You are on page 1of 33

Bài tập lớn học kỳ

VẤN ĐỀ 1: THÔNG TIN TRONG GIAO KẾT HỢP ĐỒNG


Bản án số 18A/2016/DSST ngày 15/6/2016 của Toà án nhân dân TP. Tuy Hoà
tỉnh Phú Yên.
Ngày 29/9/2015, vợ chồng ông Linh và bà Lộc giao kết hợp đồng chuyển nhượng
quyền sử dụng đất với ông Thành và bà Dinh. Vợ chồng ông Linh đã đặt cọc 50.000.000
đồng. Tuy nhiên, vợ chồng ông Thành không cung cấp rõ thông tin về lô đất. Cụ thể, lô
đất này là đất vườn, không phải đất thổ cư như mục đích mua đất ban đầu của vợ chồng
ông Linh và đất này đã có thông báo thu hồi đất trước đó. Mặt khác vợ chồng ông Thành.
Toà xác định hai bên đều có lỗi. Vợ chồng ông Linh không tìm hiểu kĩ thông tin trước khi
mua đất, vợ chồng ông Thành cung cấp sai thông tin dẫn đến sự nhầm lẫn nên vợ chồng
ông Linh đã xác lập giao dịch. Hợp đồng đặt cọc bị vô hiệu, hai bên hoàn trả cho nhau
những gì đã nhận và các bên đều có lỗi nên không phải bồi thường thiệt hại.
1.1. Theo Toà án, bên bán có nghĩa vụ cung cấp thông tin cho bên mua về lô đất
chuyển nhượng không?
Theo Toà án, bên bán có nghĩa vụ cung cấp thông tin cho bên mua về lô đất chuyển
nhượng. Thể hiện ở đoạn Xét thấy: “Xét yêu cầu khởi kiện của vợ chồng ông hà Văn
Linh thì thấy rằng: mục đích vợ chồng ông Linh mua đất là để xây dựng nhà ở mà phải
là đất thổ cư theo quy định của pháp luật; Tuy nhiên diện tích đất mà vợ chồng ông
Thành bán cho vợ chồng ông Linh là đất vườn theo nghị định 64 của Chính phủ và đã có
thông báo thu hồi đất nhưng khi giao kết hợp đồng đặt cọc vợ chồng ông Thành không
cung cấp rõ thông tin về lô đất; Mặt khác quyền sử dụng đất mà vợ chồng ông Thành
chuyển nhượng cho vợ chồng ông Linh không thuộc quyền sở hữu của mình mà của ông
Trần Dậu nhưng vợ chồng ông Thành chuyển nhượng cho vợ chồng ông . Vì vậy việc
chuyển nhượng quyền sử dụng đất là không hợp pháp cho nên hợp đồng đặt cọc giữa vợ
chồng ông Hà Văn Linh và vợ chồng ông Đỗ Kim Thành đương nhiên vô hiệu”.
Đoạn Xét về lỗi của các bên dẫn đến giao dịch dân sự vô hiệu thì thấy rằng: “Vợ
chồng ông Thành là người cho rằng là chủ quyền sử dụng đất nói trên buộc phải biết và
đương nhiên phải biết toàn bộ diện tích đất mua bán với vợ chồng ông Linh là thuộc đất
nông nghiệp cấp theo Nghị định 64 và đã được thông báo nằm trong quy hoạch giải toả,
mặt khác đất này không đứng tên vợ chồng ông Thành nhưng đã cung cấp thông tin sai
dẫn đến sự nhầm lẫn nên vợ chồng ông Linh đã xác lập giao dịch.”
1.2. Đối với hoàn cảnh như trong vụ án, BLDS 2015 có buộc bên bán phải cung
cấp thông tin về lô đất chuyển nhượng không? Vì sao?
BLDS 2015 có quy định về vấn đề này. Theo Khoản 1 Điều 387 BLDS 2015 quy
định: “Trường hợp một bên có thông tin ảnh hưởng đến việc chấp nhận giao kết hợp
đồng của bên kia thì phải thông báo cho bên kia biết.”. Vì việc vợ chồng ông Thành
không cung cấp thông tin về việc mình không phải chủ sở hữu của lô đất này, hơn nữa lô
đất đã có thông báo thu hồi trước đó thì việc cung cấp các thông tin trong giao kết hợp
đồng không đúng sự thật, xuyên tạc hay bóp méo sự thật là không trung thực trong giao
kết hợp đồng, ảnh hưởng trực tiếp đến quyết định của bên mua.
1.3. Việc Toà án đã theo hướng giao dịch dân sự vô hiệu do nhầm lẫn có thuyết
phục không? Vì sao?
Việc Toà án theo hướng giao dịch dân sự vô hiệu do nhầm lẫn là không thuyết phục.
Theo Khoản 1 Điều 126 BLDS 2015 quy định: “Trường hợp giao dịch dân sự được xác
lập có sự nhầm lẫn làm cho một bên hoặc các bên không đạt được mục đích của việc xác
lập giao dịch thì bên bị nhầm lẫn có quyền yêu cầu Tòa án tuyên bố giao dịch dân sự vô
hiệu, trừ trường hợp quy định tại khoản 2 Điều này” thì sự nhầm lẫn đó là do hành vi có
lỗi (vô ý) của bên kia. Ở đây ta thấy bên bán “buộc phải biết và đương nhiên phải biết
toàn bộ diện tích đất mua bán với vợ chồng ông Linh là thuộc đất nông nghiệp cấp theo
Nghị định 64 và đã được thông báo nằm trong quy hoạch giải toả, mặt khác đất này
không đứng tên vợ chồng ông Thành”. Việc cung cấp những thông tin này không phải là
hành vi có lỗi vô ý mà bên bán đã cố tình che giấu thông tin để bên mua có sự nhầm lẫn,
hiểu sai lệch về chủ thể, tính chất của đối tượng giao dịch.
1.4. Đối với hoàn cảnh như trong vụ án, BLDS 2015 có cho phép xử lý theo
hướng giao dịch chuyển nhượng vô hiệu do nhầm lần không? Vì sao?
Đối với hoàn cảnh trong vụ án, BLDS không cho phép xử lý theo hướng giao dịch
chuyển nhượng vô hiệu do nhầm lẫn. Vì theo như trường hợp trên việc làm của vợ chồng
anh Thành là cố ý che giấu thông tin chứ không phải do nhầm lẫn mà dẫn tới giao dịch
chuyển nhượng bị vô hiệu. Theo Điều 126 BLDS 2015 quy định:
“1. Trường hợp giao dịch dân sự được xác lập có sự nhầm lẫn làm cho một bên hoặc
các bên không đạt được mục đích của việc xác lập giao dịch thì bên bị nhầm lẫn có
quyền yêu cầu Tòa án tuyên bố giao dịch dân sự vô hiệu, trừ trường hợp quy định tại
khoản 2 Điều này.
2. Giao dịch dân sự được xác lập có sự nhầm lẫn không vô hiệu trong trường hợp
mục đích xác lập giao dịch dân sự của các bên đã đạt được hoặc các bên có thể khắc
phục ngay được sự nhầm lẫn làm cho mục đích của việc xác lập giao dịch dân sự vẫn đạt
được.”
Sự nhầm lẫn phải là những việc mà các bên không biết hoặc không thể biết.
Và căn cứ vào Điều 127 BLDS 2015: “Lừa dối trong giao dịch dân sự là hành vi cố ý
của một bên hoặc của người thứ ba nhằm làm cho bên kia hiểu sai lệch về chủ thể, tính
chất của đối tượng hoặc nội dung của giao dịch dân sự nên đã xác lập giao dịch dân sự
đó”.
Sự im lặng của vợ chồng ông Thành có thể không bị coi là lừa dối. Tuy nhiên trong
trường hợp này thì vợ chồng ông Thành có nghĩa vụ phải cung cấp thông tin cho vợ
chồng ông Linh bởi những thông tin này ảnh hưởng trực tiếp đến quyết định mua đất của
vợ chồng ông Linh. Vậy thì có thể nói sự im lặng này là cố ý bỏ qua sự thật hay nói cách
khác chính là lừa dối. Không những thế, trong phần XÉT THẤY của Tòa án đã đề cập
đến việc vợ chồng ông Thành là người cho rằng là chủ quyền sử dụng đất nói trên buộc
phải biết và đương nhiên phải biết toàn bộ diện tích đất mua bán với vợ chồng ông Linh
là thuộc đất nông nghiệp cấp theo Nghị định và đã được thông báo nằm trong quy hoạch
giải tỏa, mặt khác đất này không đứng tên vợ chồng ông Thành, quyền sử dụng đất này
không thuộc quyền sở hữu vợ chồng ông mà của ông Trần Dậu. Trong khi đó, ông Thành
cung cấp thông tin sai lệch, không có sự trung thực trong giao dịch này, thậm chí có thể
xem như ông Thành cố ý làm sai lệch thông tin về chủ sở hữu mảnh đất và các thông tin
khác về đất. Vì vậy không thể xử lý giao dịch theo hướng giao dịch chuyển nhượng vô
hiệu do nhầm lẫn. Mà trong hợp này, đây là giao dịch vô hiệu do bị lừa dối quy định tại
Điều 127 BLDS 2015:
“Điều 127. Giao dịch dân sự vô hiệu do bị lừa dối, đe dọa, cưỡng ép
Khi một bên tham gia giao dịch dân sự do bị lừa dối hoặc bị đe dọa, cưỡng ép thì có
quyền yêu cầu Tòa án tuyên bố giao dịch dân sự đó là vô hiệu.
Lừa dối trong giao dịch dân sự là hành vi cố ý của một bên hoặc của người thứ ba
nhằm làm cho bên kia hiểu sai lệch về chủ thể, tính chất của đối tượng hoặc nội dung
của giao dịch dân sự nên đã xác lập giao dịch đó.
Đe dọa, cưỡng ép trong giao dịch dân sự là hành vi cố ý của một bên hoặc người thứ
ba làm cho bên kia buộc phải thực hiện giao dịch dân sự nhằm tránh thiệt hại về tính
mạng, sức khỏe, danh dự, uy tín, nhân phẩm, tài sản của mình hoặc của người thân thích
của mình.”
Ông Thành đã cung cấp thông tin sai lệch, lừa dối ông Linh, khiến ông Linh hiểu sai
lệch những thông tin liên quan đến mảnh đất. Vì vậy, đây là giao dịch vô hiệu do bị lừa
dối chứ không phải do nhầm lẫn.
VẤN ĐỀ 2: HỢP ĐỒNG VÔ HIỆU MỘT PHẦN VÀ HẬU QUẢ HỢP ĐỒNG
VÔ HIỆU
Quyết định số 22/2020/DS-GĐT ngày 23/04/2020 của Hội đồng thẩm phán Toà
án nhân dân tối cao.
Nguyên đơn:
- Anh Vũ Ngọc Khánh
- Anh Vũ Ngọc Tuấn
- Chị Vũ Thị Tường Vy
Bị đơn:
- Ông Trần Thiết Học
- Bà Đào Thị Mỹ
Người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan:
- Bà Nguyễn Thị Dung
Tóm tắt vụ việc:
Ngày 04/12/2002 bà Dung có Đơn xin đăng ký quyền sử dụng 252,6m 2 đất thổ tại
quốc lộ 13, khu phố Ninh Thành, thị trấn Lộc Ninh, huyện Lộc Ninh, tỉnh Bình Phước
(đơn ghi nguồn gốc sử dụng là đất cấp sổ trắng cho ông Long năm 1989, ông Long mất
để lại cho vợ), đơn được Ủy ban nhân dân thị trấn Lộc Ninh xác nhận ngày 25/06/2003.
Ngày 31/12/2003, Ủy ban nhân dân huyện Lộc Ninh cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng
252,6m2 đất thổ cho hộ bà Dung (hộ bà Dung có bà Dung là chủ hộ và các con là anh
Khánh, anh Tuấn, chị Vy). Theo Hợp đồng ủy quyền được chứng thực ngày 27/7/2011
thì các con bà Dung ủy quyền cho bà để ký kết Hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng
đất cho ông Học, bà Mỹ. Tuy nhiên các con bà Dung không thừa nhận đã ký tên vào Hợp
đồng ủy quyền và cũng không có đủ yếu tố để xác định chữ ký trên Hợp đồng ủy quyền
là của các con bà Dung nên Hợp đồng ủy quyền không có hiệu lực. Bà Dung và vợ chồng
ông Học, bà Mỹ nhận thức được Hợp đồng ủy quyền trên không đúng theo quy định của
pháp luật nhưng vẫn ký Hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất. Nay bà Dung và
các con của bà kiện đòi ông Học, bà Mỹ trả đất cho bà.
Tòa án nhân dân tối cao giải quyết theo hướng Hợp đồng chuyển nhượng quyền sử
dụng đất giữa bà Dung và vợ chồng ông Học, bà Mỹ chỉ vô hiệu một phần; quyết định
hủy bản án sơ thẩm, bản án phúc thẩm, quyết định giám đốc thẩm. Giao hồ sơ vụ án cho
tòa sơ thẩm xét xử lại.
Quyết định số 319/2011/DS-GĐT ngày 28/03/2011 của Tòa dân sự Tòa án nhân
dân tối cao.
Nguyên đơn: Ông Trịnh Văn Vinh.
Bị đơn: Ông Đào Văn Lộc, Bà Hoàng Thị Lan.
Vợ chồng ông Lộc và ông Vinh thỏa thuận chuyển nhượng quyền sử dụng đất cho
ông Vinh với giá 100 triệu đồng. Ông Vinh đã giao 45 triệu nhưng vợ chồng ông Lộc
không có sổ đỏ để giao đất. Ông Vinh hẹn thời gian khác giao tiền lần 2 nhưng vợ chồng
ông Lộc không chấp nhận, yêu cầu hủy bỏ hợp đồng.
Bản án dân sự sơ thẩm quyết định hủy bỏ hợp đồng, yêu cầu vợ chồng ông Lộc hoàn
trả 45 triệu đồng đã nhận từ anh Vinh và bồi thường thiệt hại là ½ giá trị toàn bộ thửa đất
theo giá thị trường là 116.775.000đ.
Bản án dân sự phúc thẩm quyết định hủy bỏ hợp đồng, yêu cầu vợ chồng ông Lộc
hoàn trả 45 triệu đồng đã nhận từ anh Vinh và bồi thường thiệt hại là ½ giá trị toàn bộ
thửa đất theo giá thị trường là 81.712.500đ.
Quyết định của Tòa án: Hủy 2 bản án dân sự sơ thẩm và phúc thẩm và xác định lại
mức bồi thường là ½ chênh lệch giá của 45% giá trị thửa đất theo giá thị trường.
2.1. Khi nào hợp đồng vô hiệu một phần, vô hiệu toàn bộ? Nêu cơ sở pháp lý khi
trả lời.
Hợp đồng vô hiệu một phần có nghĩa là khi giao kết hợp đồng không phải tất cả các
điều khoản giao kết trong hợp đồng đều có giá trị pháp luật. Một trong số các điều khoản
của hợp đồng có thể bị vô hiệu vì nhiều lí do khác nhau. Một phần nội dung của hợp
đồng vô hiệu nhưng không ảnh hưởng đến hiệu lực của phần còn lại của hợp đồng.
Hợp đồng vô hiệu toàn bộ là toàn bộ những điều khoản giao kết trong hợp đồng đều
không có giá trị pháp luật.
Theo quy định tại Điều 407 Bộ Luật Dân sự 2015 quy định về Hợp đồng vô hiệu:
“1. Quy định về giao dịch dân sự vô hiệu từ Điều 123 đến Điều 133 của Bộ luật này
cũng được áp dụng đối với hợp đồng vô hiệu.
2. Sự vô hiệu của hợp đồng chính làm chấm dứt hợp đồng phụ, trừ trường hợp các
bên có thỏa thuận hợp đồng phụ được thay thế hợp đồng chính. Quy định này không áp
dụng đối với các biện pháp bảo đảm thực hiện nghĩa vụ.
3. Sự vô hiệu của hợp đồng phụ không làm chấm dứt hợp đồng chính, trừ trường hợp
các bên thỏa thuận hợp đồng phụ là một phần không thể tách rời của hợp đồng chính.”
Căn cứ vào điều luật trên, ta có thể xác định:
- Trường hợp hợp đồng vô hiệu một phần khi: Giao dịch dân sự vô hiệu từng phần
khi một phần của giao dịch dân sự vô hiệu nhưng không ảnh hưởng đến hiệu lực phần
còn lại của giao dịch.
Điều 130 Bộ Luật Dân sự 2015 quy định về Giao dịch dân sự vô hiệu từng phần như
sau: “Giao dịch dân sự vô hiệu từng phần khi một phần nội dung của giao dịch dân sự vô
hiệu nhưng không ảnh hưởng đến hiệu lực của phần còn lại của giao dịch”
Ví dụ: ông A và ông B ký kết hợp đồng giao nhận hàng hóa, địa điểm giao hàng là tại
kho C nhưng người giao hàng lại đưa hàng tới kho D gần đó. Trong trường hợp này hợp
đồng vô hiệu một phần do vi phạm về địa điểm gaio hàng nhưng không ảnh hưởng tới
hiệu lực của những phần khác như: thời gian giao hàng, chất lượng hàng hóa...
- Trường hợp hợp đồng vô hiệu toàn bộ khi: Giao dịch dân sự vô hiệu theo quy
định điều 122 và giao dịch dân sự rơi vào các trường hợp từ điều 123 đến điều 129 thì vô
hiệu.
Điều 122 Bộ Luật Dân sự 2015 quy định về giao dịch dân sự vô hiệu như sau:
“Giao dịch dân sự không có một trong các điều kiện được quy định tại Điều 117 của
Bộ luật này thì vô hiệu, trừ trường hợp Bộ luật này có quy định khác”
Ví dụ: A và B ký kết hợp đồng mua bán nhà, theo đó A sẽ bán nhà cho B. Tuy nhiên,
tại thời điểm ký kết hợp đồng thì căn nhà này đã có quyết định thu hồi, giải tỏa, đền bù và
A đã biết nhưng lại không thông báo cho B. Như vậy ở đây A đã có sự gian dối về tình
trạng thông tin ngôi nhà – đối tượng của hợp đồng mua bán cho người mua là B. Theo
đó, B có quyền yêu cầu Tòa án tuyên bố giao dịch dân sự đó là vô hiệu.
2.2. Đoạn nào cho thấy trong Quyết định số 22 đã có việc chuyển nhượng tài sản
chung của hộ gia đình mà không có sự đồng ý của tất cả các thành viên của hộ gia
đình?
Đoạn trong Quyết định số 22 cho thấy là:
“Hợp đồng ủy quyền được Ủy ban nhân dân thị trấn Lộc Ninh chứng thực ngày
27/2/2011 thể hiện các anh, chị Khánh, Tuấn, Vy cùng ủy quyền cho bà Dung được làm
thủ tục ký kết Hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền với đất tại
Tổ 2, khu phố Ninh Thành, nhưng các anh, chị Khánh, Tuấn, Vy không thừa nhận ký vào
Hợp đồng ủy quyền nêu trên. Bà Dung cho rằng chữ ký của bên ủy quyền không phải do
các anh, chị Khánh, Tuấn, Vy ký, ai ký bà Dung không biết [...] nay không đủ yếu tố
giám định chữ ký của các anh, chị Khánh, Tuấn, Vy, nên Hợp đồng ủy quyền được chứng
thực ngày 27/7/2011 không có hiệu lực”
Và đoạn:
“...Tòa án cấp sơ thẩm xác định tại thời điểm chuyển nhượng, cả bà Dung và vợ
chồng ông Học, bà Mỹ đều nhận thức được tài sản chuyển nhượng là tài sản của hộ gia
đình bà Dung, việc chứng thực Hợp đồng ủy quyền ngày 27/2/2011 không đúng theo quy
định của pháp luật, nhưng hai bên vẫn ký kết Hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng
đất vào ngày 27/7/2011, làm cho hợp đồng vi phạm cả về hình thức và nội dung, dẫn đến
hợp đồng vô hiệu là có căn cứ”
2.3. Đoạn nào trong Quyết định số 22 cho thấy Hội đồng thẩm phán theo hướng
hợp đồng chuyển nhượng trên chỉ vô hiệu một phần?
Trong Quyết định số 22, đoạn cho thấy Hội đồng thẩm phán theo hướng hợp đồng
chuyển nhượng trên chỉ vô hiệu một phần là: “Trường hợp này, do các thành viên trong
gia đình không có thoả thuận về quyền sử dụng đất và quyền sở hữu tài sản gắn liền với
đất, nên xác định quyền sử dụng đất và quyền sở hữu tài sản gắn liền với đất của các
thành viên trong hộ gia đình theo phần và áp dụng quy định về sở hữu chung theo phần
để giải quyết. Theo đó, phần quyền sử dụng, quyền sở hữu của bà Dung đã chuyển
nhượng cho vợ chồng ông Học nếu đúng quy định của pháp luật thì có hiệu lực. còn phần
quyền sử dụng, quyền sở hữu của các anh chị Khánh, Tuấn, Vy là vô hiệu theo quy định
tại Điều 135 BLDS 2005.”
2.4. Suy nghĩ của anh/chị về việc Hội đồng thẩm phán theo hướng hợp đồng
chuyển nhượng trên chỉ vô hiệu một phần.
Theo tôi, việc Hội đồng thẩm phán theo hướng hợp đồng chuyển nhượng trên chỉ vô
hiệu một phần là có căn cứ.
Theo điều 130, Bộ Luật Dân sự 2015 quy định về Giao dịch dân sự vô hiệu từng
phần:
“Giao dịch dân sự vô hiệu từng phần khi một phần nội dung của giao dịch dân sự vô
hiệu nhưng không ảnh hưởng đến hiệu lực của phần còn lại của giao dịch”
Theo như vụ việc thì bà Dung có ký Hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất cho
vợ chồng ông Học, bà Mỹ. Đất này là thuộc tài sản chung của hộ bà Dung bao gồm bà
Dung và các con của bà là anh Khánh, anh Tuấn, chị Vy.
Theo như quy định tại khoản 2, Điều 212 BLDS 2015 quy định về Sở hữu chung của
các thành viên gia đình:
“2. Việc chiếm hữu, sử dụng, định đoạt tài sản chung của các thành viên gia đình
được thực hiện theo phương thức thỏa thuận. Trường hợp định đoạt tài sản là bất động
sản, động sản có đăng ký, tài sản là nguồn thu nhập chủ yếu của gia đình phải có sự thỏa
thuận của tất cả các thành viên gia đình là người thành niên có năng lực hành vi dân sự
đầy đủ, trừ trường hợp luật có quy định khác”
Trường hợp không có thỏa thuận thì áp dụng quy định về sở hữu chung theo phần
được quy định tại Bộ luật này và luật khác có liên quan, trừ trường hợp quy định tại
Điều 213 của Bộ luật này”
Trường hợp này, do gia đình bà Dung không có thỏa thuận về quyền sử dụng đất và
quyền sở hữu tài sản gắn liền với đất, nên xác định quyền sử dụng đất và quyền sở hữu
tài sản gắn liền với đất của gia đình bà Dung theo phần. Do xác định, quyền sử dụng đất
và quyền sở hữu tài sản gắn liền với đất của gia đình bà Dung theo phần nên Tòa đã áp
dụng khoản 2 Điều 209 BLDS 2015 về Sở hữu chung theo phần như sau:
“Mỗi chủ sở hữu chung theo phần có quyền, nghĩa vụ đối với tài sản thuộc sở hữu
chung tương ứng với phần quyền sở hữu của mình, trừ trường hợp có thỏa thuận khác”
Theo đó, nếu xét theo những căn cứ trên thì quyền sử dụng đất và quyền sở hữu tài
sản gắn liền với đất của phần bà Dung chuyển cho vợ chồng ông Học, bà Mỹ là có hiệu
lực. Tuy nhiên, Hợp đồng ủy quyền thể hiện việc anh Khánh, anh Tuấn, chị Vy ủy quyền
cho bà Dung ký Hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất cho ông Học, bà Mỹ không
có hiệu lực nên dẫn đến việc xác định rằng anh Khánh, anh Tuấn, chị Vy không đồng ý
chuyển quyền sử dụng đất và quyền sở hữu tài sản gắn liền với đất của anh, chị trong
phần sở hữu chung cho vợ chồng ông Học, bà Mỹ.
Vậy nên, trong Hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất (mảnh đất thuộc sở hữu
chung của bà Dung, anh Khánh, anh Tuấn và chị Vy) giữa bà Dung với vợ chồng ông
Học, bà Mỹ chỉ có hiệu lực đối với phần chuyển nhượng của bà Dung, còn phần của anh
Khánh, anh Tuấn, chị Vy không có hiệu lực và phần không có hiệu lực này không ảnh
hưởng đến phần có hiệu lực của bà Dung.
Vì vậy, Tòa án xác định Hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất giữa bà Dung
và vợ chồng ông Học, bà Mỹ vô hiệu một phần là hợp lý.
2.5. Thay đổi về hậu quả của hợp đồng vô hiệu giữa BLDS 2005 và BLDS 2015.
Điều 137, Bộ Luật Dân sự 2005 quy định:
“Hậu quả pháp lý của giao dịch dân sự vô hiệu:
1. Giao dịch dân sự vô hiệu không làm phát sinh, thay đổi, chấm dứt quyền, nghĩa vụ
dân sự của các bên kể từ thời điểm xác lập.
2. Khi giao dịch dân sự vô hiệu thì các bên khôi phục lại tình trạng ban đầu, hoàn trả
cho nhau những gì đã nhận; nếu không hoàn trả được bằng hiện vật thì phải hoàn trả
bằng tiền, trừ trường hợp tài sản giao dịch, hoa lợi, lợi tức thu được bị tịch thu theo quy
định của pháp luật. Bên có lỗi gây thiệt hại phải bồi thường”
Điều 131 Bộ Luật Dân sự 2015 quy định:
“ Hậu quả pháp lý của giao dịch dân sự vô hiệu:
1. Giao dịch dân sự vô hiệu không làm phát sinh, thay đổi, chấm dứt quyền, nghĩa vụ
dân sự của các bên kể từ thời điểm giao dịch được xác lập.
2. Khi giao dịch dân sự vô hiệu thì các bên khôi phục lại tình trạng ban đầu, hoàn trả
cho nhau những gì đã nhận.
Trường hợp không thể hoàn trả được bằng hiện vật thì trị giá thành tiền để hoàn trả.
3. Bên ngay tình trong việc thu hoa lợi, lợi tức không phải hoàn trả lại hoa lợi, lợi tức
đó.
4. Bên có lỗi gây thiệt hại thì phải bồi thường.
5. Việc giải quyết hậu quả của giao dịch dân sự vô hiệu liên quan đến quyền nhân
thân do Bộ luật này, luật khác có liên quan quy định”
Có thể thấy, về Hậu quả pháp lý của giao dịch dân sự vô hiệu của Bộ Luật Dân sự
2015 đã quy định chi tiết hơn Hậu quả pháp lý của Bộ Luật Dân sự 2005. Sự thay đổi thể
hiện như sau:
Thứ nhất, các chế định “hoa lợi, lợi tức” đã được BLDS 2015 quy định hẳn sang một
một khoản khác, xem như ngang bằng với nghĩa vụ “khôi phục tình trạng ban đầu, trả lại
cho nhau những gì đã nhận”
Theo BLDS 2005, “hoa lợi, lợi tức” là vấn đề của “khôi phục lại tình trạng ban đầu”.
Tuy nhiên ở thời điểm trước khi giao dịch được xác lập thì hoa lợi, lợi tức chưa tồn tại
nên nếu buộc bên nhận tài sản (như bên mua, bên được tặng cho) làm phát sinh hoa lợi,
lợi tức trả cho bên giao tài sản (như bên bán, bên tặng cho) thì sẽ dẫn đến tình trạng bên
giao tài sản được nhận những thứ không có ở tình trạng ban đầu. Tức là đã không hề khôi
phục lại tình trạng ban đầu mà làm cho bên giao tài sản vào hoàn cảnh hơn cả tình trạng
ban đầu. BLDS 2015 đã khắc phục được hạn chế, sai sót đó khi tách đã tách vấn đề “hoa
lợi, lợi tức” là đối tượng của hợp đồng vô hiệu ra khỏi quy định về khôi phục lại tình
trạng ban đầu ra thành một khoản riêng.
Thứ hai, BLDS 2015 có quy định một điểm mới là việc trả “hoa lợi, lợi tức” cần phải
có yếu tố “ngay tình” của người nhận tài sản.
“hoa lợi, lợi tức” theo quy định tại BLDS 2015 nếu là “bên ngay tình” thì “không phải
hoàn trả lại hoa lợi, lợi tức đó”; trong khi BLDS 2005 lại quy định theo hướng hoa lợi, lợi
tức không phải trả lại trong trường hợp “bị tịch thu theo quy định của pháp luật”, tức là
khi pháp luật có yêu cầu tịch thu hoa lợi, lợi tức thu được thì người thu được nó phải nộp
cho Nhà nước thay vì hoàn trả cho bên kia. Còn BLDS 2015 thì ngầm định chỉ cần người
đó “ngay tình” thì những hoa lợi, lợi tức thu được sẽ vẫn thuộc sở hữu của người đó mà
không phải hoàn toàn trả lại cho người có quyền liên quan. Hướng quy định mới này là
tiến bộ, bảo vệ lợi ích của người ngay tình.
Thứ ba, BLDS 2015 quy định thêm: “Việc giải quyết hậu quả của giao dịch dân sự
vô hiệu liên quan đến quyền nhân thân do Bộ luật này, luật khác có liên quan quy định”.
Việc bổ sung thêm chế định này sẽ làm đầy đủ hơn trách nhiệm pháp lý của các bên gây
ra thiệt hại, đồng thời bảo vệ một cách tối đa nhất lợi ích của những người bị xâm phạm
đến các quyền nhân thân.
Thứ tư, ngoài những thay đổi nêu trên, BLD 2015 còn bỏ hẳn quy định về tịch thu tài
sản, hoa lợi, lợi tức được quy định tại điều 137 BLDS 2005. Việc sửa đổi này được tiến
hành trong quá trình chỉnh lý Dự thảo tại Quốc hội với lý do “việc tịch thu tài sản, hoa
lợi, lợi tức là việc của pháp luật hành chính, pháp luật hình sự; không là việc của pháp
luật dân sự”
2.6. Trong Quyết định số 319, lỗi của các bên được Tòa giám đốc thẩm xác định
như thế nào?
Trong Quyết định số 319, lỗi của các bên được Tòa giám đốc thẩm xác định như sau:
Ngày 17/7/2006, hai bên lập hợp đồng lại với nội dung: vợ chồng ông Lộc chuyển
nhượng cho vợ chồng ông Vinh diện tích đất 953 m2 với giá 100.000.000 đồng, ông Vinh
đã trả 45.000.000 đồng, sau 8 tháng ông Vinh phải trả tiếp 45 triệu đồng, nếu sai hẹn bên
chuyển nhượng có quyền hủy hợp đồng; số tiền 10 triệu đồng còn lại trả đợt 3, ông Lộc
cam kết sau khi nhận tiền đợt 2 sẽ giao sổ đỏ cho ông Vinh. Tuy nhiên, sau đó ông Vinh
cũng không giao tiếp tiền cho ông Lộc và ông Lộc cũng không giao giấy chứng nhận
quyền sử dụng đất cho ông Vinh. Cả hai hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất lập
ngày 9/9/2005 và 17/7/2006 đều chưa được cơ quan nhà nước có thẩm quyền công chứng
hoặc chứng thực.
Tại phần xét thấy Tòa án cũng có ghi: “Trong trường hợp này ông Vinh mới trả được
45.000.000 đồng trên tổng giá trị thửa đất 100.000.000 đồng tức là mới trả 45% giá trị
thửa đất, cả hai bên cùng có lỗi...”. Theo đó, Tòa án đã xác định lỗi đều thuộc về hai bên.
2.7. Quyết định số 319, Tòa dân sự cho biết ông Vinh sẽ được bồi thường như thế
nào?
Trong Quyết định số 319, Tòa án dân sự xác định ông Vinh sẽ được "bồi thường thiệt
hại là ½ chênh lệch giá của 45% giá trị thửa đất theo giá thị trường". Đồng thời, Tòa cũng
bác bỏ cách xác định số tiền mà vợ chồng ông Lộc phải bồi thường cho ông Vinh là ½
giá trị toàn bộ thửa đất của Tòa án sơ thẩm và phúc thẩm.
2.8. Suy nghĩ của anh/chị về hướng giải quyết trên của Tòa dân sự.
Thứ nhất, đối với hướng giải quyết của Tòa sơ thẩm và phúc thẩm: hướng giải quyết
không phù hợp. Tòa sơ thẩm chưa xác minh chính xác mức độ lỗi của hai bên chủ thể
làm cho hợp đồng vô hiệu. Tòa sơ thẩm chỉ mới xác định ông Lộc đã thanh toán cho vợ
chồng ông Vinh là 45 triệu đồng trên tổng số 100 triệu đồng giá trị thửa đất. Với mức
định giá thửa đất lúc đó là 335.550.000 đồng thì mức chênh lệch sẽ là 233.550.000 đồng.
Đồng thời, việc xác định tiền bồi thường thiệt hại cũng chưa chính xác khi buộc mỗi bên
chịu 1/2 mức bồi thường theo chênh lệch giá của toàn bộ thửa đất là 116.775.000 đồng là
không phù hợp. Tương tự, Tòa phúc thẩm cũng đã xác định không đúng mức bồi thường
thiệt hại tương ứng với lỗi của các bên. Ở đây, Tòa phúc thẩm không nêu rõ lý do tại sao
buộc vợ chồng ông Lộc phải bồi thường thiệt hại là 81.712.500 đồng và không giải thích
số tiền này được xác định như thế nào, có phải là mức chênh lệch giữa giá trị cũ của hợp
đồng với giá trị định giá hiện tại do Hội đồng định giá xác định mà mỗi bên phải chịu
tương ứng với mức độ lỗi của mình hay không.
Mặc khác, khi ký hợp đồng chuyển nhượng sử dụng đất thì bà Thơm là vợ ông Vinh
cũng có tham gia ký kết hợp đồng nhưng Tòa án cấp sơ thẩm, phúc thẩm không đưa bà
tham gia tố tụng với tư cách là người có quyền và nghĩa vụ liên quan là thiếu sót.
Thứ hai, đối với hướng giải quyết của Tòa giám đốc thẩm: hướng giải quyết trên là
phù hợp. Tòa giám đốc thẩm đã xác định ông Vinh mới trả được 45.000.000 đồng tương
ứng với 45% giá trị thửa đất mà hai bên đã thỏa thuận. Theo đó, Tòa xác định rằng cả hai
bên đều có lỗi, dẫn đến khi giải quyết hậu quả của hợp đồng vô hiệu thì ông Vinh sẽ nhận
được mức bồi thường đúng với phần bị thiệt hại là 45% giá trị thửa đất. Việc Tòa án xác
định ông Vinh nhận được ½ giá trị chênh lệch giá của 45% giá trị thửa đất theo giá trị thị
trường là hoàn toàn phù hợp.
2.9. Với các thông tin trong Quyết định số 319, ông Vinh sẽ được bồi thường
khoản tiền cụ thể là bao nhiêu? Vì sao?
Ông Vinh sẽ được bồi thường khoản tiền là 52.548.750 đồng.
Theo Tòa giám đốc thẩm, ông Vinh sẽ được bồi thường thiệt hại là ½ chênh lệch giá
của 45% giá trị thửa đất theo giá thị trường. Mức giá chênh lệch được xác định trong biên
bản là 233.550.000 đồng. Theo đó, mức giá chênh lệch 45% của giá trị thửa đất theo giá
trị thị trường là:
233.550.000 x 45% = 105.097.500 đồng.
Khoản tiền ông Vinh được bồi thường là:
½ x 105.097.500 = 52.548.750 đồng.
VẤN ĐỀ 3: BIỆN PHÁP BẢO ĐẢM THỰC HIỆN NGHĨA VỤ CÓ THỜI HẠN
Quyết định số 05/2020/KDTM-GĐT ngày 26/02/2020 của HĐTP Tòa án nhân
dân tối cao.
Nguyên đơn: Công ty TNHH K.N.V (gọi tắt là Công ty K.N.V).
Bị đơn: Công ty TNHH sản xuất và thương mại phân bón Cửu Long Việt Nam (gọi tắt
là Công ty Cửu Long); Ngân hàng TMCP Việt Á (gọi tắt là Ngân hàng Việt Á).
Ngày 12/4/2016, Công ty K.N.V và Công ty Cửu Long kí kết Hợp đồng thương mại
số 1016/KNV-CLVN/2016. Trong đó, Công ty K.N.V mua của Công ty Cửu Long 3000
tấn phân bón Urea hạt trong, đơn giá 5.100.000 đồng/tấn, tổng giá trị là 15.300.000.000
đồng. Thời gian Công ty Cửu Long bắt đầu giao hàng chậm nhất cho Công ty K.N.V là
20 ngày làm việc kể từ ngày Công ty Cửu Long nhận tiền ký quỹ tạm ứng tương đương
20% tổng giá trị hợp đồng của Công ty K.N.V. Sau khi Công ty K.N.V chuyển vào tài
khoản Ngân hàng Việt Á đủ số tiền 3.060.000.000 đồng, Công ty Cửu Long đã chậm giao
hàng so với nội dung trong Hợp đồng. Ngân hàng Việt Á đã phát hành Thư bảo lãnh hoàn
trả tiền ứng trước và Thư tu chỉnh bảo lãnh, sau khi Công ty Cửu Long vi phạm nghĩa vụ
giao hàng, Ngân hàng không yêu cầu Công ty K.N.V gửi Thư bảo lãnh bản gốc theo quy
định. Công ty K.N.V khởi kiện yêu cầu Công ty Cửu Long thanh toán lãi suất chậm trả
của số tiền tạm ứng còn thiếu, thanh toán tiền phạt 5% giá trị hợp đồng
Tòa quyết định hủy Quyết định giám đốc thẩm, giữ nguyên Bản án phúc thẩm – chấp
nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn.
3.1. Thư bảo lãnh của Ngân hàng có thời hạn như thế nào?
Trước tiên, thư bảo lãnh là một trong những hình thức cam kết bảo lãnh được quy
định tại điểm a khoản 12 Điều 3 Thông tư 07/2015/TT-NHNN:
“12. Cam kết bảo lãnh là văn bản do bên bảo lãnh hoặc bên bảo lãnh đối ứng hoặc
bên xác nhận bảo lãnh phát hành theo một trong các hình thức sau:
a) Thư bảo lãnh là văn bản cam kết của bên bảo lãnh với bên nhận bảo lãnh về việc
bên bảo lãnh sẽ thực hiện nghĩa vụ tài chính thay cho bên được bảo lãnh khi bên được
bảo lãnh không thực hiện hoặc thực hiện không đầy đủ nghĩa vụ đã cam kết với bên nhận
bảo lãnh.
Trường hợp bảo lãnh đối ứng, xác nhận bảo lãnh thì thư bảo lãnh bao gồm cả văn
bản cam kết của bên bảo lãnh đối ứng với bên bảo lãnh, bên xác nhận bảo lãnh với bên
nhận bảo lãnh...”
Điều 19 Thông tư 07/2015/TT-NHNN quy định về thời hạn của cam kết bảo lãnh như
sau:
“Điều 19. Thời hạn hiệu lực của cam kết bảo lãnh, thỏa thuận cấp bảo lãnh
1. Thời hạn hiệu lực của cam kết bảo lãnh được xác định từ ngày phát hành cam kết
bảo lãnh hoặc sau ngày phát hành cam kết bảo lãnh theo thỏa thuận của các bên liên
quan cho đến thời điểm hết hiệu lực của nghĩa vụ bảo lãnh quy định tại Điều 23 của
Thông tư này.
2. Thời hạn hiệu lực của thỏa thuận cấp bảo lãnh do các bên thỏa thuận nhưng tối
thiểu phải bằng thời hạn có hiệu lực của cam kết bảo lãnh.
3. Trường hợp ngày hết hiệu lực của cam kết bảo lãnh, thỏa thuận cấp bảo lãnh trùng
vào ngày nghỉ, ngày lễ, tết thì ngày hết hiệu lực được chuyển sang ngày làm việc tiếp
theo.
4. Việc gia hạn hiệu lực của cam kết bảo lãnh do các bên thỏa thuận phù hợp với
thỏa thuận cấp bảo lãnh.”
Theo Điều 19, thời hạn của thư bảo lãnh, theo thỏa thuận của các bên, bắt đầu từ ngày
phát hành cam kết bảo lãnh hoặc sau ngày phát hành cam kết bảo lãnh cho đến thời điểm
nghĩa vụ bảo lãnh hết hiệu lực. Các bên liên quan có thể gia hạn hiệu lực cam kết bảo
lãnh phù hợp với thỏa thuận cấp bảo lãnh. Và ngày hết hiệu lực của cam kết bảo lãnh sẽ
được chuyển sang ngày làm việc tiếp theo nếu ngày hết hiệu lực trùng vào ngày nghỉ,
ngày lễ, tết.
3.2. Nghĩa vụ của Cty Cửu Long đối với Cty KNV có phát sinh trong thời hạn
bảo lãnh của Ngân hàng không?
Theo như trong Quyết định số 05 đã trình bày, Ngân hàng Việt Á nhận bảo lãnh cho
Công ty Cửu Long trong mối quan hệ mua bán với Công ty K.N.V. Về bảo lãnh, Bộ luật
Dân sự 2015 quy định như sau:
“Điều 335. Bảo lãnh
1. Bảo lãnh là việc người thứ ba (sau đây gọi là bên bảo lãnh) cam kết với bên có
quyền (sau đây gọi là bên nhận bảo lãnh) sẽ thực hiện nghĩa vụ thay cho bên có nghĩa vụ
(sau đây gọi là bên được bảo lãnh), nếu khi đến thời hạn thực hiện nghĩa vụ mà bên được
bảo lãnh không thực hiện hoặc thực hiện không đúng nghĩa vụ.
2. Các bên có thể thỏa thuận về việc bên bảo lãnh chỉ phải thực hiện nghĩa vụ thay
cho bên được bảo lãnh trong trường hợp bên được bảo lãnh không có khả năng thực
hiện nghĩa vụ bảo lãnh.”
Theo Điều 335, bảo lãnh là bên bảo lãnh (Ngân hàng Việt Á) cam kết với bên nhận
bảo lãnh (Công ty K.N.V) về việc sẽ thực hiện thay nghĩa vụ của bên được bảo lãnh
(Công ty Cửu Long), nếu như đến thời hạn thực hiện nghĩa vụ mà Công ty Cửu Long
không thực hiện hoặc thực hiện không đúng. Đồng nghĩa với việc Ngân hàng Việt Á sẽ
thanh toán cho Công ty K.N.V khi Công ty Cửu Long không thực hiện giao 3000 tấn
phân bón đúng thời hạn chậm nhất 20 ngày kể từ ngày Công ty K.N.V chuyển tiền tạm
ứng. Công ty K.N.V đã chuyển tiền ký quỹ tạm ứng 20% giá trị hợp đồng, tương đương
3.060.000.000 đồng, vào ngày 15/4/2016. Theo hợp đồng đã ký kết, Công ty Cửu Long
có nghĩa vụ giao hàng 3000 tấn phân bón urea hạt trong cho Công ty K.N.V chậm nhất 20
ngày kể từ ngày 15/4/2016. Như vậy, trong thời hạn bảo lãnh của Ngân hàng Việt Á,
Công ty Cửu Long vẫn phát sinh nghĩa vụ đối với Công ty K.N.V.
3.3. Theo Toà án nhân dân tối cao, khi người có quyền (Cty KNV) khởi kiện
Ngân hàng trả nợ thay sau khi thời hạn bảo lãnh kết thúc thì Ngân hàng có còn
trách nhiệm của người bảo lãnh không? Đoạn nào của Quyết định có câu trả lời?
Theo Tòa án nhân dân tối cao, khi người có quyền (Công ty K.N.V) khởi kiện Ngân
hàng trả nợ thay sau khi thời hạn bảo lãnh kết thúc thì Ngân hàng còn trách nhiệm của
người bảo lãnh.
Nội dung này được đề cập tại đoạn [5] phần Nhận định của Tòa án:
“[5] Tòa án cấp sơ thẩm và Tòa án cấp phúc thẩm buộc Ngân hàng Việt Á phải thực
hiện nghĩa vụ hoàn trả cho Công ty TNHH K.N.V số tiền tạm ứng còn thiếu 1.510.000
đồng là có căn cứ. Quyết định giám đốc thẩm của Ủy ban Thấm phán tòa án nhân dân
cấp cao tại Hà Nội chấp nhận ý kiến của Ngân hàng Việt Á cho rằng Công ty K.N.V nộp
bản gốc Thư bảo lãnh khi đã hết thời hạn hiệu lực nên Ngân hàng Việt Á có quyền từ
chối thực hiện nghĩa vụ bảo lãnh là không đúng với bản chất của vụ án.”
3.4. Suy nghĩ của anh/chị về hướng giải quyết trên của Toà án nhân dân tối cao.
Tại Quyết định số 05, Tòa án đã hủy Quyết định giám đốc thẩm, giữ nguyên Bản án
phúc thẩm, theo đó:
- Chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn Công ty K.N.V, buộc bị đơn:
+ Ngân hàng Việt Á phải thực hiện nghĩa vụ hoàn trả cho Công ty TNHH K.N.V số
tiền tạm ứng còn thiếu là 1.510.000.000 đồng;
+ Công ty Cửu Long phải thanh toán cho Công ty K.N.V số tiền 946.200.000 đồng.
Theo nhóm, Tòa ra quyết định như vậy là hợp lý.
Thứ nhất, Hợp đồng mà hai bên Công ty K.N.V và Công ty Cửu Long đã kí kết có
quy định rõ trường hợp bên Công ty Cửu Long cố tình trì hoãn, chậm giao hàng, không
giao hàng mà do lỗi của Công ty thig phải chịu phạt 5% giá trị hợp đồng và trả lãi tiền ký
quỹ tạm ứng cho Công ty K.N.V theo lãi suất ngân hàng Nhà nước quy định cho thời
gian chậm trễ. Ngày 15/4/2016, Công ty K.N.V đã chuyển 04 lần tổng số tiền
3.060.000.000 đồng vào tài khoản của Công ty Cửu Long tại Ngân hàng Việt Á. Như
vậy, theo hợp đồng đã ký, chậm nhất 20 ngày sau, tức ngày 09/5/2016, Công ty Cửu
Long phải giao 3000 tấn phân bón urea hạt trong cho Công ty K.N.V. Tuy nhiên, Công ty
Cửu Long lại cho rằng thời hạn giao hàng chậm nhất là ngày 27/5/2016, điều này không
thuyết phục. Theo thỏa thuận trong hợp đồng, việc Tòa án buộc Công ty Cửu Long trả số
tiền 946.200.000 đồng (gồm 5% tiền phạt giá trị hợp đồng, tiền lãi của số tiền
1.510.000.000 đồng) là hợp lý.
Thứ hai, Ngân hàng đã phát hành Thư bảo lãnh hoàn trả tiền ứng trước vào ngày
14/4/2016 và tiếp tục phát hành thêm Thư tu chỉnh bảo lãnh ngày 04/5/2016 để gia hạn
hiệu lực của Thư bảo lãnh đến 17 giờ 00 phút ngày 09/5/2016. Ngân hàng Việt Á đã đồng
ý bảo lãnh cho Công ty Cửu Long. Điều 335 Bộ luật Dân sự 2015 quy định về bảo lãnh
như sau:
“Điều 335. Bảo lãnh
1. Bảo lãnh là việc người thứ ba (sau đây gọi là bên bảo lãnh) cam kết với bên có
quyền (sau đây gọi là bên nhận bảo lãnh) sẽ thực hiện nghĩa vụ thay cho bên có nghĩa vụ
(sau đây gọi là bên được bảo lãnh), nếu khi đến thời hạn thực hiện nghĩa vụ mà bên được
bảo lãnh không thực hiện hoặc thực hiện không đúng nghĩa vụ.
2. Các bên có thể thỏa thuận về việc bên bảo lãnh chỉ phải thực hiện nghĩa vụ thay
cho bên được bảo lãnh trong trường hợp bên được bảo lãnh không có khả năng thực
hiện nghĩa vụ bảo lãnh.”
Do đến ngày 09/5/2016, Công ty Cửu Long (bên được bảo lãnh) không thực hiện
nghĩa vụ giao hàng, Công ty K.N.V (bên nhận bảo lãnh) có quyền yêu cầu Ngân hàng
Việt Á (bên bảo lãnh) thực hiện nghĩa vụ. Ngân hàng không đề cập đến nội dung Ngân
hàng từ chối trách nhiệm bảo lãnh do Công ty K.N.V không gửi Thư bảo lãnh bản gốc
cho Ngân hàng và cũng không yêu cầu Công ty phải gửi Thư bảo lãnh bản gốc ngay ngày
09/5/2016 trong Công văn. Công ty Cửu Long trước đó đã đề nghị Ngân hàng Việt Á tạm
thời ngưng việc hoàn trả tiền tạm ứng. Như vậy, Ngân hàng Việt Á đã chấp nhận đề nghị
trì hoãn thực hiện nghĩa vụ bảo lãnh như cam kết của Công ty Cửu Long. Khoản 1 và
khoản 4 Điều 19 Thông tư 07/2015/TT-NHNN quy định về thời hạn của cam kết bảo
lãnh (thư bảo lãnh) như sau:
“Điều 19. Thời hạn hiệu lực của cam kết bảo lãnh, thỏa thuận cấp bảo lãnh
1. Thời hạn hiệu lực của cam kết bảo lãnh được xác định từ ngày phát hành cam kết
bảo lãnh hoặc sau ngày phát hành cam kết bảo lãnh theo thỏa thuận của các bên liên
quan cho đến thời điểm hết hiệu lực của nghĩa vụ bảo lãnh quy định tại Điều 23 của
Thông tư này.
...
4. Việc gia hạn hiệu lực của cam kết bảo lãnh do các bên thỏa thuận phù hợp với
thỏa thuận cấp bảo lãnh.”
Theo căn cứ trên, vào lúc 17 giờ 00 phút, Thư bảo lãnh hết hiệu lực. Trước 17 giờ 00
phút, Công ty K.N.V đã gửi Công văn đến Ngân hàng Việt Á đề nghị thực hiện trách
nhiệm bảo lãnh. Hơn nữa, sau khi nhận được Thông báo từ Ngân hàng ngày 11/5/2016,
Công ty K.N.V đã gửi Thư bảo lãnh bản gốc cho Ngân hàng vào ngày 12/5/2016. Với các
nội dung trên, việc Ngân hàng Việt Á từ chối thực hiện nghĩa vụ bảo lãnh là không phù
hợp. Vì vậy, Tòa án cũng có căn cứ khi buộc Ngân hàng Việt Á phải thực hiện nghĩa vụ
hoàn trả số tiền tạm ứng còn thiếu 1.510.000.000 đồng cho Công ty K.N.V.
VẤN ĐỀ 4: GIẢM MỨC BỒI THƯỜNG DO HOÀN CẢNH KINH TẾ KHÓ
KHĂN
Tình huống
: Anh Nam là người thuộc quản lý của UBND xã, đã vô ý gây thiệt hại cho bà
Chính khi thực hiện công việc được UBND xã giao. Thực tế, thiệt hại quá lớn so
với khả năng kinh tế của anh Nam và Tòa án đã áp dụng các quy định về giảm
mức bồi thường do thiệt hại quá lớn so với khả năng kinh tế của anh Nam để ấn
định mức bồi thường.
4.1. Từng điều kiện được quy định trong BLDS để giảm mức bồi thường do thiệt
hại quá lớn so với khả năng kinh tế.
Theo khoản 2 Điều 585 BLDS 2015 thì “người chịu trách nhiệm bồi thường thiệt hại
có thể được giảm mức bồi thường nếu không có lỗi hoặc có lỗi vô ý và thiệt hại quá lớn
so với khả năng kinh tế của mình”. Vậy 2 yếu tố để xét giảm mức bồi thường do thiệt hại
quá lớn so với khả năng kinh tế cụ thể là:
- Lỗi do vô ý
- Mức bồi thường quá lớn so với khả năng kinh tế của người gây ra thiệt hại.
Theo Nghị quyết số 03/2006/NQ-HĐTP định nghĩa về thiệt hại quá lớn so với khả
năng kinh tế là “thiệt hại xảy ra quá lớn so với khả năng kinh tế trước mắt và lâu dài của
người gây thiệt hại, có nghĩa là thiệt hại xảy ra mà họ có trách nhiệm bồi thường so với
hoàn cảnh kinh tế trước mắt của họ cũng như về lâu dài họ không thể có khả năng bồi
thường được toàn bộ hoặc phần lớn thiệt hại đó”.
4.2. Trong tình huống nêu trên, việc Tòa án áp dụng các quy định về giảm mức
bồi thường do thiệt hại quá lớn so với khả năng kinh tế của anh Nam để ấn định
mức bồi thường có thuyết phục không? Vì sao?
Việc Toà án áp dụng các quy định về giảm mức bồi thường do thiệt hại quá lớn so với
khả năng kinh tế của anh Nam để ấn định mức bồi thường là thuyết phục. Tuy nhiên, vì
anh Nam thuộc quản lý của UBND xã nên Toà cần áp dụng thêm Điều 598 về bồi thường
thiệt hại do người thi hành công vụ gây ra thì “Nhà nước có trách nhiệm bồi thường thiệt
hại do hành vi trái pháp luật của người thi hành công vụ gây ra theo quy định của Luật
trách nhiệm bồi thường của Nhà nước”. Trách nhiệm bồi thường thiệt hại do cán bộ, công
chức gây ra là loại trách nhiệm bồi thường thiệt hại mang tính đặc thù, được điều chỉnh
bởi Luật Trách nhiệm bồi thường của Nhà nước.
Vậy khi người thi hành công vụ gây ra thiệt hại cho cá nhân, tổ chức khác thì trách
nhiệm bồi thường thiệt hại thuộc về nhà nước. Sau đó, người thi hành công vụ có lỗi gây
thiệt hại “có nghĩa vụ hoàn trả cho ngân sách nhà nước một phần hoặc toàn bộ số tiền mà
Nhà nước đã bồi thường cho người bị thiệt hại theo Điều 64 Luật Trách nhiệm bồi
thường của Nhà nước 2017.
VẤN ĐỀ 5: BỒI THƯỜNG THIỆU HAI DO NGUỒN NGUY HIỂM CAO ĐỘ
GÂY RA
Quyết định số 30/2010/DS-GĐT ngày 22/01/2010 của Tòa dân sự Tòa án nhân
dân tối cao.
Nguyên đơn: Anh Nguyễn Hữu Công
Bị đơn: Chi nhánh điện Cái Bè
Cháu Lợi (con của anh Công – nguyên đơn) bị điện giật chết, nguyên nhân là do
đường dây điện hạ thế sau công tơ tổng bị hở mạch điện. Anh Công yêu cầu Chi nhánh
điện Cái Bè (bị đơn) phải BTTH cho gia đình anh là 28 triệu đồng. Bị đơn không đồng ý
với yêu cầu của nguyên đơn và tự nguyện hỗ trợ cho gia đình nguyên đơn là 3 triệu đồng.
Xét thấy nguyên nhân cháu Lợi bị chết là do đường dây điện hạ thế sau công tơ tổng
bị hở mạch điện. Trong trường hợp này, nếu anh Công khởi kiện không đúng đối tượng
thì Tòa sơ thẩm và Tòa phúc thẩm phải hướng dẫn cho anh Công khởi kiện đúng đối
tượng. Tòa sơ thẩm và Tòa phúc thẩm nhận định anh Công khởi kiện không đúng đối
tượng để bác yêu cầu khởi kiện của anh Công là không đúng. Làm ảnh hưởng đến quyền,
lợi ích hợp pháp của gia đình anh Công.
5.1. Đoạn nào của Quyết định cho thấy Tòa án đã vận dụng chế định bồi thường
thiệt hại do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra?
“Khi giải quyết vụ án, Toà án các cấp cần xác định rõ đường dây điện đó do ai quản
lý, sử dụng; từ đó căn cứ vào Điều 623 Bộ luật dân sự và Bộ luật số 45/2001/NĐCP ngày
02-08-2001 của Chính phủ quy định về hoạt động điện lực và sử dụng điện để giải
quyết”.
Điều 623 BLDS 2005 mà Toà án vận dụng để xét xử tương ứng với Điều 601 BLDS
2015 về bồi thường thiệt hại do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra.
5.2. Suy nghĩ của anh/chị về việc Tòa án xác định đây là bồi thường thiệt hại do
nguồn nguy hiểm cao độ gây ra.
Bồi thường thiệt hại (BTTH) do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra là loại trách nhiệm
đặc biệt bởi lẽ thiệt hại xảy ra không phải do hành vi và do lỗi của con người mà do hoạt
động của những sự vật mà hoạt động của chúng luôn tiềm ẩn khả năng gây thiệt hại. Mặc
dù chủ sở hữu hoặc người chiếm hữu nguồn nguy hiểm cao độ có thể không có lỗi đối
với thiệt hại nhưng để bảo đảm quyền lợi hợp pháp cho người bị thiệt hại, pháp luật vẫn
buộc họ có trách nhiệm bồi thường.
Tức là việc xác định trách nhiệm BTTH không phụ thuộc vào yếu tố lỗi nhằm nâng
cao trách nhiệm của chủ sở hữu, người quản lý, sử dụng nguồn nguy hiểm cao độ buộc
họ phải tuân thủ các quy định bảo quản, trông giữ, vận chuyển, sử dụng nguồn nguy hiểm
cao độ theo đúng quy định của pháp luật.
Căn cứ vào Điều 601 BLDS 2015 về Bồi thường thiệt hại do nguồn nguy hiểm cao độ
gây ra:
“1. Nguồn nguy hiểm cao độ bao gồm phương tiện giao thông vận tải cơ giới, hệ
thống tải điện, nhà máy công nghiệp đang hoạt động, vũ khí, chất nổ, chất cháy, chất
độc, chất phóng xạ, thú dữ và các nguồn nguy hiểm cao độ khác do pháp luật quy định.
Chủ sở hữu nguồn nguy hiểm cao độ phải vận hành, sử dụng, bảo quản, trông giữ,
vận chuyển nguồn nguy hiểm cao độ theo đúng quy định của pháp luật.
2. Chủ sở hữu nguồn nguy hiểm cao độ phải bồi thường thiệt hại do nguồn nguy hiểm
cao độ gây ra; nếu chủ sở hữu đã giao cho người khác chiếm hữu, sử dụng thì người này
phải bồi thường, trừ trường hợp có thỏa thuận khác.
3. Chủ sở hữu, người chiếm hữu, sử dụng nguồn nguy hiểm cao độ phải bồi thường
thiệt hại cả khi không có lỗi, trừ trường hợp sau đây:
a) Thiệt hại xảy ra hoàn toàn do lỗi cố ý của người bị thiệt hại;
b) Thiệt hại xảy ra trong trường hợp bất khả kháng hoặc tình thế cấp thiết, trừ trường
hợp pháp luật có quy định khác.
4. Trường hợp nguồn nguy hiểm cao độ bị chiếm hữu, sử dụng trái pháp luật thì
người đang chiếm hữu, sử dụng nguồn nguy hiểm cao độ trái pháp luật phải bồi thường
thiệt hại.
Khi chủ sở hữu, người chiếm hữu, sử dụng nguồn nguy hiểm cao độ có lỗi trong việc
để nguồn nguy hiểm cao độ bị chiếm hữu, sử dụng trái pháp luật thì phải liên đới bồi
thường thiệt hại.”
Khái niệm này đã kế thừa toàn bộ theo quy đinh tại khoản 1 Điều 623 BLDS năm
2005. Theo đó, Điều 623, BLDS năm 2005 cũng như hướng dẫn tại Nghị quyết số
03/2006/NQ – HĐTP ngày 08/07/2006 hướng dẫn áp dụng một số quy định của BLDS
năm 2005 về BTTH ngoài hợp đồng, không đưa ra khái niệm nguồn nguy hiểm cao độ
mà chỉ liệt kê các đối tượng được coi là nguồn nguy hiểm cao độ. Tuy nhiên, qua quy
định trên, ta có thể hiểu: “Nguồn nguy hiểm cao độ là những vật chất nhất định do pháp
luật quy định luôn tiềm ẩn nguy cơ gây thiệt hại cho con người, con người không thể
kiểm soát được một cách tuyệt đối”.
Thực tế, việc xác định nguồn nguy hiểm cao độ không chỉ căn cứ vào khái niệm
nguồn nguy hiểm cao độ tại Điều 601 BLDS mà còn phải căn cứ vào các văn bản, các
quy định khác có liên quan.
Bên cạnh đó, việc áp dụng quy định về BTTH do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra phải
xác định thiệt hại đó do tự thân nguồi nguy hiểm cao độ gây ra hay do hành vi sử dụng
nguồn nguy hiểm cao độ. Theo em, chỉ được coi là nguồn nguy hiểm cao độ gây thiệt hại
khi có đủ hai yếu tố sau:
(1) Phải có sự hiện diện của một loại nguồn nguy hiểm cao độ, tức là tài sản gây thiệt
hại phải là nguồn nguy hiểm cao độ theo quy định tại khoản 1 Điều 623 BLDS năm 2005
và Điều 601 BLDS năm 2015;
(2) Thiệt hại phải do tự thân hoạt động của nguồn nguy hiểm cao độ gây ra (ví dụ xe ô
tô đang di chuyển thì bị nổ lốp gây thiệt hại, xe ô tô đang xuống dốc thì đứt phanh dẫn
đến tai nạn…).
Theo quy định trên thì nguồn nguy hiểm cao độ được định nghĩa theo cách liệt kê và
bao gồm phương tiện giao thông vận tải cơ giới, hệ thống tải điện, nhà máy công nghiệp
đang hoạt động, vũ khí, chất nổ, chất cháy, chất độc, chất phóng xạ, thú dữ và các nguồn
nguy hiểm cao độ khác do pháp luật quy định.
Hệ thống tải điện đang hoạt động là nguồn nguy hiểm cao độ, vì nó thuộc trường hợp
được quy định tại khoản 1 Điều 601 BLDS 2015 và thiệt hại là do sự rò rỉ trong quá trình
hoạt động của hệ thống.
Vậy nên hệ thống tải điện trong tình huống trên được tòa án xem là nguồn nguy hiển
cao độ là hợp lý.
5.3. Tòa dân sự có cho biết ai là chủ sở hữu đường dây điện hạ thế gây thiệt hại
không?
Tòa dân sự không cho biết ai là chủ sở hữu của đường dây điện hạ thế gây thiệt hại.
Cụ thể tại phần XÉT THẤY của Hội đồng Giám đốc thẩm tòa dân sự tòa án nhân dân
tối cao: “Khi giải quyết vụ án, Tòa án các cấp cần xác định rõ đường dây điện đó do ai
quản lý, sử dụng; từ đó căn cứ vào Điều 623 Bộ luật dân sự và Nghị định số 45/2001/NĐ-
CP ngày 02-08-2001 của Chính phủ quy định về hoạt động điện lực và sử dụng điện để
giải quyết”
5.4. Theo anh/chị, ai là chủ sở hữu đường giây hạ thế gây thiệt hại?
Theo em chủ sỡ hữu của đường dây điện hạ thế là tổ điện xã Tân Hưng (do anh Ri và
các tổ viên quản lý). Vì theo thời điểm xảy ra vụ án, tổ điện 4 (do Trần Văn Ri làm Tổ
trưởng tổ điện quản lý) quản lý, sử dụng. Và trong hợp đồng mua bán điện cũng do ông
Trần Văn Ri ký, hợp đồng mua bán điện quy định bên bán điện là đảm bảo cung cấp điện
ổn định, an toàn cho bên mua điện; bên mua điện có nghĩa vụ sử dụng điện an toàn, chịu
trách nhiệm quản lý từ đầu dây ra của công tơ vào nhà (đối với công tơ đặt bên ngoài
nhà). Khi đường dây hạ thế sau điện kế bị rò rỉ nguồn điện, làm chết người, trách nhiệm
của chủ sở hữu nguồn nguy hiểm cao độ là của Công ty điện lực 2 và trách nhiệm của bên
quản lý, sử dụng đường dây điện nêu trên là tổ điện 4 xã Tân Hưng (do anh Ri và các tổ
viên quản lý).
5.5. Theo Tòa dân sự, chủ thể nào sẽ chịu trách nhiệm bồi thường thiệt hại cho
gia đình nạn nhân?
Theo Tòa dân sự, chủ thể chịu trách nhiệm bồi thường thiệt hại cho gia đình nạn nhân
gồm: Chủ sở hữu; người được chủ sở hữu giao chiếm hữu, sử dụng nguồn nguy hiểm cao
độ phải bồi thường thiệt hại ngay cả khi không có lỗi.
5.6. Suy nghĩ của anh/chị về hướng xử lý trên của Tòa dân sự Tòa án nhân dân
tối cao liên quan đến xác định chủ thể chịu trách nhiệm bồi thường thiệt hại cho gia
đình nạn nhân.
x
VẤN ĐỀ 6: BỒI THƯỜNG THIỆT HẠI DO NGƯỜI THI HÀNH CÔNG VỤ
GÂY RA
Bản án số 02/2015/HSST ngày 15/4/2015 của Tòa án nhân dân tỉnh Phú Yên;
Người bị hại: Ngô Thanh Kiều
Bị cáo: Nguyễn Thân Thảo Thành, Nguyễn Minh Quyền, Phạm Ngọc Mẫn, Nguyễn
Tấn Quang, Đỗ Như Huy, Lê Đức Hoàn
Rạng sáng ngày 12/5/2012, Ngô Thanh Kiều cùng với Trần Minh Cường, Ngô Thanh
Sơn sử dụng xe ô tô đi trộm cắp tài sản. Sơn và Kiều ngồi trong xe, còn Cường đột nhập
vào nhà bà Nguyễn Thị Thuẫn trộm cắp được 14.000.000đ và 05 điện thoại di động. Qua
theo dõi định vụ GPRS được gắn trên xe ôtô, Ban chuyên án đã theo dõi để bắt quả tang
nhưng bị các đối tượng phát hiện nên lên xe ôtô bỏ chạy. Sáng ngày 12/5/2012, Sơn bị
Cơ quan điều tra bắt giữ. Sáng ngày 13/5/2012, Cường đến Phòng PC45 Công an tỉnh
Phú Yên đầu thú. Sơn và Cường khai báo đã cùng với Kiều trộm cắp tài sản nhà bà
Thuẫn và 07 vụ trộm khác. Trưa ngày 13/5/2012, Kiều bị bắt giữ.
Đến 08 giờ ngày 13/5/2012, Nguyễn Minh Quyền và Phạm Ngọc Mẫn được Lê Đức
Hoàn phân công xét hỏi Kiều tại phòng làm việc của Đội điều tra tổng hợp. Mẫn dòng
còng số 8 còng một tay Kiều vào thành ghế. Do Kiều ngoan cố không khai nhận cùng
đồng bọn trộm cắp tài sản nên Mẫn và Quyền dùng gậy cao su đánh nhiều cái vào bắp
đùi, cẳng chân của Kiều. Đến khoảng 10 giờ 30 phút, Đỗ Như Huy được Lê Đức Hoàn
phân công đến phòng xét hỏi Kiều để chiếu theo lời khai của Sơn với Kiều. Do Kiều
không trả lời, thái độ bất hợp tác nên Huy dùng gậy cao su đánh vào đùi của Kiều, rồi ra
ngoài.
Đến khoảng hơn 11 giờ, Nguyễn Tấn Quang hết ca trực bạn ở cổng đơn vị đi vào
phòng, Quang cùng với Quyền và Mẫn xét hỏi Kiều. Quang mở còng tay Kiều đang còng
một tay vào thành ghế, Quang hỏi Kiều về các vụ trộm cắp nhưng Kiều không trả lời nên
Quang dùng gậy cao su đánh vào chân của Kiều nhiều cái, dùng chân đạp vào còng đang
còng tay Kiều.
Sau đó, Quang bỏ ra ngoài. Đến khoảng 12 giờ, Nguyễn Thân Thảo Thành được ông
Nguyễn Trần Nguyên Phúc phân công canh giữ Kiều để Quyền và Mẫn đi ăn cơm trưa.
Đến khoảng 12 giờ, Thành ngồi trên mặt bàn làm việc, chân phải dẫm lên mặt ghế Kiều
đang ngồi và hỏi Kiều về việc trộm cắp tài sản nhưng Kiều không trả lời nên Thành dùng
tay trái cầm gậy cao su có sẵn trên mặt bàn đánh từ 02 đến 03 cái vào đầu của Kiều, theo
hướng từ trên xuống. Do bị đánh đau nên Kiều kêu la to, khi đó có Hà Văn Đại chứng
kiến và có nhiều cán bộ, chiến sỹ đang ăn cơm, uống nước ở tiền sảnh nghe rõ tiếng Kiều
kêu la.
Đến khoảng hơn 14 giờ, Lê Đức Hoàn chỉ đạo Mẫn, Thành và Đặng Quốc Bảo dẫn
kiều lên phòng PC45, Công an tỉnh Phú Yên để làm việc. Thấy mặt Kiều tái nhợt nên ông
Hồ Tấn Thắng chỉ đạo đưa Kiều đến Bệnh xá Công an tỉnh khám. Đến 17 giờ 40 phút,
sức khỏe Kiều quá yếu nên Bệnh xá chuyển đến Bệnh viện đa khoa tỉnh Phú Yên cấp cứu
nhưng Kiều đã tử vong trên đường.
Bản giám định pháp y số 91/2012/GĐPY ngày 20/6/2012 của Trung tâm pháp y tỉnh
Phú Yên xác định các vết thương trên cơ thể nạn nhân Ngô Thanh Kiều và đưa ra kết
luận chấn thương sọ não là nguyên nhân chính dẫn đến Kiều tử vọng.
Về bồi thường dân sự: Các bị cáo tự nguyện bồi thường số tiền 186.000.000đ cho các
khoản bù đắp tổn thất về tinh thần và mai táng phí cho đại diện hợp pháp của người bị
hại. Buộc Công an thành phố Tuy Hòa cấp dưỡng nuôi hai con anh Ngô Thanh Kiều mỗi
cháu 575.000đ/tháng cho đến khi phát sinh một trong các trường hợp chấm dứt nghĩa vụ
cấp dưỡng quy định tại Điều 118 Luật hôn nhân và gia đình năm 2014.
6.1. Những khác biệt cơ bản về thiệt hại được bồi thường khi một cá nhân chết
theo Luật trách nhiệm bồi thường của Nhà nước và BLDS.
Luật trách nhiệm bồi Bộ luật Dân sự 2015
thường của Nhà Nước 2017
Cơ sở pháp lý Điều 25, Điều 27 Điều 591, Điều 593
Những chi phí phải bồi - Chi phí khám bệnh, - Thiệt hại do sức khỏe
thường chữa bệnh theo quy định bị xâm phạm theo quy định
của pháp luật về khám tại Điều 590 của Bộ luật
bệnh, chữa bệnh cho người này
bị thiệt hại trước khi chết. - Chi phí cho việc mai
- Chi phí bồi dưỡng sức tang
khỏe cho người bị thiệt hại - Tiền cấp dưỡng cho
trước khi chết được xác những người mà người bị
định là 01 ngày lương tối thiệt hại có nghĩa vụ cấp
thiểu vùng tại cơ sở khám dưỡng
bệnh, chữa bệnh cho 01 - Thiệt hại khác do luật
ngày khám bệnh, chữa quy định.
bệnh theo số ngày trong hồ
- Một khoản tiền khác
sơ bệnh án.
để bù đắp tổn thất về tinh
- Chi phí cho người thần cho những người thân
chăm sóc người bị thiệt hại thích thuộc hàng thừa kế
trong thời gian khám bệnh, thứ nhất của người bị thiệt
chữa bệnh trước khi chết hại, nếu không có những
được xác định là 01 ngày người này thì người mà
lương tối thiểu vùng tại cơ người bị thiệt hại đã trực
sở khám bệnh, chữa bệnh tiếp nuôi dưỡng, người đã
cho 01 ngày chăm sóc trực tiếp nuôi dưỡng người
người bị thiệt hại. bị thiệt hại được hưởng
- Chi phí cho việc mai khoản tiền này
táng người bị thiệt hại chết
được xác định theo mức trợ
cấp mai táng theo quy định
của pháp luật về bảo hiểm
xã hội.
- Tiền cấp dưỡng cho
những người mà người bị
thiệt hại đang thực hiện
nghĩa vụ cấp dưỡng
Chi phí mai táng Được xác định theo Chi phí hợp lý cho việc
mức trợ cấp mai táng theo mai táng.
quy định của pháp luật về
bảo hiểm xã hội.
Tiền cấp dưỡng cho Được xác định là 01 Không quy định cụ thể
những người mà người bị tháng lương tối thiểu vùng là bao nhiêu.
thiệt hại đang thực hiện tại nơi người được cấp
nghĩa vụ cấp dưỡng dưỡng đang cư trú cho mỗi
tháng thực hiện nghĩa vụ
cấp dưỡng, trừ trường hợp
pháp luật có quy định khác
hoặc đã được xác định theo
bản án, quyết định đã có
hiệu lực pháp luật của cơ
quan nhà nước có thẩm
quyền.
Mức bồi thường thiệt Thiệt hại về tinh thần Mức bồi thường bù đắp
hại về tinh thần cho gia trong trường hợp người bị tổn thất về tinh thần do các
đình người bị thiệt hại về thiệt hại chết được xác định bên thỏa thuận; nếu không
tính mạng là 360 tháng lương cơ sở. thỏa thuận được thì mức tối
Lưu ý: Trường đa cho một người có tính
hợp người bị thiệt hại mạng bị xâm phạm không
chết thì không áp dụng bồi quá một trăm lần mức
thường thiệt hại về tinh lương cơ sở do Nhà nước
thần quy định tại các khoản quy định.
1, 2, 3 và 5 Điều 27.
Phục hồi danh dự Trường hợp người bị Không có quy định cụ
thiệt hại chết thì cơ quan thể.
trực tiếp quản lý người thi
hành công vụ gây thiệt hại
thực hiện việc đăng báo xin
lỗi và cải chính công khai
theo quy định tại Điều 59.

6.2. Hoàn cảnh như trong vụ việc trên có được Luật trách nhiệm bồi thường của
Nhà nước điều chỉnh không? Vì sao?
Hoàn cảnh trong vụ việc trên không được Luật trách nhiệm bồi thường của Nhà nước
điều chỉnh.
Điều 1 Luật trách nhiệm bồi thường của Nhà nước 2017 quy định về phạm vi điều
chỉnh như sau:
“Luật này quy định trách nhiệm bồi thường của Nhà nước đối với cá nhân, tổ chức bị
thiệt hại do người thi hành công vụ gây ra trong hoạt động quản lý hành chính, tố tụng
và thi hành án; thiệt hại được bồi thường; quyền, nghĩa vụ của cá nhân, tổ chức bị thiệt
hại; cơ quan giải quyết bồi thường; thủ tục giải quyết yêu cầu bồi thường; phục hồi danh
dự; kinh phí bồi thường; trách nhiệm hoàn trả; trách nhiệm của các cơ quan nhà nước
trong công tác bồi thường nhà nước.”
Người thi hành công vụ được hiểu theo khoản 2 Điều 3 bộ luật này: “Người thi hành
công vụ là người được bầu cử, phê chuẩn, tuyển dụng hoặc bổ nhiệm theo quy định của
pháp luật về cán bộ, công chức và pháp luật có liên quan vào một vị trí trong cơ quan
nhà nước để thực hiện nhiệm vụ quản lý hành chính, tố tụng hoặc thi hành án hoặc người
khác được cơ quan nhà nước có thẩm quyền giao thực hiện nhiệm vụ có liên quan đến
hoạt động quản lý hành chính, tố tụng hoặc thi hành án”. Với quy định trên, 05 bị cáo
(Nguyễn Thân Thảo Thành, Nguyễn Minh Quyền, Phạm Ngọc Mẫn, Nguyễn Tấn Quang,
Đỗ Như Huy, Lê Đức Hoàn) công tác tại Công an tỉnh Phú Yên và Công an thành phố
Tuy Hòa được xác định là người thi hành công vụ.
Tuy nhiên, hoàn cảnh do 05 bị cáo gây ra lại không được Luật TNBTCNN điều chỉnh.
Bởi lẽ, Luật này điều chỉnh vấn đề bồi thường thiệt hại “do người thi hành công vụ gây
ra” nhưng chỉ áp dụng “trong hoạt động quản lý hành chính, tố tụng, thi hành án” (Điều
1). Ở đây, hoàn cảnh 05 bị cáo gây thiệt hại không nằm trong khuôn khổ của thi hành án
và cũng không nằm trong khuôn khổ của tố tụng hay quản lý hành chính. Về hoạt động
quản lý hành chính, Luật TNBTCNN 2017 liệt kê những hành vi thuộc phạm vi điều
chỉnh của Luật tại Điều 17 về Phạm vi trách nhiệm bồi thường trong hoạt động quản lý
hành chính và hoàn cảnh của 05 bị cáo không thuộc danh sách những hành vi này. Về
hoạt động tố tụng và thi hành án, những hành vi thuộc phạm vi điều chỉnh của Luật
TNBTCNN 2017 quy định tại Điều 18, Điều 19, Điều 20 và Điều 20 và hoàn cảnh của 05
bị cáo cũng không thuộc những hành vi đó.
“Xét thấy, đối với các ông Nguyễn Văn Lai, Võ Công Phi cùng một số cán bộ công
an có hành vi còng tay Ngô Thanh Kiều tại nhà riêng, dẫn giải về trụ sở Công an, trong
khi không có lệnh bắt giữ là có dấu hiệu của tội "Bắt, giữ người trái pháp luật". Tuy
nhiên, tại thời điểm này đã có căn cứ xác định Kiều là đồng phạm trong vụ "Trộm cắp tài
sản" cùng Trần Minh Cường và Ngô Thanh Sơn, Kiều là người đã có tiền án, tiền sự; có
biểu hiện bỏ trốn sau khi vụ án bị phát hiện, truy đuổi; việc còng tay nhằm tránh để xảy
ra trường hợp đối tượng manh động, bỏ trốn. Nên Cơ quan điều tra Viện kiểm sát nhân
dân tối cao kết luận: Việc bắt giữ là có căn cứ và cần thiết, chỉ vi phạm về hình thức, thủ
tục tố tụng….”
6.3. Nếu hoàn cảnh như trong vụ án trên xảy ra sau khi BLDS 2015 có hiệu lực,
hướng giải quyết có khác hướng giải quyết trong vụ án không? Vì sao?
Nếu hoàn cảnh như trong vụ án trên xảy ra sau khi BLDS 2015 có hiệu lực, hướng
giải quyết sẽ khác hướng giải quyết trong vụ án.
Vụ án anh Kiều không thuộc bất kì trường hợp nào được liệt kê trong Điều 18 Luật
Trách nhiệm bồi thường của Nhà nước, tức là không áp dụng được Luật Trách nhiệm bồi
thường của Nhà nước nên khi ấy phải dựa vào Điều 620 BLDS 2005.
“Điều 18. Phạm vi trách nhiệm bồi thường của Nhà nước trong hoạt động tố tụng
hình sự
Nhà nước có trách nhiệm bồi thường thiệt hại trong các trường hợp sau đây:
1. Người bị giữ trong trường hợp khẩn cấp mà không có căn cứ theo quy định của Bộ
luật Tố tụng hình sự và người đó không thực hiện hành vi vi phạm pháp luật;
2. Người bị bắt, người bị tạm giữ mà có quyết định của cơ quan, người có thẩm quyền
trong hoạt động tố tụng hình sự quyết định trả tự do, hủy bỏ quyết định tạm giữ, không
phê chuẩn lệnh bắt, quyết định gia hạn tạm giữ vì người đó không thực hiện hành vi vi
phạm pháp luật;
3. Người bị tạm giam mà có bản án, quyết định của cơ quan, người có thẩm quyền
trong hoạt động tố tụng hình sự xác định không có sự việc phạm tội hoặc hành vi không
cấu thành tội phạm hoặc đã hết thời hạn điều tra vụ án mà không chứng minh được bị
can đã thực hiện tội phạm;
4. Người đã chấp hành xong hoặc đang chấp hành hình phạt tù có thời hạn, tù chung
thân, người đã bị kết án tử hình, người đã thi hành án tử hình mà có bản án, quyết định
của cơ quan, người có thẩm quyền trong hoạt động tố tụng hình sự xác định không có sự
việc phạm tội hoặc hành vi không cấu thành tội phạm;
5. Người bị khởi tố, truy tố, xét xử, thi hành án không bị tạm giữ, tạm giam, thi hành
hình phạt tù mà có bản án, quyết định của cơ quan, người có thẩm quyền trong hoạt
động tố tụng hình sự xác định không có sự việc phạm tội hoặc hành vi không cấu thành
tội phạm hoặc đã hết thời hạn điều tra vụ án mà không chứng minh được bị can đã thực
hiện tội phạm;
6. Người bị khởi tố, truy tố, xét xử về nhiều tội trong cùng một vụ án, đã chấp hành
hình phạt tù mà sau đó có bản án, quyết định của cơ quan, người có thẩm quyền trong
hoạt động tố tụng hình sự xác định người đó không phạm một hoặc một số tội và hình
phạt chung sau khi tổng hợp hình phạt của những tội còn lại ít hơn thời gian đã bị tạm
giam, chấp hành hình phạt tù thì được bồi thường thiệt hại tương ứng với thời gian đã bị
tạm giam, chấp hành hình phạt tù vượt quá so với mức hình phạt của những tội mà người
đó phải chấp hành;
7. Người bị khởi tố, truy tố, xét xử về nhiều tội trong cùng một vụ án và bị kết án tử
hình nhưng chưa thi hành mà sau đó có bản án, quyết định của cơ quan, người có thẩm
quyền trong hoạt động tố tụng hình sự xác định người đó không phạm tội bị kết án tử
hình và hình phạt chung sau khi tổng hợp hình phạt của những tội còn lại ít hơn thời
gian đã bị tạm giam thì được bồi thường thiệt hại tương ứng với thời gian đã bị tạm giam
vượt quá so với mức hình phạt chung của những tội mà người đó phải chấp hành;
8. Người bị xét xử bằng nhiều bản án, Tòa án đã tổng hợp hình phạt của nhiều bản án
đó mà sau đó có bản án, quyết định của cơ quan, người có thẩm quyền trong hoạt động
tố tụng hình sự xác định người đó không phạm một hoặc một số tội và hình phạt của
những tội còn lại ít hơn thời gian đã bị tạm giam, chấp hành hình phạt tù thì được bồi
thường thiệt hại tương ứng với thời gian đã bị tạm giam, chấp hành hình phạt tù vượt
quá so với mức hình phạt của những tội mà người đó phải chấp hành;
9. Pháp nhân thương mại bị khởi tố, truy tố, xét xử, thi hành án mà sau đó có bản án,
quyết định của cơ quan, người có thẩm quyền trong hoạt động tố tụng hình sự xác định
không có sự việc phạm tội hoặc hành vi của pháp nhân không cấu thành tội phạm hoặc
đã hết thời hạn điều tra vụ án mà không chứng minh được pháp nhân đã thực hiện tội
phạm và pháp nhân đó không thực hiện hành vi vi phạm pháp luật;
10. Cá nhân, tổ chức có tài sản bị thiệt hại do việc thu giữ, tạm giữ, kê biên, tịch thu,
xử lý, có tài khoản bị phong tỏa hoặc cá nhân, tổ chức khác có liên quan đến các trường
hợp quy định tại các khoản 1, 2, 3, 4, 5, 6, 7, 8 và 9 Điều này bị thiệt hại.
Nhưng kể từ khi BLDS 2015 có hiệu lực thì không quy định rõ về trách nhiệm của
Nhà nước trong việc bồi thường thiệt hại như trong Điều 620 BLDS 2005 mà lại để Luật
Trách nhiệm bồi thường của Nhà nước quy định về vấn đề này.
Theo Điều 589 BLDS 2015 về bồi thường thiệt hại do người thi hành công vụ gây ra
thì “Nhà nước có trách nhiệm bồi thường thiệt hại do hành vi trái pháp luật của người
thi hành công vụ gây ra theo quy định của Luật trách nhiệm bồi thường của Nhà nước”.
Suy ra, những trường hợp không thuộc phạm vi được đề cập trong Luật Trách nhiệm bồi
thường của Nhà nước như vụ án của anh Kiều sẽ bị thiệt vì phải dựa vào Điều 589 BLDS
2015. Vì cả BLDS lẫn Luật Trách nhiệm bồi thường của Nhà nước đều không quy định
trách nhiệm bồi thường cho người dân bị hại. Dù không thể biết được nếu dựa vào BLDS
2015, Toà sẽ giải quyết theo hướng nào nhưng có thể khẳng định rằng, dựa vào BLDS
2015 thì thân nhân, gia đình anh Ngô Thanh Kiều sẽ bị thiệt thòi vì luật đã không đề cập
trách nhiệm bồi thường cho người người dân trong những trường hợp mà nhà làm luật
chưa tính đến.

You might also like