You are on page 1of 4

Quản lý di sản

2.4 Khi là người quản lý di sản, người quản lý di sản có quyền tôn tạo, tu sửa lại di
sản như trong Bản án số 11 không? Nêu cơ sở pháp lý khi trả lời.
Khi là người quản lý di sản, người quản lý di sản có quyền tôn tạo, tu sửa lại di sản
như trong Bản án số 11, căn cứ vào Điều 617 và 618 BLDS 2015:

Điều 617. Nghĩa vụ của người quản lý di sản

1. Người quản lý di sản quy định tại khoản 1 và khoản 3 Điều 616 của Bộ luật này có
nghĩa vụ sau đây:
a) Lập danh mục di sản; thu hồi tài sản thuộc di sản của người chết mà người khác đang
chiếm hữu, trừ trường hợp pháp luật có quy định khác;
b) Bảo quản di sản; không được bán, trao đổi, tặng cho, cầm cố, thế chấp hoặc định đoạt
tài sản bằng hình thức khác, nếu không được những người thừa kế đồng ý bằng văn bản;
c) Thông báo về tình trạng di sản cho những người thừa kế;
d) Bồi thường thiệt hại nếu vi phạm nghĩa vụ của mình mà gây thiệt hại;
đ) Giao lại di sản theo yêu cầu của người thừa kế.
2. Người đang chiếm hữu, sử dụng, quản lý di sản quy định tại khoản 2 Điều 616 của Bộ
luật này có nghĩa vụ sau đây:
a) Bảo quản di sản; không được bán, trao đổi, tặng cho, cầm cố, thế chấp hoặc định đoạt
tài sản bằng hình thức khác;
b) Thông báo về di sản cho những người thừa kế;
c) Bồi thường thiệt hại nếu vi phạm nghĩa vụ của mình mà gây thiệt hại;
d) Giao lại di sản theo thỏa thuận trong hợp đồng với người để lại di sản hoặc theo yêu
cầu của người thừa kế.
Điều 618. Quyền của người quản lý di sản
1. Người quản lý di sản quy định tại khoản 1 và khoản 3 Điều 616 của Bộ luật này có
quyền sau đây:
a) Đại diện cho những người thừa kế trong quan hệ với người thứ ba liên quan đến di sản
thừa kế;
b) Được hưởng thù lao theo thỏa thuận với những người thừa kế;
c) Được thanh toán chi phí bảo quản di sản.
2. Người đang chiếm hữu, sử dụng, quản lý di sản quy định tại khoản 2 Điều 616 của Bộ
luật này có quyền sau đây:
a) Được tiếp tục sử dụng di sản theo thỏa thuận trong hợp đồng với người để lại di sản
hoặc được sự đồng ý của những người thừa kế;
b) Được hưởng thù lao theo thỏa thuận với những người thừa kế;
c) Được thanh toán chi phí bảo quản di sản.
3. Trường hợp không đạt được thỏa thuận với những người thừa kế về mức thù lao thì
người quản lý di sản được hưởng một khoản thù lao hợp lý.

Theo đó, người quản lý di sản có nghĩa vụ bảo quản di sản, thực hiện việc quản lý di sản
một cách tận tâm, tận lực; nhằm mục đích bảo quản tài sản của người chết để lại một cách
tốt nhất, tránh tình trạng thất thoát, hư hỏng. Trong trường hợp có nguy cơ hư hỏng,
người quản lý phải thực hiện mọi biện pháp hợp lý, cần thiết (ví dụ như tu sửa, tôn tạo)
để có thể bảo quản tài sản đó; tuy nhiên phải thông báo tình trạng di sản cho những người
thừa kế. Việc không tôn tạo, tu sửa có thể được xem là bảo quản không tốt, tức vi phạm
nghĩa vụ của người quản lý. Nếu việc vi phạm này khiến tài sản bị hư hỏng, người quản
lý sẽ phải bồi thường theo Điểm c Khoản 2 Điều 617 BLDS 2015.

2.5 Khi là người quản lý di sản, người quản lý di sản có quyền giao lại cho người khác
quản lý di sản (như trong Bản án số 11 là ông Thiện giao lại cho con trai) không?
Nêu cơ sở pháp lý khi trả lời.
Khi là người quản lý di sản, người quản lý di sản không có quyền giao lại cho người khác
quản lý di sản. Như trong Bản án số 11, ông Thiện giao lại cho con trai là sai.
Khoản 1 Điều 616 BLDS 2015: “Người quản lý di sản là người được chỉ định trong di
chúc hoặc do những người thừa kế thỏa thuận ra”
Theo Bản án “Khi chết bố mẹ không để lại di chúc cho con cái nào được sử dụng, quản lý
ngôi nhà và diện tích đất nói trên, do đó ngôi nhà và diện tích đất để nguyên không có ai
quản lý”
Theo khoản 2 Điều 616 BLDS 2015: “Trường hợp di chúc không chỉ định người quản lý
di sản và những người thừa kế chưa cử được người quản lý di sản thì người đang chiếm
hữu, sử dụng, quản lý di sản tiếp tục quản lý di sản đó cho đến khi những người thừa kế
cử được người quản lý di sản.”
Ngoài ra, theo điểm b khoản 1 Điều 617 Nghĩa vụ của người quản lý di sản theo khoản
1,3 Điều 616 BLDS 2015 “Bảo quản di sản; không được bán, trao đổi, tặng cho, cầm cố,
thế chấp hoặc định đoạt tài sản bằng hình thức khác, nếu không được những người thừa
kế đồng ý bằng văn bản;”
Theo điểm a khoản 2 Điều 617 Nghĩa vụ của người quản lý di sản theo khoản 2 Điều 616
BLDS 2015 “Bảo quản di sản; không được bán, trao đổi, tặng cho, cầm cố, thế chấp hoặc
định đoạt tài sản bằng hình thức khác;”
Điều 618 BLDS 2015: “1. Người quản lý di sản quy định tại khoản 1 và khoản 3 Điều
616 của Bộ luật này có quyền sau đây:
a) Đại diện cho những người thừa kế trong quan hệ với người thứ ba liên quan đến di sản
thừa kế;
b) Được hưởng thù lao theo thỏa thuận với những người thừa kế;
c) Được thanh toán chi phí bảo quản di sản.
2. Người đang chiếm hữu, sử dụng, quản lý di sản quy định tại khoản 2 Điều 616 của Bộ
luật này có quyền sau đây:
a) Được tiếp tục sử dụng di sản theo thỏa thuận trong hợp đồng với người để lại di sản
hoặc được sự đồng ý của những người thừa kế;
b) Được hưởng thù lao theo thỏa thuận với những người thừa kế;
c) Được thanh toán chi phí bảo quản di sản.
3. Trường hợp không đạt được thỏa thuận với những người thừa kế về mức thù lao thì
người quản lý di sản được hưởng một khoản thù lao hợp lý.”
Dựa vào đó, ông Thiện không có quyền và nghĩa vụ giao lại di sản cho người khác (cụ
thể là anh Nghĩa). Việc người quản lý di sản giao lại cho người khác quản lý di sản là một
hình thức tự ý định đoạt tài sản, vì vậy hành vi này trái quy định của luật.
Trong Bản án số 11, bố mẹ ông Thiện chết không để lại di chúc, các đồng thừa kế cũng
không có thỏa thuận cử ra người quản lý di sản nên ông Thiện trở thành người quản lý di
sản theo Khoản 2 Điều 616 BLDS 2015; sau đó ông ủy quyền giao việc quản lý cho anh
Nghĩa (con trai). Tuy nhiên, việc ủy quyền này không có được sự nhất trí của những
người có quyền và nghĩa vụ liên quan, vì thế anh Nghĩa không là người quản lý hợp pháp
của ngôi nhà.
Vậy, người quản lý di sản không có quyền giao lại cho người khác

Tóm tắt Quyết định số 147:


Ông Đạm và ông Nhỏ có thỏa thuận cho ông Đạm mở 1 lối đi từ đất của ông Đạm qua
đất của ông Ngót (cha ông Nhỏ). Ông Đạm đã thực hiện xong thỏa thuận với chi phí
42.205.000. Ông Nhỏ tự nguyện cho gia đình ông Đạm sử dụng lối đi này đến hết đời.
Ông Đạm khởi kiện để những người cùng hàng thừa kế chấp nhận mở lối đi cho gia đình
ông. Tuy nhiên, Ông Nhỏ chỉ là người quản lý di sản, không phải người thừa kế nên
không được quyền tự ý thỏa thuận khi chưa có sự đồng ý của những người cùng hàng
thừa kế.
2.6 Trong Quyết định số 147, Tòa án xác định người quản lý không có quyền tự thỏa
thuận mở lối đi cho người khác qua di sản có thuyết phục không? Nêu cơ sở pháp lý
khi trả lời.
Trong Quyết định số 147, Tòa án xác định người quản lý không có quyền tự thỏa thuận
mở lối đi cho người khác qua di sản có thuyết phục vì:
Theo điểm b khoản 1 Điều 617 BLDS năm 2015, người quản lý tài sản phải có nghĩa vụ:
“Bảo quản di sản; không được bán, trao đổi, tặng cho, cầm cố, thế chấp hoặc định đoạt tài
sản bằng hình thức khác, nếu không được những người thừa kế đồng ý bằng văn bản”.
Ông Nhỏ là người quản lý di sản của ông Ngót và phần diện tích đất thuộc quyền sử dụng
của bà Chơi, chứ ông không có quyền định đoạt. Tuy nhiên, ông Nhỏ lại tự ý thỏa thuận
cho ông Đạm mở lối đi khi chưa được sự đồng ý của bà Chơi và các đồng thừa kế thứ
nhất của ông Ngót. Do đó việc tự thỏa thuận mở lối đi cho ông Đạm thuộc hình thức tự
định đoạt tài sản, nên nó hoàn toàn không đúng. Nhận định trên trên của Toà án là hợp lý.

You might also like