You are on page 1of 19

Lớp CLC-45B

Buổi thảo luận tuần thứ 11/tháng 4:


Giao dịch dân sự
Bộ môn: Những Quy Định Chung Về Luật Dân Sự
GV hướng dẫn: PGS.TS. LÊ MINH HÙNG
Thành viên

STT Họ và tên MSSV Nhiệm vụ


1 Trần Việt Đức 2053801014045 Thư ký
2 Nguyễn Ngọc Duy 2053801011057 Thành viên
3 Nguyễn Thị Thu Hằng 2053801014072 Thành viên
4 Lê Thị Khánh Huyền 2053801011108 Thành viên
5 Nguyễn Khánh Linh 2053801011132 Thành viên
6 Phạm Chu Nhật Minh 2053801014148 Nhóm trưởng
7 Đàm Nguyễn Như Quỳnh 2053801015103 Thành viên
8 Bùi Quốc Vũ 2053801013196 Thành viên
9 Phạm Nguyễn Phương Vy 2053801011336 Thành viên
10 Đàm Lê Hương Xuân 2053801015185 Thành viên

Địa chỉ liên lạc: nhatminhnhatminhnhatminh13@gmail.com

Thành phố Hồ Chí Minh, ngày 4 tháng 6 năm 2021

MỤC LỤC
MỤC LỤC............................................................................................................2
BIÊN BẢN LẢM VIỆC NHÓM.........................................................................4
VẤN ĐỀ 1: Năng lực pháp luật dân sự của chủ thể trong xác lập giao dịch…………………….. 5
Câu 1......................................................................................................................5
Câu 2......................................................................................................................6
Câu 3…..................................................................................................................7
Câu 4……………………………………………………………………………………7
VẤN ĐỀ 2: Giao dịch xác lập bởi người không có khả năng nhận thức…………………………… 8
Câu 1......................................................................................................................8
Câu 2......................................................................................................................8
Câu 3…..................................................................................................................8
Câu 4……………………………………………………………………………………9
Câu 5………………………………………………………………………………..…10
Câu 6…………………………………………………………………………………..10
VẤN ĐỀ 3: Giao dịch xác lập do có lừa dối…………………………………………………………………...11
Câu 1....................................................................................................................11
Câu 2....................................................................................................................11
Câu 3…................................................................................................................12
Câu 4…………………………………………………………………………………..12
Câu 5…………………………………………………………………………………..13
Câu 6…………………………………………………………………………………..13
Câu 7…………………………………………………………………………………..13
Câu 8…………………………………………………………………………………..14
Câu 9…………………………………………………………………………………..14
VẤN ĐỀ 4: Hậu quả của giao dịch dân sự vô hiệu……………………………………..14
Câu 1…………………………………………………………………………………..15
Câu 2…………………………………………………………………………………..15
Câu 3…………………………………………………………………………………..15
Câu 4…………………………………………………………………………………..15
Câu 5…………………………………………………………………………………..16
Câu 6…………………………………………………………………………………..17
Câu 7…………………………………………………………………………………..17
Câu 8…………………………………………………………………………………..17
2
Câu 9…………………………………………………………………………………..18

3
BIÊN BẢN LÀM VIỆC NHÓM
Môn học: Những quy định chung về luật dân sự
Giáo viên phụ trách: Lê Minh Hùng
Đề tài: Giao dịch dân sự
Các thành viên trong nhóm:
1 Trần Việt Đức
2 Nguyễn Ngọc Duy
3 Nguyễn Thị Thu Hằng
4 Lê Thị Khánh Huyền
5 Nguyễn Khánh Linh
6 Phạm Chu Nhật Minh
7 Đàm Nguyễn Như Quỳnh
8 Bùi Quốc Vũ
9 Phạm Nguyễn Phương Vy
10 Đàm Lê Hương Xuân
Mục tiêu: Hiểu và biết vận dụng một số kiến thức liên quan đến điều kiện để giao
dịch dân sự có hiệu lực và hệ quả pháp lý khi giao dịch dân sự bị tuyên bố vô
hiệu, làm quen và phát huy hình thức làm việc nhóm, rèn luyện kỹ năng viết, rèn
luyện kỹ năng thuyết trình, rèn luyện kỹ năng tự đọc tài liệu, văn bản pháp luật và
giải quyết một số vấn đề pháp lý khi văn bản không đầy đủ, không hoàn thiện hoặc
có sự khác nhau giữa văn bản và thực tiễn; rèn luyện kỹ năng phân tích để hiểu,
đánh giá một quyết định của Tòa án.
Nội dung công việc:
1. Nhóm trưởng Phạm Chu Nhật Minh đọc lại nội dung, yêu cầu của buổi thảo
luận cho cả nhóm để có cái nhìn tổng quan và chiến lược hợp lí.
2. Thư ký Trần Việt Đức nói rõ lại những lời hướng dẫn của giáo viên về buổi thảo
luận, đưa ra những ý kiến về việc phân chia khối lượng công việc.
3. Lần lượt các thành viên trong nhóm sẽ chia thành từng cặp để giải quyết các yêu
cầu, bài tập, nghiên cứu các tài liệu tham khảo.
4. Sau khi từng cặp hoàn thành sẽ đưa ra kiểm tra chéo trong nhóm để có sự hoàn
thiện và chỉn chu nhất.
5. Thư ký Trần Việt Đức sẽ tổng hợp bài làm của các bạn thành 1 bài hoàn chỉnh.
4
Vấn đề 1: Năng lực pháp luật dân sự của chủ thể trong xác lập giao dịch

Nghiên cứu:
- Điều 117 và Điều 122 BLDS 2015 (Điều 122 và Điều 127 BLDS 2005); Quy định
liên quan khác (nếu có)
- Bản án số 32/2018/DS-ST ngày 20-12-2018 của Tòa án nhân dân tỉnh Vĩnh Long.
1. So với BLDS năm 2005, BLDS 2015 có gì khác về điều kiện có hiệu lực giao
dịch dân sự? Suy nghĩ của anh/ chị về sự thay đổi trên.

BLDS 2015: Điều 117. Điều kiện có hiệu lực của giao dịch dân sự

1. Giao dịch dân sự có hiệu lực khi có đủ các điều kiện sau đây:

a) Chủ thể có năng lực pháp luật dân sự, năng lực hành vi dân sự phù hợp với giao dịch
dân sự được xác lập

b) Chủ thể tham gia giao dịch dân sự hoàn toàn tự nguyện

c) Mục đích và nội dung của giao dịch dân sự không vi phạm điều cấm của luật, không
trái đạo đức xã hội.

2. Hình thức của giao dịch dân sự là điều kiện có hiệu lực của giao dịch dân sự
trong trường hợp luật có quy định.

- Về năng lực xác lập giao dịch:

+ Ở BLDS 2015: chủ thể có năng lực pháp luật dân sự, năng lực hành vi dân
sự phù hợp với giao dịch dân sự được xác lập (theo hướng thêm điều kiện năng lực
pháp luật).

+ Ở BLDS 2005: Người tham gia giao dịch có năng lực hành vi dân sự.

- Về điều cấm của luật:

+ Ở BLDS 2015: Mục đích và nội dung của giao dịch dân sự không vi phạm điều
cấm của luật (khắc phục sự hạn chế tự do như quy định BLDS 2005, và theo như tinh
thần điều 123 BLDS 2015 điều cấm của luật là những quy định luật không cho phép
chủ thể thực hiện những hành vi nhất định).

+ Ở BLDS 2005: Mục đích và nội dung của giao dịch không vi phạm điều cấm
của pháp luật.

- Về Mục đích của giao dịch:

+ Ở BLDS 2015: Mục đích và nội dung của giao dịch dân sự không vi phạm điều
cấm của luật (điều 118, BLDS 2015).

5
+ Ở BLDS 2005: Mục đích của giao dịch dân sự là lợi ích hợp pháp mà các bên
mong muốn đạt được khi xác lập giao dịch đó (Điều 123 BLDS 2005).

- Về giới hạn tự do về hình thức:

+ Ở BLDS 2015: Hình thức của giao dịch dân sự là điều kiện có hiệu lực của giao
dịch dân sự trong trường hợp luật có quy định (làm hẹp đi yêu cầu về hình thức).

+ Ở BLDS 2005: Hình thức giao dịch dân sự là điều kiện có hiệu lực của giao
dịch trong trường hợp pháp luật có quy định.

- Về loại hình thức của giao dịch:

+ Ở BLDS 2015: Giao dịch dân sự thông qua phương tiện điện tử dưới hình thức
thông điệp dữ liệu theo quy định của pháp luật về giao dịch điện tử được coi là giao
dịch bằng văn bản (Đề cập đến luật giao dịch điện tử).

Trường hợp luật quy định giao dịch dân sự phải được thể hiện bằng văn bản có công
chứng, chứng thực, đăng ký thì phải tuân theo quy định đó

(+ Bỏ hình thức văn bản không có công chứng chứng thực như: văn bản viết tay, văn
bản đánh máy

+ không coi xin phép là một hình thức nữa).

+ Ở BLDS 2005: Giao dịch dân sự thông qua phương tiện điện tử dưới hình thức
thông điệp dữ liệu được coi là giao dịch bằng văn bản.

Trong trường hợp pháp luật quy định giao dịch dân sự phải được thể hiện bằng văn bản,
phải có công chứng hoặc chứng thực, phải đăng ký hoặc xin phép thì phải tuân theo các
quy định đó.

Suy nghĩ về sự thay đổi trên: Sự thay đổi ở điều kiện có điều kiện giao dịch dân
sự ở BLDS 2015 đã cho thấy sự hoàn thiện và chỉn chu hơn về mặt pháp lý. Về năng
lực xác lập giao dịch đã theo hướng thêm điều kiện năng lực của pháp luật. Về điều
cấm của luật khắc phục sự hạn chế tự do như quy định BLDS 2005. Về giới hạn tự do
về hình thức làm hẹp đi yêu cầu về hình thức, giúp cho việc điều chỉnh trong hình thức
trở nên dễ dàng hơn.

2. Đoạn nào của bản án trên cho thấy ông T và bà H không có quyền sở hữu
nhà ở tại Việt Nam?

Hơn nữa ông Ph J T và bà L Th H là người Việt Nam ở nước ngoài đã nhập quốc tịch
Mỹ thì theo quy định Luật đất đai năm 2003 và Điều 121 của Luật nhà ở năm 2005 thì
người Việt Nam định cư ở nước ngoài được quyền sở hữu nhà ở Việt Nam khi thõa
mãn các điều kiện sau: “ Người Việt Nam định cử ở nước ngoài về đầu tư lâu dài tại
Việt Nam, người có công đóng góp với đất nước, nhà hoạt động văn hoá, nhà khoa học
6
có nhu cầu về hoạt động thường xuyên tại Việt Nam nhằm phục vụ sự nghiệp xây dựng
đất nước, người được phép về sống ổn định tại Việt Nam và các đối tượng khác do Uỷ
ban thường vụ Quốc hội quy định được sở hữu nhà ở tại Việt Nam”. “Người Việt Nam
định cư ở nước ngoài không thuộc diện quy định này đã về Việt Nam cư trú với thời
hạn được phép từ sáu tháng trở lên được sở hữu một nhà ở riêng lẻ hoặc một căn hộ” do
đó ông T và bà H không được sở hữu quyền sử dụng đất ở nông thôn và đất trồng cây
lâu năm tại Việt Nam.

3. Đoạn nào của bản án trên cho thấy giao dịch của ông T và bà H với bà Đ đã
bị Tòa án tuyên bố vô hiệu?

Các giao dịch giấy cho nền thổ cư ngày 31/5/2004, giấy nhường đất thổ cư ngày
02/6/2004, giấy cam kết ngày 16/3/2011 bị vô hiệu do vi phạm điều cấm của pháp luật
và do không tuân thủ quy định về hình thức theo Điều 117, 123, 129 của Bộ luật dân sự
và căn cứ theo Điều 131 của Bộ luật dân sự thì các đương sự phải khôi phục lại tình
trạng ban đầu, hoàn trả cho nhau những gì đã nhận.

4. Suy nghĩ của anh/chị (trong mối quan hệ với năng lực pháp luật của chủ
thể) về căn cứ để Tòa tuyên bố giao dịch trên vô hiệu

- Theo tôi, việc tòa tuyên bố giao dịch trên vô hiệu là hoàn toàn hợp lí, đúng quy trình,
đúng qui định của Pháp luật. Cụ thể giữa nguyên đơn và bị đơn L.K.Đ đã có những kí
kết, thỏa thuận thể hiện qua giấy cho nền đất thổ cư ngày 31/5/2004, giấy nhường đất
thổ cư ngày 02/6/2004. Tuy nhiên giấy cho nền đất thổ cư ngày 31/5/2004, giấy nhường
đất thổ cư ngày 02/6/2004 được lập giữa nguyên đơn và bị đơn xét về mặt hình thức thì
tờ cho đất thổ cư và tờ nhường đất thổ cư không tuân theo quy định của pháp luật,
không được công chứng, chứng thực theo quy định tại Điều 127 của Luật đất đai năm
2003 và Điều 117 của Bộ luật dân sự nên không phát sinh hiệu lực của hợp đồng.
- Cùng với đó ông Ph.J.T và bà L.Th.T là người Việt Nam ở nước ngoài đã nhập quốc
tịch Mỹ thì theo quy định của Luật đất đai năm 2003 và Điều 121 của Luật nhà ở 2005
thì người Việt Nam ở nước ngoài được quyền sở hữu nhà ở Việt Nam khi thõa mãn các
điều kiện sau: “Người Việt Nam định cư ở nước ngoài về đầu tư lâu dài tại Việt Nam,
người có công đóng góp với đất nước, nhà hoạt động văn hóa, nhà khoa học có nhu cầu
về hoạt động thường xuyên tại Việt Nam nhằm phục vụ sự nghiệp xây dựng đất nước,
người được phép về sống ổn định tại Việt Nam và các đối tượng khác do Ủy ban
thường vụ Quốc hội quy định được sở hữu nhà ở tại Việt Nam”. “Người Việt Nam định
cư ở nước ngoài không thuộc diện quy định này đã về Việt Nam cư trú với thời hạn
được phép từ sáu tháng trở lên được sở hữu một nhà ở riêng lẻ hoặc một căn hộ”. Chính
vì thế ông T và bà H không được sở hữu quyền sử dụng đất ở nông thôn và đất trồng
7
cây lâu năm tại Việt Nam vì vậy các giao dịch giấy cho nền đất thổ cư ngày 31/5/2004,
giấy nhường đất thổ cư ngày 02/6/2004, giấy cam kết ngày 16/03/2011 bị vô hiệu do vi
phạm điều cấm của pháp luật và do không tuân thủ quy định về hình thức theo Điều
117, 123, 129 của Bộ luật dân.
Đó chính là những căn cứ mà tôi cho rằng cực kì hợp lí để Tòa tuyên bố giao dịch trên
vô hiệu. Và theo Điều 131 của Bộ luật dân sự thì các đương sự phải khôi phục lại tình
trạng ban đầu, hoàn trả cho nhau những gì đã nhận.

Vấn đề 2: Giao dịch xác lập bởi người không có khả năng nhận thức
Nghiên cứu:
- Điều 22, 117, 122, 125 và 128 BLDS 2015 (Điều 22, 122, 127, 130 và 133 BLDS
2005); Quy định liên quan khác (nếu có)
- Quyết định số 329/2013/DS-GĐT ngày 25/7/2013 của Tòa dân sự Tòa án nhân
dân tối cao.

1. Từ thời điểm nào ông Hội thực chất không còn khả năng nhận thức và từ
thời điểm nào ông Hội bị Tòa án tuyên bố mất năng lực hành vi dân sự?
Từ năm 2007 ông Hội bị tai biến một chỗ và không còn khả năng nhận thức được. Ngày
7/5/2010 ông Hội bị Tòa án tuyên bố bị mất năng lực hành vi dân sự

2. Giao dịch của ông Hội (với vợ là bà Hương) được xác lập trước hay sau khi
ông Hội bị tuyên mất năng lực hành vi dân sự?
- Ngày 8/2/2010 vợ chồng ông Hội bà Hương đã bán căn nhà cho vợ chồng ông
Hùng, bà Trinh với giá 580.000.000đ. Nhưng đến ngày 7/5/2010 ông Hội mới bị tuyên
mất năng lực hành vi dân sự. Vì vậy, giao dịch của ông Hội và vợ là bà Hương được
xác lập trước khi ông Hội bị tuyên mất năng lực hành vi dân sự.

3. Theo Tòa án nhân dân tối cao, phần giao dịch của ông Hội có vô hiệu
không? Vì sao? Trên cơ sở quy định nào?
Theo Tòa án Nhân dân tối cao, phần giao dịch của ông bị vô hiệu:
 Vì từ năm 2007, ông đã bị tai biến và nằm liệt một chỗ, không thể nhận thức
được.
8
 Cơ sở pháp lí Điều 130 BLDS 2005 có quy định “Khi giao dịch dân sự do người
chưa thành niên, người mất năng lực hành vi dân sự hoặc người bị hạn chế năng lực
hành vi dân sự xác lập, thực hiện thì theo yêu cầu của người đại diện của người đó, Tòa
án tuyên bố giao dịch đó vô hiệu nếu theo quy định của pháp luật giao dịch này phải do
người đại diện của họ xác lập, thực hiện”.

4. Trong thực tiễn xét xử, có vụ việc nào giống hoàn cảnh của ông Hội không
và Tòa án đã giải quyết theo hướng nào? Cho biết tóm tắt vụ việc mà anh/chị biết.
Vụ tranh chấp hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất giữa nguyên đơn là ông
Diện do chị Thu là người đại theo pháp luật với bị đơn là ông Sơn. Trong đó Tòa án
đưa ra hướng giải quyết là xem xét có hay không sự gian dối khi hai bên kí kết hợp
đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất; tại thời điểm giao kết hợp đồng ông Diện đã bị
tâm thần thì việc chuyển nhượng có hợp pháp hay không và có bị áp dụng thời hiệu về
khởi kiện hay không? Đồng thời hủy bán án sơ thẩm định chỉ khi giải quyết vụ án.
 16/01/1993, ông Diện viết “giấy nhượng tài sản” cho ông Sơn bao gồm bất động
sản và những tài sản đi kèm. Trong đó có ông Diện, bà Hiền (vợ ông Diện) và 1 số
người khác. Bản án đã có hiệu lực pháp luật. 24/05/1994, đơn ly hôn ông Diện của bà
Hiền được Tòa án nhân dân huyện Từ Liêm giải quyết, cho bà ly hôn. Trong đó không
giải quyết phần tài sản trên.
 15/12/2009 Tòa án nhân dân huyện Từ Liêm tuyên bố ông Diện mất năng lực
hành vi dân sự.
 02/12/2010 bà Thu là con gái và cũng là người đại diện theo pháp luật của ông
Diện có đơn khởi kiện yêu cầu hủy hợp đồng trên, đồng thời ủy quyền cho mẹ là bà
Hiền tham gia tố tụng vụ án. Trong đó bà Hiền trình bày là khi giấy chuyển nhượng
quyền sử dụng đất thì ông Diện đã bị bệnh tâm thần và không làm chủ được hành vi,
đồng thời ép bà kí vào giấy. Từ đó hợp đồng sai với quy định pháp luật. Ông Sơn xác
định khi chuyển nhượng quyền sử dụng đất ông Diện không biểu hiện bệnh nên không
đồng ý hủy hợp đồng.
 Dựa trên thông tin cung cấp từ bệnh viện tâm thần Hà Nội và Trung tâm giám
định pháp y tâm thần Sở y tế Hà Nội, Tòa án xác định ông Diện cần người giám hộ tại
thời điểm ký giấy.

9
 Các bản án trước đó về vụ Tranh chấp hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng
đất giữa nguyên đơn là ông Diện do chị Thu là người đại diện theo pháp luật với bị đơn
là ông Sơn bị hủy và giao hồ sơ vụ án lại để xét xử sơ thẩm cho đúng quy định của pháp
luật.
5. Suy nghĩ của anh/chị về hướng giải quyết của Tòa án nhân dân tối cao trong
vụ việc trên (liên quan đến giao dịch do ông Hội xác lập)? Nêu cơ sở pháp lý khi
đưa ra hướng xử lý?
Quyết định của Tòa án nhân dân tối cao đưa ra trong vụ việc trên là thuyết phục và đầy
đủ căn cứ pháp lý:
- Công nhận quyền khởi kiện của chị Ánh đối với giao dịch chuyển nhượng quyền
sử dụng đất giữa ông Hội, bà Hương với vợ chồng ông Hùng, bà Trinh. Ông Hội được
tuyên bố mất năng lực hành vi dân sự từ ngày 07/05/2010, do đó chị Ánh là người thừa
kế quyền và nghĩa vụ của ông Hội và là người được cử là người đại diện pháp luật cho
ông Hội theo quy định của pháp luật tại Điều 130 BLDS năm 2005.
- Cần xác minh làm rõ về phần diện tích 43,7m2 (chưa được cấp giấy chứng nhận
quyền sử dụng đất và không có trong hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất ngày
08/02/2010) đã đăng ký kê khai và có đủ điều kiện được cấp giấy chứng nhận quyền sử
dụng đất hay không.
- Căn cứ vào khoản 2 Điều 291, khoản 3 Điều 297 và điều 299 của Bộ luật tố tụng
dân sự, Tòa án nhân dân tối cao đã quyết định: hủy toàn bộ bản án dân sự phúc thẩm số
35/2012/DSPT ngày 10/07/2012 của Tòa án nhân dân tỉnh Phú Yên và bản án dân sự sơ
thẩm số 98/2011/DSST ngày 22/12/2011 của Tòa án nhân dân tỉnh Tuy Hòa về vụ án “
Tranh chấp hợp đồng mua bán nhà ở gắn liền với quyền sử dụng đất” giữa nguyên đơn
là chị Đặng Thị Kim Ánh với bị đơn là bà Phạm Thị Hương và những người có quyền
lợi, nghĩa vụ liên quan là ông Lưu Hoàng Phi Hùng, bà Bùi Thị Tú Trinh và những
người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan khác.
- Tòa án đã chỉ ra nhiều điểm thiếu sót của 2 bản án sơ thẩm và phúc thẩm, đảm
bảo công bằng và quyền lợi giữa các bên có liên quan.

6. Nếu giao dịch có tranh chấp là giao dịch tặng cho ông Hội thì giao dịch đó
có bị vô hiệu không? Vì sao?
- Nếu giao dịch có tranh chấp là giao dịch tặng cho ông Hội thì giao dịch vẫn có
hiệu lực. Căn cứ theo khoản 2 điều 141 BLDS 2015 thì người đại diện theo pháp luật (ở
đây là chị Ánh) có quyền xác lập, thực hiện mọi giao dịch dân sự vì lợi ích của người
được đại diện (ông Hội), trừ trường hợp pháp luật có quy định khác.
- Khoản 2 điều 125 BLDS2015 quy định:
“Giao dịch dân sự của người quy định tại khoản 1 Điều này không bị vô hiệu trong
trường hợp sau đây:
a) Giao dịch dân sự của người chưa đủ sáu tuổi, người mất năng lực hành vi dân sự
nhằm đáp ứng nhu cầu thiết yếu hàng ngày của người đó
10
b) Giao dịch dân sự chỉ làm phát sinh quyền hoặc chỉ miễn trừ nghĩa vụ cho người chưa
thành niên, người mất năng lực hành vi dân sự, người có khó khăn trong nhận thức, làm
chủ hành vi, người bị hạn chế năng lực hành vi dân sự với người đã xác lập, thực hiện
giao dịch với họ
c) Giao dịch dân sự được người xác lập giao dịch thừa nhận hiệu lực sau khi đã thành
niên hoặc sau khi khôi phục năng lực hành vi dân sự”.

Vấn đề 3: Giao dịch xác lập do có lừa dối


Nghiên cứu:
- Điều 127 BLDS 2015 (Điều 132 BLDS 2005); Quy định liên quan khác (nếu có);
- Quyết định số 521/2010/DS-GĐT ngày 19/8/2010 của Tòa dân sự Tòa án nhân
dân tối cao; Quyết định số 210/2013/DS-GDDT ngày 21/5/2013 của Tòa dân sự
Tòa án nhân dân tối cao.
1. Điều kiện để tuyên bố một giao dịch dân sự vô hiệu do có lừa dối theo BLDS
2015 và BLDS 2005?
- Điều 127 BLDS2015 quy định giao dịch dân sự vô hiệu: “Khi một bên tham gia
giao dịch dân sự do bị lừa dối hoặc bị đe dọa, cưỡng ép thì có quyền yêu cầu Tòa án
tuyên bố giao dịch dân sự đó là vô hiệu.”
- Điều 132 BLDS 2005 quy định giao dịch dân sự vô hiệu: “Khi một bên tham gia
giao dịch dân sự do bị lừa dối hoặc bị đe dọa thì có quyền yêu cầu Tòa án tuyên bố giao
dịch dân sự đó là vô hiệu.”
- Cả 2 BLDS 2005 và BLDS 2015 đều có những quy định và khái niệm về hành vi
lừa dối hoặc đe dọa trong giao dịch dân sự giống nhau. Tuy nhiên BLDS 2015 được bổ
sung và hoàn thiện hơn khi có thêm yếu tố khi một chủ thể bị cưỡng ép thực hiện giao
dịch dân sự thì cũng có quyền yêu cầu Tòa án tuyên bố giao dịch dân sự đó là vô hiệu.
2. Kinh nghiệm của pháp luật nước ngoài trong việc xử lý một bên cố tình
không cung cấp thông tin liên quan đến tài sản trong quá trình xác lập giao dịch
- Các nước theo hệ thống pháp luật Common Law thông thường không đòi hỏi các
bên phải có nghĩa vụ cung cấp thông tin trong giai đoạn tiền hợp đồng, trừ một số loại
hợp đồng đặc biệt. Theo pháp luật các nước này, khi giữa các bên chưa hình thành một
hợp đồng chính thức, các bên không có nghĩa vụ theo hợp đồng và không phải chịu
trách nhiệm đối với việc không cung cấp hoặc cung cấp thông tin không đầy đủ trong
giai đoạn tiền hợp đồng, trừ khi các bên có thỏa thuận khác hoặc có sự lừa dối trong
việc cung cấp thông tin.
- Ngược lại, hầu hết pháp luật của các nước theo hệ thống pháp luật Civil Law đều
đưa ra các quy định liên quan đến nghĩa vụ cung cấp thông tin đối với các bên trong
giai đoạn tiền hợp đồng. Ở các nước này, nguyên tắc trung thực và thiện chí được ghi
nhận và đề cao, theo đó, nghĩa vụ cung cấp thông tin là nghĩa vụ bổ sung, cụ thể hóa
nguyên tắc thiện chí và trung thực. Nghĩa vụ cung cấp thông tin bao gồm: trả lời cho
bên kia những câu hỏi liên quan đến hợp đồng; khuyến cáo bên kia khi họ tin tưởng vào
một thông tin sai lầm, trừ trường hợp lẽ ra bên kia phải nhận ra được nếu cẩn trọng hơn.
- Tuy nhiên, ở các nước theo hệ thống pháp luật Civil law, có hai luồng quan điểm
khác nhau về cơ sở pháp lý cho việc quy trách nhiệm do vi phạm nghĩa vụ cung cấp
11
thông tin. Thứ nhất, theo pháp luật của Pháp, trách nhiệm do vi phạm nghĩa vụ cung
cấp thông tin được xác định theo trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng. Bởi
vì, giữa hai bên chưa hình thành hợp đồng, nên việc xác định trách nhiệm trong giai
đoạn tiền hợp đồng phải dựa trên các nguyên tắc của trách nhiệm bồi thường thiệt hại
ngoài hợp đồng. Thứ hai, theo pháp luật của Đức, dựa trên nguyên tắc culpa in
contrahendo, trách nhiệm do vi phạm nghĩa vụ cung cấp thông tin là trách nhiệm theo
hợp đồng. Theo nguyên tắc này, một bên không có quyền tạo ra niềm tin về một hợp
đồng sẽ được hình thành, nếu như bản thân họ không mong muốn như vậy. Bên có lỗi
trong việc đàm phán phải chịu trách nhiệm bồi thường do việc hợp đồng bị tuyên bố vô
hiệu hoặc làm cho hợp đồng không được thực hiện. Các bên tham gia đàm phán có
nghĩa vụ đàm phán với tinh thần trung thực và thiện chí.
- Về các quy định trong pháp luật quốc tế, Bộ nguyên tắc của Unidroit về hợp
đồng thương mại quốc tế (Unidroit), Bộ nguyên tắc luật hợp đồng Châu Âu (PECL) và
Công ước Viên về hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế 1980 (CISG) gián tiếp quy định
nghĩa vụ cung cấp thông tin trong giai đoạn tiền hợp đồng, thông qua các quy định về
nguyên tắc thiện chí và trung thực. Theo đó, hành vi cố tình không cung cấp thông tin
hoặc cố tình cung cấp thông tin không chính xác bị coi là hành vi gian dối; dẫn đến hậu
quả pháp lý là hợp đồng bị tuyên bố vô hiệu hoặc bên bị vi phạm có quyền tuyên bố
hủy hợp đồng. Ví dụ như, theo điều 3.2.5 của Bộ nguyên tắc Unidroit 2010, một bên có
quyền tuyên bố hợp đồng vô hiệu khi bên kia cố tình không cung cấp thông tin mà đáng
lẽ phải được cung cấp theo tập quán hoặc thói quen thương mại thông thường và việc
cố tình không cung cấp, che đậy thông tin này dẫn đến việc ký kết hợp đồng của một
bên. Tương tự, Điều 4.107 của Bộ nguyên tắc luật hợp đồng Châu Âu, hợp đồng bị
tuyên vô hiệu khi một bên gian dối không cung cấp một thông tin mà theo nguyên tắc
thiện chí buộc phải cung cấp.

3. Đoạn nào của Quyết định số 521 cho thấy thỏa thuận hoán nhượng đã bị
tuyên vô hiệu do có lừa đối?
Trích bản án số 521/2010/DS-GĐT
* Việc anh Vinh và người liên quan (ông Trần Bá Toàn, bà Trần Thị Phú Vân- họ hàng
của anh Vinh) không thông báo cho ông Đô, bà Thu biết tình trạng về nhà, đất mà các
bên thỏa thuận hoán đổi đã có quyết định thu hồi, giải tỏa, đền bù (căn nhà đã có quyết
định tháo dỡ do xây nhà trái phép từ năm 1998 nên không được bồi thường giá trị căn
nhà, còn thửa đất bị thu hồi không đủ điều kiện được mua nhà tái định cư theo Quyết
định 135/ QĐ-UB ngày 21-11-2002) là sự gian dối. Mặt khác, tại bản “Thỏa thuận hoán
nhượng” không có chữ kí ông Đô (chồng bà Thu) và là người cùng bà Thu bán căn nhà
135/7E Nguyễn Kiệm, quận Gò Vấp cho bà Phố (mẹ của anh Vinh). Do vây, giao dịch
“Thỏa thuận hoán nhượng” giữa anh Vinh và bà Thu vô hiệu nên phải áp dụng điều
132-BLDS để giải quyết”

12
4. Hướng giải quyết trên đã có tiên lệ chưa? Nếu có tiền lệ, nêu vấn tắt tiền lệ
anh/chị biết. Vì sao?
- Hướng gỉai quyết trên chưa có tiền lệ : Trường hợp áp dụng án lệ thì số bản á,quyết
định củaTòa án có chứa đựng án lệ,tính chất,tình tiết vụ việc tương tự được nêu trong
án lệ và tính chất,tình tiết vụ việc đang được giải quyết , vấn đề pháp lý trong án lệ phải
được viện dẫn,phân tích,làm rõ trong bản án, quyết định của Tòa án, trường hợp không
áp dụng án lệ thì phải phân tích,lập luận,nêu rõ lý do trong bản án, quyết định của Tòa
án.Và trong bản án trên tất cả chỉ căn cứ vào luật để giải quyết chứ không có bất cứ một
viện dẫn nào.
5. Hướng giải quyết trên có còn phù hơp với BLDS năm 2015 không? Vì sao?
 Theo điều 127 BLDS 2015 quy định: “Khi một bên tham gia giao dịch dân sự do
bị lừa dối hoặc bị đe dọa, cưỡng ép thì có quyền yêu cầu Tòa án tuyên bố giao dịch dân
sự đó là vô hiệu”
 Điều 127 BLDS 2015: “ Lừa dối trong giao dịch là hành vi cố ý của một bên
hoặc của người thứ ba nhằm làm cho bên kia hiểu sai lệch vê chủ thể,tính chất của đối
tượng hoặc nội dung của giao dịch dân sự nên đã xác lập giao dịch đó”
 Theo điểm b, khoản 1, điều 132 BLDS 2015 quy định:
b) Người bị nhầm lẫn, bị lừa dối biết hoặc phải biết giao dịch được xác lập do bị nhầm
lẫn, bị lừa dối.
 Ta thấy anh Vinh đã giấu ông Đô, bà Thu quyết định cưỡng chế nhà và không
cho vợ chồng bà biết nhà và đất bị giải tỏa khi đi kí “Thoả thuận hoán nhượng” ngày
20/5/2004 nên ông bà đã kí. Theo điều khoản trên thì hợp đồng này là vô hiệu.
 Do đó quyết định hủy bỏ bản án dân sự sơ thẩm số 15/2005/DS-ST ngày 10-
14/01/2008 và bản án dân sự phúc thẩm số 810/2008/DS-PT ngày 20/7/2008.
6. Trong Quyết định số 210, theo Tòa án, ai được yêu cầu và ai không được
yêu cầu Tòa án tuyên bố hợp đồng tranh chấp vô hiệu?
- Bộ Luật 1995 và bộ luật 2005 bà Nhất không có quyền khởi kiện yêu cầu tuyên bố
hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất vô hiệu do bị lừa dối. Trong trường hợp
này chỉ ông Tài mới có quyền khởi kiện yêu cầu Tòa án tuyên bố hợp đồng vô hiệu do
bị lừa dối nếu ông Tài không biết việc ông Dưỡng giả mạo chữ ký của bà Nhất khi tiến
hành giao dịch kết hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất.
7. Trong Quyết định số 210, theo Tòa án, thời hiệu yêu cầu Tòa án tuyên bố
hợp đồng vô hiệu do lừa dối có còn không? Vì sao?
Trong quyết định số 210, theo Toà án, thời hiệu yêu cầu Toà án tuyên bố hợp đồng vô
hiệu do lừa dối không còn. Vì bà Nhất khai năm 2007 vợ chồng ly hôn bà mới biết ông
Dưỡng giả mạo chữ ký của bà để chuyển nhượng đất cho ông Tài, nhưng đến

13
10/12/2010 bà Nhất mới khởi kiện mà theo khoản 1 Điều 142 BLDS 1995 thì thời hiệu
khởi kiện tuyên bố hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất vô hiệu do lừa dối là 1
năm còn khoản 1 Điều 136 BLDS 2005 thời hiệu là 2 năm từ ngày giao dịch được xác
lập. Theo Điều 159 BLTTDS trong trường hợp pháp luật không có quy định thời hiệu
khởi kiện thì thời hiệu khởi kiện vụ án dan sự là 2 năm, kể từu ngày người có quyền
khởi kiện biết được quyền và lợi ích của mình bị xâm phạm. Vậy trong trường hợp này
thời hiệu khởi kiện không còn vì hơn 2 năm đã trôi qua.
8. Trong trường hợp hết thời hiệu yêu cầu Tòa án tuyên bố hợp đồng vô hiệu
do lừa dối, Tòa án có công nhận hợp đồng không? Vì sao?
Trong trường hợp hết thời hiệu yêu cầu Toà án tuyên bố hợp đồng vô hiệu do lừa dối,
Toà án không công nhận hợp đồng. Vì mảnh đất trong hợp đồng chuyển nhượng quyền
sử dụng đất chưa được giải quyết và đến nay Toà án cấp sơ thẩm và Toà án cấp phúc
thẩm chưa thu thập đủ chứng cứ để làm rõ. Nếu diện tích đất đang tranh chấp chưa
được giải quyết trong vụ án ly hôn thì phải xác định đây là tài sản chung của vợ chồng
nên bà Nhất không có quyền khởi kiện đối với ông Dưỡng. Còn nếu diện tích đất đã
được giải quyết trong vụ án ly hôn thì xác định quyền khởi kiện của bà Nhất đói với
ông Dưỡng. Khi chưa làm rõ các tình tiết nêu trên mà Toà án cấp sơ thẩm lại giao toàn
bộ diện tích đất cho bà Nhất và buộc ông Dưỡng bồi thường cho ông Tài và Toà án cấp
phúc thẩm là không đúng. Vậy nên Toà án nhân dân Tối cao đã huỷ bỏ toàn bộ bản án
dân sự phúc thẩm và sơ thẩm.

9. Câu trả lời cho các câu hỏi trên có khác không nếu áp dụng các quy định
tương ứng của BLDS 2015 vào tình tiết như trong Quyết định số 210?
Nếu áp dụng các quy định tương ứng của BLDS 2015 vào các tình tiết như trong Quyết
định số 210 sẽ xảy ra sự khác biệt:
- Theo điểm b khoản 1 điều 132 BLDS 2015:
Người bị nhầm lần, bị lừa dối biết hoặc phải biêt sgiao dịch được xác lập do bị lừa dối,
bị nhầm lẫn
- Toà án quy định thời hiệu khởi kiện là 2 năm kể từ khi người bị lừa dối biết
hoặc phải biết giao dịch được xác lập do lừa dối. Lúc giao dịch ông Tài không biết ông
Dưỡng giả mạo chữ ký nên từ lúc phát hiện cho đến lúc khởi kiện chưa quá 2 năm nên
vẫn có thể khởi kiện.

Vấn đề 4: Hậu quả của giao dịch dân sự vô hiệu


Nghiên cứu:
- Điều 131 BLDS 2015 (Điều 134 và 137 BLDS 2005), quy định liên quan khác
(nếu có);
- Quyết định số 26/2013/KDTM-GĐT ngày 13-8-2013 của Hội đồng thẩm phán Tòa
án nhân dân tối cao;
- Quyết định số 75/2012/DS-GDDT ngày 23/02/2012 của Tòa dân sự Tòa án nhân

14
dân tối cao;
- Bản án số 133/2017/DSPT ngày 15/5/2017 của Tòa án nhân dân cấp cao tại Hà
Nội.
1. Giao dịch dân sự vô hiệu có làm phát sinh quyền và nghĩa vụ giữa các bên
không? Nêu cơ sở pháp lý khi trả lời.
Giao dịch dân sự không làm phát sinh quyền và nghĩa vụ giữa các bên. Theo
khoản 1 Điều 131: “Giao dịch dân sự vô hiệu không làm phát sinh, thay đổi, chấm dứt
quyền, nghĩa vụ dân sự của các bên kể từ thời điểm giao dịch được xác lập.”
2. Trên cơ sở BLDS, khi xác định Hợp đồng dịch vụ vô hiệu thì Công ty Phú
Mỹ1 có phải thanh toán cho Công ty Orange phần giá trị tương ứng với khối
lượng công việc mà Công ty Orange đã thực hiện không? Vì sao?
Khi xác định Hợp đồng dịch vụ vô hiệu thì Công ty Phú Mỹ phải thanh toán cho công
ty Orange phần giá trị tương đương với khối lượng công việc mà công ty Orange đã
làm. Vì công ty Orange đã thống nhất và bàn giao cho Công ty Phú Mỹ bản vẽ và CD
của dự án theo đúng cam kết trong hợp đồng. Dựa vào khoản 2 Điều 131:” Khi giao
dịch dân sự vô hiệu thì các bên khôi phục lại tình trạng ban đầu, hoàn trả cho nhau
những gì đã nhận. Trường hợp không thể hoàn trả bằng hiện vật thì trị giá thành tiền để
hoàn trả”. Theo đó, Công ty Orange cũng đã chi trả các chi phí để hoàn thành sản phẩm
cho công ty Phú Mỹ, và Công ty Phú Mỹ cũng đã nhận bản vẽ và CD từ Công ty
Orange, nên Công ty Phú Mỹ phải chi trả cho Công ty Orange phần giá trị đúng với
cam kết.
3. Hướng giải quyết của Hội đồng thẩm phán về với khối lượng công việc mà
Công ty Orange đã thực hiện như thế nào?
Hội đồng Thẩm phán công nhận khối lượng công việc mà Công Ty Orange đã thực hiện
và yêu cầu Công ty Phú Mỹ thanh toán số tiền tương ứng với lượng công việc mà Công
ty Orange đã làm.
4. Suy nghĩ của anh/chị về hướng giải quyết trên của Hội đồng thẩm phán liên
quan tới khối lượng công việc mà Công ty Orange đã thực hiện khi xác định hợp
đồng vô hiệu.
Hướng giải quyết của Hội đồng thẩm phán liên quan tới khối lượng công việc mà Công
ty Orange đã thực hiện khi xác định hợp đồng vô hiệu là hoàn toàn hợp tình hợp lý.

 Thứ nhất, BLDS không nêu rõ khi nào “không hoàn trả được bằng hiện vật” và
"hoàn trả bằng tiền", "trị giá thành tiền để hoàn trả" được hiểu là bao nhiêu (quy đổi
15
thành tiền như thế nào) nên có thể lý giải hướng giải quyết của Tòa án trên cơ sở các
quy định này: những gì đã xảy ra trong các trường hợp trên trước khi hợp đồng bị tuyên
bố vô hiệu được coi là không hoàn trả được bằng hiện vật, phải hoàn trả bằng tiền và
khoản tiền phải trả bằng chính khoản tiền đã được các bên thỏa thuận.
 Thứ hai, có thể dựa vào tinh thần của điều luật trên về khôi phục tình trạng ban
đầu. Cụ thể, mục đích của việc khôi phục lại tình trạng ban đầu là để tránh trường hợp
một bên bị tồn tại và một bên có lợi từ hợp đồng nếu không có việc khôi phục tình trạng
ban đầu. Việc hoàn trả lẫn nhau những gì đã làm là một hệ quả tự nhiên của hợp đồng
vô hiệu: Sẽ là không công bằng khi việc vô hiệu là căn cứ trục lợi của một bên bất lợi
cho bên còn lại.

 Công ty Phú Mỹ đã hưởng lợi từ hợp đồng với Công ty Orange qua việc sử dụng
(một phần) bộ bản vẽ chi tiết của Công ty Orange để xin Giấy phép xây dựng và tiến
hành xây dựng trên thực tế nên việc khôi phục lại tình trạng ban đầu bằng hoàn trả hiện
vật là không thể.
5. Hướng xử lý của Hội đồng thẩm phán đối với khối lượng công việc mà Công
ty Orange đã thực hiện như thế nào khi xác định hợp đồng dịch vụ không vô hiệu?
Nội dung xử lý khác với trường hợp xác định hợp đồng dịch vụ vô hiệu như thế
nào? Suy nghĩ của anh/chị về chủ đề này như thế nào?
Hướng xử lý của Hội đồng thẩm phán đối với lượng công việc mà Công ty Orange đã
thực hiện nếu xác định hợp đồng dịch vụ không vô hiệu là: nếu Hợp đồng dịch vụ là
hợp pháp thì phải buộc Công ty Phú Mỹ phải thanh toán cho Công ty Orange phần giá
trị tương ứng với khối lượng công việc mà Công ty Orange đã thực hiện theo thỏa thuận
tại hợp đồng cùng tiền lãi suất do thanh toán chậm thanh toán theo quy định của pháp
luật.
• Ở đây, lãi trả chậm chỉ được Tòa giám đốc thẩm chấp nhận trong trường hợp hợp
đồng hợp pháp và không có lãi trả chậm trong trường hợp vô hiệu hợp đồng, tức cũng
không chấp nhận lãi chậm trả trong trường hợp vô hiệu.

• Việc xem hợp đồng là hợp pháp thì việc chi trả lãi trả chậm là nhằm thực hiện nghĩa
vụ đã cam kết tại hợp đồng và chịu chế tài áp dụng cho việc không thực hiện nghĩa vụ
đưa ra đúng với thời gian đã cam kết. Tuy nhiên, như đã đề cập ở trên thì nếu giao dịch
dân sự vô hiệu thì không phát sinh lãi chậm trả do đây được xem là việc các bên đang
khôi phục lại tình trạng ban đầu.
Từ những hướng xử lý của Hội đồng thẩm phán ta thấy được các Toà án cấp sơ thẩm và
Toà án cấp phúc thẩm chưa thu thập đầy đủ tài liệu và chưa làm rõ các vấn đề về tính
hợp pháp của hợp đồng mà đã xác định hợp đồng dịch vụ ngày 15/06/2007 là hợp đồng
16
hợp pháp là chưa thỏa mãn. Từ bản án có thể cho thấy khi giải quyết vụ án liên quan
đến giao dịch dân sự, để có đủ cơ sở giải quyết chính xác, đúng pháp luật thì Tòa án xác
định hợp đồng dịch vụ vô hiệu hay hợp pháp đều phải yêu cầu các bên đương sự cung
cấp đủ tài liệu, chứng cứ để chứng minh cũng như sử dụng các biện pháp thu thập
chứng cứ khác để làm rõ các vấn đề nêu trên.
6. Trong quyết định số 75, vì sao Tòa dân sự Tòa án nhân dân tối cao xác định
hợp đồng vô hiệu?
+ Tòa án nhân dân tối cao xác định vô hiệu hợp đồng vô hiệu do xét thấy:
• Khi ông Sanh khởi kiện, để giải quyết tranh chấp hợp đồng, Tòa án nhân dân huyện
Yên Lạc đã cho thời gian gia hạn để anh Dư và chị Chúc thực hiện quy định về hình
thức của hợp đồng nhưng vợ chồng anh Dư, chị Chúc đã không thực hiện. Trong trường
hợp này, lẽ ra Tòa án cấp sơ thẩm phải tuyên bố hợp đồng vô hiệu, trong khi đó Tòa án
lại công nhận hợp đồng và giao cho ông Sanh quyền sử dụng đất, bác đơn của anh Dư
và chị Chúc.
• Ở cấp xét xử phúc thẩm, Tòa án tỉnh Vĩnh Phúc đã xác định hợp đồng vô hiệu do vi
phạm về cả nội dung lẫn hình thức.
Do đó Tòa án nhân dân tối cao quyết định xác định hợp đồng vô hiệu và giao lại hồ sơ
vụ án cho cấp sơ thẩm xét xử lại.
7. Suy nghĩ của anh/chị về việc Tòa Dân sự Tòa án nhân dân tối cao xác định
hợp đồng trên là vô hiệu?
+ Quyết định Giám đốc thẩm số 75/2012/DS-GDDT xác định hợp đồng chuyển nhượng
quyền sử dụng đất phải được công chứng hoặc chứng thực, việc chứng thức thực hiện
tại UBND cấp xã. Văn bản ghi nhận việc chuyển nhượng quyền sử dụng đất giữa ông
Sanh và vợ chồng anh Dư, chị Chúc thực tế đã được ký kết xác nhận từ phía UBND xã
Trung Nguyên.
+ Tuy nhiên, vợ chồng anh Dư, chị Chúc đã không hợp tác với ông Sanh trong việc
hoàn thành thủ tục chuyển nhượng sử dụng đất khiến cho văn bản vi phạm những điều
kiện có hiệu lực về hình thức. Căn cứ theo khoản 1 Điều 129 BLDS 2015: “Trong
trường hợp này nếu một bên đã thực hiện hai phần ba nghĩa vụ trong giao dịch thì theo
yêu cầu của một bên hoặc các bên, Tòa án ra quyết định công nhận hiệu lực của giao
dịch đó.” . Cụ thể, ông Sanh đã thực hiện 82,051% giá trị hợp đồng nên Tòa án hoàn
toàn có thể công nhận hiệu lực của giao dịch dân sự này theo yêu cầu của ông Sanh.

17
8. Với thông tin trong quyết định số 75 và pháp luật hiện hành, ông Sanh sẽ
được bồi thường thiệt hại bao nhiêu? Vì sao? Nêu cơ sở pháp lý khi trả lời?
+ Căn cứ theo Điều 131 BLDS 2015 thì:
• Theo quy định ở khoản 2: “Khi giao dịch dân sự vô hiệu thì các bên khôi phục lại tình
trạng ban đầu và hoàn trả cho nhau những gì đã nhận”. Thực tế ông Sanh đã đưa cho vợ
chồng anh Dư, chị Chúc số tiền chuyển nhượng là 160.000.000 đồng nên ông sẽ được
nhận lại khoản tiền này.
• Tại khoản 4 quy định bên gây có lỗi gây thiệt hại thì phải bồi thường, cụ thể bên có lỗi
ở đây là anh Dư, chị Chúc. Do không tuân thủ các quy định có hiệu lực về hình thức
nên vợ chồng anh phải bồi thường cho ông Sanh thiệt hại do lỗi gây ra là 330.255.00
đồng và thanh toán giá trị công trình xây dựng trên đất là 81.500.000 đồng.
• Vậy tổng cộng, ông Sanh được bồi thường thiệt hại với số tiền là 571.755.000 đồng.
9. Trong bản án số 133, Tòa án quyết định hủy giấy chứng nhận cấp cho anh
Đậu và ghi nhận ông Văn, bà Tằm quyền liên hệ với cơ quan có thẩm quyền để
được cấp lại giấy chứng nhận quyền sử dụng đất có là hệ quả của giao dịch dân sự
vô hiệu không? Vì sao?
Trong bản án số 133, Tòa án quyết định hủy giấy chứng nhận cấp cho anh Đậu và ghi
nhận ông Văn, bà Tằm quyền liên hệ với cơ quan có thẩm quyền để được cấp giấy
chứng nhận quyền sử dụng đất là hệ quả của giao dịch dân sự vô hiệu.
Căn cứ theo khoản 2 điều 131 BLDS 2015 về Hậu quả pháp lý của giao dịch dân sự vô
hiệu: “Khi giao dịch dân sự vô hiệu thì các bên khôi phục lại tình trạng ban đầu, hoàn
trả cho nhau những gì đã nhận.”
Thực tế, ban đầu thì giấy tờ chứng nhận quyền sử dụng đất đối với khu đất diện tích
350 giáp Quốc lộ 47 mang tên vợ chồng ông Bùi Tiến Văn và bà Nguyễn Thị Tằm.
+ Sau khi lấy được giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, anh Bùi Tiến Đậu đã thành lập
ba hợp đồng tặng cho và tách giấy chứng nhận quyền sử dụng đất nêu trên thành ba
giấy chứng nhận quyền sử dụng đất mang tên ba anh em.
+ Việc giao dịch dân sự tòa án tuyên vô hiệu đã làm vô hiệu hợp đồng tặng cho giữa
ông Văn, bà Tằm và anh Đậu, qua đó cũng làm vô hiệu hợp đồng tặng cho giữa anh
Đậu và anh Bình, anh Sinh. Vì vậy, Tòa án đã hủy giấy chứng nhận cấp cho anh Đậu và
cho ông Văn, bà Tằm quyền liên hệ với cơ quan có thẩm quyền để được cấp lại giấy
chứng nhận quyền sử dụng đất đúng như ban đầu theo trình bày trong bản án.

18
19

You might also like