Professional Documents
Culture Documents
6.2. Hoàn cảnh như trong vụ việc trên có được Luật trách nhiệm bồi thường của
Nhà nước điều chỉnh không? Vì sao?
Hoàn cảnh trong vụ việc trên không được Luật trách nhiệm bồi thường của Nhà nước
điều chỉnh.
Điều 1 Luật trách nhiệm bồi thường của Nhà nước 2017 quy định về phạm vi điều
chỉnh như sau:
“Luật này quy định trách nhiệm bồi thường của Nhà nước đối với cá nhân, tổ chức bị
thiệt hại do người thi hành công vụ gây ra trong hoạt động quản lý hành chính, tố tụng
và thi hành án; thiệt hại được bồi thường; quyền, nghĩa vụ của cá nhân, tổ chức bị thiệt
hại; cơ quan giải quyết bồi thường; thủ tục giải quyết yêu cầu bồi thường; phục hồi danh
dự; kinh phí bồi thường; trách nhiệm hoàn trả; trách nhiệm của các cơ quan nhà nước
trong công tác bồi thường nhà nước.”
Người thi hành công vụ được hiểu theo khoản 2 Điều 3 bộ luật này: “Người thi hành
công vụ là người được bầu cử, phê chuẩn, tuyển dụng hoặc bổ nhiệm theo quy định của
pháp luật về cán bộ, công chức và pháp luật có liên quan vào một vị trí trong cơ quan
nhà nước để thực hiện nhiệm vụ quản lý hành chính, tố tụng hoặc thi hành án hoặc người
khác được cơ quan nhà nước có thẩm quyền giao thực hiện nhiệm vụ có liên quan đến
hoạt động quản lý hành chính, tố tụng hoặc thi hành án”. Với quy định trên, 05 bị cáo
(Nguyễn Thân Thảo Thành, Nguyễn Minh Quyền, Phạm Ngọc Mẫn, Nguyễn Tấn Quang,
Đỗ Như Huy, Lê Đức Hoàn) công tác tại Công an tỉnh Phú Yên và Công an thành phố
Tuy Hòa được xác định là người thi hành công vụ.
Tuy nhiên, hoàn cảnh do 05 bị cáo gây ra lại không được Luật TNBTCNN điều chỉnh.
Bởi lẽ, Luật này điều chỉnh vấn đề bồi thường thiệt hại “do người thi hành công vụ gây
ra” nhưng chỉ áp dụng “trong hoạt động quản lý hành chính, tố tụng, thi hành án” (Điều
1). Ở đây, hoàn cảnh 05 bị cáo gây thiệt hại không nằm trong khuôn khổ của thi hành án
và cũng không nằm trong khuôn khổ của tố tụng hay quản lý hành chính. Về hoạt động
quản lý hành chính, Luật TNBTCNN 2017 liệt kê những hành vi thuộc phạm vi điều
chỉnh của Luật tại Điều 17 về Phạm vi trách nhiệm bồi thường trong hoạt động quản lý
hành chính và hoàn cảnh của 05 bị cáo không thuộc danh sách những hành vi này. Về
hoạt động tố tụng và thi hành án, những hành vi thuộc phạm vi điều chỉnh của Luật
TNBTCNN 2017 quy định tại Điều 18, Điều 19, Điều 20 và Điều 20 và hoàn cảnh của 05
bị cáo cũng không thuộc những hành vi đó.
“Xét thấy, đối với các ông Nguyễn Văn Lai, Võ Công Phi cùng một số cán bộ công
an có hành vi còng tay Ngô Thanh Kiều tại nhà riêng, dẫn giải về trụ sở Công an, trong
khi không có lệnh bắt giữ là có dấu hiệu của tội "Bắt, giữ người trái pháp luật". Tuy
nhiên, tại thời điểm này đã có căn cứ xác định Kiều là đồng phạm trong vụ "Trộm cắp tài
sản" cùng Trần Minh Cường và Ngô Thanh Sơn, Kiều là người đã có tiền án, tiền sự; có
biểu hiện bỏ trốn sau khi vụ án bị phát hiện, truy đuổi; việc còng tay nhằm tránh để xảy
ra trường hợp đối tượng manh động, bỏ trốn. Nên Cơ quan điều tra Viện kiểm sát nhân
dân tối cao kết luận: Việc bắt giữ là có căn cứ và cần thiết, chỉ vi phạm về hình thức, thủ
tục tố tụng….”
6.3. Nếu hoàn cảnh như trong vụ án trên xảy ra sau khi BLDS 2015 có hiệu lực,
hướng giải quyết có khác hướng giải quyết trong vụ án không? Vì sao?
Nếu hoàn cảnh như trong vụ án trên xảy ra sau khi BLDS 2015 có hiệu lực, hướng
giải quyết sẽ khác hướng giải quyết trong vụ án.
Vụ án anh Kiều không thuộc bất kì trường hợp nào được liệt kê trong Điều 18 Luật
Trách nhiệm bồi thường của Nhà nước, tức là không áp dụng được Luật Trách nhiệm bồi
thường của Nhà nước nên khi ấy phải dựa vào Điều 620 BLDS 2005.
“Điều 18. Phạm vi trách nhiệm bồi thường của Nhà nước trong hoạt động tố tụng
hình sự
Nhà nước có trách nhiệm bồi thường thiệt hại trong các trường hợp sau đây:
1. Người bị giữ trong trường hợp khẩn cấp mà không có căn cứ theo quy định của Bộ
luật Tố tụng hình sự và người đó không thực hiện hành vi vi phạm pháp luật;
2. Người bị bắt, người bị tạm giữ mà có quyết định của cơ quan, người có thẩm quyền
trong hoạt động tố tụng hình sự quyết định trả tự do, hủy bỏ quyết định tạm giữ, không
phê chuẩn lệnh bắt, quyết định gia hạn tạm giữ vì người đó không thực hiện hành vi vi
phạm pháp luật;
3. Người bị tạm giam mà có bản án, quyết định của cơ quan, người có thẩm quyền
trong hoạt động tố tụng hình sự xác định không có sự việc phạm tội hoặc hành vi không
cấu thành tội phạm hoặc đã hết thời hạn điều tra vụ án mà không chứng minh được bị
can đã thực hiện tội phạm;
4. Người đã chấp hành xong hoặc đang chấp hành hình phạt tù có thời hạn, tù chung
thân, người đã bị kết án tử hình, người đã thi hành án tử hình mà có bản án, quyết định
của cơ quan, người có thẩm quyền trong hoạt động tố tụng hình sự xác định không có sự
việc phạm tội hoặc hành vi không cấu thành tội phạm;
5. Người bị khởi tố, truy tố, xét xử, thi hành án không bị tạm giữ, tạm giam, thi hành
hình phạt tù mà có bản án, quyết định của cơ quan, người có thẩm quyền trong hoạt
động tố tụng hình sự xác định không có sự việc phạm tội hoặc hành vi không cấu thành
tội phạm hoặc đã hết thời hạn điều tra vụ án mà không chứng minh được bị can đã thực
hiện tội phạm;
6. Người bị khởi tố, truy tố, xét xử về nhiều tội trong cùng một vụ án, đã chấp hành
hình phạt tù mà sau đó có bản án, quyết định của cơ quan, người có thẩm quyền trong
hoạt động tố tụng hình sự xác định người đó không phạm một hoặc một số tội và hình
phạt chung sau khi tổng hợp hình phạt của những tội còn lại ít hơn thời gian đã bị tạm
giam, chấp hành hình phạt tù thì được bồi thường thiệt hại tương ứng với thời gian đã bị
tạm giam, chấp hành hình phạt tù vượt quá so với mức hình phạt của những tội mà người
đó phải chấp hành;
7. Người bị khởi tố, truy tố, xét xử về nhiều tội trong cùng một vụ án và bị kết án tử
hình nhưng chưa thi hành mà sau đó có bản án, quyết định của cơ quan, người có thẩm
quyền trong hoạt động tố tụng hình sự xác định người đó không phạm tội bị kết án tử
hình và hình phạt chung sau khi tổng hợp hình phạt của những tội còn lại ít hơn thời
gian đã bị tạm giam thì được bồi thường thiệt hại tương ứng với thời gian đã bị tạm giam
vượt quá so với mức hình phạt chung của những tội mà người đó phải chấp hành;
8. Người bị xét xử bằng nhiều bản án, Tòa án đã tổng hợp hình phạt của nhiều bản án
đó mà sau đó có bản án, quyết định của cơ quan, người có thẩm quyền trong hoạt động
tố tụng hình sự xác định người đó không phạm một hoặc một số tội và hình phạt của
những tội còn lại ít hơn thời gian đã bị tạm giam, chấp hành hình phạt tù thì được bồi
thường thiệt hại tương ứng với thời gian đã bị tạm giam, chấp hành hình phạt tù vượt
quá so với mức hình phạt của những tội mà người đó phải chấp hành;
9. Pháp nhân thương mại bị khởi tố, truy tố, xét xử, thi hành án mà sau đó có bản án,
quyết định của cơ quan, người có thẩm quyền trong hoạt động tố tụng hình sự xác định
không có sự việc phạm tội hoặc hành vi của pháp nhân không cấu thành tội phạm hoặc
đã hết thời hạn điều tra vụ án mà không chứng minh được pháp nhân đã thực hiện tội
phạm và pháp nhân đó không thực hiện hành vi vi phạm pháp luật;
10. Cá nhân, tổ chức có tài sản bị thiệt hại do việc thu giữ, tạm giữ, kê biên, tịch thu,
xử lý, có tài khoản bị phong tỏa hoặc cá nhân, tổ chức khác có liên quan đến các trường
hợp quy định tại các khoản 1, 2, 3, 4, 5, 6, 7, 8 và 9 Điều này bị thiệt hại.
Nhưng kể từ khi BLDS 2015 có hiệu lực thì không quy định rõ về trách nhiệm của
Nhà nước trong việc bồi thường thiệt hại như trong Điều 620 BLDS 2005 mà lại để Luật
Trách nhiệm bồi thường của Nhà nước quy định về vấn đề này.
Theo Điều 589 BLDS 2015 về bồi thường thiệt hại do người thi hành công vụ gây ra
thì “Nhà nước có trách nhiệm bồi thường thiệt hại do hành vi trái pháp luật của người
thi hành công vụ gây ra theo quy định của Luật trách nhiệm bồi thường của Nhà nước”.
Suy ra, những trường hợp không thuộc phạm vi được đề cập trong Luật Trách nhiệm bồi
thường của Nhà nước như vụ án của anh Kiều sẽ bị thiệt vì phải dựa vào Điều 589 BLDS
2015. Vì cả BLDS lẫn Luật Trách nhiệm bồi thường của Nhà nước đều không quy định
trách nhiệm bồi thường cho người dân bị hại. Dù không thể biết được nếu dựa vào BLDS
2015, Toà sẽ giải quyết theo hướng nào nhưng có thể khẳng định rằng, dựa vào BLDS
2015 thì thân nhân, gia đình anh Ngô Thanh Kiều sẽ bị thiệt thòi vì luật đã không đề cập
trách nhiệm bồi thường cho người người dân trong những trường hợp mà nhà làm luật
chưa tính đến.