yêu cầu phản tố
theo quy định tại điểm c khoản 2 Điều 200 BLTTDS.
3. Nhận xét về nhận định của Hội đồng xét xử giám đốc thẩm về Tòa án có thẩm
quyền thụ lý và giải quyết yêu cầu phản tố của bị đơn (nêu rõ luận cứ cho các nhận
xét).
- Nhận xét về nhận định của Hội đồng xét xử giám đốc thẩm về Tòa án có thẩm
quyền thụ lý và giải quyết yêu cầu phản tố của bị đơn theo hướng đồng ý:
+ Thứ nhất, yêu cầu phản tố là quyền của bị đơn đưa ra trong vụ án dân sự, đề nghị
với Toà án buộc nguyên đơn hoặc những người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan phải
thực hiện đối với mình. Yêu cầu phản tố của bị đơn chỉ phát sinh khi có nguyên đơn
kiện bị đơn, Tòa án có thẩm quyền thụ lý vụ việc đối với yêu cầu của nguyên đơn, bị
đơn cho rằng quyền và lợi ích của mình bị xâm phạm và làm đơn yêu cầu Tòa án giải
quyết những vấn đề có liên quan đến yêu cầu của nguyên đơn trong cùng một vụ án
dân sự.
+ Thứ hai, theo quy định tại khoản 3 Điều 30 BLTTDS, đây là vụ việc thuộc thẩm
quyền giải quyết của Tòa án vì ông T chưa phải là thành viên của công ty nhưng có
giao dịch về chuyển nhượng phần vốn góp với công ty. Do đó, yêu cầu phản tố trên
của bị đơn thuộc thẩm quyền của Tòa án nhân dân cấp tỉnh (điểm a khoản 1 Điều 37
BLTTDS). Cũng căn cứ theo quy định tại điểm a khoản 1 Điều 39 BLTTDS, Tòa án
nơi bị đơn cư trú có thẩm quyền giải quyết vụ án cụ thể bị đơn là Công ty TNHH Th;
địa chỉ: B, phường V, Thành phố N, tỉnh Khánh Hòa. Do đó, sau khi thụ lý yêu cầu
phản tố nêu trên, Tòa án Thành phố N phải chuyển toàn bộ hồ sơ vụ án cho Tòa án
nhân dân tỉnh Khánh Hòa để giải quyết theo quy định tại Điều 41 BLTTDS là có căn
cứ.
- Nhận xét về nhận định của Hội đồng xét xử giám đốc thẩm về Tòa án có thẩm
quyền thụ lý và giải quyết yêu cầu phản tố của bị đơn theo hướng không đồng ý:
+ Thứ nhất, đối với yêu cầu tuyên bố vô hiệu Giấy mượn tiền ngày 01/10/2020 được
Tòa án xác định là ý kiến phản đối yêu cầu của nguyên đơn là chưa phù hợp. Bởi lẽ tại
Bản án dân sự sơ thẩm thì yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn ông T chỉ bao gồm việc
buộc Công ty TNHH Th phải trả cho ông số tiền 56 tỷ đồng. Theo nhóm em, yêucầu
của nguyên đơn phải được xác định là yêu cầu phản tố thuộc trường hợp được quy
định tại điểm b khoản 2 Điều 200 BLTTDS. Điều đó có nghĩa là nguyên đơn khởi kiện
yêu cầu bị đơn là công ty Th trả khoản tiền 56.000.000 tỷ đồng, tuy nhiên phía bị đơn
lại có yêu cầu tuyên bố giấy mượn tiền này là vô hiệu. Khi yêu cầu này được chấp
nhận thì sẽ dẫn tới loại trừ việc chấp nhận một phần hoặc toàn bộ yêu cầu của nguyên
đơn có nghĩa là ở đây thì Công ty TNHH Th sẽ không có nghĩa vụ trả số tiền trong
giấy nợ đó. Vì thế Tòa án phải thụ lý giải quyết yêu cầu này với tư cách là yêu cầu
phản tố của bị đơn chứ không phải là một ý kiến phản đối yêu cầu của nguyên đơn.
+ Thứ hai, đối với Giấy mượn tiền ngày 01/10/2020, căn cứ theo khoản 3 Điều 26 và
điểm a khoản 1 Điều 35 được xác định là tranh chấp về hợp đồng dân sự mà cụ thể là
hợp đồng vay, theo đó thẩm quyền giải quyết đối với yêu cầu trên thuộc về TAND cấp
huyện, cụ thể là TAND Thành phố N chứ không phải thuộc thẩm quyền TAND tỉnh
Khánh Hòa theo quyết định của Hội đồng xét xử giám đốc thẩm.
Như vậy, việc Hội đồng xét xử xác định thẩm quyền thụ lý và giải quyết yêu cầu
phản tố của bị đơn thuộc về TAND tỉnh Khánh Hòa là chưa phù hợp.

4. Từ các phân tích trên, tóm tắt về các vấn đề pháp lý trong vụ án.
   Vấn đề pháp lý phát sinh trong vụ án là xác định ý kiến của bị đơn có phải là yêu
cầu phản tố theo quy định tại Điều 200 BLTTDS.

NẾU NG KHỞI KIỆN kh bổ sung đơn khởi kiện theo yêu cầu của thẩm phán thì thẩm
phán sẽ trả lại đơn khởi kiện

Nếu nội dung đơn khởi kiện không thuộc thẩm quyền giải quyết của toà án thì thẩm
phán sẽ trả đơn khởi kiện

điểm c điểm d k3 đ191


điểm c k3 đ191 với đ41

You might also like