You are on page 1of 7

Bài thảo luận môn Dân sự 2

 Tóm tắt Quyết định số 521/2010/DS-GĐT ngày 19/08/2010 của Tòa án


Dân sự Tòa án nhân dân tối cao:
- Hợp đồng mua bán căn nhà giữa ông Nguyễn Danh Đô, bà Phạm Thị Thu với
bà Trần Thị Phố đã được công nhận chứng thực và hoàn thành thủ tục sang tên
đăng ký quyền sở hữu mang tên bà Phố nhưng vẫn còn lại 100 lượng vàng chưa
thanh toán. Ngày 19/05/2004, mặc dù chưa có thỏa thuận với bà Phố nhưng anh
Vinh (con của bà Phố) và vợ chồng bà Thu thỏa thuận hoán nhượng nhà đất trị
giá 100 lượng vàng và bà Phố không phải trả số tiền còn lại. Tuy nhiên, tại thời
điểm giao dịch, Ủy ban nhân dân đã ra quyết định về việc thu hồi đất và giao
đất xây dựng khu đô thị mới, Tòa án xét thấy anh Vinh và người liên quan gồm
có ông Toàn, bà Vân (họ hàng anh Vinh) không thông báo cho ông Đô, bà Thu
về tình trạng nhà đất có sự gian dối. Mà trong thỏa thuận hoán nhượng không
có chữ ký của ông Đô nên giao dịch này vô hiệu. Do đó Tòa án quyết định hủy
bản án phúc thẩm và sơ thẩm để xét xử lại theo đúng quy định của pháp luật.
- Quyết định của Tòa án: Xét thấy quyết định của bản án sơ thẩm và phúc thẩm
còn nhiều sai sót nên quyết định giám đốc thẩm hủy toàn bộ kết quả trước đó,
tiến hành giao lại vụ án cho Toà án nhân dân quận Gò Vấp, thành phố Hồ Chí
Minh xét xử sơ thẩm lại theo đúng quy định của pháp luật.
3.1 Điều kiện để tuyên bố một giao dịch dân sự vô hiệu do có lừa dối theo
BLDS 2005 và BLDS 2015
- Điều kiện để tuyên bố một giao dịch dân sự vô hiệu hóa do có lừa dối theo
BLDS 2005:
+ 1. Khi một bên tham gia giao dịch dân sự do bị lừa dối hoặc bị đe dọa,
cưỡng ép thì có quyền yêu cầu Tòa án tuyên bố giao dịch dân sự đó là vô hiệu.
+ 2. Lừa dối trong giao dịch dân sự là hành vi cố ý của một bên hoặc của
người thứ ba nhằm làm cho bên kia hiểu sai lệch về chủ thể, tính chất của đối
tượng hoặc nội dung của giao dịch dân sự nên đã xác lập giao dịch nên đã xác
lập giao dịch dân sự đó.
+ 3. Đe dọa, cưỡng ép trong giao dịch dân sự là hành vi cố ý của một bên
hoặc người thứ ba làm cho bên kia buộc phải thực hiện giao dịch dân sự nhằm
tránh thiệt hại về tính mạng, sức khỏe, danh dự, uy tín, nhân phẩm, tài sản của
mình hoặc của người thân thích của mình.
+ Theo điều 132 BLDS 2005, Khi một bên tham gia giao dịch dân sự do bị
lừa dối hoặc bị đe dọa thì có quyền yêu cầu Toà án tuyên bố giao dịch dân sự
đó là vô hiệu.

1
- Phân tích điều luật:
+ Điều kiện 1: Khi một bên tham gia giao dịch dân sự do bị lừa dối hoặc bị
đe dọa.
+ Điều kiện 2: Người đó có quyền yêu cầu
=> Khi có hai điều kiện trên thì Tòa án có thể tuyên bố giao dịch dân sự đó là
vô hiệu.
- Điều kiện để tuyên bố một giao dịch dân sự vô hiệu hóa do có lừa dối theo
BLDS 2015:
+ 1. Khi một bên tham gia giao dịch dân sự do bị lừa dối hoặc bị đe dọa thì
có quyền yêu cầu Toà án tuyên bố giao dịch dân sự đó là vô hiệu.
+ 2. Lừa dối trong giao dịch là hành vi cố ý của một bên hoặc của người thứ
ba nhằm làm cho bên kia hiểu sai lệch về chủ thể, tính chất của đối tượng hoặc
nội dung của giao dịch dân sự nên đã xác lập giao dịch đó.
+ 3. Đe dọa trong giao dịch là hành vi cố ý của một bên hoặc người thứ ba
làm cho bên kia buộc phải thực hiện giao dịch nhằm tránh thiệt hại về tính
mạng, sức khỏe, danh dự, uy tín, nhân phẩm, tài sản của mình hoặc của cha,
mẹ, vợ, chồng, con của mình.
+ Theo điều 127 BLDS 2015, khi một bên tham gia giao dịch dân sự do bị
lừa dối hoặc bị đe dọa, cưỡng ép thì có quyền yêu cầu Tòa án tuyên bố giao
dịch dân sự đó là vô hiệu.
- Phân tích điều luật:
+ Điều kiện 1: Khi một bên tham gia giao dịch dân sự do bị lừa dối hoặc bị
đe dọa, cưỡng ép.
+ Điều kiện 2: Người đó có quyền yêu cầu
=> Khi có hai điều kiện trên thì Tòa án có thể tuyên bố giao dịch dân sự đó là
vô hiệu hóa.
- Tuy nhiên, ở BLDS 2015 đã bổ sung thêm thuật ngữ “bị cưỡng ép” vào Điều
127 nhằm bổ sung đầy đủ, chuyên sâu hơn khi so sánh với chỉ sử dụng thuật
ngữ “đe dọa”, bởi “cưỡng ép” là sử dụng sức mạnh vật chất hoặc tinh thần một
cách bất hợp pháp buộc người khác phải thực hiện hoặc không được thực hiện
một công việc trái với ý chí hoặc mong muốn của họ, và động từ “đe dọa” dùng
để chỉ một hành vi uy hiếp tinh thần người khác qua việc thông báo trước bằng
những cách khác nhau sẽ làm hoặc không làm việc bất lợi cho họ hoặc cho
người thân thích của họ nếu không thỏa mãn các đòi hỏi nhất định. Việc bổ
sung thuật ngữ này cho thấy một sự bao hàm rộng hơn không chỉ về mặt ngữ
nghĩa mà còn là tính bao quát, bao hàm của BLDS 2015.
- Ngoài ra, BLDS 2015 còn thay thế cụm từ “cha, mẹ, vợ, chồng, con của
mình” bằng cụm từ “người thân thích của mình”. Đây là sự thay thế hợp lý, bởi
lẽ việc liệt kê các đối tượng theo cách quy định tại Điều 132 BLDS 2005 dẫn
đến phạm vi đối tượng này tương đối hẹp. Trong khi đó, có những người thân

2
thích xung quanh chẳng hạn như ông, bà, cô, chú, cậu, dì… cũng nên được tính
đến.
3.2 Kinh nghiệm của pháp luật nước ngoài trong việc xử lý một bên cố tình
không cung cấp thông tin liên quan đến tài sản trong quá trình xác lập
giao dịch
- Luật Anh và Hoa Kỳ về việc xử lý một bên cố tình không cung cấp thông
tin liên quan đến tài sản trong quá trình xác lập giao dịch
1. Luật Anh:
- Nghĩa vụ cung cấp thông tin: Theo luật Anh, bên bán có nghĩa vụ cung cấp
cho bên mua đầy đủ thông tin về tài sản, bao gồm cả thông tin về bất kỳ gánh
nặng hoặc khiếu nại nào liên quan đến tài sản.
- Hậu quả của việc không cung cấp thông tin: Nếu bên bán cố tình không cung
cấp thông tin, bên mua có thể:
+ Hủy bỏ hợp đồng
+ Yêu cầu bồi thường thiệt hại
+ Khởi kiện bên bán
Luật Anh có các quy định cụ thể về việc xử lý một bên cố tình không cung cấp
thông tin liên quan đến tài sản trong quá trình xác lập giao dịch:
- Misrepresentation Act 1967: Luật này quy định về trách nhiệm của bên
bán trong việc cung cấp thông tin chính xác về tài sản.
- Sale of Goods Act 1979: Luật này quy định về các quyền của bên mua
trong trường hợp bên bán cung cấp thông tin sai lệch về tài sản.
2. Luật Hoa Kỳ:
- Cung cấp thông tin đầy đủ: Luật Hoa Kỳ yêu cầu các bên trong giao dịch phải
cung cấp cho nhau thông tin đầy đủ và chính xác về tài sản.
- Quyền điều tra: Bên mua có quyền điều tra tài sản trước khi mua.
- Kháng cáo: Nếu bên bán cố tình không cung cấp thông tin, bên mua có thể:
+ Kháng cáo hợp đồng
+ Yêu cầu bồi thường thiệt hại
+ Khởi kiện bên bán
Luật Hoa Kỳ có các quy định cụ thể về việc xử lý một bên cố tình không cung
cấp thông tin liên quan đến tài sản trong quá trình xác lập giao dịch:
- Uniform Commercial Code (UCC): UCC là luật thống nhất được áp dụng cho
hầu hết các bang ở Hoa Kỳ. UCC quy định về các quyền và nghĩa vụ của các
bên trong giao dịch mua bán hàng hóa.
- Restatement (Second) of Contracts: Đây là tài liệu tham khảo quan trọng về
luật hợp đồng ở Hoa Kỳ. Restatement quy định về các nguyên tắc chung về
hợp đồng, bao gồm cả nguyên tắc về việc cung cấp thông tin.
Ví dụ:
- Trong trường hợp mua bán nhà đất ở Hoa Kỳ, nếu bên bán cố tình không
cung cấp thông tin về việc nhà đất đang bị thế chấp, bên mua có thể hủy bỏ hợp
đồng và yêu cầu bồi thường thiệt hại.
3.3 Đoạn nào của Quyết định số 521 cho thấy thỏa thuận hoán nhượng đã
bị tuyên vô hiệu do có lừa dối?
- Việc anh Vinh và người liên quan (ông Trần Bá Toàn, bà Trần Thị Phú
Vân - họ hàng của anh Vinh) không thông báo cho ông Đô, bà Thu biết tình

3
trạng về nhà, đất mà các bên thỏa thuận hoán đổi đã có quyết định thu hồi, giải
tỏa, đền bù (căn nhà đã có quyết định tháo dỡ do xây dựng trái phép từ năm
1998 nên không được bồi thường giá trị căn nhà; còn thửa đất bị thu hồi thì
không đủ điều kiện để mua nhà tái định cư theo Quyết định số 135/QĐ- UB
ngày 21/11/2002) là có sự gian dối. Mặt khác, tại bản “Thỏa thuận hoán
nhượng” không có chữ ký của ông Đô (chồng bà Thu) và là người cùng bà Thu
bán căn nhà 115/7E Nguyễn Kiệm, quận Gò Vấp cho bà Phố (mẹ của anh
Vinh). Do vậy, giao dịch “Thỏa thuận hoán nhượng” giữa anh Vinh và bà Thu
vô hiệu nên phải áp dụng Điều 132 BLDS để giải quyết.
3.4 Hướng giải quyết trên đã có tiền lệ chưa? Nếu có tiền lệ, nêu vắn tắt
tiền lệ anh/ chị biết.
- Hướng giải quyết trên chưa có tiền lệ. Vì theo nguyên tắc áp dụng án lệ là khi
áp dụng án lệ để giải quyết các vụ việc tương tự, tên của án lệ, tính chất, tình
tiết tương tự được nêu trong án lệ và tính chất, tình tiết vụ việc đang được giải
quyết, vấn đề pháp lý được án lệ giải quyết, phải được viện dẫn, phân tích, làm
rõ trong bản án, quyết định của Tòa án.
3.5 Hướng giải quyết trên có còn phù hợp với BLDS năm 2015 không? Vì
sao?
- Hướng giải quyết trên còn phù hợp với BLDS năm 2015. Thứ nhất, hợp đồng
mua bán căn nhà số 115/7E có cả ông Đô và bà Thu đều là bên bán tham gia ký
kết, nhưng trong “Thỏa thuận hoán nhượng” với anh Vinh chỉ có chữ ký của bà
Thu mà không có chữ ký của ông Đô, mà thỏa thuận này có liên quan tới việc
giải quyết hợp đồng mua bán căn nhà có ông Đô và bà Thu là bên bán nên chữ
ký của ông Đô trong “Thỏa thuận hoán nhượng” là điều cần thiết. Thứ hai, vì
việc anh Vinh và những người liên quan (ông Trần Bá Toàn, bà Trần Thị Phú
Vân- họ hàng của anh Vinh) không thông báo cho ông Đô và bà Thu biết tình
trạng về nhà, đất mà các bên thỏa thuận hoán đổi đã có quyết định thu hồi, giải
tỏa, đền bù (căn nhà đã có quyết định tháo dở do xây dựng trái phép từ năm
1998 nên không được bồi thường giá trị căn nhà; còn thửa đất bị thu hồi thì
không đủ điều kiện để mua nhà tái định cư) là sự gian dối, làm cho ông Đô và
bà Thu hiểu sai lệch về chủ thể là nhà đất thửa 2352, tờ bản đồ số 1, phường
An Lợi Đông, quận 2, ảnh hưởng đến quyền lợi bên ông Đô và bà Thu.
Căn cứ theo điều 127 BLDS năm 2015, khi một bên tham gia giao dịch dân sự
do bị lừa dối hoặc bị đe dọa, cưỡng ép thì có quyền yêu cầu Tòa án tuyên bố
giao dịch dân sự đó là vô hiệu.

 Tóm tắt bản án Quyết định số 210/2013/DS-GĐT ngày 21/5/2013 của Tòa
dân sự Tòa án nhân dân tối cao.
- Họp phiên toà ngày 21/05/2013 Quyết định số 210/2013/DS- GĐT xét xử vấn
đề tranh chấp hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất gồm có
+ Nguyên đơn: Bà Châu Thị Nhất
+ Bị đơn: Ông Nguyễn Văn Dưỡng
- Bà Nhất trình bày: Vợ chồng ông bà có tài sản chung là 5 lô đất với tổng diện
tích là 162.220m2. Sau chuyến đi công tác ở Đài Loan 10/2001- 4/2004 thì vào

4
8/2007, bà ly hôn với chồng là ông Dưỡng và mới biết ông Dưỡng đã giả mạo
chữ kí bà bán đi miếng đất ( lô số 2 ) có bà đứng tên, cho ông Võ Minh Tài vào
2/2003. Nay bà yêu cầu huỷ hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất giữ
bà và ông Tài với lý do bà không kí tên vào hợp đồng chuyển nhượng.
- Ông Dưỡng trình bày: Vào thời gian bà Nhất đi công tác, ông đã bán đi 5 lô
đất để đủ tiền 3 con nhỏ ăn học. Trong đó có lô số 2 đứng tên bà Nhất, ông đã
kí tên bà để chuyển nhượng quyền sử dụng đất cho ông Tài. Khi bà Nhất trở về
4/2004 ông đã nói với bà, đến 8/2007 khi ly hôn ông không nhận bất cứ phần
đất hay tài sản nào. Ông đồng ý chỉ có 2 lô đất đứng tên ông bà mới thuộc
quyền sở hữu tài sản chung của hai vợ chồng. Ông đề nghị xem xét và giải
quyết vấn đề theo đúng quy định của pháp luật.
=> Tranh chấp xảy ra
Quyết định của Toà tại các cấp xét xử:
- Bản án dân sự sơ thẩm: Chấp nhận yêu cầu của bà Nhất, tuyên bố hợp đồng
giữ bà Nhất và ông Tài không có hiệu lực. Công nhận quyền sử dụng đất của
bà đối với lô số 2, những người mua đất từ ông Dưỡng phải trả lại quyền sử
dụng đất 29.554,5m2 cho bà Nhất. Ông Dưỡng phải bồi thường cho bà Nhất
và ông Tài.
- Ông Tài và vợ là bà Diễm ngày 3/5/2012 đã kháng cáo thì Toà đã sửa bản
sang bản án dân sự phúc thẩm số 199/2021/DSPT ngày 17/9/2012: Bác đơn
khởi kiện của bà Nhất về yêu cầu huỷ hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng
đất công nhận quyền sử dụng đất đối với lô số 02, theo giấy chứng nhận quyền
sử dụng đất ngày 8/9/2003 cho anh Võ Minh Tài.
- Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tôi cao kháng nghị huỷ bỏ cả hai bản sơ
thẩm và phúc thẩm trong quá trình giám đốc thảm
Quyết định của Toà về bản án số 210/2013/DS-GĐT:
- Chấp nhận Kháng nghị số 27/QĐ-KNGĐT-V5 ngày 27/03/2013 của Viện
trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao.
-Huỷ toàn bộ Bản án dân sự phúc thẩm số 199/2012/DSPT và huỷ toàn bộ Bản
án dân sự sơ thẩm số 14/2012/DS-PT về vụ án giữa bà Châu Thị Nhất với ông
Nguyễn Văn Dưỡng và những người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan khác.
- Giao hồ sơ vụ án cho Toà án nhân dân huyện Hòn Đất, tỉnh Kiên Giang xét
xử sơ thẩm lại vụ án.
Bài làm
3.6 Trong Quyết định số 210, theo Tòa án, ai được yêu cầu và ai không
được yêu cầu Tòa án tuyên bố hợp đồng có tranh chấp vô hiệu?
 Theo các Điều 131, 136, 142 tại BLDS 1995, các điều 122, 127, 132 tại
BLDS 2005 và Điều 28 LHNVGĐ
- Người có quyền được yêu cầu Toà án tuyên bố hợp đồng có tranh chấp vô
hiệu (với lí do bị lừa dối) là người trực tiếp tham gia giao dịch sẽ được khởi

5
kiện ông Dưỡng tức ở đây là ông Võ Minh Tài. Với điều kiện ông Tài bị lừa,
không biết về việc ông Dưỡng giả mạo chữ kí bà Nhất.
- Bà Nhất không được yêu cầu Toà án tuyên bố hợp đồng có tranh chấp vô
hiệu vì bà không phải là một bên tham gia giao dịch với ông Tài. Lý do bà đưa
ra cho toà tại xét xử sơ thẩm là bất hợp lí.
- Bà Nhất chỉ được khởi kiện để giao dịch vô hiệu vì vi phạm pháp luật tại Điều
28 Luật hôn nhân và gia đình về “Chiếm hữu, sử dụng định đoạt tài sản
chung”, xác định hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất nêu trên bị vô
hiệu theo điểm b khoản 1 Điều 122 và Điều 127 Bộ luật dân sự. Khi đó, ông
Tài là bị đơn.
=> Tuỳ theo cách thức vấn đề được đem ra khởi kiện mà ông Tài và bà Nhất
đều có quyền yêu cầu Toà tuyên bố hợp đồng có tranh chấp vô hiệu. Ông
Dưỡng là người sai trong vấn đề giao dịch nên không có quyền kiện.
3.7 Trong Quyết định số 210, theo Tòa án, thời hiệu yêu cầu Tòa án tuyên
bố hợp đồng vô hiệu do lừa dối có còn không? Vì sao?
 Theo khoản 1 Điều 142 BLDS1995, khoản 1 Điều 136 BLDS2005 và
Điều 159 trong Bộ luật tố tụng dân sự 2004
- Thời hiệu yêu cầu Toà án tuyên bố hợp đồng vô hiệu do lừa dối là không còn.
Dựa theo các cơ sở pháp lý được nên trên thì
+ Điều 142 và Khoản 1 Điều 145 BLDS 1995 quy định thời hiệu khởi kiện
yêu cầu tuyên bố hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất vô hiệu do bị lừa
dối là 1 năm.
+ Khoản 1 Điều 136 BLDS 2005 quy định thời hiệu khởi kiện yêu cầu tuyên
bố hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất vô hiệu do bị lừa dối là hai
năm kể từ ngày giao dịch được xác lập.
+ Điều 159 trong BLTTDS2004 thời hiệu khởi kiện để yêu cầu Tòa án giải
quyết vụ án dân sự là hai năm, kể từ ngày quyền và lợi ích hợp pháp của cá
nhân, cơ quan, tổ chức, lợi ích công cộng, lợi ích của Nhà nước bị xâm phạm.
- Bà Nhất đã khai bà biết được ông Dưỡng giả mạo chữ kí mình để làm hợp
đồng là vào năm 2007 khi ông bà ly hôn. Nhưng cho đến 10/12/2010 thì bà mới
khởi kiện cho về vấn đề hợp đồng chuyển nhượng đất là vô hiệu.
- Giao dịch bán đất giữ ông Dưỡng và Tài được thực hiện năm 2003 và đến
năm 2010 khi bà Nhất khởi kiện mới biết được vụ việc ( thời gian giao dịch đã
7 năm). Đã quá thời hạn để ông Tài yêu cầu quyết định hợp đồng vô hiệu.
=> Quá thời hạn khởi kiện vấn đề. Tòa án cấp sơ thẩm vẫn thụ lý giải quyết vụ
án là không đúng. Tòa đã không công nhận hợp đồng vô hiệu, huỷ bỏ đi quyết
định trước đó của Tòa án sơ cấp.
3.8 Trong trường hợp hết thời hiệu yêu cầu Tòa án tuyên bố hợp đồng vô
hiệu do lừa dối, Tòa án có công nhận hợp đồng không? Vì sao?
- Có công nhận hợp đồng.
 Theo Điều 132 và khoản 1 Điều 137 BLDS 2005
- “Khi một bên tham gia giao dịch dân sự do bị lừa dối hoặc bị đe dọa thì có
quyền yêu cầu Toà án tuyên bố giao dịch dân sự đó là vô hiệu...”- Điều 132
- “Giao dịch dân sự vô hiệu không làm phát sinh, thay đổi, chấm dứt quyền,
nghĩa vụ dân sự của các bên kể từ thời điểm xác lập.”- Khoản 1 Điều 137

6
- Tức ở đây là khi giao dịch dân sự trở nên vô hiệu ( do lừa dối ) thì các nghĩa
vụ, quyền dân sự của các bên kể từ thời điểm xác lập vẫn được giữ lại đảm bảo,
trong đó có hợp đồng đã được kí kết kể từ thời điểm xác lập vẫn sẽ được Tòa
án công nhận.
3.9 Câu trả lời cho các câu hỏi trên có khác không nếu áp dụng các quy
định tương ứng của BLDS 2015 vào tình tiết như trong Quyết định số 210?
 Theo Điều 117, 122, 127 BLDS2015 và Điều 35 BLDS2014
- Trả lời cho câu hỏi 3.6 không có sự khác biệt
 Theo Điều 127, 132 BLDS2015
- Câu trả lời 3.7 có khác biệt.
- Vì theo điểm b khoản 1 Điều 132 quy định thời hiệu yêu cầu toà tuyên bố
giao dịch vô hiệu từ người bị nhầm lẫn, bị lừa dối biết hoặc phải biết giao dịch
được xác lập do bị nhầm lẫn, do bị lừa dối là 2 năm.
- Ông Tài chỉ mới biết giao dịch có vấn đề bị lừa dối từ ông Dưỡng năm 2010.
=> Ông Tài vẫn còn thời hạn để khởi kiện lại ông Dưỡng
 Theo Điều 131 BLDS2015
- Câu trả lời 3.8 không có sự khác biệt

You might also like