You are on page 1of 11

TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT TP.

HỒ CHÍ MINH


KHOA LUẬT THƯƠNG MẠI

MÔN HỌC: LUẬT TỐ TỤNG DÂN SỰ


BÀI THẢO LUẬN TUẦN THỨ NĂM:
ÁN PHÍ, LỆ PHÍ VÀ CÁC CHI PHÍ TỐ TỤNG KHÁC
CÁC BIỆN PHÁP KHẨN CẤP TẠM THỜI KHÁC

Giảng viên thảo luận: Phạm Thị Thúy


Lớp: TM46A1
Nhóm thực hiện: Nhóm 09
Thành viên nhóm:

STT Họ và tên MSSV Phân công nhiệm vụ


1 Lê Thời Việt Anh 2153801011010 Nhận định (5) + BT
2 Nguyễn Thị Quỳnh Chi 2153801011031 Nhận định (2) + Án
3 Kiều Nữ Quỳnh Diệp 2153801011034 Nhận định (3) + Án
4 Hoàng Dinh 2153801011036 Nhận định (1) + BT
5 Hoàng Thùy Dương 2153801011039 Nhận định (4) + BT
Thành phố Hồ Chí Minh, ngày 31 tháng 03 năm 2023
PHẦN I: NHẬN ĐỊNH
1. Chi phí phiên dịch do người yêu cầu chịu.
- Nhận định sai.
- Cơ sở pháp lý: Khoản 3, 4 Điều 168 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015 (sau đây gọi là
BLTTDS 2015).
- Giải thích: Về nguyên tắc, người có yêu cầu chịu chi phí phiên dịch, trừ trường hợp các
bên đương sự có thỏa thuận khác. Trường hợp Tòa án yêu cầu người phiên dịch thì chi
phí cho người phiên dịch do Tòa án trả chi phí cho người phiên dịch. Như vậy, chi phí
phiên dịch các đương sự có thể thỏa thuận với nhau rằng ai sẽ là người chịu. 
2. Tòa án chỉ quyết định áp dụng các biện pháp khẩn cấp tạm thời sau khi đã thụ lý
đơn khởi kiện.
- Nhận định này là sai.
- Cơ sở pháp lý: Khoản 2 Điều 111, Điều 187 BLTTDS 2015.
- Giair thích: Căn cứ theo khoản 2 Điều 111 BLTTDS 2015 thì Tòa án sẽ quyết định áp
dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời nếu có yêu cầu của đương sự (sau khi Tòa án đã thụ lý
đơn khởi kiện) hoặc khi có yêu cầu của cơ quan, tổ chức, cá nhân khởi kiện vụ án quy
định tại Điều 187 (tức là trước khi Tòa án thụ lý). Như vậy, ngoài trường hợp Tòa án
quyết định áp dụng các biện pháp khẩn cấp tạm thời sau khi đã thụ lý đơn khởi kiện thì
Tòa án còn có thể áp dụng các biện pháp khẩn cấp tạm thời trước thời điểm thụ lý vụ án
trong trường hợp do tình thế khẩn cấp, cần phải bảo vệ ngay chứng cứ, ngăn chặn hậu quả
nghiêm trong có thể xảy ra.
3. Kê biên tài sản đang tranh chấp được áp dụng khi người giữ tài sản có dấu hiệu
thực hiện hành vi tẩu tán tài sản.
- Nhận định đúng.
- Cơ sở pháp lý: Khoản 1 Điều 120 BLTTDS 2015.
- Giải thích: Về cơ bản, nếu là Tòa án sẽ áp dụng dù mới có thông tin là rao bán thì hoàn
toàn có thể áp dụng biện pháp kê biên, không yêu cầu đương sự chờ đặt đọc. Mục đích
của biện pháp khẩn cấp tạm thời là ngăn chặn hành vi tẩu tán tài sản, bảo toàn tình trạng
tài sản, bảo vệ bằng chứng hoặc để bảo đảm việc thi hành án. Áp dụng quá nghiêm ngặt
thì nó trễ (trong các vụ việc thực tế thường bán rất lẹ), chờ đến khi đặt cọc thì ảnh hưởng
đến quyền lợi đặt cọc thì sẽ phát sinh tranh chấp đặt đọc. Việc này phát sinh tranh chấp
mới, không tốt đẹp nên sẽ không được khuyến khích. Do đó, chỉ cần có thông tin thì đủ
căn cứ dấu hiệu là người giữ tài sản có ý định muốn chuyển dịch muốn tẩu tán. Thứ hai,

1
góc độ bồi thường thiệt hại (Điều 113 BLTTDS 2015), Tòa án có trách nhiệm bồi thường
thiệt hại khi không có yêu cầu đương sự và gây thiệt hại. 
4. Quyết định áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời có thể bị kháng cáo theo thủ tục
phúc thẩm.
- Nhận định trên là sai.
- Cơ sở pháp lý: Điều 112, Điều 138 và Điều 139 BLTTDS 2015.
- Giải thích: Theo quy định của pháp luật thì việc áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời
được thể hiện ở một quyết định của Tòa án hoặc ghi nhận trong bản án và được thực hiện
theo trình tự, thủ tục riêng biệt, quyết định áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời có hiệu
lực thi hành và không bị kháng cáo, kháng nghị. Đồng thời, theo khoản 1 Điều 139
BLTTDS 2015, quyết định này có hiệu lực thi hành ngay. Tuy nhiên, phúc thẩm là việc
xem xét lại bản án bị kháng cáo của Tòa án cấp sơ thẩm khi nó chưa có hiệu lực thi hành.
Do đó, không thể tiến hành kháng cáo quyết định trên theo thủ tục phúc thẩm vì nó đã có
hiệu lực thi hành.
5. Đương sự không phải chịu án phí sơ thẩm nếu yêu cầu của họ được Tòa án chấp
nhận.
- Nhận định sai.
- Cơ sở pháp lý: Khoản 4 Điều 147 BLTTDS 2015
- Giải thích: Căn cứ theo khoản 4 Điều 147 BLTTDS 2015 quy định về nghĩa vụ chịu án
phí sơ thẩm trong vụ án ly hôn thì nguyên đơn vẫn phải chịu án phí sơ thẩm không phụ
thuộc vào việc Tòa án chấp nhận hay không chấp nhận yêu cầu của nguyên đơn. Trường
hợp cả hai bên thuận tình ly hôn thì án phí sơ thẩm thì mỗi bên phải chịu một nửa án phí
sơ thẩm.

2
PHẦN II: BÀI TẬP

Ngày 21/02/2017, Tòa án nhân dân thành phố Long Xuyên thụ lý vụ án do bà Trinh khởi
kiện yêu cầu buộc ông Nguyên và vợ ông là bà Hiền phải trả số tiền nợ 9.000.000.000
đồng và tiền lãi phát sinh. Ngày 21/02/2017, bà Trinh gửi đơn yêu cầu Tòa án thành phố
Long Xuyên áp dụng biện pháp phong tỏa tài sản là quyền sử dụng đất và quyền sở hữu
nhà ở theo giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn
liền với đất số CH05729 ngày 25/11/2015 do UBND thành phố Long Xuyên cấp cho ông
Nguyên và bà Hiền. Trong đơn yêu cầu áp dụng biện pháp phong tỏa, bà Trinh cam kết
tài sản bà yêu cầu áp dụng không thế chấp, giao dịch với ai Biết rằng, trước đó ngày
02/1/2017, ông Nguyên, bà Hiền đã thế chấp tài sản trên cho HDBank chi nhánh An
Giang. Với mục đích trả khoản vay cho ngân hàng, ngày 08/2/2017, ông Nguyên và bà
Hiền đã ký kết hợp đồng đặt cọc để chuyển nhượng cho ông Linh quyền sử dụng đất và
quyền sở hữu nhà ở theo giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài
sản khác gắn liền với đất số CH05729; ông Linh đã đặt cọc số tiền 4.300.000.000 đồng,
việc giao nhận tiền cọc có làm biên nhận.
Câu hỏi:
1. Theo Anh/Chị, Tòa án có chấp nhận yêu cầu áp dụng biện pháp phong tỏa tài sản
của bà Trinh không?
- Theo nhóm, Tòa án chỉ chấp nhận yêu cầu áp dụng biện pháp phong tỏa tài sản của bà
Trinh khi bà thực hiện xong biện pháp bảo đảm quy định tại Điều 136 bởi để áp dụng biện
pháp phong tỏa tài sản, người yêu cầu Tòa án áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời này
phải nộp cho Tòa án chứng từ bảo lãnh được bảo đảm bằng tài sản của ngân hàng hoặc tổ
chức tín dụng khác hoặc của cơ quan, tổ chức, cá nhân khác hoặc gửi một khoản tiền, kim
khí quý, đá quý hoặc giấy tờ có giá do Tòa án ấn định nhưng phải tương đương với tổn
thất hoặc thiệt hại có thể phát sinh do hậu quả của việc áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm
thời không đúng để bảo vệ lợi ích của người bị áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời (ông
Nguyên, bà Hiền) và ngăn ngừa sự lạm dụng quyền yêu cầu áp dụng biện pháp khẩn cấp
tạm thời từ phía người có quyền yêu cầu. Như vậy, nếu bà Trinh không thực hiện biện
pháp bảo đảm cho yêu cầu thì Tòa án sẽ không chấp nhận yêu cầu của bà. 
- Do bà Trinh là nguyên đơn trong vụ án dân sự trên nên căn cứ khoản 1 Điều 111
BLTTDS 2015, trong quá trình giải quyết vụ án, bà Trinh có quyền yêu cầu Tòa án đang
giải quyết vụ án đó áp dụng một hoặc nhiều biện pháp khẩn cấp tạm thời được quy định
tại Điều 114 BLTTDS 2015. Xét thấy biện pháp khẩn cấp tạm thời mà bà Trinh yêu cầu
3
áp dụng là biện pháp phong tỏa tài sản của người có nghĩa vụ theo khoản 11 Điều 114 và
được quy định cụ thể tại Điều 126 BLTTDS. Căn cứ Điều 126 BLTTDS, ta thấy điều kiện
tiên quyết để Tòa án có thể chấp nhận yêu cầu áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời này
của bà Trinh đó là phải có căn cứ cho thấy người có nghĩa vụ có tài sản và việc áp dụng
biện pháp này là cần thiết để bảo đảm cho việc giải quyết vụ án hoặc việc thi hành án, cụ
thể hơn thì phải thuộc một trong những trường hợp quy định tại khoản 1 Điều 2 NQ
02/2020 NQ-HĐTP.
- Xét thấy vào ngày 21/02/2017, bà Trinh đã yêu cầu Tòa án áp dụng biện pháp khẩn cấp
tạm thời đối với tài sản của bị đơn là quyền sử dụng đất và quyền sở hữu nhà ở theo giấy
chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất số
CH05729. Tuy nhiên trước đó ngày 02/01/2017, ông Nguyên, bà Hiền đã thế chấp tài sản
trên cho HDBank chi nhánh An Giang. Theo quy định tại điểm a khoản 2 Điều 4 NQ
02/2020 NQ-HĐTP, việc áp dụng biện pháp phong tỏa tài sản của người có nghĩa vụ đối
với tài sản được dùng để bảo đảm thực hiện nghĩa vụ mà biện pháp bảo đảm đã phát sinh
hiệu lực đối kháng với người thứ ba theo quy định tại Điều 297 BLDS (trừ trường hợp
người yêu cầu áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời đồng thời là bên nhận bảo đảm) thì sẽ
không được áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời.
- Căn cứ theo khoản 1 Điều 297 BLDS và khoản 2 Điều 23 NĐ 21/2021 thì trong trường
hợp biện pháp bảo đảm phải đăng ký thì thời điểm đăng ký tại cơ quan có thẩm quyền
theo quy định của pháp luật liên quan là thời điểm biện pháp bảo đảm phát sinh hiệu lực
đối kháng với người thứ ba. Theo khoản 3 Điều 188 Luật Đất đai, việc thế chấp quyền sử
dụng đất phải đăng ký tại cơ quan đăng ký đất đai và có hiệu lực kể từ thời điểm đăng ký
vào sổ địa chính. Do đó để xác định hiệu lực đối kháng với người thứ ba đã phát sinh hiệu
lực đối với hợp đồng thế chấp tài sản này giữa ông Nguyên, bà Hiền với ngân hàng hay
chưa, ta chia làm 2 trường hợp như sau:
+ Nếu việc thế chấp ngày 02/01/2017 chưa được đăng ký: Lúc này hợp đồng thế chấp
chưa phát sinh hiệu lực nên cũng chưa làm phát sinh hiệu lực đối kháng với người thứ ba.
Vậy yêu cầu áp dụng biện pháp phong tỏa tài sản của bà Trinh là không trái với quy định
của pháp luật nên sẽ được Tòa án chấp nhận.
+ Nếu việc thế chấp ngày 02/01/2017 đã được đăng ký: Lúc này hợp đồng thế chấp giữa
các bên đã có hiệu lực pháp luật, khi đó biện pháp bảo đảm đã phát sinh hiệu lực đối
kháng với người thứ ba nên Tòa án sẽ không thể chấp nhận yêu cầu áp dụng biện pháp
phong tỏa tài sản của bà Trinh, tức yêu cầu này đã thuộc trường hợp không được áp dụng

4
biện pháp khẩn cấp tạm thời được quy định tại điểm a khoản 2 Điều 4 NQ 02/2020 NQ-
HĐTP.

2. Anh/Chị hãy xác định trách nhiệm của các chủ thể nếu việc Tòa án ra Quyết định
phong tỏa tài sản của ông Nguyên và bà Hiền dẫn đến việc ông Nguyên phải bồi
thường hợp đồng đặt cọc cho ông Linh?
Theo nhóm, trong trường hợp Tòa án ra Quyết định phong tỏa tài sản của ông Nguyên và
bà Hiền dẫn đến việc ông Nguyên phải bồi thường hợp đồng đặt cọc cho ông Linh thì bà
Trinh là người có trách nhiệm bồi thường.
- Theo khoản 1 Điều 113 BLTTDS thì “Người yêu cầu tòa án áp dụng biện pháp khẩn
cấp tạm thời phải chịu trách nhiệm trước pháp luật và yêu cầu của mình; trường hợp yêu
cầu áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời không đúng mà cái thiệt hại cho người bị áp
dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời hoặc cho người thứ ba thì phải bồi thường”. Bà Trinh
đã yêu cầu Tòa án ra Quyết định phong tỏa tài sản của ông Nguyên và cam kết rằng tài
sản bà yêu cầu không thế chấp hoặc giao dịch với ai nhưng trên thực tế tài sản trên đã
được thế chấp cho ngân hàng HDbank chi nhánh An Giang và ông Nguyên, bà Hiền cũng
đã ký hợp đồng đặt cọc tài sản trên cho ông Linh. Bà Hiền đã yêu cầu biện pháp khẩn cấp
với tài sản trên là không đúng dẫn đến việc ông Nguyên phải bồi thường hợp đồng đặt cọc
cho ông Linh, do đó, bà Trinh là người có trách nhiệm bồi thường.
- Căn cứ Điều 113 BLTTDS 2015, trách nhiệm của các chủ thể nếu việc Tòa án ra Quyết
định phong tỏa tài sản của ông Nguyên và bà Hiền dẫn đến việc ông Nguyên phải bồi
thường hợp đồng đặt cọc cho ông Linh như sau:
+ Đối với người có yêu cầu Tòa án áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời - bà Trinh:
Trước hết, bà Trinh phải chịu trách nhiệm trước pháp luật về yêu cầu của mình. Khi yêu
cầu áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời không đúng mà gây thiệt hại cho ông Nguyên,
bà Hiền thì bà Trinh phải bồi thường. Căn cứ khoản 1 Điều 136 BLTTDS 2015 và khoản
2 Điều 13 NQ 02/2020 NQ-HĐTP, giá trị bồi thường là khoản phát sinh do hậu quả của
việc áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời không đúng dựa trên sự dự kiến và tạm tính có
tính chất tương đối thiệt hại thực tế có thể xảy ra nhưng không thấp hơn 20% giá trị tạm
tính của tài sản bị áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời, cụ thể ở đây chính khoản là mà
bà Trinh buộc phải thực hiện biện pháp bảo đảm theo khoản 1 Điều 136 BLTTDS 2015.
Trong trường hợp này, vì ngày 08/02/2017, ông Nguyên và bà Hiền đã ký kết hợp đồng
đặt cọc để chuyển nhượng cho ông Linh quyền sử dụng đất và quyền sở hữu nhà ở theo
giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất
5
số CH05729 và ông Linh đã đặt cọc số tiền 4.300.000.000 đồng. Khi việc áp dụng biện
pháp khẩn cấp tạm thời không đúng làm cho ông Nguyên, bà Hiền không thể bàn giao tài
sản đúng hạn cho ông Linh dẫn đến việc phải bồi thường hợp đồng đặt cọc cho ông Linh
thì khoản tiền bồi thường được ấn định dựa trên thỏa thuận phạt cọc trong hợp đồng của
các bên, trong trường hợp hợp đồng các bên không có thỏa thuận thì căn cứ khoản 3 Điều
328 BLDS 2015, giá trị bồi thường chính là khoản tiền tương đương giá trị tài sản đặt cọc,
tức là bà Trinh có nghĩa vụ bồi thường cho ông Linh số tiền 4.300.000.000 đồng.
+ Đối với Tòa án ra quyết định áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời: Căn cứ theo khoản
2 Điều 113 BLTTDS 2015, trong trường hợp này, chỉ khi Tòa án áp dụng biện pháp khẩn
cấp tạm thời khác hay vượt quá so với yêu cầu áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời của
bà Trinh thì lúc này mới đặt ra trách nhiệm bồi thường thiệt hại cho ông Nguyên, bà Hiền.
Do đó nếu Tòa án ra quyết định áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời đúng với yêu cầu
của bà Trinh mà việc áp dụng này không đúng và gây ra thiệt hại thì chỉ bà Trinh có trách
nhiệm bồi thường.

6
PHẦN III: PHÂN TÍCH ÁN

- Đọc Bản án số: 19/2019/HNGĐ-ST ngày 28/06/2019 của Tòa án nhân dân huyện X, tỉnh
Y.
- Thực hiện các công việc sau:
1. Tòa án đã xác định án phí sơ thẩm và nghĩa vụ chịu án phí sơ thẩm như thế nào?
- Tòa án đã xác định án phí sơ thẩm và nghĩa vụ chịu án phí sơ thẩm như sau:
+ Chị Lê K phải chịu tiền án phí hôn nhân sơ thẩm là 300.000 đồng
+ Anh Thái P phải chịu tiền án phí dân sự sơ thẩm là 300.000 đồng

2. Anh/Chị nêu nhận xét của mình theo cả hai hướng đồng ý và không đồng ý về việc
Tòa án xác định nghĩa vụ chịu án phí cấp dưỡng thuộc về người không trực tiếp nuôi
con khi họ tự nguyện thực hiện việc cấp dưỡng? (Lưu ý nêu rõ luận cứ cho các nhận
xét). 
- Hướng đồng ý: 
+ Ta thấy án phí dân sự được hiểu là khoản tiền mà đương sự trong vụ án có nghĩa vụ
phải nộp vào ngân sách nhà nước theo quyết định của Tòa án và quyết định của Tòa án
phải dựa trên quy định rõ ràng của pháp luật. Theo đó, án phí dân sự hiện nay được quy
định trong Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015 và Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14
ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn,
giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án (Nghị quyết 326).
+ Cụ thể ở trường hợp này Tòa án đã vận dụng Điều 27 NQ 326 là hợp lý, bởi lẽ về phần
nghĩa vụ chịu án phí sơ thẩm của vụ án hôn nhân gia đình thì BLTTDS chỉ có quy định tại
khoản 4 Điều 147 “Trong vụ án ly hôn thì nguyên đơn phải chịu án phí sơ thẩm, không
phụ thuộc vào việc Tòa án chấp nhận hay không chấp nhận yêu cầu của nguyên đơn” mà
trong vụ án ly hôn thì có ba vấn đề chính đó là quan hệ vợ chồng, tài sản và nuôi con 
BLTTDS chỉ quy định chung chung “trong vụ án ly hôn” nên ta cần áp dụng Nghị quyết
326 để làm rõ.
+ Theo quy định tại khoản 6 Điều 27 NQ 326 ta thấy được 2 vấn đề:

 Đầu tiên, ở đây tại phiên tòa chị K không yêu cầu cấp dưỡng nhưng anh P đã tự
nguyện cấp dưỡng thì: theo điểm a “Người có nghĩa vụ cấp dưỡng định kỳ hoặc
một lần theo quyết định của Tòa án phải chịu án phí dân sự sơ thẩm như đối với
trường hợp vụ án dân sự không có giá ngạch”  Anh P là người cấp dưỡng nên

7
anh P phải chịu án phí. Hay xét theo điểm b “trường hợp tại phiên tòa mới thỏa
thuận được với nhau thì người có nghĩa vụ cấp dưỡng phải chịu mức án phí dân
sự sơ thẩm như đối với trường hợp vụ án dân sự không có giá ngạch”.  Anh P tự
đưa ra yêu cầu cấp dưỡng và chị K lúc đầu không yêu cầu, lúc sau không phản đối
có thể suy luận hai bên tại phiên tòa đã thỏa thuận được với nhau nên anh P là
người có nghĩa vụ cấp dưỡng nên phải chịu án phí.
 Thứ hai, nhìn tổng thể quy định tại khoản 6 Điều 27 NQ 326 ta thấy rõ tinh thần
của nhà làm luật luôn hướng đến việc người có nghĩa vụ cấp dưỡng có nghĩa vụ
chịu án phí sơ thẩm dù các bên có tranh chấp hay không có tranh chấp về việc cấp
dưỡng.
 Tóm lại, nhóm em đồng ý với quan điểm của Toà án về việc xác định nghĩa vụ chịu án
phí cấp dưỡng thuộc về người không trực tiếp nuôi con khi họ tự nguyện thực hiện việc
cấp dưỡng, cụ thể là anh Thái P phải chịu tiền án phí dân sự sơ thẩm là 300.000 đồng

- Hướng không đồng ý:


+ Thứ nhất, án phí trong TTDS là khoản tiền mà đương sự phải nộp cho Nhà nước theo
quy định của pháp luật nhằm bù đắp một phần chi phí tố tụng mà Nhà nước phải bỏ ra để
giải quyết vụ án theo yêu cầu của đương sự. Theo đó ngày 08/12/2018, chị Lê K nộp đơn
yêu cầu Tòa án giải quyết việc ly hôn giữa mình và anh Thái P. Xét trong tình huống trên,
về phía hai bên đương sự, chị K chỉ yêu cầu ly hôn, không yêu cầu cấp dưỡng, nhưng rõ
ràng anh Thái P lại có ý muốn cấp dưỡng cho con mình, đó là hành động tự nguyện. Về
phía Tòa án, xét trong tình huống trên, Tòa án không thực hiện bất cứ hoạt động nghiên
cứu, hay điều tra, hay giám sát,… Vậy việc thu án phí cấp dưỡng của anh P - người tự
nguyện cấp dưỡng cho con mình lại bị thu án phí cấp dưỡng nuôi con, vậy có thực sự hợp
lý hay chưa? 
+ Thứ hai, quyết định của Tòa án về án phí mà hai bên đương sự phải trả trong trường
hợp trên là trái với Nghị quyết 326. Tòa án căn cứ vào Điều 27 Nghị quyết 326 để xác
định mức án phí phải trả của hai bên đương sự. Theo đó, chị Lê K chịu án phí hôn nhân
sơ thẩm theo khoản 5 của Điều luật này, anh Thái P chịu án phí cấp dưỡng nuôi con theo
khoản 6 cũng của Điều luật này. 
Nhưng Điều 27 Nghị quyết 326/2016 có quy định về từng loại án phí, của từng vụ án, vụ
việc dân sự cụ thể. Do đó, khi chị K đã phải chịu án phí hôn nhân sơ thẩm theo khoản 5,
thì trong vụ án ly hôn này đã có một quy định về các loại án phí và loại án phí ở khoản 5
nó chỉ bao gồm án phí ly hôn và án phí chia tài sản. Thế nên, quy định tại khoản 6 Điều
8
27 chỉ áp dụng trong trường hợp có thêm vụ án riêng về cấp dưỡng (ví dụ chị K không
đồng ý với mức cấp dưỡng của anh P, chị K đề đơn yêu cầu Tòa án giải quyết về mức cấp
dưỡng) thì lúc này đương sự mới chịu án phí về cấp dưỡng. 
=> Tóm lại, theo nhóm em Tòa án xác định nghĩa vụ chịu án phí cấp dưỡng thuộc về
người không trực tiếp nuôi con khi họ tự nguyện thực hiện việc cấp dưỡng là hoàn toàn
không thuyết phục.

3. Từ các vấn đề nêu trên, tóm tắt bản án xoay quanh vấn đề pháp lý đang phân tích.
- Nguyên đơn: Chị Lê K
- Bị đơn: Anh Thái P
- Nội dung: Chị Lê K khởi kiện yêu cầu ly hôn với anh Thái P. Năm 2003, chị K và anh P
tự nguyện và có đăng kí kết hôn. Do anh P thường xuyên uống rượu và đập phá tài sản
trong gia đình dẫn đến mâu thuẫn trầm trọng. Năm 2014, chị K đã nộp đơn ly hôn tại Tòa
án nhân dân huyện B, Thành phố Hồ Chí Minh. Anh P hứa sẽ khắc phục sửa đổi nên chị
K đã rút đơn xin ly hôn về. Tuy nhiên, anh P vẫn uống rượu rồi đập phá đồ đạc dẫn đến
mâu thuẫn kéo dài và ngày càng trầm trọng. Anh P đã đưa ra giải pháp hàn gắn nhưng
không thể thực hiện được. Chị K cương quyết muốn ly hôn. Xét thấy mâu thuẫn đã trầm
trọng, mục đích hôn nhân không đạt được, đời sống chung không thể kéo dài, có cơ sở
chấp nhận yêu cầu xin ly hôn của chị K, phù hợp Điều 56 Luật Hôn nhân và gia đình. 
- Quyết định của Tòa: Căn cứ vào các Điều 56, 81, 82, 83 Luật Hôn nhân và gia đình,
Điều 27 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ
Quốc Hội, Luật thi hành án dân sự, cho ly hôn giữa chị K và anh P. Về con chung, anh
Thái P giao cho chị K nuôi dưỡng, anh P tự nguyện cho cấp cho con mỗi tháng
1.000.000đ.

You might also like