Professional Documents
Culture Documents
“2. Tài sản bảo đảm có thể được mô tả chung, nhưng phải xác định
được”: pháp luật quy định, tài sản bảo đảm có thể được mô tả chung,
nhưng yêu cầu về tài sản bảo đảm phải xác định được nhằm hạn chế việc
dùng tài sản hình thành trong tương lai mà chưa được xác định để bảo
đảm thực hiện nghĩa vụ dân sự vì các bên đứng trước nguy cơ hiệu lực
của hợp đồng bị tác động bởi việc mô tả tài sản bảo đảm chung chung và
không xác định được. Chẳng hạn: theo quy định của pháp luật hiện hành,
một doanh nghiệp là khách hàng quen thuộc và tin cậy của một ngân hàng
có thể thế chấp các khoản phải thu hoặc tài khoản đang hoạt động là nơi
tiếp nhận các khoản thu là các dòng tiền được hình thành trong tương lai
mà không cần mô tả cụ thể các khoản tiền này.
2/ Đoạn nào của bản án số 208 cho thấy bên vay dùng giấy chứng nhận sạp
để bảo đảm thực hiện nghĩa vụ trả tiền vay?
Đoạn tại phần nhận thấy
“ Bị đơn bà Bùi Thị Khen và ông Nguyễn Khắc Thảo xác nhận:
Có thế chấp một giấy tờ sạp D2 - 9 tại chợ Tân Hương để vay 60.000.000
đồng cho ông Phạm Bá Minh 1à chủ dịch vụ cầm đồ Bá Minh. Lãi xuất là
3%/ tháng.”
Và “ Vào ngày 14/9/2007 bà Bùi Thị Khen và ông Nguyễn Khắc Thảo có
thề chấp cho ông một giấy sử dụng sạp D2 - 9 tại chợ Tân Hương để vay
60,000.000 đồng, thời hạn vay là 6 tháng, lãi suất thỏa thuận là
3%/tháng.”
Trong biên bản hòa giải ngày 08/9/2009, bà Phạm Thị Ngọc Hồng đã
trình bày: “Bà đồng ý trả cho Bà Vương Kim Long 360.000.000 đồng vì số tiền
bà vay cá nhân không liên quan đến cụ Phạm Ngọc Bình và ông Phạm Ngọc
Chấp”. Và trong phần xét thấy của Bản án 04, Tòa án cũng xác định rằng: “Pháp
luật chưa cho phép thế chấp quyền sử dụng đất giữa các cá nhân với nhau. Do
vậy, việc bà Phạm Thị ngọc Hồng giao các chứng nhận quyền sử dụng đất cho
bà Vương Kim Long để vay tiền là không đúng quy định của pháp luật, nên bị
coi là vô hiệu theo quy định tại Điều 128 của Bộ luật dân sự”.
11. Có quy định nào cho phép cá nhân nhận quyền sử dụng đất để đảm bảo
thực hiện nghĩa vụ không? Nếu có nêu rõ cơ sở pháp lí.
Pháp luật không có quy định cụ thể nào cho phép cá nhân nhận quyền sử
dụng đất để đảm bảo thực hiện nghĩa vụ. Tuy nhiên cũng không có quy định nào
cấm hay hạn chế cá nhân không được nhận quyền sử dụng đất để đảm bảo cho
việc thực hiện nghĩa vụ. Theo pháp luật hiện hành, trường hợp dùng quyền sử
dụng đất để thế chấp được quy định cụ thể tại BLDS 2015 và Luật Đất đai
2013:
- Điều 500 BLDS 2015 quy định hợp đồng về quyền sử dụng đất: “Hợp
đồng về quyền sử dụng đất là sự thỏa thuận giữa các bên, theo đó người sử
dụng đất chuyển đổi, chuyển nhượng, cho thuê, cho thuê lại, tặng cho, thế chấp,
góp vốn quyền sử dụng đất hoặc thực hiện quyền khác theo quy định của Luật
đất đai cho bên kia; bên kia thực hiện quyền, nghĩa vụ theo Hợp đồng về quyền
sử dụng đất”.
- Theo khoản 1 Điều 167 Luật đất đai 2013: “Người sử dụng đất được
thực hiện các quyền chuyển đổi, chuyển nhượng, cho thuê, cho thuê lại, thừa kế,
tặng cho, thế chấp, góp vốn quyền sử dụng đất theo quy định của Luật này”.
- Điểm g khoản 1 Điều 179 Luật đất đai 2013: “Thế chấp quyền sử dụng
đất tại tổ chức tín dụng được phép hoạt động tại Việt Nam, tại tổ chức kinh tế
khác hoặc cá nhân theo quy định của pháp luật”.
Thêm vào đó, căn cứ vào điểm a khoản 1 Điều 4 của Nghị định số
102/2017 NĐ-CP quy định thế chấp quyền sử dụng đất là một biện pháp bảo
đảm cần phải đăng ký. Do vậy, giao dịch dân sự nếu được công chứng, chứng
thực sẽ được pháp luật ghi nhận và bảo vệ.
12. Đoạn nào của Bản án số 04 cho thấy Tòa án không chấp nhận cho cá
nhân nhận quyền sử dụng đất để bảo đảm thực hiện nghĩa vụ?
Đoạn: “Pháp luật chưa cho phép thế chấp quyền sử dụng đất giữa các cá
nhân với nhau. Do vậy việc bà Phạm Thị Ngọc Hồng giao các Giấy chứng nhận
quyền sử dụng đất cho bà Vương Kim Long để vay tiền là không đúng quy định
của pháp luật, nên bị coi là vô hiệu theo quy định tại Điều 128 của Bộ luật dân
sự” của Bản án đã cho thấy Tòa án không chấp nhận cho cá nhân nhận quyền sử
dụng đất để bảo đảm thực hiện nghĩa vụ.
13. Suy nghĩ của anh chị về hướng giải quyết trên của Tòa án.
Hướng giải quyết của Tòa án là hợp lý. Tại thời điểm xét xử, Luật Đất đai
và BLDS 2005 chưa cho phép người nhận thế chấp bằng quyền sử dụng đất là cá
nhân. Tòa án viện dẫn cơ sở pháp lý được quy định tại Luật đất đai để cho rằng
giữa cá nhân pháp luật chưa cho phép sử dụng quyền sử dụng đất để thế chấp để
đảm bảo thực hiện nghĩa vụ mà chỉ cho phép giữa bên thế chấp là cá nhân và
bên nhận thế chấp là tổ chức tín dụng hoạt động tại Việt Nam để tuyên hợp đồng
thế chấp giữa bà Hồng và bà Long vô hiệu. Căn cứ khoản 2 Điều 322 BLDS
2005 về Quyền tài sản dùng để bảo đảm thực hiện nghĩa vụ dân sự: “Quyền sử
dụng đất được dùng để bảo đảm thực hiện nghĩa vụ dân sự theo quy định của
Bộ luật này và pháp luật về đất đai”. Như vậy, Tòa án đã viện dẫn đúng căn cứ
pháp lý để giải quyết tranh chấp này và điều này hoàn toàn có cơ sở.