You are on page 1of 7

LIÊN MINH CHÂU ÂU TÒA ÁN NHÂN DÂN TỐI CAO CHƯƠNG TRÌNH PHÁT TRIỂN

LIÊN HỢP QUỐC

BÌNH LUẬN ÁN LỆ SỐ 24/2018/AL1


“Quan điểm trong nghiên cứu này là của các tác giả và không đại diện cho Tòa án nhân dân
tối cao, Liên minh Châu âu và Chương trình phát triển Liên Hợp Quốc”

(Trích) ÁN LỆ SỐ 24/2018/AL
Về di sản thừa kế chuyển thành tài sản thuộc quyền sở hữu, quyền sử dụng
hợp pháp của cá nhân
Được Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao thông qua ngày 17
tháng 10 năm 2018 và được công bố theo Quyết định số 269/QĐ-CA ngày 06
tháng 11 năm 2018 của Chánh án Tòa án nhân dân tối cao.
Nguồn án lệ:
Quyết định giám đốc thẩm số 27/2015/DS-GĐT ngày 16-10-2015 của Hội
đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao về vụ án dân sự “Tranh chấp thừa kế
quyền sử dụng đất” tại thành phố Hà Nội giữa nguyên đơn là bà Phạm Thị H, bà
Phạm Thị H1, bà Phạm Thị H2 với bị đơn là ông Phạm Văn H3; người có quyền
lợi, nghĩa vụ liên quan gồm 12 người.
Vị trí nội dung án lệ:
Đoạn 4 phần “Nhận định của Tòa án”.
Khái quát nội dung án lệ:
- Tình huống án lệ:
Nhà, đất là tài sản chung của vợ chồng mà một người chết trước. Người
còn lại và các thừa kế của người chết trước đã thống nhất phân chia nhà, đất.
Thỏa thuận phân chia không vi phạm quyền lợi của bất cứ thừa kế nào.
Việc phân chia nhà, đất đã được thực hiện trên thực tế và đã được điều
chỉnh trên sổ sách giấy tờ về đất đai. Sau khi người còn lại chết mới phát sinh
tranh chấp.
- Giải pháp pháp lý:

TS. Nguyễn Sơn – Nguyên Phó Chánh án Tòa án nhân dân tối cao.
1

1
Trường hợp này, phải xác định nhà, đất đó đã chuyển thành quyền sở hữu,
quyền sử dụng hợp pháp của các cá nhân. Những người này chỉ có quyền khởi
kiện đòi lại nhà, đất được chia đang bị người khác chiếm hữu, sử dụng bất hợp
pháp mà không có quyền yêu cầu chia di sản thừa kế là nhà, đất.
Quy định của pháp luật liên quan đến án lệ:
Các điều 219, 223, 226 Bộ luật Dân sự năm 2005 (tương ứng với các điều
213, 218, 220 Bộ luật Dân sự năm 2015).
Từ khóa của án lệ:
“Di sản thừa kế”; “Tài sản chung của vợ chồng”; “Phân chia nhà đất trên
thực tế”.
Nội dung án lệ:
“[4]…nhà đất của cụ V, cụ H đã được cụ V và các thừa kế của cụ H
thống nhất phân chia tài sản chung xong từ năm 1991 và đủ cơ sở xác định
phần đất 110m2 trong đó phần bà H, bà H1 và bà H2 là 44,4m2. Việc phân chia
đã được thực hiện trên thực tế và đã được điều chỉnh trên sổ sách giấy tờ về đất
đai; thỏa thuận phân chia không vi phạm quyền lợi của bất cứ thừa kế nào,
không ai tranh chấp nên có cơ sở xác định nhà, đất không còn là di sản thừa kế
của cụ V, cụ H nữa mà đã chuyển thành quyền sử dụng đất hợp pháp của các cá
nhân. Vì vậy, bà H, bà H1, bà H2 chỉ có quyền khởi kiện đòi lại 44,4m 2 đất
thuộc quyền sử dụng hợp pháp do được chia từ năm 1991; tài sản là di sản thừa
kế của cha mẹ không còn nên không có cơ sở chấp nhận yêu cầu chia di sản của
cụ H, cụ V nữa.”

BÌNH LUẬN
I. Quy định của pháp luật liên quan đến án lệ
Bộ luật Dân sự năm 2005:
“Điều 219. Sở hữu chung của vợ chồng2
1. Sở hữu chung của vợ chồng là sở hữu chung hợp nhất.
2. Vợ chồng cùng nhau tạo lập, phát triển khối tài sản chung bằng công
sức của mỗi người; có quyền ngang nhau trong việc chiếm hữu, sử dụng, định
đoạt tài sản chung.
3. Vợ chồng cùng bàn bạc, thoả thuận hoặc ủy quyền cho nhau chiếm
hữu, sử dụng, định đoạt tài sản chung.
4. Tài sản chung của vợ chồng có thể phân chia theo thoả thuận hoặc
theo quyết định của Toà án.”
“Điều 223. Định đoạt tài sản chung3

2
Tương ứng với Điều 213 Bộ luật Dân sự năm 2015.
3
Tương ứng với Điều 218 Bộ luật Dân sự năm 2015.

2
1. Mỗi chủ sở hữu chung theo phần có quyền định đoạt phần quyền sở
hữu của mình theo thoả thuận hoặc theo quy định của pháp luật.
2. Việc định đoạt tài sản chung hợp nhất được thực hiện theo thoả thuận
của các chủ sở hữu chung hoặc theo quy định của pháp luật.
3. Trong trường hợp một chủ sở hữu chung bán phần quyền sở hữu của
mình thì chủ sở hữu chung khác được quyền ưu tiên mua. Trong thời hạn ba
tháng đối với tài sản chung là bất động sản, một tháng đối với tài sản chung là
động sản, kể từ ngày các chủ sở hữu chung khác nhận được thông báo về việc
bán và các điều kiện bán mà không có chủ sở hữu chung nào mua thì chủ sở hữu
đó được quyền bán cho người khác.
Trong trường hợp bán phần quyền sở hữu mà có sự vi phạm về quyền ưu
tiên mua thì trong thời hạn ba tháng, kể từ ngày phát hiện có sự vi phạm về
quyền ưu tiên mua, chủ sở hữu chung theo phần trong số các chủ sở hữu chung
có quyền yêu cầu Toà án chuyển sang cho mình quyền và nghĩa vụ của người
mua; bên có lỗi gây thiệt hại phải bồi thường thiệt hại.
4. Trong trường hợp một trong các chủ sở hữu chung từ bỏ phần quyền sở
hữu của mình hoặc khi người này chết mà không có người thừa kế thì phần
quyền sở hữu đó thuộc Nhà nước, trừ trường hợp sở hữu chung của cộng đồng
thì thuộc sở hữu chung của các chủ sở hữu chung còn lại.”
“Điều 226. Chấm dứt sở hữu chung4
Sở hữu chung chấm dứt trong các trường hợp sau đây:
1. Tài sản chung đã được chia;
2. Một trong số các chủ sở hữu chung được hưởng toàn bộ tài sản chung;
3. Tài sản chung không còn;
4. Các trường hợp khác theo quy định của pháp luật.”
II. Sự cần thiết phải công bố án lệ:
Thực tế có nhiều trường hợp nhà, đất do vợ chồng tạo lập trong thời kỳ
hôn nhân, là tài sản chung của vợ chồng mà một người chết trước không để lại
di chúc định đoạt phần tài sản của mình trong khối tài sản chung. Theo quy định
của pháp luật, phần tài sản của người vợ hoặc chồng đã chết trong khối tài sản
chung của vợ chồng trở thành di sản5 và được giải quyết chia thừa kế cho các
thừa kế của người đó. Trường hợp người chết không đểlại di chúc hoặc di chúc
không hợp pháp thì chia thừa kế theo pháp luật6.
Tuy nhiên, trong thực tiễn đời sống xã hội ở Việt Nam, nơi có truyền
thống văn hóa “Trọng đạo”, “Trọng hiếu”,“Trọng tình”, nhiều trường hợp sau
khi người vợ hoặc chồng chết, các thừa kế của người đó (chồng/vợ, con của

4
Tương ứng với Điều 220 Bộ luật Dân sự năm 2015.
5
Điều 634 Bộ luật Dân sự năm 2005 (tương ứng với Điều 612 Bộ luật Dân sự năm 2015).
6
Điểm a khoản 1 Điều 675 Bộ luật Dân sự năm 2005 (tương ứng với điểm a khoản 1 Điều 650 Bộ luật Dân sự
năm 2015).

3
người đó) không đặt ra yêu cầu chia thừa kế ngay đối với tài sản do người chết
để lại; người chồng hoặc vợ còn sống tiếp tục quản lý, sử dụng tài sản, sau đó
đứng ra phân chia toàn bộ nhà, đất là tài sản chung của vợ chồng cho các con,
với sự đồng ý của những người này. Việc phân chia nhà, đất được thực hiện trên
thực tế, được điều chỉnh trên sổ sách giấy tờ về đất đai; người được phân chia
nhận nhà, đất và quản lý, sử dụng, cho thuê, cho mượn hoặc chuyển nhượng cho
người khác. Có trường hợp sau khi được phân chia đất, người được phân chia do
không có điều kiện trực tiếp quản lý, sử dụng nên đã giao cho anh, chị, em của
mình (cũng là người được cha/mẹ phân chia đất) thực hiện việc trông nom, quản
lý hộ mình; sau một thời gian, họ quay về đòi lại đất nhưng không được trả nên đã
khởi kiện yêu cầu trả lại phần đất đã được chia hoặc chia thừa kế quyền sử dụng đất
của cha mẹ để lại.
Với các tình tiết nêu trên, có quan điểm cho rằng việc người chồng hoặc
vợ còn sống đứng ra phân chia nhà, đất là tài sản chung của vợ chồng cho các
con là không hợp pháp về phần định đoạt tài sản do người vợ hoặc chồng đã
chết để lại. Trường hợp người chết không để lại di chúc thì phần tài sản do
người chết để lại phải được chia thừa kế theo pháp luật, các thừa kế phải được
hưởng phần di sản bằng nhau, cho dù chia bằng hiện vật hay bằng giá trị. Việc
người chồng hoặc vợcòn sống phân chia toàn bộ nhà, đất cho các con, mặc dù
những người thừa kế đồng thuận về việc chia tài sản, là định đoạt vượt quá phần
quyền tài sản của họ trong khối tài sản chung nên thỏa thuận phân chia nhà, đất
vô hiệu về phần phân chia tài sản do người chết để lại. Trường hợp có yêu cầu
chia thừa kế thì Tòa án phải thụ lý, giải quyết vụ án tranh chấp di sản thừa kế.
Quan điểm khác lại cho rằng, khi người chồng hoặc vợ còn sống phân
chia toàn bộ nhà, đất là tài sản chung của vợ chồng cho các con, những người
thừa kế của người để lại di sản đều thống nhất phân chia; trong phần tài sản mỗi
người được nhận có phần là di sản thừa kế, có phần là tài sản được cha, mẹ còn
sống tặng cho; việc phân chia này tuy không tách bạch đâu là phần chia thừa kế,
đâu là phần tặng cho nhưng đều đảm bảo quyền lợi của các con; những người
được phân chia đã nhận nhà, đất trên thực tế, đăng ký kê khai và được đứng tên
trên các giấy tờ về nhà, đất thì phải xác định nhà, đất đó đã chuyển thành tài sản
thuộc quyền sở hữu, quyền sử dụng hợp pháp của các cá nhân, không còn là di
sản để chia thừa kế (trường hợp chưa được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng
đất). Những người này chỉ có quyền khởi kiện đòi lại nhà, đất được chia đang bị
người khác chiếm hữu, sử dụng bất hợp pháp mà không có quyền yêu cầu chia
di sản thừa kế là nhà, đất.
Để hướng dẫn áp dụng thống nhất pháp luật, bảo đảm những vụ việc có
tình huống pháp lý tương tự như trên phải được giải quyết như nhau, Tòa án
nhân dân tối cao đã lựa chọn, công bố Án lệ số 24/2018/AL về di sản thừa kế
chuyển thành tài sản thuộc quyền sở hữu, quyền sử dụng hợp pháp của cá nhân.
Án lệ này được phát triển từ Quyết định giám đốc thẩm số 27/2015/DS-GĐT
ngày 16-10-2015 của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao về vụ án
dân sự “Tranh chấp thừa kế quyền sử dụng đất” tại thành phố Hà Nội giữa
nguyên đơn là bà Phạm Thị H, bà Phạm Thị H1, bà Phạm Thị H2 với bị đơn là

4
ông Phạm Văn H3; người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan gồm 12 người.
III. Nội dung án lệ
Trong vụ việc tạo lập nên Án lệ số 24/2018/AL, vợ chồng cụ Phạm Văn H
(chết năm 1978) và cụ Ngô Thị V (chết năm 1994) có 07 con chung là các ông, bà
Phạm Thị H, Phạm Thị H1, Phạm Thị H2, Phạm Văn H3, Phạm Văn Đ (chết năm
1998), Phạm Văn T, Phạm Văn Q (chết năm 2000). Hai cụ tạo lập được khối tài
sản chung là gian nhà tranh vách đất trên khoảng 464m2 đất tại thị trấn Q, tỉnh Hà
Tây (cũ, nay là thành phố Hà Nội). Sau khi cụ H chết, cụ V đã họp các con và
đứng ra phân chia toàn bộ thửa đất cho các con, không ai có ý kiến gì và đều
thống nhất thực hiện việc phân chia này. Phần đất chia cho ông Đ (94m2), ông Q
(78m2), ông T (189m2) thì các ông đều đã nhận đất sử dụng, sau đó đã được
đăng ký đứng tên chủ sử dụng đất, hoặc chuyển nhượng cho người khác (đã
đăng ký điều chỉnh trong các giấy tờ về đất), cho đến nay không ai có tranh chấp
gì. Đối với 110m2đất còn lại, cụ V chia cho ông H3 và các bà H, H1, H2, trong
đó các bà H, H1, H2 được chia chung 44,4m2. Tại thời điểm chia đất, các bà H,
H1, H2 đang sinh sống ở nơi khác, chưa có nhu cầu sử dụng đất nên ông H3
quản lý phần đất này. Năm 2004, các bà H, H1, H2 có nhu cầu xây dựng nhà
trên đất thì ông H3 không thừa nhận là đất của ba chị em, không đồng ý trả lại
đất cho các bà. Bà H, H1, H2 khởi kiện yêu cầu Tòa án buộc ông H3 phải trả lại
44,4m2 đất đã được chia, sau đó thay đổi lời khai yêu cầu chia di sản thừa kế đối
với phần 110m2 đất có nguồn gốc do cha mẹ tạo lập mà ông H3 đang quản lý.
Vụ việc này đặt ra các vấn đề pháp lý cụ thể như sau:
- Thứ nhất, việc người chồng hoặc vợ còn sống và các con thống nhất
phân chia toàn bộ nhà, đất của vợ chồng cho các con, tức là phân chia cả phần
tài sản do người chết để lại và phần tài sản của người còn sống trong khối tài sản
chung thì việc phân chia này có hợp pháp hay không? Nhà, đất sau khi phân chia
có còn là di sản hay không?
- Thứ hai, người đã được phân chia nhà, đất có quyền yêu cầu chia di sản
thừa kế của cha, mẹ để lại hay không? Trường hợp nhà, đất mà họ được chia bị
người khác (cũng là người được phân chia nhà, đất) chiếm hữu, sử dụng bất hợp
pháp mà họ có yêu cầu được trả lại thì quan hệ pháp luật có tranh chấp được Tòa
án thụ lý, giải quyết là gì?
Về vấn đề pháp lý thứ nhất, tại Quyết định giám đốc thẩm số 27/2015/DS-
GĐT, Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao đã lập luận rằng“…nhà đất
của cụ V, cụ H đã được cụ V và các thừa kế của cụ H thống nhất phân chia tài
sản chung xong từ năm 1991 và đủ cơ sở xác định phần đất 110m2 trong đó
phần bà H, bà H1 và bà H2 là 44,4m2. Việc phân chia đã được thực hiện trên
thực tế và đã được điều chỉnh trên sổ sách giấy tờ về đất đai; thỏa thuận phân
chia không vi phạm quyền lợi của bất cứ thừa kế nào, không ai tranh chấp nên
có cơ sở xác định nhà, đất không còn là di sản thừa kế của cụ V, cụ H nữa mà
đã chuyển thành quyền sử dụng đất hợp pháp của các cá nhân”. Lập luận này
trong quyết định giám đốc thẩm đã được Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân
tối cao lựa chọn, phát triển thành Án lệ số 24/2018/AL.

5
Án lệ đã đưa ra những điều kiện cần và đủ để xác định trường hợp nào thì
di sản thừa kế chuyển thành tài sản thuộc quyền sở hữu, quyền sử dụng hợp
pháp của cá nhân. Theo đó, việc người chồng hoặc vợ còn sống cùng với các
thừa kế của người chết trước thống nhất phân chia toàn bộ nhà, đất của vợ chồng
là hợp pháp khi có đủ các điều kiện sau:
(1) Các bên thỏa thuận thống nhất phân chia nhà, đất;
(2)Thỏa thuận phân chia không vi phạm quyền lợi của bất cứ thừa kế nào,
không có ai tranh chấp;
(3) Việc phân chia đã được thực hiện trên thực tế và được điều chỉnh trên
sổ sách giấy tờ về đất đai.
Các điều kiện nêu trên chính là điều kiện đảm bảo thỏa thuận phân chia
thể hiện đúng ý chí của các bên, bảo đảm quyền và lợi ích hợp pháp của các bên
theo quy định của pháp luật, phù hợp với nguyên tắc tự do, tự nguyện cam kết,
thỏa thuận trong giao dịch dân sự. Về mặt thủ tục, việc chuyển dịch về quyền tài
sản thuộc diện phải đăng ký quyền sở hữu, quyền sử dụng được cơ quan Nhà
nước có thẩm quyền ghi nhận. Án lệ đã khẳng định đối với trường hợp này, nhà,
đất không còn là di sản thừa kế mà đã chuyển thành tài sản thuộc quyền sở hữu,
quyền sử dụng hợp pháp của các cá nhân.
Về vấn đề pháp lý thứ hai, nội dung Án lệ đã chỉ ra rằng“… bà H, bà H1,
bà H2 chỉ có quyền khởi kiện đòi lại 44,4m2 đất thuộc quyền sử dụng hợp pháp
do được chia từ năm 1991; tài sản là di sản thừa kế của cha mẹ không còn nên
không có cơ sở chấp nhận yêu cầu chia di sản của cụ H, cụ V nữa”. Án lệ đã chỉ
ra đường lối áp dụng thống nhất pháp luật về tố tụng, theo đó trường hợp di sản
thừa kế đã chuyển thành tài sản thuộc quyền sở hữu, quyền sử dụng hợp pháp
của cá nhân thì người đã nhận phân chia tài sản chỉ có quyền khởi kiện đòi lại
nhà, đất được chia đang bị người khác chiếm hữu, sử dụng bất hợp pháp mà
không có quyền yêu cầu chia di sản thừa kế là nhà, đất.
IV. Tình huống tương tự được áp dụng án lệ
Án lệ số 24/2018/AL được tạo lập nhằm hướng dẫn các Tòa án giải quyết
các tranh chấp liên quan đến nhà, đất là tài sản chung của vợ chồng mà một
người chết trước, người còn lại và các thừa kế của người chết trước tự thỏa
thuận thống nhất phân chia nhà, đất. Theo đó, nếu thỏa thuận phân chia không vi
phạm quyền lợi của bất cứ thừa kế nào, việc phân chia nhà, đất đã được thực
hiện trên thực tế và đã được điều chỉnh trên sổ sách giấy tờ về đất đai (thể hiện
trên Bản đồ địa chính, sổ mục kê, sổ đăng ký ruộng đất… mà chưa được cấp
Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất), sau khi người còn lại chết mới phát sinh
tranh chấp thì khi giải quyết vụ án, Tòa án phải xác định nhà, đất đó đã chuyển
thành tài sản thuộc quyền sở hữu, quyền sử dụng hợp pháp của các cá nhân;
những người này chỉ có quyền khởi kiện đòi lại nhà, đất được chia đang bị
người khác chiếm hữu, sử dụng bất hợp pháp mà không có quyền yêu cầu chia
di sản thừa kế là nhà, đất. Án lệ được áp dụng khi vụ việc có đầy đủ các tình tiết
pháp lý như đã nêu ở trên.

6
Trong Án lệ này, tài sản chung của vợ chồng là nhà, đất. Vậy, trường hợp
tài sản chung của vợ chồng là tài sản khác (không phải là nhà đất) mà một người
chết trước không để lại di chúc, người còn lại và các thừa kế của người chết
trước đã thống nhất phân chia tài sản đó, thỏa thuận phân chia đã được thực hiện
trên thực tế, không vi phạm quyền lợi của bất cứ thừa kế nào thì Tòa án cũng có
thể nghiên cứu, xem xét vận dụng án lệ này để giải quyết.

You might also like