Nguyên đơn: bà Châu Thị Nhất Bị đơn: ông Nguyễn Văn Dưỡng Bà Châu Thị Nhất trình bày: Hai vợ chồng bà có tài sản chung là 5 lô đất với diện tích 162,220m2. Sau khi từ Đài Loan trở về nước, bà và ông Dưỡng li hôn, lúc này bà mới biết ông Dưỡng bán lô đất đứng tên bà cho ông Võ Minh Tài. Bà yêu cầu hủy hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất giữa bà với ông Tài vì ông Dưỡng đã giả chữ kí của bà để bán phần tài sản chung của 2 vợ chồng. Ông Nguyễn Văn Dưỡng trình bày: Trong thời gian bà Nhất sang Đài Loan để xuất khẩu lao động, vì không đủ khả năng nuôi 3 đứa con nhỏ nên ông đã bán hết 5 lô đất, trong đó có 1 lô đứng tên bà Nhất. Ông giả chữ kí tên bà để sang tên lô đất cho ông Võ Minh Tài. Hai vợ chồng chỉ có tài sản chung là hai lô đất, một lô bà Nhất đứng tên, 1 lô ông Dưỡng đứng tên, 1 lô em ông Dưỡng đứng tên nên không phải tài sản chung của 2 vợ chồng, từ đó xảy ra tranh chấp. 17. Trong Quyết định số 210, theo Tòa án, thời hiệu yêu cầu Tòa án tuyên bố vô hiệu do lừa dối có còn không? Vì sao? Trong Quyết định số 210, theo Tòa án, thời hiệu yêu cầu Tòa án tuyên bố vô hiệu do lừa dối là không còn. Vì: Theo khoản 1, Điều 136 Bộ Luật dân sự 2005 quy định thời hiệu yêu cầu tuyên bố giao dịch dân sự vô hiệu là 2 năm kể từ ngày giao dịch dân sự được xác lập. Bà Nhất khai năm 2007 vợ chồng ly hôn, bà mới biết ông Dưỡng giả chữ ký của bà để chuyển nhượng đất cho ông Tài. Nhưng đến 10/12/2010, đã quá 1 năm thì bà Nhất mới khởi kiện cho nên đã hết thời hiệu yêu cầu Tòa án tuyên bố hợp đồng vô hiệu do bị lừa dối. 18. Trong trường hợp hết thời hiệu yêu cầu Tòa án tuyên bố hợp đồng vô hiệu do lừa dối, Tòa án có công nhận hợp đồng không? Vì sao? Theo Điều 136 BLDS 2005 không quy định hết thời hiệu yêu cầu Tòa án tuyên bố giao dịch dân sự vô hiệu do bị lừa dối thì giao dịch được công nhân. Tuy nhiên, theo khoản 2 Điều 132 BLDS 2015 thì hết thời hiệu yêu cầu Tòa án tuyên bố giao dịch vô hiệu do bị lừa dối mà không có yêu cầu thì giao dịch dân sự có hiệu lực. Đây cũng chính là điểm mới của BLDS 2015 nhằm khắc phục những bất cập, lỗ hổng của BLDS 2005. 19. Câu trả lời cho các câu hỏi trên có khác không nếu áp dụng các quy định tương ứng của BLDS 2015 vào tình tiết như trong Quyết định số 210? Nếu trong vụ án này áp dụng các quy định của BLDS 2015 sẽ có hướng xử lý như sau: Về khởi kiện cũng giống như BLDS 2005. Về thời hiệu khởi kiện yêu cầu Tòa án tuyên giao dịch vô hiệu do bị lừa dối cũng là 2 năm những khác ở thời điểm bắc đầu tính thời hiệu: Theo Điều 136 BLDS 2005 thì thời hiệu yêu cầu là 2 năm kể từ ngày xác lập giao dịch; Còn theo Điều 132 BLDS 2015 thì thời hiệu yêu cầu là 2 năm tính từ ngày người bị lừa dối biết hoặc phải biết giao dịch được xác lập do bị lừa dối. Theo khoản 2 Điều 132 BLDS 2015 thì nếu hết thời hiệu yêu cầu Tòa án tuyên bố giao dịch vô hiệu do bị lừa dối thì giao dịch có hiệu lực. Vấn đề 4: Hậu quả của giao dịch dân sự vô hiệu 20. Giao dịch dân sự vô hiệu có làm phát sinh quyền và nghĩa vụ giữa các bên không? Nêu cơ sở pháp lý khi trả lời. Giao dịch dân sự vô hiệu không làm phát sinh quyền và nghĩa vụ giữa các bên vì: CSPL: Căn cứ theo khoản 1, Điều 137 BLDS 2005 và khoản 1 Điều 131 BLDS 2015 “Giao dịch dân sự vô hiệu không làm phát sinh, thay đổi, chấm dứt quyền, nghĩa vụ dân sự của các bên kể từ thời điểm giao dịch được xác lập”.
Quản lý di sản 2.4 Khi là người quản lý di sản, người quản lý di sản có quyền tôn tạo, tu sửa lại di sản như trong Bản án số 11 không? Nêu cơ sở pháp lý khi trả lời