You are on page 1of 14

VẤN ĐỀ 1: DI SẢN THỪA KẾ

Tóm tắt quyết định 30/2013/DS-GĐT ngày 24/4/2013 của Hội đồng thẩm phán
Tòa án nhân dân tối cao:
Ngày 24/4/2013, tại trụ sở Tòa án nhân dân tối cao mở phiên tòa xét xử giám đốc
thẩm vụ án dân sự “Tranh chấp về thừa kế tài sản” giữa nguyên đơn là các con cụ Thái Tri
và bị đơn là các con, cháu cụ Thái Thuần Hy. Vụ việc cụ thể như sau, cố Thái Anh và cố
Nguyễn Thị Liêng tạo lập được hai tài sản ở hai nơi khác nhau là nhà 122 Nguyễn Hùng
Sơn và nhà số 5 Hoàng Hoa Thám. Khi còn sống, đối với nhà số 5 Hoàng Hoa Thám hai cố
đã cho cụ Thái Tri sử dụng. Cụ Tri đã hoàn thành thủ tục đứng tên chủ sở hữu từ 9/5/1967.
Đối với căn nhà 122 Nguyễn Hùng Sơn là nơi vợ chồng cụ Hy (trai trưởng) ở cùng hai cố,
nuôi dưỡng vợ chồng cố An (anh ruột cố Anh) và nuôi em là cụ Lượng bị bệnh tâm thần.
Sau khi hai cố chết và không để lại di chúc, tại nhà số 122 Nguyễn Hùng Sơn, cụ Hy phá
nhà chính xây dựng nhà mới nên trên đất chỉ còn lại nhà phụ của hai cố. Nên các đồng
nguyên đơn, tức các con cụ Thái Tri khởi kiện yêu cầu chia thừa kế di sản của ông, bà nội là
giá trị quyền sử dụng đất, giá trị nhà phụ, không yêu cầu chia giá trị nhà chính. Cuối cùng,
Hội đồng giám đốc thẩm đưa ra quyết định giữu nguyên bản án dân sự phúc thẩm, tức xác
định cố Thái Anh, cố Nguyễn Thị Liêng đã chia cho cụ Thái Tri căn nhà số 5 Hoàng Hoa
Thám, chia cho cụ Thái Thuần Hy căn nhà 122 Nhuyễn Hùng Sơn; từ đó bác bỏ yêu cầu
chia thừa kế của các nguyên đơn (là các con cụ Thái Tri).
Câu 1: Di sản là gì và có bao gồm cả nghĩa vụ của người quá cố không? Nêu cơ
sở pháp lý khi trả lời.
Trả lời:
“Hiện nay chúng ta chưa có quy định cho biết di sản là gì mà chỉ có quy định cho
biết di sản bao gồm nhũng gì. Theo Thông tư 81/TL-TANDTC ngày 24-7-1981 của Tòa án
nhân dân tối cao: “Di sản thừa kế bao gồm các tài sản thuộc quyền sở hữu của người để
thừa kế (…), các quyền về tài sản (…). Các nghĩa vụ về tài sản của người để thừa kế phát
sing theo quan hệ hợp đồng do việc gây thiệt hại hoặc do quy định của cơ quan có thẩm
quyền”. Như vậy, Thông tư quy định theo hướng nghĩa vụ tài sản do người chết để lại là
một bộ phận của di sản. Tương tự, theo Thông tư số 594-NCPL ngày 27-8-1986 của Tòa án
nhân dân tối cao: “Di sản thừa kế bao gồm không những quyền sở hữu cá nhân về những
tài sản mà người mất đó để lại, mà còn gổm cả những quyền tài sản và nghĩa vụ tài sản
phát sinh do quan hệ hợp đồng hoặc do việc gây thiệt hại mà người chết để lại”. Đến Pháp
lệnh thừa kế nghĩa vụ tài sản do người chết để lại không còn là một bộ phận của di sản nữa
và theo Điều 634 BLDS 2005: “Di sản bao gồm tài sản riêng của người chết, phần tài sản
của người chết trong tài sản chung với người khác” (quy định này đã tồn tại trong BLDS
1995 tại khoản 1 Điều 637). Trong quá trình sửa đổi BLDS 2015, cũng có quan điểm cho
rằng cần đưa nghĩa vụ tài sản của người chết vào di sản nhưng ý kiến này không được chấp
nhận và quy định trên được giữ lại tại Điều 612 BLDS 2015 theo đó “Di bao gồm tài sản
riêng của chết, phần tài sản của người chết trong tài sản chung với người khác”.

1
Với quy định trên, di sản tồn tại khi người chết để lại tài sản và khi tài sản này là của
người chêt.”
(Đỗ Văn Đại- Luật thừa kế Việt Nam-Bản án và bình luận bản án, Nxb.Hồng Đức-
Hội Luật gia Việt Nam 2019 (xuất bản lần thứ tư), Bản án số 4-7, trang 52).
Câu 2: Khi tài sản do người quá cố để lại ở thời điểm mở thừa kế bị thay thế bởi
một tài sản mới sau đó thì tài sản mới có là di sản không? Vì sao?
Trả lời:
Đối với những di sản bị thay thế, xuất hiện sau thời điểm mở thừa kế BLDS các năm
không có quy định nào về vấn đề tài sản thay thế có được xem là di sản hay không. “Thực
tiễn, tài sản thay thế di sản là “di sản thừa kế”. Hướng giải quyết này chưa quy định trong
văn bản nhưng rất thuyết phục (án lệ của Pháp cũng giải quyết theo hướng này và ngày nay
án lệ này đã được luật hóa tại Điều 815-10 Bộ luật Dân sự Pháp) và được áp dụng đối với
trường hợp di sản được thay thế bằng một khoản tiền như tiền đền bù (đây là hướng giải
quyết của Bản án số 98/2006/DSPT ngày 20-1-2006 của Tòa án nhân dân Thành phố Hồ
Chí Minh), tiền bảo hiểm tài sản được bảo hiểm…Thực tế con cho thấy khi di sản bị bán
cho người khác, Tòa án nhân dân tối cao cũng giải quyết theo hướng tiền từ việc bán
(chuyển nhượng) là di sản (Quyết định số 02/2011 ngày 23-02-2011 của Hội đồng Thẩm
phán Tòa án nhân dân tối cao) và, trong trường hợp Tòa án đã giao di sản cho một người
không được hưởng (và bản án đã có hiệu lực pháp luật), người được giao sở hữu tài sản phải
thanh toán giá trị tài sản và giá trị này cũng được chia di sản (Quyết định số 141/DS-GĐT
ngày 19-3-2012 của Tòa dân sự Tòa án nhân tối cao). Tương tự như vậy khi Tòa án quyết
định bán đấu giá di sản và di sản đã được bán hợp pháp cho người khác (Quyết định số
31/2014/DS-GĐT ngày 10-07-2014 của Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao giải
quyết theo hướng vừa nêu) hay Tòa án giao di sản cho cho một người thừa kế và người thừa
kế chuyển nhượng di sản cho người khác nhưng sau đó quyết định giao di sản bị hủy thì di
sản được chuyển thành tiền và người nhận tiền phải chia cho những người thừa kế tiền đã
nhận (Hướng giải quyết tại Quyết định số 03/2011/ DS-GĐT ngày 23-2-2011 của Hội đồng
thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao; Quyết định số 129/2011/DS-GĐT ngày 22-2-2012 của
Tòa dân sự Tòa án nhân dân tối cao).
(Đỗ Văn Đại- Luật thừa kế Việt Nam-Bản án và bình luận bản án, Nxb.Hồng Đức-
Hội Luật gia Việt Nam 2019 (xuất bản lần thứ tư), Bản án số 8-10, trang 113).
Câu 3: Trong Quyết định số 30, theo Viện kiểm sát, 02 tài sản tranh chấp có là
di sản của cố Thái Anh và cố Liêng không? Vì sao?
Trả lời:
Điều 612 BLDS 2015 quy định về di sản, theo đó “Di bao gồm tài sản riêng của
chết, phần tài sản của người chết trong tài sản chung với người khác”.
Trong Quyết định số 30, Viện kiểm sát nhận định 2 tài sản tranh chấp gồm: căn nhà số 5
Hoàng Hoa Thám và căn nhà số 122 Nguyễn Hùng Sơn, trong đó chỉ có căn nhà 122
Nguyễn Hùng Sơn là di sản của cố Thái Anh và cố Liêng.
2
Tại Quyết định số 100/QĐ-KNGĐT –V5 ngày 16/8/2011 được trích trong Quyết
định số 30, Viện kiểm sát nhận định: “Sinh thời cố Thái Anh và cố Nguyễn Thị Liêng có tài
sản là căn nhà số 5 Hoàng Hoa Thám (…), căn nhà 122 Nguyễn Hùng Sơn (…) căn nhà số 5
Hoàng Hoa Thám các bên đều thừa nhận Cố Anh đã cho cụ Tri và không tranh chấp, nên
tòa án không xem xét là đúng”. Cụ Tri đứng tên là chủ sở hữu từ năm 1967, do vậy, căn nhà
số 05 Hoàng Hoa Thám không phải là di sản của cố Thái Anh và cố Liêng.
Còn đối với căn nhà số 122 Nguyễn Hùng Sơn thì Viện kiểm sát cho rằng đây là di
sản của hai cố vì: “Theo bằng khoán điền thổ số 320 ngày 25/6/1935 thì cố Thái Anh là chủ
sở hữu, hồ sơ vụ án không có bất cứ tài liệu nào xác định cố Thái Anh đã chuyển sở hữu căn
nhà cho cụ Hy. Đến thời điểm cố Thái Anh và cố Liêng chết thì nhà đất chưa chuyển dịch
sang tên cho ai” Vì vậy căn nhà số 122 Nguyễn Hùng Sơn là tài sản của hai cố và sau khi
hai cố mất hai căn nhà là di sản của hai cố.
Câu 4: Suy nghĩ của anh/chị về hướng quyết định trên của Viện kiểm sát.
Trả lời:
Hướng giải quyết trên của Viện kiểm sát chưa hoàn toàn thỏa đáng.
Đối với nhận định về căn nhà số 5 Hoàng Hoa Thám không phải là di sản của cố
Thái Anh và cố Nguyễn Thị Liêng là hợp lý, có căn cứ pháp luật. Vì: khi còn sống, hai cố
Thái Anh và Nguyễn Thị Liêng đã chia cho cụ Thái Tri căn nhà số 5 Hoàng Hoa Thám, và
cụ Thái Tri đã hoàn thành thủ tục đứng tên là chủ sở hữu từ năm 1967. Điều này được các
bên thừa nhận và không tranh chấp. Như thế, căn nhà số 5 Hoàng Hoa Thám được Viện
kiểm sát xác định không phải di sản là thỏa đáng.
Tuy nhiên, hướng xác định của Viện kiểm sát về việc căn nhà số 122 Nguyễn Hùng
Sơn là di sản của cố Thái Anh và cố Nguyễn Thị Liêng là chưa hợp lý. Nếu theo hướng
nhận định của Viện Kiểm sát thì có nghĩa là người con cùng sống với cha mẹ bị thiệt thòi:
do họ không được cha mẹ tạo dựng tài sản khi còn sống và phần tài sản cuối cùng cha mẹ để
lại phải chia thừa kế cho các đồng thừa kế (dù các thừa kế đã được cha mẹ tạo dựng tài sản
riêng lúc còn sống). Xét về “lý” hướng giải quyết của Viện Kiểm Sát cũng như Tòa sơ thẩm
là phù hợp, có cơ sở. Vì trong hồ sơ vụ án không có bất cứ tài liệu nào xác định cố Thái Anh
đã chuyển sở hữu căn nhà cho cụ Hy, đến thời điểm hai cố chết thì nhà đất chưa chuyển
sang tên cho ai. Nhưng xét về “tình” liệu hướng giải quyết này co thỏa đáng? Cụ Hy đã có
công bảo quản, gìn giữ di sản, đồng thời nuôi cố Liếng, cố Thái Anh, cụ Lượng bị khiếm
khuyết về mặt thể chất và có công sức trong việc thờ cúng tổ tiên. Bên cạnh đó, khi cụ Hy
phá nhà cũ của hai cố, xây dựng nhà mới thì cụ Thái Tri còn sống nhưng không phản đối,
điều này chứng tỏ cụ Thái Tri tôn trọng định đoạt của cha mẹ, thừa nhận căn nhà số 122
Nguyễn Hùng Sơn được sở hữu bởi cụ Hy.
Do đó, ta có thể xác định mặc dù hai cố chết không để lại di chúc nhưng di sản của
hai cố vẫn có thể được chia theo thỏa thuận giữa các đồng thừa kế theo quy định tại Điểm a
Tiểu mục 2.4 Mục 2 Phần I Nghị quyết 02/2004/NQHĐTP của HĐTP TANDTC: “Trường
hợp không có di chúc mà các đồng thừa kế thảo thuận về phần mỗi người được hưởng khi

3
có nhu cầu chia tài sản, thì việc chia tài sản chung đó được thực hiện theo thoả thuận của
họ”.
Câu 5: Trong Quyết định số 30, theo Hội đồng thẩm phán, 02 tài sản tranh chấp
có là di sản của cố Thái Anh và cố Liêng không? Vì sao?
Trả lời:
Trong Quyết định số 30, theo Hội đồng thẩm phán, 02 tài sản tranh chấp gồm căn
nhà số 5 Hoàng Hoa Thám và căn nhà số 122 Nguyễn Hùng Sơn đều không phải là di sản
của cố Thái Anh và cố Liêng.
Ghi nhận tại đoạn cuối phần Xét thấy của Quyết định: “Như vậy, căn cứ các tài liệu
trên có cơ sở xác định vợ chồng cố Thái Anh cố Nguyễn Thị Liêng tạo lập được 2 căn nhà,
cụ Thái Tri là con thứ nên hai cố cho căn nhà số 5 Hoàng Hoa Thám (nhỏ hơn); còn căn nhà
122 Nguyễn Hùng Sơn (lớn hơn) thì hai cố dành cho cụ Thái Thuần Hy vì cụ Hy là con trai
trưởng, ở cùng và có công chăm sóc hai cố, chăm sóc bác ruột và em ruột là cụ Lượng bị
bệnh tâm thần và còn có trách nhiệm thờ cúng tổ tiên sau này. Thực tế, khi cụ Thái Thuần
Hy phá nhà cũ của hai cố, xây dựng nhà mới thì cụ Thái Tri còn sống nhưng không phản
đối, điều này chứng tỏ cụ Thái Tri tôn trọng định đoạt của cha mẹ. Do đó, Tòa án cấp phúc
thẩm xác định cố Thái Anh, cố Nguyễn Thị Liêng đã chia cho cụ Thái Tri căn nhà số 5
Hoàng Hoa Thám, chia cho cụ Thái Thuần Hy căn nhà 122 Nguyễn Hùng Sơn; từ đó bác
yêu cầu chia thừa kế của các nguyên đơn (là con cụ Thái Tri) là có căn cứ. Vì vậy, kháng
nghị của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao cho rằng nhà 122 Nguyễn Hùng Sơn
vẫn là di sản của cố Thái Anh và cố Nguyễn Thị Liêng là không có cơ sở.”
Câu 6: Suy nghĩ của anh/chị về hướng quyết định trên của Hội đồng thẩm phán.
Trả lời:
Xét về “lý” hướng giải quyết của Hội đồng thẩm phán có chút bất ổn vì vốn không có
bất cứ tài liệu nào xác định cố Anh đã chuyển sở hữu căn nhà cho cụ Hy. Tuy nhiên xét về
“tình” đây là giải pháp hoàn toàn thuyết phục. Giải pháp này tôn trọng ý chí chí của người
quá cố và một phần là sự công bằng cho người sống chung và nuôi cha mẹ. Đây cũng là
hướng giải quyết của Tòa trong Quyết định số 27/2007/DS-GĐT Tòa dân sự Tòa án nhân
dân tối cao.
Trong phần bình luận án của mình PGS.TS.Đỗ Văn Đại cũng đổng tình với quan
điễm của Hội đồng thẩm phán:
“Hội đồng thẩm phán đã theo hướng tài sản không còn là di sản của cụ Thái Anh và
cụ Liêng nữa nên không thể chấp nhận yêu cầu chia di sản. Thực vậy, căn cứ các tài liệu
trên có căn cứ xác định vợ chồng cụ Thái Anh và cụ Liêng đã cho cụ Tri là con trai thứ hai
căn nhà số 5 Hoàng Hoa Tám; còn căn nhà 122 Nguyễn Hùng Sơn (lớn hơn) thì cho cụ Hy
vì cụ Hy là con trưởng và nuôi dưỡng hai cụ lúc về già. Theo đó, Tòa án phúc thẩm bác yêu
cầu chia thừa kế chia thừa kế của các nguyên đơn là có căn cứ.

4
Xét về “lý” hướng giải quyết nếu trên là chưa ổn như đã nêu nhưng xét về “tình” thì
đây là hướng giải quyết thuyết phục, cần được chấp nhận và phát triển.”
(Đỗ Văn Đại- Luật thừa kế Việt Nam-Bản án và bình luận bản án, Nxb.Hồng Đức-
Hội Luật gia Việt Nam 2019 (xuất bản lần thứ tư), Bản án số 4-7)
Nội dung Án lệ số 16/2017/AL về công nhận hợp đồng chuyển nhượng quyền sử
dụng đất là di sản thừa kế do một trong các đồng thừa kế chuyển nhượng:
Ông Phùng Văn N và bà Phùng Thị G có 06 người con chung là chị Phùng Thị H1,
chị Phùng Thị N1, chị Phùng Thị H2, anh Phùng Văn T, chị Phùng Thị P, chị Phùng Thị
N2. Ngày 07-7-1984 ông Phùng Văn N chết không để lại di chúc, bà Phùng Thị G và anh
Phùng Văn T quản lý và sử dụng nhà đất trên. Năm 1991, bà Phùng Thị G chuyển nhượng
cho ông Phùng Văn K diện tích 131m2 trong tổng diện tích 398m2 của thửa đất trên; phần
diện tích đất còn lại của thửa đất là 267,4m 2. Năm 1999 bà Phùng Thị G đã được cấp giấy
chứng nhận quyền sử dụng đất, diện tích 267,4m 2, bà Phùng Thị G cùng vợ chồng anh
Phùng Văn T vẫn quản lý sử dụng nhà đất này. Việc bà Phùng Thị G chuyển nhượng đất
cho ông Phùng Văn K các con bà Phùng Thị G đều biết, nhưng không ai có ý kiến phản đối
gì, các con của bà Phùng Thị G có lời khai bà Phùng Thị G bán đất để lo cuộc sống của bà
và các con. Nay ông Phùng Văn K cũng đã được cơ quan nhà nước cấp giấy chứng nhận
quyền sử dụng đất. Ngày 19-12-2010 bà Phùng Thị G chết, trước khi chết bà đã để lại di
chúc lập ngày 05-3-2009 có nội dung để lại cho chị Phùng Thị H1 (con gái bà Phùng Thị G)
diện tích 90m2 đất trong tổng diện tích 267m2đất trên, di chúc có chứng thực của Ủy ban
nhân dân phường M ngày 7-3-2009. Nay các nguyên đơn yêu cầu Tòa án giải quyết phân
chia di sản thừa kế theo di chúc bà Phùng Thị G để lại cho chị Phùng Thị H1 là 90m2, phần
còn lại là 177m2 đề nghị chia theo pháp luật. Cuối cùng, Tòa án ra quyết định bà Phùng Thị
G chỉ có quyền định đoạt 1/2 diện tích đất trong tổng diện tích 267m2 đất chung của vợ
chồng bà. Do đó, phần di sản của bà Phùng Thị G để lại là 1/2 khối tài sản (133,5m2) được
chia theo di chúc cho chị Phùng Thị H1 (con gái bà Phùng Thị G) là 90m2, còn lại là
43,5m2 được chia cho 5 kỷ phần còn lại. Đối với 1/2 diện tích đất trong tổng diện tích
267m2 đất chung của vợ chồng là phần di sản của ông Phùng Văn N để lại nay đã hết thời
hiệu chia thừa kế nên phần diện tích đất này ai đang quản lý, sử dụng thì được tiếp tục quản
lý, sử dụng.
Câu 7: Ở Án lệ số 16/2017/AL, trong diện tích 398 m 2 đất, phần di sản của
Phùng Văn N là bao nhiêu? Vì sao?
Trả lời:
Theo nhận định của Tòa án thì diện tích 398m 2 đất là tài sản chung của vợ chồng ông
N và bà G. Năm 1991 bà G chuyền nhượng cho ông K 131 m 2 đất nhằm trả nợ và nuôi gia
đình. Căn cứ vào khoản 2 Điều 33 Luật hôn nhân gia đình 2014 về tài sản chung của vợ
chổng thì phần đất chuyển nhượng trên được xem như là tài sản chung:
“2. Tài sản chung của vợ chồng thuộc sở hữu chung hợp nhất, được dùng để bảo
đảm nhu cầu của gia đình, thực hiện nghĩa vụ chung của vợ chồng.”

5
Như vậy, tài sản chung của vợ chồng ông N và bà G lúc này còn 267 m 2. Phần di sản
của ông N là một nửa diện tích 267 m2 đất chung của vợ chồng ông và bà G, tức là 133,5
m2.
Các văn bản pháp luật hiện nay không quy định rõ phần của vợ/ chồng trong khối tài
sản chung. Theo khoản 2 Điều 59 Luật hôn nhân gia đình 2014, tài sản chung của vợ chông
được chia đôi, tức là mỗi người được 1/2 khối tài sản chung nhưng nếu có chứng cứ chứng
minh có sự đóng góp khác nhau thì phần mỗi người không nhất thiết là ngang nhau.
“…2. Tài sản chung của vợ chồng được chia đôi nhưng có tính đến các yếu tố sau
đây:
a) Hoàn cảnh của gia đình và của vợ, chồng;
b) Công sức đóng góp của vợ, chồng vào việc tạo lập, duy trì và phát triển khối tài
sản chung. Lao động của vợ, chồng trong gia đình được coi như lao động có thu nhập;
c) Bảo vệ lợi ích chính đáng của mỗi bên trong sản xuất, kinh doanh và nghề nghiệp
để các bên có điều kiện tiếp tục lao động tạo thu nhập;
d) Lỗi của mỗi bên trong vi phạm quyền, nghĩa vụ của vợ chồng.”
Tuy nhiên, quy định này quy định trong trường hợp vợ chồng ly hôn. Một điều luật
khác cũng ghi nhận về vấn đề phân chia tài sản chung của vợ chồng là: khoản 2 Điều 66
Luật hôn nhân và gia đình 2014 quy định về giải quyết tài sản vợ chồng khi một bên chết:
“…2. Khi có yêu cầu về chia di sản thì tài sản chung của vợ chồng được chia đôi,
trừ trường hợp vợ chồng có thỏa thuận về chế độ tài sản. Phần tài sản của vợ, chồng chết
hoặc bị Tòa án tuyên bố là đã chết được chia theo quy định của pháp luật về thừa kế…”
Như vậy, phần diện tích đất của ông N sẽ là 133.5 m 2 . Mặc dù ông N chết và phần
diện tích 267 m2 được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đứng tên bà G (phần đất chỉ
còn 267 m2 là vì bà đã chuyển nhượng cho ông Phùng Văn K vào năm 1991 một phần diện
tích đất trên là 131 m2 và năm 1999 bà mới được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất)
nhưng phần đất được hình thành trong thời kỳ hôn nhân, là tài sản chung của vợ chồng. Cho
nên phần di sản của ông N sẽ được tính là ½ tổng diện tích đất chung của vợ chồng ông và
bà G theo Điều 612 BLDS 2015:
“Di sản bao gồm tài sản riêng của người chết, phần tài sản của người chết trong tài
sản chung với người khác”.
Câu 8: Theo án lệ trên, phần diện tích đất đã chuyển nhượng cho ông K có phải
là di sản để chia không? Vì sao?
Trả lời:
Theo án lệ trên, phần diện tích đất đã chuyển nhượng cho ông K không phải là di sản
để chia. Vì bà Phùng Thị G đã chuyển nhượng quyền sử dụng đất cho ông Phùng Văn K và
ông K cũng đã được cơ quan nhà nước cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất. Việc bà
Phùng Thị G chuyển nhượng đất cho ông Phùng Văn K các con bà Phùng Thị G đều biết,
6
nhưng không ai có ý kiến phản đối gì. Vì vậy có cơ sở để xác định các con bà Phùng Thị G
đã đồng ý để bà Phùng Thị G chuyển nhượng diện tích 131m 2 nêu trên cho ông Phùng Văn
K. Phần diện tích đất này đã thuộc quyền sử dụng của ông K nên không phải là di sản đề
chia thừa kế của gia đình bà Phùng Thị G.
Câu 9: Suy nghĩ của anh chị về hướng giải quyết của Án lệ trên.
Trả lời:
Hướng giải quyết của Án lệ khi quyết định không đưa 131 m 2 đất đã bán cho ông K
vào phần di sản của ông N là hợp lý. Như đã phân tích ở trên, bà G chuyển nhượng đất
nhằm đảm bảo cuộc sống cho gia đình. Mặc khác, theo Điều 651 BLDS 2015 quy định về
người thừa kế theo pháp luật thì cả bà G và 6 người con đều thuộc hàng thừa kế thứ nhất,
đồng thời những người thừa kế cùng hàng sẽ được hưởng phần di sản bằng nhau. Trong
trường hợp bà G chuyển nhượng 131 m2 đất cho ông K phải được sự đồng ý của tất cả các
đồng thừa kế. Trên thực tế, các đồng thừa kế đã biết việc chuyển nhượng và không có ý kiến
phản đối. Nên có thể xem hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng 131 m 2 đất của bà G cho
ông K là hoàn toàn hợp pháp. Căn cứ theo Điều 223 BLDS 2015 về căn cứ xác lập quyền sở
hữu theo hợp đồng, ông K có quyền sở hữu tài sản trong hợp đồng là 131 m2 đất.
Điều 651. Người thừa kế theo pháp luật
“1. Những người thừa kế theo pháp luật được quy định theo thứ tự sau đây:
a) Hàng thừa kế thứ nhất gồm: vợ, chồng, cha đẻ, mẹ đẻ, cha nuôi, mẹ nuôi, con đẻ,
con nuôi của người chết;

2. Những người thừa kế cùng hàng được hưởng phần di sản bằng nhau.”
Điều 223. Xác lập quyền sở hữu theo hợp đồng
“Người được giao tài sản thông qua hợp đồng mua bán, tặng cho, trao đổi, cho vay
hoặc hợp đồng chuyển quyền sở hữu khác theo quy định của pháp luật thì có quyền sở hữu
tài sản đó.”
Câu 10: Nếu bà Phùng Thị G bán đất trên không để lo cuộc sống của các con mà
dùng chỗ tiền đó cho cá nhân bà Phùng Thị G thì số tiền đó có được coi là di sản để
chia không? Vì sao?
Trả lời:
Nếu việc bán đất trên mà không để lo cho cuộc sống của các con mà dùng tiền đó cho
cá nhân thì số tiền đó không được xem là tài sản chung vợ chồng. Căn cứ vào khoản 2 Điều
33 Luật hôn nhân gia đình 2014 về tài sản chung của vợ chổng thì phần đất chuyển nhượng
trên được xem như là tài sản riêng:
“2. Tài sản chung của vợ chồng thuộc sở hữu chung hợp nhất, được dùng để bảo
đảm nhu cầu của gia đình, thực hiện nghĩa vụ chung của vợ chồng.”

7
Như vậy, khi chia di sản phần đất đã chuyển nhượng sẽ không được tính vào tài sản
chung của vợ chồng. Tài sản của ông N là 199 m2 đất trong 398 m2 đất, bà G sẽ có 68 m2 đất
trong 398 m2 đất (do bà G đã chuyển nhượng 131 m 2 đất cho ông K). Căn cứ Điều 612
BLDS 2015: “Di sản bao gồm tài sản riêng của người chết, phần tài sản của người chết
trong tài sản chung với người khác.” Phần tài sản của ông N được xem là di sản để chia là
199 m2 đất.
Câu 11: Ở thời điểm bà Phùng Thị G chết, di sản của bà Phùng Thị G trong
diện tích đất trên là bao nhiêu? Vì sao?
Trả lời:
Ở thời điểm bà Phùng Thị G chết, di sản của bà Phùng Thị G trong diện tích đất trên
là 133,5 m2. Theo khoản 2 Điều 66 Luật hôn nhân và gia đình 2014 quy định về giải quyết
tài sản vợ chồng khi một bên chết:
“…2. Khi có yêu cầu về chia di sản thì tài sản chung của vợ chồng được chia đôi,
trừ trường hợp vợ chồng có thỏa thuận về chế độ tài sản. Phần tài sản của vợ, chồng chết
hoặc bị Tòa án tuyên bố là đã chết được chia theo quy định của pháp luật về thừa kế…”
Diện tích 267m2 đất đứng tên bà Phùng Thị G, nhưng được hình thành trong thời
gian hôn nhân nên phải được xác định là tài sản chung của vợ chồng ông Phùng Văn N và
bà Phùng Thị G chưa chia. Bà Phùng Thị G chỉ có quyền định đoạt 1/2 diện tích đất trong
tổng diện tích 267m2 đất chung của vợ chồng bà. Do đó, phần di sản của bà Phùng Thị G để
lại là 1/2 khối tài sản (133,5m2).
Câu 12: Việc Toà án xác định phần còn lại của di sản của bà Phùng Thị G là
2
43,5m có thuyết phục không? Vì sao? Đây có là nội dung của án lệ số 16 không? Vì
sao?
Trả lời:
Việc Tòa án xác định phần còn lại của di sản của bà Phùng Thị G là 43,5m 2 là chưa
thuyết phục.
Căn cứ Điều 651 BLDS 2015 quy định về chia thừa kế:
“1. Những người thừa kế theo pháp luật được quy định theo thứ tự sau đây:
a) Hàng thừa kế thứ nhất gồm: vợ, chồng, cha đẻ, mẹ đẻ, cha nuôi, mẹ nuôi, con đẻ,
con nuôi của người chết;

2. Những người thừa kế cùng hàng được hưởng phần di sản bằng nhau.”
Theo đó, di sản mà ông N để lại sẽ chia đều cho 7 người bao gồm: bà G và 6 người
con. Phần di sản của ông N là ½ của diện tích 267m2 đất còn lại (sau khi trừ bỏ 131m2 mà bà
đã bán cho ông Phùng Văn K) tức là 133,5 m2 đất, khi chia thừa kế mỗi người sẽ được
hưởng 19.07 m2 đất. Do đó tổng diện tích đất mà bà G sở hữu sau khi nhận thừa kế là

8
152,57 m2, theo di chúc bà G để cho chị H1 là 90m 2 đất thì phần đất còn lại của di sản phải
là 62,57 m2 đất.
Đây không phải là nội dung của Án lệ số 16 vì nội dung Án lệ số 16/2017/AL là
công nhận hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất là di sản thừa kế do một trong các
đồng thừa kế chuyển nhượng. Hay nói cách khác án lệ thừa nhận hợp đồng chuyển
nhượngdiện tích 131m2 đất mà bà Phùng Thị G đã bán cho ông Phùng Văn K là hợp pháp
và không còn thuộc phần di sản thừa kế còn lại phải chia.
Câu 13: Việc Tòa án quyết định “còn lại là 43.5m 2 được chia cho 5 kỷ phần còn
lại” có thuyết phục không? Vì sao? Đây có là nội dung của án lệ số 16 không? Vì sao?
Trả lời:
Việc Tòa án quyết định “còn lại là 43.5m 2 được chia cho 5 kỷ phần còn lại” không
thuyết phục. Vì vốn dĩ phần di sản còn lại của bà G không phải là 43,5 m 2 mả còn lại là
62,57 m2 đất. Do đó, việc Tòa quyết định như trên là không thuyết .
Đây không là nội dung của án lệ số 16. Vì nội dung của án lệ được quy định nằm tại
đoạn 2 phần “Nhận định của Tòa án”:
“[2] Năm 1991, bà Phùng Thị G chuyển nhượng cho ông Phùng Văn K diện tích
131m trong tổng diện tích 398m2 của thửa đất trên; phần diện tích đất còn lại của thửa đất
2

là 267,4m2. Năm 1999 bà Phùng Thị G đã được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất,
diện tích 267,4m2, bà Phùng Thị G cùng vợ chồng anh Phùng Văn T vẫn quản lý sử dụng
nhà đất này. Việc bà Phùng Thị G chuyển nhượng đất cho ông Phùng Văn K các con bà
Phùng Thị G đều biết, nhưng không ai có ý kiến phản đối gì, các con của bà Phùng Thị G
có lời khai bà Phùng Thị G bán đất để lo cuộc sống của bà và các con. Nay ông Phùng Văn
K cũng đã được cơ quan nhà nước cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất. Vì vậy, có cơ
sở để xác định các con bà Phùng Thị G đã đồng ý để bà Phùng Thị G chuyển nhượng diện
tích 131m2 nêu trên cho ông Phùng Văn K. Tòa án cấp phúc thẩm không đưa diện tích đất
bà Phùng Thị G đã bán cho ông Phùng Văn K vào khối tài sản để chia là có căn cứ. Tòa án
cấp sơ thẩm xác định di sản là tổng diện tích đất 398m 2 (bao gồm cả phần đất đã bán cho
ông Phùng Văn K) để chia là không đúng.”
VẤN ĐỀ 2: NGHĨA VỤ TÀI SẢN CỦA NGƯỜI ĐỂ LẠI DI SẢN.
Câu 1: Theo BLDS, nghĩa vụ nào của người quá cố sẽ đương nhiên chấm dứt và
những nghĩa vụ nào của người quá cố sẽ không đương nhiên chấm dứt? Nêu cơ sở
pháp lý khi trả lời.
Trả lời:
Theo BLDS, nghĩa vụ mang tính nhân thân của người quá cố đương nhiên chấm dứt.
Căn cứ vào Khoản 8, Điều 374, BLDS 2005 quy định về Căn cứ chấm dứt nghĩa vụ dân sự:
“8. Bên có nghĩa vụ là cá nhân chết hoặc là pháp nhân, chủ thể khác chấm dứt mà nghĩa vụ
phải do chính cá nhân, pháp nhân, chủ thể đó thực hiện;”

9
Theo BLDS, nghĩa vụ về tài sản của người quá cố thì không đương nhiên chấm dứt.
Căn cứ vào Điều 637, BLDS 2005 quy định về Thực hiện nghĩa vụ tài sản do người chết để
lại:
“1. Những người hưởng thừa kế có trách nhiệm thực hiện nghĩa vụ tài sản trong
phạm vi di sản do người chết để lại, trừ trường hợp có thoả thuận khác.
2. Trong trường hợp di sản chưa được chia thì nghĩa vụ tài sản do người chết để lại
được người quản lý di sản thực hiện theo thoả thuận của những người thừa kế.
3. Trong trường hợp di sản đã được chia thì mỗi người thừa kế thực hiện nghĩa vụ
tài sản do người chết để lại tương ứng nhưng không vượt quá phần tài sản mà mình đã
nhận, trừ trường hợp có thoả thuận khác.
4. Trong trường hợp Nhà nước, cơ quan, tổ chức hưởng di sản theo di chúc thì cũng
phải thực hiện nghĩa vụ tài sản do người chết để lại như người thừa kế là cá nhân.”
Câu 2: Theo BLDS, ai là người phải thực hiện nghĩa vụ về tài sản của người quá
cố? Nêu cơ sở pháp lý khi trả lời.
Trả lời:
Căn cứ vào Điều 637, BLDS 2005 về Thực hiện nghĩa vụ tài sản do người chết để lại
thì: “1. Những người hưởng thừa kế có trách nhiệm thực hiện nghĩa vụ tài sản trong phạm
vi di sản do người chết để lại, trừ trường hợp có thoả thuận khác.
2. Trong trường hợp di sản chưa được chia thì nghĩa vụ tài sản do người chết để lại
được người quản lý di sản thực hiện theo thoả thuận của những người thừa kế.
3. Trong trường hợp di sản đã được chia thì mỗi người thừa kế thực hiện nghĩa vụ
tài sản do người chết để lại tương ứng nhưng không vượt quá phần tài sản mà mình đã
nhận, trừ trường hợp có thoả thuận khác.
4. Trong trường hợp Nhà nước, cơ quan, tổ chức hưởng di sản theo di chúc thì cũng
phải thực hiện nghĩa vụ tài sản do người chết để lại như người thừa kế là cá nhân.”
Câu 3: Nghĩa vụ của bà Loan đối với Ngân hàng có là nghĩa vụ về tài sản
không? Vì sao?
Trả lời:
Nghĩa vụ của bà Loan đối với Ngân hàng là nghĩa vụ về tài sản.
Vì nghĩa vụ của bà Loan đối với Ngân hàng không là nghĩa vụ đối với nhân thân – là
những nghĩa vụ do chính bản thân thực hiện. Do đó, nghĩa vụ đó là nghĩa vụ tài sản.
Câu 4: Nếu ngân hàng yêu cầu được thanh toán, ai là người phải thực hiện
nghĩa vụ trả nợ trên của bà Loan? Vì sao?
Trả lời:
Nếu ngân hàng yêu cầu được thanh toán thì những người thừa kế của bà Loan là
người phải thực hiện nghĩa vụ trả nợ trên của bà Loan.
10
Vì căn cứ vào Điều 637 về Thực hiện nghĩa vụ tài sản do người chết để lại thì:
“1. Những người hưởng thừa kế có trách nhiệm thực hiện nghĩa vụ tài sản trong
phạm vi di sản do người chết để lại, trừ trường hợp có thoả thuận khác.
2. Trong trường hợp di sản chưa được chia thì nghĩa vụ tài sản do người chết để lại
được người quản lý di sản thực hiện theo thoả thuận của những người thừa kế.
3. Trong trường hợp di sản đã được chia thì mỗi người thừa kế thực hiện nghĩa vụ
tài sản do người chết để lại tương ứng nhưng không vượt quá phần tài sản mà mình đã
nhận, trừ trường hợp có thoả thuận khác.
4. Trong trường hợp Nhà nước, cơ quan, tổ chức hưởng di sản theo di chúc thì cũng
phải thực hiện nghĩa vụ tài sản do người chết để lại như người thừa kế là cá nhân.”
Câu 5: Trong Quyết định số 26, ai là người có công chăm sóc, nuôi dưỡng người
quá cố khi họ còn sống?
Trả lời:
Trong Quyết định số 26, Tòa án đã xác định ông Vân có công chăm sóc cha mẹ và
công quản lý tài sản, ông Vi có công lớn trong việc nuôi dưỡng cha mẹ (ông Vi là người gửi
tiền cho cha mẹ để không phải bán nhà).
Câu 6: Trong Quyết định trên, theo Tòa giám đốc thẩm, công sức chăm sóc,
nuôi dưỡng cha mẹ của ông Vân, ông Vi được xử lý như thế nào?
Trả lời:
Trong Quyết định trên, theo Tòa giám đốc thẩm, công sức chăm sóc, nuôi dưỡng cha
mẹ của ông Vân, ông Vi không được Tòa án cấp phúc thẩm xác định rõ là 2 ông được
hưởng bao nhiêu để đối trừ, số tiền còn lại mới cha cho các đồng thừa kế. Cùng với vấn đề
xác định lại diện tích đất tranh chấp và định giá đất theo giá trị thị trường mà Tòa giám đốc
thẩm quyết định hủy bản án dân sự phúc thẩm và giao hồ sơ vụ án cho TAND tỉnh Bắc Ninh
xét xử sơ thẩm lại.
Câu 7: Suy nghĩ của anh/chị về hướng xử lý trên của Tòa giám đốc thẩm (trong
mối quan hệ với các quy định về nghĩa vụ của người quá cố).
Trả lời:
Theo lời khai của các đương sự thì phần diện tích nhà nào của cụ Phúc, cụ Thịnh để
lại, phần diện tích nào là do vợ chồng ông Vân làm là chưa thống nhất, tuy nhiên Tòa án cấp
sơ và phúc thẩm lại xác định 02 ngôi nhà một tầng là tài sản của cụ Phúc, cụ Thịnh để lại
mặc dù chưa xác minh rõ ràng. Điều đó có thể làm ảnh hưởng đến quyền và lợi ích của vợ
chồng ông Vân. Bên cạnh đó, tuy đã xác định ông Vân có công chăm sóc cha mẹ và quản lý
tài sản, ông Vi có công lớn trong việc nuôi dưỡng cha mẹ nhưng Tòa án cấp phúc thẩm vẫn
không xác định rõ công sức mà hai ông được hưởng là bao nhiêu để đối trừ, số tiền còn lại
mới chia cho các đồng thừa kế. Do đó, Tòa giám đốc thẩm đã quyết định hủy bản án đân sự
sơ và phúc thẩm trước đó và giao hồ sơ để xét xử lại là hoàn toàn hợp lý.
11
VẤN ĐỀ 3: THỜI HIỆU TRONG LĨNH VỰC THỪA KẾ.
Tóm tắt Án lệ 26/2018/AL.
Người để lại di sản thừa kế (cụ K và cụ T) là bất động sản chết trước ngày công bố
Pháp lệnh Thừa kế ngày 30-8-1990. Tại thời điểm Tòa xét xử sơ thẩm Bộ luật Dân sự 2015
đang có hiệu lực.
Câu 1: Cho biết các loại thời hiệu trong lĩnh vực thừa kế.
Trả lời:
Có 3 thời hiệu trong lĩnh vực thừa kế theo Điều 623 BLDS 2015:
- Thời hiệu yêu cầu chia di sản: ‘’Thời hiệu để người thừa kế yêu cầu chia di sản là
30 năm đối với bất động sản, 10 năm đối với động sản, kể từ thời điểm mở thừa kế.”
- Thời hiệu yêu cầu xác nhận quyền thừa kế hoặc phản đối quyền thừa kế của người
khác: ‘’Thời hiệu để người thừa kế yêu cầu xác nhận quyền thừa kế của mình hoặc bác bỏ
quyền thừa kế của người khác là 10 năm, kể từ thời điểm mở thừa kế.’’
- Thời hiệu khởi kiện để yêu cầu người thừa kế thực hiện nghĩa vụ về tài sản của
người chết để lại: ‘’Thời hiệu yêu cầu người thừa kế thực hiện nghĩa vụ về tài sản của
người chết để lại là 03 năm, kể từ thời điểm mở thừa kế.’’
Câu 2: Thời điểm mở thừa kế đối với di sản của cụ T là năm nào? Đoạn nào
của Quyết định tạo lập thành Án lệ số 26/2018/AL cho câu trả lời?
Trả lời:
Thời điểm mở thừa kế đối với di sản của cụ T là năm 2017. Đoạn của Quyết định tạo
lập thành Án lệ số 26/2018/AL là: ‘’ Như vậy kể từ ngày Bộ luật Dân sự năm 2015 có hiệu
lực thi hành, Tòa án áp dụng quy định tại Điều 623 Bộ luật Dân sự năm 2015 để xác định
thời hiệu đối với trường hợp mở thừa kế trước ngày 01-01-2017. Căn cứ quy định tại khoản
4 Điều 36 Pháp lệnh thừa kế ngày 30-8-1990 và Bộ luật Dân sự năm 2015, trong trường
hợp này thời hiệu khởi kiện chia di sản của cụ T cho các đồng thừa kế vẫn còn theo quy
định của pháp luật.’’
Câu 3: Việc Án lệ số 26/2018/AL áp dụng thời hiệu 30 năm của BLDS 2015 cho
di sản của cụ T có cơ sở văn bản nào không? Có thuyết phục không? Vì sao?
Trả lời:
Viêc Án lệ số 26/2018/AL áp dụng thời hiệu 30 năm của BLDS 2015 cho di sản của
cụ T có cơ sở của Khoản 1 Điều 623 BLDS 2015. Việc này là hoàn toàn thuyết phục. Vì
theo ta thấy di sản của cụ T đa phần là bất động sản, mà bất động sản là một tài sản có giá trị
lớn nên việc chia di sản thừa kế này phải có thời hiệu là 30 năm. Hơn nữa việc qui định thời
hiệu 30 năm đối với bất động sản này là hợp lí như việc trong qui định trong Điều 236
BLDS 2015 đối với căn cứ xác lập quyền sở hữu theo thời hiệu do chiếm hữu, được lợi về
tài sản không có căn cứ pháp luật là 30 năm đối với bất động sản.

12
Câu 4: việc Án lệ số 26/2018/AL áp dụng thời hiệu 30 năm của BLDS 2015 cho
di sản của cụ T với thời điểm bắt đầu từ thời điểm Pháp lệnh thừa kế năm 1990 được
công bố có cơ sở văn bản nào không? Có thuyết phục không? Vì sao?
Trả lời:
Việc Án lệ số 26/2018/AL áp dụng thời hiệu 30 năm của BLDS 2015 cho di sản của
cụ T với thời điểm bắt đầu từ thời điểm Pháp lệnh thừa kế năm 1990 được công bố chưa có
văn bản cụ thể nào. Theo quy định tại Điều 623 (BLDS 2015), thời hiệu của thừa kế được
bắt đầu kể từ thời điểm mở thừa kế. Như vậy, điều luật này không hề đề cập đến thời điểm
tính từ Pháp lệnh thừa kế năm 1990. Do đó, quyết định này là không thuyết phục.
Câu 5: Suy nghĩ của Anh/Chị về Án lệ số 26/2018/AL nói trên.
Trả lời:
Án lệ số 26/2018/AL cho ta cái nhìn về thời điểm bắt đầu tính thời hiệu và thời hiệu
yêu cầu chia di sản thừa kế là bất động sản. Cho thấy đây là một vấn đề hết sức phức tạp đặc
biết khi có sự thay đổi giữa các thế hệ dẫn tới áp dụng sự thay đổi của luật pháp tạo sự khó
khăn trong quá trình xác định. Các quyết định của Tòa án đưa ra hầu hết phải xem xét trên
nhiều khía cạnh để mang tính thuyết phục. Đây có thể xem là một Án lệ hay vì tính thực tế
thường xuyên xảy ra của nó.
VẤN ĐỀ 4: TÌM KIẾM TÀI LIỆU.
Liệt kê những bài viết liên quan đến pháp luật về tài sản và thừa kế được công bố
trên các Tạp chí chuyên ngành Luật từ đầu năm 2016 đến nay. Khi liệt kê, yêu cầu viết
theo trật tự theo tên tác giả và việc liệt kê phải thỏa mãn những thông tin theo trật tự
sau : 1) Họ và tên tác giả, 2) Tên bài viết in nghiêng, 3) Tên Tạp chí, 4) Số và năm của
Tạp chí, 5) Số trang của bài viết (ví dụ : từ tr. 41 đến 51). Các bài viết được liệt kê theo
alphabet tên các tác giả (không nêu chức danh).
1. Lê Thị Hồng Hạnh, Áp dụng quy định miễn án phí đối với người cao tuổi trong vụ án
chia tài sản, Kiểm sát, Số 22/2018, tr. 12.
2. Hoàng Thị Thanh Hoa, Kê biên, xử lí tài sản thuộc sở hữu chung của người phải thi
hành án – Một số vấn đề từ thực tiễn, Dân chủ và pháp luật, Số 8/2018, tr. 14.
3. Vũ Thị Thanh Huyền, Thảo thuận về tài sản chung của vợ chồng sau li hôn, Dân chủ
và pháp luật, Số 9/2018, tr. 55.
4. Cao Đình Lành, Thực thi pháp luật bồi thường về đất đai khi nhà nước thu hồi đất ở,
Dân chủ và pháp luật, Số 5/2018, tr. 35.
5. Phùng Trung Lập, Ranh giới và mốc ranh giới giữa các bất động sản, Kiểm sát, Số
21/2018, tr. 3.
6. Hoàng Thị Loan, Những vấn đề lí luận về di chúc và hiệu lực của di chúc, Luật học,
Số 3/2018, tr. 31.

13
7. Phạm Văn Lưỡng, Thế chấp quyền sử dụng đất là tài sản chung của hộ gia đình,
Luật sư Việt Nam, Số 5/2018, tr. 29.
8. Tưởng Duy Lượng, Quy định của Điều 623 BLDS năm 2015 về hưởng di sản theo
thời hiệu, Nghiên cứu lập pháp, Số 13/2017, tr. 42.
9. Tưởng Duy Lượng, “Một số vấn đề về lãi suất thoả thuận trong hợp đồng cho vay
tài sản”, Tạp chí Kiểm sát, Số 02/2019, tr. 33-50.
10. Nguyễn Thị Nga, Bất cập trong các quy định về chủ thể sử dụng đất của Luật Đất
đai năm 2013, Nhà nước và pháp luật, Số 2/2018, tr. 68.
11. Trần Minh Ngọc, Xác định áp dụng pháp luật đối với quan hệ thừa kế có yếu tố
nước ngoài theo pháp luật Việt Nam, Luật học, Số 9/2018, tr. 59.
12. Cao Anh Nguyên, Thẩm quyền giải quyết của trọng tài trong lĩnh vực bất động sản,
Dân chủ và pháp luật, Số chuyên đề pháp luật đất đai 2017, tr. 2.
13. Nguyễn Thị Phíp, Một số vướng mắc trong việc xử lý tài sản thi hành án không có
người tham gia đấu giá, bán đấu giá không thành, Nghề luật, số 3/2016, từ tr 46 đến
49.
14. Trần Vang Phủ, Xác định giá trị bồi thường đối với nhà, công trình xây dựng khi
nhà nước thu hồi đất, Nhà nước và pháp luận, Số 2/2018, tr. 56.
15. Nguyễn Thanh Phúc, Thời hiệu thừa kế theo quy định của BLDS năm 2015, Dân chủ
và pháp luật, Số 2/2018, tr. 10.
16. Lê Văn Sua, Tranh chấp tài sản thuộc về sở hữu chung của dòng họ: Điều kiện thụ
lý giải quyết đơn khởi kiện, Tạp chí Luật sư Việt Nam, số 1 + 2 tháng 1 + 2/2016, tr.
53 đến 56.
17. Đặng Phước Thông, Quyền đối với tài sản trong BLDS năm 2015 và hoàn thiện pháp
luật về đăng kí tài sản, Luật học, Số 8/2018, tr. 74.
18. Nguyễn Thành Tới, Cầm cố quyền sử dụng đất vướng mắc của Tòa án trong việc
giải quyết tranh chấp, Tòa án Nhân dân, Số 15/2018, tr. 31.
19. Vũ Thị Hồng Yến, Thế chấp quyền sử dụng đất nhưng không thế chấp tài sản gắn
liền với đất (hoặc ngược lại) theo BLDS năm 2015 – Một số nội dung cần bàn luận,
Nhà nước và pháp luật, Số 6/2017, tr. 26.
20. Vũ Thị Hồng Yến, Đăng kí trực tuyến giao dịch bảo đảm bằng bất động sản nhu
cầu, thực trạng và giải pháp, Tạp chí Luật học số 1/2016, từ tr. 68 đến 76.
Hết.

14

You might also like