You are on page 1of 4

Vấn đề 2: Hậu quả hợp đồng vô hiệu

Câu 1: Thay đổi về hậu quả của hợp đồng vô hiệu giữa BLDS 2015 và BLDS 2005.

BLDS 2005 BLDS 2015


Điều 137. Hậu quả pháp lý của Điều 131. Hậu quả pháp lý của
giao dịch dân sự vô hiệu giao dịch dân sự vô hiệu
2. Khi giao dịch dân sự vô hiệu 2. Khi giao dịch dân sự vô hiệu
thì các bên khôi phục lại tình thì các bên khôi phục lại tình
trạng ban đầu, hoàn trả cho nhau trạng ban đầu, hoàn trả cho
những gì đã nhận; nếu không nhau những gì đã nhận.
hoàn trả được bằng hiện vật thì Trường hợp không thể hoàn trả
phải hoàn trả bằng tiền, trừ được bằng hiện vật thì trị giá
trường hợp tài sản giao dịch, hoa thành tiền để hoàn trả.
lợi, lợi tức thu được bị tịch thu
Cơ sở theo quy định của pháp luật. Bên 3. Bên ngay tình trong việc thu
pháp lý có lỗi gây thiệt hại phải bồi hoa lợi, lợi tức không phải hoàn
thường. trả lại hoa lợi, lợi tức đó.
4. Bên có lỗi gây thiệt hại thì
phải bồi thường.
5. Việc giải quyết hậu quả của
giao dịch dân sự vô hiệu liên
quan đến quyền nhân thân do Bộ
luật này, luật khác có liên quan
quy định.
BLDS 2015 vẫn giữ nguyên đối tượng hoàn trả là “những gì đã nhận”
Khôi phục tình bên cạnh đó thay đổi cụm “nếu không hoàn trả được bằng hiện vật thì
trạng ban đầu phải hoàn trả bằng tiền” bằng cụm “ trường hợp không thể hoàn trả
được bằng hiện vật thì trị giá thành tiền để hoàn trả”. Sự điều chỉnh
từ ngữ này nhằm bảo vê ̣ quyền lợi cho cả hai bên trong trường hợp
phát sinh việc số tiền hoàn trả nhỏ hơn hay lớn hơn giá trị của hiê ̣n
vâ ̣t.
Đồng thời, BLDS 2015 bổ sung thêm qui định tại K5 Đ131 về giải
quyết hậu quả có liên quan đến quyền nhân thân. Việc bổ sung trên là
cần thiết, phù hợp với Luật Hôn nhân và gia đình và thực tiễn.
- Nếu buộc bên nhận tài sản làm phát sinh hoa lợi, lợi tức trả
cho bên kia hoa lợi, lợi tức thì sẽ dẫn đến việc không những không
thể khôi phục lại tình trạng ban đầu mà còn gây khó khăn hơn cho
hoàn cảnh của bên trả hoa lợi, lợi tức so với tình trạng ban đầu. Tại
đây, BLDS 2015 đã theo hướng giải quyết là tách phần quy định về
hoa lợi, lợi tức thành mô ̣t khoản đô ̣c lâ ̣p (khoản 3 Điều 131) thay vì
gô ̣p chung lại với quy định về viê ̣c khôi phục tình trạng ban đầu ở
khoản 2 Điều 137 BLDS 2005.
Hoa lợi, - Qui định trên của BLDS 2005 không thống nhât với các qui
lợi tức định tại điều 601 và tiếp theo của BLDS 2005. Tiêu chí để hoàn trả
hoa lợi, lợi tức là là sự ngay tình của người chiếm hữu tài sản không
có căn cứ pháp luật và phù hợp với hoàn cảnh giao dịch vô hiệu trên
thực tế. Trong khi BLDS 2005 không quan tâm đến sự ngay tình hay
không thì BLDS 2015 đã thay đổi bất cập trên theo hướng việc trả
hay không trả hoa lợi, lợi tức phụ thuộc vào sự ngay tình hay không
ngay tình của người nhận tài sản như các qui định vè hoàn trả do
chiếm hữu không có căn cứ pháp luật.
BLDS 2015 đã bỏ đi quy định về tịch thu tài sản, hoa lợi, lợi tức quy
định tại BLDS 2005. Vì trong quá trình chỉnh lý Dự thảo BLDS
Tịch thu tài sản 2005, các nhà làm luâ ̣t cho rằng “viê ̣c tịch thu tài sản , hoa lợi, lợi tức
là viê ̣c của pháp luâ ̣t hành chính, hình sự và không là viêc̣ của bộ luật
dân sự”.

Câu 2: Trong Quyết định số 319, lỗi của các bên được Tòa giám đốc thẩm xác định
như thế nào?
Trong Quyết định số 319/2011/DS-GDT ngày 28/03/2011của Tòa dân sự Tòa án
nhân dân tối cao, Tòa giám đốc thẩm xác định hai bên có lỗi, tuy nhiên Tòa án không cho
biết mức độ lỗi của mỗi người là bao nhiêu.
Đoạn của quyết định cho thấy:
“Trong trường hợp này ông Vinh mới trả được 45.000.000 đồng trên tổng giá trị thửa đất
100.000.000 đồng tức là mới trả 45% giá trị thửa đất, cả hai bên cùng có lỗi thì khi giải
quyết hậu quả của hợp đồng vô hiệu ông Vinh chỉ được bồi thường thiệt hại là ½ chênh
lệch giá của 45% giá trị thửa đất theo giá thị trường.”

Câu 3: Quyết định số 319, Tòa dân sự cho biết ông Vinh sẽ được bồi thường như thế
nào?
Theo Quyết định số 319, Tòa dân sự cho biết ông Vinh sẽ được bồi thường ½
chênh lệch giá của 45% giá trị thửa đất theo giá thị trường.
Đoạn thể hiện nội dung trên:
“Trong trường hợp này ông Vinh mới trả được 45.000.000 đồng trên tổng giá trị thửa đất
100.000.000 đồng tức là mới trẩ 45% giá trị thửa đất, cả hai bên cùng có lỗi thì khi giải
quyết hậu quả của hợp đồng vô hiệu ông Vinh chỉ được bồi thường thiệt hại là ½ chênh
lệch giá của 45% giá trị thửa đất theo giá thị trường, nhưng Tòa án cấp sơ thẩm, phúc
thẩm lại buộc vợ chồng anh Lộc bồi thường thiệt hại ½ giá trị của toàn bộ thửa đất theo
giá thị trường là không đúng.”
Câu 4: Suy nghĩ của anh/chị về hướng giải quyết trên của Tòa dân sự.

- Đối với hướng giải quyết của Tòa sơ thẩm và phúc thẩm: Theo nhóm em,
hướng giải quyết của Tòa là không hợp lý. Vì Tòa sơ thẩm chưa xác định chính xác mức
độ lỗi của các bên đương sự làm cho hợp đồng vô hiệu. Tòa sơ thẩm chỉ xác định vợ
chồng anh Lộc đã thanh toán cho vợ chồng anh Vinh là 45 triệu đồng/100 triệu đồng giá
trị thửa đất. Theo định giá thửa đất hiện nay là 335.550.000 đồng nên mức chênh lệch là
233.550.000 đồng và việc xác định tiền bồi thường thiệt hại cũng chưa chính xác, buộc
mỗi bên chịu ½ mức bồi thường theo chênh lệch giá của toàn bộ thửa đất là 116.775.000
đồng là không phù hợp. Tương tự, Tòa phúc thẩm cũng xác định không đúng mức bồi
thường thiệt hại tương ứng với lỗi của hai bên. Ở đây, Tòa phúc thẩm không nêu rõ lý do
tại sao buộc ông Đào Văn Lộc, bà Hoàng Thị Lan phải bồi thường cho ông Vinh là
81.712.500 đồng và không giải thích số tiền này là ở đâu ra, có phải là mức chênh lệch
giữa giá trị cũ của hợp đồng với giá trị định giá hiện tại do Hội đồng định giá xác định
mà mỗi bên phải chịu tương ứng với mức độ lỗi của mình hay không. Mặc khác, khi ký
hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất thì bà Thơm-vợ ông Vinh có tham gia ký
hơp đồng nhưng quá trình giải quyết Tòa án cấp sơ thẩm, phúc thẩm không đưa bà Thơm
tham gia tố tụng với tư cách là người có quyền và nghĩa vụ liên quan là thiếu sót.
- Đối với hướng giải quyết của Tòa giám đốc thẩm: Theo nhóm em, hướng giải
quyết trên là phù hợp. Tòa giám đốc thẩm đã xác định ông Vinh mới trả được 45.000.000
đồng (tương ứng với 45% giá trị thửa đất mà hai bên đã thỏa thuận là 100.000.000 đồng).
Và Tòa án xác định rằng cả hai bên cũng có lỗi, do đó khi giải quyết hậu quả của hợp
đồng vô hiệu ông Vinh chỉ bồi thường thiệt hại là ½ chênh lệch giá của 45% giá trị thửa
đất theo giá thị trường là phù hợp. Tuy nhiên Tòa vẫn chưa xác minh Hội đồng định giá
đã định giá thửa đất đó theo đúng giá thị trường hay chưa, có mâu thuẫn với khung giá
đất của UBND tỉnh Bình Thuận qui định cho đất nông nghiệp như anh Lộc đã khiếu nại
hay không.

Câu 5: Với các thông tin trong Quyết định số 319, ông Vinh sẽ được bồi thường
khoản tiền cụ thể là bao nhiêu? Vì sao?
Ông Vinh sẽ đươc bồi thường khoản tiền cụ thể là 52.548. 750 đồng. Bởi bi theo
Tòa Giám đốc thẩm, ông Vinh mới trả được 45.000.000 đồng trên tổng giá trị thửa đất là
100.000.000 đồng tức là mới trả được 45% giá trị thửa đất. Mà cả hai bên cùng có lỗi thì
khi giải quyết hậu quả của hợp đồng vô hiệu ông Vinh chỉ được bồi thường thiệt hại là ½
chêch lệch giá của 45% giá trị thửa đất theo giá thị trường. Mà khoản tiền chênh lệch giá
theo biên bản định giá là 233.550.000 đồng.
Do đó, khoản tiền bồi thường cụ thể của ông Vinh là:
233.550.000 * ½ * 45%/100% = 52.548. 750 đồng

You might also like