You are on page 1of 4

Học Viện Tư Pháp Ngày 17 tháng 03 năm 2024

Họ và tên: Hà Thị Ngọc MÔN KIỂM TRA


Lớp: C4 – LS25.1/T7-CN …………………DÂN SỰ………………
Mã Số: 138 ……………………………………………
Thời gian:……phút

Điểm Nhận xét của thầy, cô giáo

ĐỀ BÀI:

Ngày 2/10/2014, vợ chồng ông Quyện chuyển nhượng 1 căn nhà cho ông Trần Vũ
Trường với giá 58 tỷ đồng. Ông Trường trả trước 10 tỉ đồng và ký hợp đồng công
chứng, phần còn lại hẹn thanh toán trong vòng 45 ngày.
Ngay ngày hôm sau, ông Trường đã hoàn tất thủ tục sang tên căn nhà và hai tuần sau
(ngày 16/10/2014), ông Trường ký hợp đồng chuyển nhượng cho bà Hoàng Ngọc Điệp
với giá 28 tỷ đồng.
Quá thời hạn cam kết, ông Trường trả thêm cho ông Quyện 1 tỷ đồng rồi bặt tăm nên
ông Quyện khởi kiện ra tòa, nhưng do ông Trường không còn ở nơi cư trú nên Tòa án
không thể triệu tập để giải quyết vụ kiện.
Ngày 26/1/2015, phát hiện ông Trường cho người đến Chi cục thuế quận làm thủ tục
trước bạ sang tên cho bà Điệp, ông Quyện báo công an phường mời về phường lập
biên bản và thu giữ giấy tờ nhà, sau đó giao nộp cho Tòa án nhân dân quận. Trong lúc
vụ kiện được Tòa án nhân dân quận thụ lý thì phát hiện ông Trần Vũ Trường đang thụ
án trong một vụ án hình sự tại trại giam 1 tỉnh khác, đến giữa năm 2020 mới ra tù.
Sau nhiều lần hoãn và tạm ngừng phiên tòa, ngày 4/10/2021, Tòa án nhân dân quận ra
bản án sơ thẩm, tuyên bác yêu cầu khởi kiện của vợ chồng ông Quyện.
Hãy làm đơn kháng cáo bảo vệ quyền lợi cho vợ chồng ông Quyện.

1
BÀI LÀM:
CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc

……, ngày….. tháng …… năm……

ĐƠN KHÁNG CÁO

Kính gửi: Tòa án nhân dân TP. H


Người kháng cáo: Nguyễn Văn Quyện
Địa chỉ: Số 28A, ngõ 301, đường X, quận T, TP. H
Số điện thoại: 036xxx
Là: Nguyên đơn trong vụ án về Tranh chấp Hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng
đất, có tài sản gắn liền trên đất được Tòa án quận T thụ lý số 03/2021/DS-ST ngày
04/10/2021.
Kháng cáo: Toàn bộ Bản án dân sự sơ thẩm số 03/2021/DS-ST ngày 04/10/2021 của
Toà án nhân dân quận T
Lý do của việc kháng cáo: Bản án dân sự sơ thẩm số 03/2021/DSST ngày 04/10/2021
của Toà án nhân dân quận T có hàng loạt vi phạm cả về nội dung lẫn tố tụng, cụ thể
như sau:
Ngày 2/10/2014, vợ chồng tôi chuyển nhượng 01 căn nhà cho ông Trần Vũ Trường
với giá 58 tỷ đồng. Ông Trường trả trước 10 tỉ đồng và ký hợp đồng công chứng, phần
còn lại hẹn thanh toán trong vòng 45 ngày.
Ngay ngày hôm sau, ông Trường đã hoàn tất thủ tục sang tên căn nhà và 02 tuần sau
(ngày 16/10/2014), ông Trường ký hợp đồng chuyển nhượng cho bà Hoàng Ngọc Điệp
với giá 28 tỷ đồng.
Quá thời hạn cam kết, ông Trường trả thêm cho tôi 1 tỷ đồng rồi bặt tăm nên gia đình
tôi quyết định khởi kiện ra tòa, nhưng do ông Trường không còn ở nơi cư trú nên Tòa
án không thể triệu tập để giải quyết vụ kiện.
Ngày 26/1/2015, phát hiện ông Trường cho người đến Chi cục thuế quận làm thủ tục
trước bạ sang tên cho bà Điệp, tôi báo công an phường mời về phường lập biên bản và
thu giữ giấy tờ nhà, sau đó giao nộp cho Tòa án nhân dân quận. Trong lúc vụ kiện
được Tòa án nhân dân quận thụ lý thì phát hiện ông Trần Vũ Trường đang thụ án trong
một vụ án hình sự tại trại giam tỉnh khác, đến giữa năm 2020 mới ra tù.
Sau nhiều lần hoãn và tạm ngừng phiên tòa, ngày 4/10/2021, Tòa án nhân dân quận T
ra bản án sơ thẩm, tuyên bác yêu cầu khởi kiện của vợ chồng tôi. Cụ thể:

2
1. Bác bỏ yêu cầu của tôi về việc huỷ Hợp đồng chuyển nhượng với ông Trần Vũ
Trường
2. Yêu cầu ông Trần Vũ trường thanh toán khoản nợ còn lại khi mua bán căn nhà
3. Yêu cầu xem xét lại Hợp đồng chuyển nhượng giữa ông Trần Vũ Trường và bà
Hoàng Ngọc Điệp
Gia đình chúng tôi không đồng ý với kết quả giải quyết như trên của Tòa án cấp
sơ thẩm vì đã không đảm bảo được quyền và lợi ích hợp pháp cho chúng tôi với
lý do:
1. Ông Trần Vũ Trường đã vi phạm nghiêm trọng nghĩa vụ thanh toán và thời hạn
thanh toán đã thoả thuận trong hợp đồng.
Căn cứ vào Khoản 1,2 Điều 50 Luật Thương mại 2005:
“Điều 50. Thanh toán
1. Bên mua có nghĩa vụ thanh toán tiền mua hàng và nhận hàng theo thỏa thuận.
2. Bên mua phải tuân thủ các phương thức thanh toán, thực hiện việc thanh toán theo
trình tự, thủ tục đã thỏa thuận và theo quy định của pháp luật.”

Bộ luật dân sự 2015 cũng quy định về nghĩa vụ thanh toán tại Điều 280 và 440:

“Nghĩa vụ trả tiền phải được thực hiện đầy đủ, đúng thời hạn, đúng địa điểm và
phương thức đã thỏa thuận và bao gồm cả tiền lãi trên nợ gốc, trừ trường hợp có thỏa
thuận khác.

Bên mua có nghĩa vụ thanh toán tiền theo thời hạn, địa điểm và mức tiền được quy
định trong hợp đồng.”

Như vậy, ông Trường phải có nghĩa vụ thanh toán cho chúng tôi cả tiền gốc và tiền lãi
chậm trả theo như quy định của pháp luật.

2. Căn cứ tại Điều 466 Bộ luật Dân sự 2015 thì không có quy định nào loại trừ nghĩa
vụ trả nợ của người đang chấp hành hình phạt tù.
"Điều 466. Nghĩa vụ trả nợ của bên vay
1. Bên vay tài sản là tiền thì phải trả đủ tiền khi đến hạn; nếu tài sản là vật thì phải trả
vật cùng loại đúng số lượng, chất lượng, trừ trường hợp có thỏa thuận khác.
2. Trường hợp bên vay không thể trả vật thì có thể trả bằng tiền theo trị giá của vật đã
vay tại địa điểm và thời điểm trả nợ, nếu được bên cho vay đồng ý.
Căn cứ quy định này, người đi vay phải có nghĩa vụ trả nợ khi đến hạn. Nếu vay bằng
tiền thì trả bằng tiền, nếu vay bằng vật thì trả bằng vật cùng loại đúng số lượng, chất
lượng khi không có thỏa thuận khác.
Như vậy, trong thời gian chấp hành hình phạt tù, nếu người này đang có khoản vay có
lãi, mà khi đến hạn không trả hoặc trả không đầy đủ thì vẫn phải tính lãi trong cả thời
gian chấp hành hình phạt. Việc người này bị phạt tù không phải trường hợp "bất khả
kháng", mà do lỗi của chính họ (có hành vi vi phạm pháp luật hình sự, do đó pháp luật

3
không có quy định loại trừ nghĩa vụ thanh toán nợ vay (bao gồm gốc và lãi). Vì vậy
ông Trường vẫn phải thực hiện nốt nghĩa vụ thanh toán đối với căn nhà đã mua.

3. Ông Trường tiến hành giao dịch chuyển nhượng tài sản cho bà Điệp khi ông Trường
chưa thực hiện xong nghĩa vụ thanh toán tiền cho gia đình tôi. Tôi vẫn là người
đang quản lý, sử dụng tài sản mà chưa thực hiện việc giao tài sản cho ông Trường. Khi
chưa hoàn tất nghĩa vụ thanh toán tiền, chưa được nhận nhà thì ông Trường chưa là
chủ sở hữu thật sự đối với tài sản này. Đối tượng giao dịch là tài sản này không thể
thực hiện được.
Do đó, Hợp đồng chuyển nhượng giữa ông Trần Vũ Trường và bà Hoàng Ngọc Điệp
vô hiệu do có đối tượng không thể thực hiện được theo quy định tại Điều 408 Bộ luật
Dân sự năm 2015.

Từ những căn cứ trên, chúng tôi yêu cầu Tòa án cấp phúc thẩm giải quyết những yêu
cầu của chúng tôi, cụ thể:
1. Tuyên hủy Bản án sơ thẩm và buộc ông Trường phải thực hiện nốt nghĩa vụ thanh
toán cùng với lãi chậm trả cho tôi.
2. Trong trường hợp ông Trường không có khả năng thanh toán, yêu cầu Toà án
tuyên huỷ Hợp đồng chuyển nhượng giữa tôi và ông Trần Vũ Trường. Tôi có quyền
giữ lại 10 tỉ đồng tiền cọc do ông Trường nhiều lần vi phạm nghĩa vụ thanh toán dù
được cho gia hạn nhiều lần.
Đồng thời bác bỏ Hợp đồng chuyển nhượng giữa ông Trường và bà Điệp, trả lại bản
chính giấy tờ nhà đất cho gia đình chúng tôi.

Những tài liệu, chứng cứ bổ sung kèm theo đơn kháng cáo gồm có:
1. 01 Đơn kháng cáo
1. 01 Hợp đồng mua bán nhà ở ngày 02/10/2014 (có công chứng)
2. 01 Biên lai thanh toán lần 01
3. 01 Sơ yếu lý lịch của Nguyễn Văn Quyện
3. 01 Bản sao căn cước công dân Nguyễn Văn Quyện
4. 01 Tờ trình sự việc theo đơn
5. 01 Bản sao Giấy chuyển quyền sử dụng nhà ở

NGƯỜI KHÁNG CÁO


Quyện
Nguyễn Văn Quyện

You might also like