You are on page 1of 3

Câu 1.

Căn cứ vào Điều 91 BLTTDS 2015, đương sự tham gia TTDS có nghĩa vụ phải chứng minh cũng như
là thu thập, cung cấp, giao nộp cho Tòa án tài liệu, chứng cứ để chứng minh cho yêu cầu được bảo vệ
quyền và lợi ích hợp pháp từ Tòa án là có căn cứ và hợp pháp.

Câu 2. Căn cứ theo khoản 1 Điều 136 BLTTDS 2015, nếu có yêu cầu Tòa án áp dụng biện pháp khẩn cấp
tạm thời tại các khoản 6, 7, 8, 10, 11, 15 thì người yêu cầu sẽ phải nộp cho Tòa án các chứng từ bảo lãnh
được đảm bảo bằng tài sản tài sản của ngân hàng hoặc tổ chức tín dụng khác hoặc của cơ quan, tổ chức,
cá nhân khác hoặc gửi một khoản tiền, kim khí quý, đá quý hoặc giấy tờ có giá do Tòa án ấn định nhưng
phải tương đương với tổn thất hoặc thiệt hại có thể phát sinh do áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời
không đúng quy định để tránh trường hợp lạm dụng quyền yêu cầu và đồng thời bảo vệ lợi ích của
người bị áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời.

Khoản tiền, kim khí quý, đá quý hoặc giấy tờ có giá được nộp phải được gửi vào tài khoản phong tỏa tại
ngân hàng nơi có trụ sở của Tòa án quyết định áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời trong thời hạn do
Tòa án ấn định.

Vậy tùy vào trường hợp mà pháp luật đã quy định, thủ tục áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời sẽ đảm
bảo tài sản không bị tác động tới hay tẩu tán đi mất, làm mất đi chứng cứ, tài sản đang tranh chấp quan
trọng trong việc giải quyết vụ án.

Câu 6. Căn cứ vào khoản 1 Điều 205 BLTTDS 2015:

“1. Trong thời hạn chuẩn bị xét xử sơ thẩm vụ án, Tòa án tiến hành hòa giải để các đương sự thỏa thuận
với nhau về việc giải quyết vụ án, trừ những vụ án không được hòa giải hoặc không tiến hành hòa giải
được quy định tại Điều 206 và Điều 207 của Bộ luật này hoặc vụ án được giải quyết theo thủ tục rút
gọn.”

Pháp luật hiện hành không quy định cụ thể về số lần hòa giải mà tòa án có thể tiến hành trong quá trình
giải quyết vụ án. Vậy nên, số lần hòa giải trong giải quyết VADS là không giới hạn. Tiếp theo, theo hướng
dẫn của Tòa án nhân dân Tối cao tại tiểu mục 14 mục IV Văn bản giải đáp số 01/2017 ngày 7/4/2017 thì
về cơ bản, tòa có thể tiến hành hòa giải nhiều lần:

“Trường hợp Tòa án tiến hành hòa giải nhiều lần thì lần hòa giải đầu tiên Tòa án phải tiến hành theo
đúng trình tự phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải quy định tại
Điều 210 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015. Đối với lần hòa giải tiếp theo, Tòa án chỉ tiến hành kiểm tra
việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ khi có tài liệu, chứng cứ mới và ghi vào biên bản hòa giải.

Theo quy định tại khoản 2 Điều 208 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015, trường hợp vụ án dân sự không
được hòa giải hoặc không tiến hành hòa giải được quy định tại Điều 206 và Điều 207 Bộ luật tố tụng dân
sự năm 2015 thì Thẩm phán tiến hành phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ mà
không tiến hành hòa giải.”

I. Nội dung tóm tắt:

Ông Hồ Tuấn H và bà Phạm Thị H1 do xảy ra mâu thuẫn không thể tiếp tục chung sống, ông đề nghị tòa
án giải quyết cho ông ly hôn bà Phạm Thị H1, thống nhất xác định tài sản chung của vợ chồng là: diện
tích 55,2m2 đất ở thuộc thửa đất số: Lô 42A khu I tờ bản đồ số: Quy hoạch tại số 42A khu 1 Ngô Quyền,
phường Phạm Ngũ Lão, thành phố Hải Dương, tỉnh Hải được UBND thành phố Hải Dương cấp giấy
CNQSD đất ngày 15/6/2006 tên ông Hồ Tuấn H và bà Phạm Thị H1 do được nhà nước đền bù nhưng phải
nộp tiền đất; trên đất có tài sản là nhà 3 tầng 6 phòng xây dựng năm 2006. Đất và nhà định giá trị giá là
4.514.600.000đ, ông H đề nghị mỗi người hưởng ½ giá trị tài sản nhà đất này và xin được hưởng bằng
hiện vật nhà đất, ông sẽ vay tiền trả cho bà H1 theo kỷ phần được hưởng bằng tiền. Về phía bà H, bà
không đồng ý do nguồn gốc của thửa đất khu Ngô Quyền là do được nhà nước bồi thường từ việc mở
đường thu hồi căn nhà tại Tân Kim do bà mua từ anh D và bà bỏ tiền mua thêm 30m2 đất ao và mua 100
xe đất đổ vào ao, bà và ông H san lấp ao xây công trình phụ, ông H chỉ có 1 phần công sức không có tiền
đối với tài sản ở Tân Kim, ông H có công sức chỉ gánh và đổ đất. Bà đề nghị được lấy nhà đất trả cho ông
H 1/5 giá trị tài sản bằng tiền, nếu ông H không nhất trí thì đề nghị tòa án giải quyết theo quy định của
pháp luật. Bản án số 20/2022/HNGĐ-ST.

II. Chủ thể tham gia tố tụng dân sự:

- Nguyên đơn: Ông Hồ Tuấn H, sinh năm 1952;

Đăng ký hộ khẩu thường trú và trú tại: số M phố P, phường Phạm Ngũ Lão, thành phố Hải Dương, tỉnh
Hải Dương;

- Bị đơn: Bà Phạm Thị H1, sinh năm 1961;

Đăng ký hộ khẩu thường trú và trú tại: số M phố P, phường Phạm Ngũ Lão, thành phố Hải Dương, tỉnh
Hải Dương;

III. Thẩm quyền giải quyết của Tòa án

Do hộ khẩu thường trú của nguyên đơn là ông Hồ Tuấn H, tại số M phố P, phường Phạm Ngũ Lão, thành
phố Hải Dương, tỉnh Hải Dương nên sẽ do Tòa án nhân dân thành phố Hải Dương, tỉnh Hải Dương giải
quyết căn cứ theo lãnh thổ dựa trên quy định điều 37 và 39 của BLTTDS 2015.

IV. Chứng cứ để chứng minh:

- Giấy đăng ký kết hôn hợp pháp của 2 vợ chồng ông H ngày 02/4/1992 tại Ủy ban nhân dân phường
Phạm Ngũ Lão, thành phố Hải Dương.

- Lời khai của ông H, bà H1 tại tòa án.

- Lời trình bày của ông Hồ Tuấn H và bà Phạm Thị H1 thống nhất xác định tài sản chung của vợ chồng là:
diện tích 55,2m2 đất ở thuộc thửa đất số: Lô 42A khu I tờ bản đồ số: Quy hoạch tại số 42A khu 1 Ngô
Quyền, phường Phạm Ngũ Lão, thành phố Hải Dương, tỉnh Hải Dương (nay thửa đất số 159, tờ bản đồ
số 41, địa chỉ: số M phố P, phường Phạm Ngũ Lão, thành phố Hải Dương, tỉnh Hải Dương) được UBND
thành phố Hải Dương cấp giấy CNQSD đất ngày 15/6/2006 tên ông Hồ Tuấn H và bà Phạm Thị H1 do
được nhà nước đền bù nhưng phải nộp tiền đất; trên đất có tài sản là nhà 3 tầng 6 phòng xây dựng năm
2006.

- Biên bản định giá tài sản: Đất trị giá: 4.029.600.000đ và nhà trị giá: 485.000.000đ, tổng là
4.514.600.000đ.

- Các tài liệu bà H1 cung cấp: BL 20-29, các hóa đơn chứng từ mua bán nguyên vật liệu xây dựng nhà
năm 2006.
- Lời khai xác nhận bà H1 đã mua nhà đất tại số 24 Tân Kim, phường Thanh Bình, thành phố Hải Dương
là 22.000.000đ của anh Nguyễn Văn D vào vào ngày 23/3/1993.

- Biên bản thỏa thuận bồi thường thiệt hại do Nhà nước thu hồi đất năm 2006.

- Các hóa đơn xây dựng nhà bà H1 xuất trình, khoản tiền bà H1 chi mua gạch trong thời gian về nước
năm 2005 ký bảng chi bồi thường thì tổng số tiền xây nhà là 152.683.000 đồng để chứng minh số tiền
xây nhà là tiền đền bù của Nhà nước.

- Giấy CNQSD đất ngày 15/6/2006 tên ông Hồ Tuấn H và bà Phạm Thị H1 do UBND thành phố Hải Dương
cấp.

V. Mức án phí mà các bên nộp theo luật định

- Về án phí dân sự sơ thẩm xét xử ly hôn, ông H được miễn do khi bản án được thi hành vào năm 2022,
ông đã 70 tuổi, thuộc dạng người cao tuổi theo quy định tại khoản 1 Điều 12 Nghị quyết
326/2016/UBTVQH14.

- Về án phí chia tài sản ông Hồ Tuấn H và bà Phạm Thị H1 được miễn do ông H đã 70 tuổi, bà H1 đã 61
tuổi, thuộc dạng người cao tuổi theo quy định tại khoản 1 Điều 12 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14.

You might also like