You are on page 1of 8

Phần 1: Di sản thừa kế

Câu 1: Di sản là gì và có bao gồm cả nghĩa vụ của người quá cố không? Nêu cơ sở pháp lý
khi trả lời.
Theo điều 612 BLDS 2015: “Di sản bao gồm tài sản riêng của người chết, phần tài sản của người
chết trong tài sản chung với người khác.”

Về việc di sản có bao gồm nghĩa vụ của người quá cố hay không thì còn nhiều quan điểm, tuy
nhiên quan điểm về việc di sản không bao gồm nghĩa vụ của người quá cố chiếm ưu thế. Điều
612 BLDS 2015 quy định: “Di sản bao gồm tài sản riêng của người chết, phần tài sản của
người chết trong tài sản chung với người khác” chứ không hề quy định tài sản bao gồm nghĩa vụ
về tài sản của người chết. Đồng thời, theo các điều 615 và 620 BLDS 2015 cũng thể hiện rằng
trước khi chia di sản, những người thừa kế phải thanh toán các nghĩa vụ của người chết. Việc
thực hiện nghĩa vụ không phải với tư cách là chủ thể của nghĩa vụ do họ xác lập mà là thực hiện
các nghĩa vụ do người chết để lại bằng chính di sản của người chết.

Câu 2: Khi tài sản do người quá cố để lại ở thời điểm mở thừa kế bị thay thế bởi một tài
sản mới sau đó thì tài sản mới có là di sản không? Vì sao?
Đây cũng là vấn đề còn nhiều quan điểm, tuy nhiên sẽ tùy vào nguyên nhân mà tài sản mới có
được xem là di sản hay không.
+ Nguyên nhân khách quan: nguyên nhân con người không biết trước, không lường trước
được hậu quả, nằm ngoài tầm kiểm soát của con người. Ví dụ: hỏa hoạn, lũ lụt, động đất, bão tố
hay các thảm họa tự nhiên khác...
Những yếu tố này tác động vào di sản thừa kế làm cho nó bị hư hỏng và thay vào đó là di sản
mới, di sản cũ không còn giá trị hiện thực. Ví dụ Ông A chết để lại di sản thừa kế là ngôi nhà,
nhưng do hỏa hoạn làm cho ngôi nhà thiêu cháy rụi hoàn toàn và không còn giá trị sử dụng.
Trước thời điểm mở thừa kế ngôi nhà khác được thay thế ngôi nhà này. Khi đó ngôi nhà mới này
sẽ được coi là di sản thừa kế mà ông A để lại.
Trường hợp này để đảm bảo quyền lợi của những người thừa kế tài sản mới thay thế cho di sản
thừa kế đó sẽ có hiệu lực pháp luật, phần tài sản mới này sẽ được chia theo pháp luật, đồng thời
tài sản là ngôi nhà đó cũng sẽ được chia theo quy định của pháp luật về thừa kế
+ Nguyên nhân chủ quan được xác định có sự tác động phần nào đó bởi yếu tố con người.
Trường hợp này xác định thay thế vì mục đích gì, đó là nhằm chiếm đoạt toàn bộ di sản thừa kế
cũ đó hay nhằm mục đích khác. Sự thay thế do tự bản thân cá nhân nào muốn thay thế hay đó là
sự thay thế được sự đồng thuận bởi tất cả những người thừa kế và được pháp luật thừa nhận. Nếu
nhằm mục đích chiếm đoạt toàn bộ di sản thừa kế ban đầu đồng thời thay thế bởi một tài sản
khác khi đó tài sản mới này sẽ không được coi là di sản thừa kế. Tại thời điểm mở thừa kế di sản
được quy định còn tồn tại thì di sản đó được chia theo quy định của pháp luật. Như vậy dù tài sản
mới xuất hiện ở thời điểm mở thừa kế thì tài sản đó cũng sẽ được coi là di sản thừa kế. Đồng thời
di sản trước đó còn tồn tại thì di sản này cũng sẽ được chia theo quy định của pháp luật mà
không bị thay thế bởi di sản mới đó.
Câu 3: Trong Quyết định số 30, theo Viện kiểm sát, 02 tài sản tranh chấp có là di sản của
cố Thái Anh và cố Liêng không? Vì sao?
Theo quyết định số 30, theo VKS, 2 tài sản tranh chấp gồm căn nhà số 5 Hoàng Hoa Thám và
căn nhà số 122 Nguyễn Hùng Sơn, trong đó “căn nhà số 05 Hoàng Hoa Thám các bên đều thừa
nhận Cố Anh đã cho cụ Tri và không tranh chấp”, “cụ Tri đứng tên là chủ sở hữu từ năm
1967” nên đây không phải là di sản của cố Thái Anh và cố Liêng. Còn đối với căn nhà số 122
Nguyễn Hùng Sơn thì Viện kiểm sát cho rằng đây là di sản của hai cố vì: “Theo bằng khoán
điền thổ số 320 ngày 25.6.1935 thì cố Thái Anh là chủ sở hữu, hồ sơ vụ án không có bất cứ tài
liệu nào xác định cố Thái Anh đã chuyển sở hữu căn nhà cho cụ Hy. Đến thời điểm cố Thái Anh
và cố Liêng chết thì nhà đất chưa chuyển dịch sang tên cho ai, vì vậy căn nhà 122 Nguyễn Hùng
Sơn là di sản của cố Thái Anh và cố Nguyễn Thị Liêng để lại chưa chia.”

Câu 4: Suy nghĩ của anh/chị về hướng quyết định trên của Viện kiểm sát.
Tôi không đồng ý với hướng giải quyết trên của Viện kiểm sát về phần tài sản là căn nhà 122
Nguyễn Hùng Sơn. Tuy rằng chúng ta phải ghi nhận về mặt pháp luật thì nhà số 122 Nguyễn
Hùng Sơn là di sản của hai cố, nhưng cũng không thể phủ nhận mặt thực tế của vấn đề: cụ Hy là
con trai trưởng, ở cùng và có công chăm sóc hai cố, chăm sóc bác ruột và em ruột là cụ Lượng bị
bệnh tâm thần và còn có trách nhiệm thờ cúng tổ tiên sau này. Đồng thời, khi cụ Thái Thuần Hy
phá nhà cũ của hai cố, xây dựng nhà mới thì cụ Thái Tri còn sống nhưng không phản đối, giữa
hai đồng thừa kế là cụ Hy và cụ Tri không hề tranh chấp về phần tài sản này chứng tỏ cụ Tri thừa
nhận nhà số 122 Nguyễn Hùng Sơn là của hai cố để lại cho cụ Thái Thuần Hy. Căn cứ những lẽ
trên, ta có thể xác định mặc dù hai cố chết không để lại di chúc nhưng di sản của hai cố vẫn có
thể được chia theo thỏa thuận giữa các đồng thừa kế theo quy định tại Mục A2, Điểm A, Khoản
2.4, Điều 2 của Nghị quyết 02/2004/NQHĐTP của HĐTP TANDTC: “Trường hợp không có di
chúc mà các đồng thừa kế thảo thuận về phần mỗi người được hưởng khi có nhu cầu chia tài
sản, thì việc chia tài sản chung đó được thực hiện theo thoả thuận của họ”.

Câu 5: Trong Quyết định số 30, theo Hội đồng thẩm phán, 02 tài sản tranh chấp có là di
sản của cố Thái Anh và cố Liêng không? Vì sao?
Trong Quyết định số 30, theo Hội đồng thẩm phán, 02 tài sản tranh chấp gồm căn nhà số 5
Hoàng Hoa Thám và căn nhà số 122 Nguyễn Hùng Sơn đều không phải là di sản của cố Thái
Anh và cố Liêng. Ghi nhận tại đoạn cuối phần Xét thấy của Quyết định: “Như vậy, căn cứ các tài
liệu trên có cơ sở xác định vợ chồng cố Thái Anh cố Nguyễn Thị Liêng tạo lập được 2 căn nhà,
cụ Thái Tri là con thứ nên hai cố cho căn nhà số 5 Hoàng Hoa Thám (nhỏ hơn); còn căn nhà 122
Nguyễn Hùng Sơn (lớn hơn) thì hai cố dành cho cụ Thái Thuần Hy vì cụ Hy là con trai trưởng, ở
cùng và có công chăm sóc hai cố, chăm sóc bác ruột và em ruột là cụ Lượng bị bệnh tâm thần và
còn có trách nhiệm thờ cúng tổ tiên sau này. Thực tế, khi cụ Thái Thuần Hy phá nhà cũ của hai
cố, xây dựng nhà mới thì cụ Thái Tri còn sống nhưng không phản đối, điều này chứng tỏ cụ Thái
Tri tôn trọng định đoạt của cha mẹ. Do đó, Tòa án cấp phúc thẩm xác định cố Thái Anh, cố
Nguyễn Thị Liêng đã chia cho cụ Thái Tri căn nhà số 5 Hoàng Hoa Thám, chia cho cụ Thái
Thuần Hy căn nhà 122 Nguyễn Hùng Sơn; từ đó bác yêu cầu chia thừa kế của các nguyên đơn
(là con cụ Thái Tri) là có căn cứ. Vì vậy, kháng nghị của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối
cao cho rằng nhà 122 Nguyễn Hùng Sơn vẫn là di sản của cố Thái Anh và cố Nguyễn Thị Liêng
là không có cơ sở.”
Câu 6: Suy nghĩ của anh/chị về hướng quyết định trên của Viện kiểm soát?
Tôi không hoàn toàn đồng ý với hướng giải quyết trên của Hội đồng thẩm phán. Đối với căn nhà
số 5 Hoàng Hoa Thám thì hai cố đã cho cụ Thái Tri sử dụng trước và đã hoàn thành thủ tục đứng
tên sở hữu nhà từ trước khi hai cố chết nên không được xem là di sản. Còn nhà 122 Nguyễn
Hùng Sơn, cho đến thời điểm cố Thái Anh và cố Liêng chết, vẫn chưa hề sang tên cho ai nên
theo quy định tại điều 634, BLDS hiện hành, về mặt pháp luật nhà 122 Nguyễn Hùng Sơn phải
được xem là di sản của hai cố. Tuy nhiên, Hội đồng thẩm phán quyết định bác yêu cầu khởi kiện
của các nguyên đơn là đúng. Cụ Thái Thuần Hy ở và có công nuôi dưỡng cha mẹ, vợ chồng cố
Thái Cẩm An và em ruột là cụ Thái Thị Lượng bị bệnh tâm thần, đến khi những người này chết.
Năm 1987 cụ Hy xây dựng nhà mới và ngày 29/9/1989 được Ủy ban nhân dân thị xã Rạch Giá
công nhận cụ Hy có quyền sở hữu nhà. Năm 1994 cụ Hy làm thủ tục sang tên nhà, đất cho con là
ông Thái Tuấn Thạnh, ông Thạnh đã được công nhận là chủ sở hữu nhà đất. Suốt quá trình cụ Hy
quản lý, sử dụng nhà đất như trên các con cụ Thái Tri không phản đối, chỉ sau khi cụ Thái Tri
chết (năm 1987) các con cụ Thái Tri mới tranh chấp. Do đó, thực tế xác định hai cố đã chia cho
cụ Thái Tri nhà số 5 Hoàng Hoa Thám, chia cho cụ Hy nhà 122 Nguyễn Hùng Sơn. Tờ xác nhận
của Hội đồng gia tộc ngày 20/08/1987 tuy không có giá trị pháp luật nhưng có giá trị phản ánh
thực tế khách quan là cụ Hy đã được cha mẹ cho nhà 122 Nguyễn Hùng Sơn. Như vậy, cụ Tri và
cụ Hy là hai đồng thừa kế thuộc hàng thừa kế thứ nhất đã thỏa thuận về quyền thừa kế di sản của
hai cụ, các con của cụ Tri không có quyền kiện đòi chia di sản của hai cố.

Câu 7: Xác định di sản của cụ Quế và cụ Minh trong tình huống nêu trên. Nêu rõ cơ sở
pháp lý khi xác định di sản của hai cụ.
Căn cứ pháp lí:

Điều 634, BLDS 2005: “Di sản bao gồm tài sản riêng của người chết, phần tài sản của người
chết trong tài sản chung với người khác.”

Khoản 1, Điều 27, Luật hôn nhân và gia đình năm 2000:

“1. Tài sản chung của vợ chồng gồm tài sản do vợ, chồng tạo ra, thu nhập
do lao động, hoạt động sản xuất, kinh doanh và những thu nhập hợp pháp khác của vợ chồng
trong thời kỳ hôn nhân; tài sản mà vợ chồng được thừa kế chung hoặc được tặng cho chung và
những tài sản khác mà vợ chồng thỏa thuận là tài sản chung.

Quyền sử dụng đất mà vợ chồng có được sau khi kết hôn là tài sản chung của vợ chồng. Quyền
sử dụng đất mà vợ hoặc chồng có được trước khi kết hôn, được thừa kế riêng chỉ là tài sản
chung khi vợ chồng có thỏa thuận.

Tài sản chung của vợ chồng thuộc sở hữu chung hợp nhất.”

Điều 32, Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000:


“1. Vợ, chồng có quyền có tài sản riêng.

Tài sản riêng của vợ, chồng gồm tài sản mà mỗi người có trước khi kết hôn; tài sản được thừa
kế riêng, được tặng cho riêng trong thời kỳ hôn nhân; tài sản được chia riêng cho vợ, chồng
theo quy định tại khoản 1 Điều 29 và Điều 30 của Luật này; đồ dùng, tư trang cá nhân.

2. Vợ, chồng có quyền nhập hoặc không nhập tài sản riêng vào khối tài sản chung.”

Vì vậy, di sản của cụ Quế và cụ Minh được xác định như sau:

+ Di sản của cụ Minh: 1.587m2 đất (thuộc bản đồ số 6 xã Phước Long), tức là 1/6 số tài sản mà
sáu người trong gia đình cụ Minh cùng tạo lập và cùng đứng tên sở hữu.

+ Di sản của cụ Quế: 1.587m2 đất (thuộc bản đồ số 6 xã Phước Long) như cụ Minh, ngoài ra còn
có 4368m2 (tại bản đồ số 10 xã Phước Long) đất mà cụ Quế và cụ Cơ cùng tạo lập trước khi cụ
Quế lấy cụ Minh. Vì 4638m2 đất tại tờ bản đồ số 10 xã Phước Long là tại sản của cụ Quế tạo lập
cùng với chồng trước là cụ Cơ đã mất (năm 1969), năm 1970 cụ Quế mới lấy cụ cơ, nên đây là
tài sản trước hôn nhân, cũng chưa có ghi nhận cụ Quế đã sáp nhập tài sản riêng này vào tài sản
chung với cụ Minh, nên nó thuộc sở hữu riêng của cụ Quế, căn cứ điều 32, Luật Hôn nhân và gia
đình năm 2000. Vì vậy mà cụ Minh cam kết sang nhượng 600m2 đất trong tài sản riêng của cụ
Quế là không có hiệu lực, số đất đó vẫn là của cụ Quế, số tiền nhận của vợ chồng ông Việt phải
trả lại.

Phần 2. Nghĩa vụ của người để lại di sản

Câu 1: Theo BLDS, nghĩa vụ nào của người quá cố sẽ đương nhiên chấm dứt và những
nghĩa vụ nào của người quá cố sẽ không đương nhiên chấm dứt? Nêu cơ sở pháp lý khi trả
lời.
- Theo BLDS, nghĩa vụ mang tính nhân thân của người quá cố đương nhiên chấm dứt căn cứ vào
Khoản 8, Điều 372, BLDS 2015 quy định về Căn cứ chấm dứt nghĩa vụ dân sự:
“Bên có nghĩa vụ là cá nhân chết hoặc là pháp nhân chấm dứt tồn tại mà nghĩa vụ phải do chính
cá nhân, pháp nhân đó thực hiện"
- Theo BLDS, nghĩa vụ về tài sản của người quá cố thì không đương nhiên chấm dứt căn cứ vào
Điều 615. Thực hiện nghĩa vụ tài sản do người chết để lại
"1. Những người hưởng thừa kế có trách nhiệm thực hiện nghĩa vụ tài sản trong phạm vi di sản
do người chết để lại, trừ trường hợp có thỏa thuận khác.
2. Trường hợp di sản chưa được chia thì nghĩa vụ tài sản do người chết để lại được người quản lý
di sản thực hiện theo thỏa thuận của những người thừa kế trong phạm vi di sản do người chết để
lại.
3. Trường hợp di sản đã được chia thì mỗi người thừa kế thực hiện nghĩa vụ tài sản do người chết
để lại tương ứng nhưng không vượt quá phần tài sản mà mình đã nhận, trừ trường hợp có thỏa
thuận khác.
4. Trường hợp người thừa kế không phải là cá nhân hưởng di sản theo di chúc thì cũng phải thực
hiện nghĩa vụ tài sản do người chết để lại như người thừa kế là cá nhân..”
Câu 2. Theo BLDS ai là người phải thực hiện nghĩa vụ về tài sản của người quá cố? Nêu cơ
sở pháp lý khi trả lời.
Trả lời:
Căn cứ vào điều 615. Thực hiện nghĩa vụ tài sản do người chết để lại
"1. Những người hưởng thừa kế có trách nhiệm thực hiện nghĩa vụ tài sản trong phạm vi di sản
do người chết để lại, trừ trường hợp có thỏa thuận khác."
"2. Trường hợp di sản chưa được chia thì nghĩa vụ tài sản do người chết để lại được người quản
lý di sản thực hiện theo thỏa thuận của những người thừa kế trong phạm vi di sản do người chết
để lại." Với quy định này, thực chất người phải thực hiện nghĩa vụ vẫn là những người thừa kế
và người quản lý chỉ đứng ra thực hiện thay.
3. Trường hợp di sản đã được chia thì mỗi người thừa kế thực hiện nghĩa vụ tài sản do người chết
để lại tương ứng nhưng không vượt quá phần tài sản mà mình đã nhận, trừ trường hợp có thỏa
thuận khác.
4. Trường hợp người thừa kế không phải là cá nhân hưởng di sản theo di chúc thì cũng phải thực
hiện nghĩa vụ tài sản do người chết để lại như người thừa kế là cá nhân."

Câu 3. Nghĩa vụ của bà Loan đối với ngân hàng có là nghĩa vụ về tài sản không? Vì sao?

Trả lời: Nghĩa vụ của bà Loan đối với ngân hàng là nghĩa vụ về tài sản vì theo Khoản 8 Điều
658 BLDS 2015 thì nghĩa vụ tài sản của người quá cố có bao gồm “các khoản nợ khác đối với cá
nhân, pháp nhân”. (Bà Loan có khoản nợ 100.000.000đ với ngân hàng).

Câu 4. Nếu ngân hàng yêu cầu được thanh toán, ai là người phải thực hiện nghĩa vụ trả nợ
trên của bà Loan? Vì sao?

Trả lời:
Vì các con bà Loan đã chia thừa kế di sản của bà Loan nên theo khoản 3 Điều 615 BLDS 2015
thì “Trong trường hợp di sản đã được chia thì mỗi người thừa kế thực hiện nghĩa vụ tài sản do
người chết để lại tương ứng nhưng không vượt quá phần tài sản mà mình đã nhận, trừ trường hợp
có thỏa thuận khác”. Tức là mỗi người con của bà Loan đều có nghĩa vụ trả tiền nợ của bà Loan
cho Ngân hàng và chỉ trong khoảng phần Tài sản mà mỗi người được nhận.
Ngoài ra nếu bà Loan có chỉ định trong di chúc người trả nợ là ai thì người đó phải trả nợ nếu
nhận di sản theo Khoản 4 Điều 626 BLDS 2015.

Câu 5. Trong quyết định số 26, ai là người có công chăm sóc, nuôi dưỡng người quá cố khi
họ còn sống?

Trả lời:
Theo đoạn cuối cùng của phần xét thấy trong Quyết định số 26 thì Ông Vân là người có công
chăm sóc cha mẹ và ông Vi có công lớn trong việc nuôi dưỡng cha mẹ (ông Vi là người gởi tiền
cho cha mẹ để không phải bán nhà).

Câu 6. Trong Quyết định trên, theo Tòa án giám đốc thẩm, công sức chăm sóc, nuôi dưỡng
cha mẹ của ông Vân, ông Vi được xử lý như thế nào?

Trả lời:
Trong Quyết định trên, theo Toà giám đốc thẩm, công sức chăm sóc, nuôi dưỡng cha mẹ của ông
Vân, ông Vi được xử lý theo hướng: ông Vân và ông Vi có công sức chăm sóc, nuôi dưỡng cha
mẹ nhưng không xác định rõ công sức chăm sóc cha mẹ và quản lý di sản mà ông Vân, ông Vi
được hưởng là bao nhiêu để đối trừ, số tiền còn lại mới chia cho các đồng thừa kế là chưa hợp
tình, hợp lý.

Câu 7. Suy nghĩ của anh/chị về hướng xử lý trên của Tòa giám đốc thẩm (trong mối quan
hệ với các quy định về nghĩa vụ của người quá cố).

Trả lời:
Theo em, em đồng ý với Tòa rằng tiền bảo quản di sản của ông Vi cần phải được thanh toán căn
cứ theo Khoản 3 Điều 658 BLDS 2015, nhưng không đồng ý rằng phải thanh toán tiền công nuôi
dưỡng, chăm sóc người quá cố cho ông Vân và ông Vi vì đó không xem là một nghĩa vụ tài sản
hay là khoản chi phí liên quan đến thừa kế theo Điều 658 BLDS 2015

Buổi thảo luận Dân sự thứ 5

Phần 3: Thời hiệu trong lĩnh vực thừa kế:


Câu 1: Cho biết các loại thời hiệu trong lĩnh vực thừa kế.

Trả lời:

Có hai loại thời hiệu trong lĩnh vực thừa kế:

– Thời hiệu khởi kiện để người thừa kế yêu cầu chia di sản xác nhận quyền thừa kế của mình
hoặc bác bỏ quyền thừa kế của người khác là mười năm, kể từ thời điểm mở thừa kế.

– Thời hiệu khởi kiện để yêu cầu người thừa kế thực hiện nghĩa vụ về tài sản của người chết để
lại là ba năm, kể từ thời điểm mở thừa kế.

Câu 2: Yêu cầu của ông Trạch có trong thời hiệu không trong trường hợp nhà ở do cụ
Tành và cụ Chắc tạo lập? Nêu cơ sở pháp lý khi trả lời.

Trả lời:

Trong trường hợp nhà ở do cụ Tành và cụ Chắc tạo lập thì yêu cầu của ông Trạch có
trong thời hiệu khởi kiện để người thừa kế yêu cầu chia di sản. Là do từ khi mở thừa kế (2009)
cho đến thời điểm hiện tại (2015) là 6 năm, nhỏ hơn 10 năm nên đủ điều kiện nằm trong thời
hiệu khỏi kiện để người thừa kế yêu cầu chia di sản.

Cơ sở pháp lý:

Điều 645 về thời hiệu khởi kiện và thừa kế bộ luật dân sự 2005: “Thời hiệu khởi kiện để người
thừa kế yêu cầu chia di ản, xác nhận quyền thừa kế của mình hoặc bác bỏ quyền thừa kế của
người khác là mười năm, kể từ thời điểm mở thừa kế.”
Câu 3: câu trả lời cho câu hỏi trên có khác không khi bà Sắc định cư tại Mỹ từ năm 1990
và nhà ở do cụ Tành và cụ Chắc tạo lập? Vì sao?

Trả lời:

Bà Sắc định cư tại Mỹ từ năm 1990 thì câu trả lời cho câu hỏi trên không thay đổi.

Bởi vì: Căn cứ vào khoản 1 Điều 680 về thừa kế theo pháp luật có yếu tố nước ngoài BLDS
2015: “Thừa kế được xác định theo pháp luật của nước mà người để lại di sản thừa kế có quốc
tịch ngay trước khi chết.”. Chính vì thế mà trong trường hợp nhà ở do cụ Tành và cụ Chắc tạo
lập thì yêu cầu của ông Trạch có trong thời hiệu khởi kiện để người thừa kế yêu cầu chia di sản.
Cho nên việc bà Sắc định cư ở nước ngoài từ năm 1990 không ảnh hưởng gì đến thời hiệu khởi
kiện để người thừa kế yêu cầu chia di sản (trường hợp này không nằm trong quy định tại điều
621 về người không được quyền hưởng di sản bộ luật dân sự 2015).

Câu 4: Câu trả lời cho câu hỏi đầu tiên có khác không khi bà Sắc định cư tại Mỹ từ năm
1990 nhưng nhà ở trên đất không là của cụ Tành và cụ Sắc (mà do người quen được mượn
đất cất nhà để ở nhờ) ? Vì sao?

Trả lời:

Câu trả lời sẽ không khác đi trong trường hợp này. Vì trong trường hợp này cho dù nhà ở trên đất
không là của cụ Tành và cụ Sắc (do người quen được mượn đất cất nhà để ở nhờ) thì phần di sản
là mảnh đất mà hai cụ đề lại vẫn thuộc phần thừa kế của các con cụ, trong đó có ông Trạch. Nên
ông có quyền đòi chia di sản thừa kế. Và vào thời điểm này thì yêu cầu của ông Trạch vẫn có
trong thời hiệu, vì nó chưa vượt quá mười năm kể từ thời điểm mở thừa kế (Điều 645 BLDS
2005).

Câu 5: Nếu hết thời hiệu chia di sản thừa kế và không đủ điều kiện chuyển di sản thành tài
sản chung của đồng thừa kế, di sản thừa kế sẽ được xử lý như thế nào? Vì sao?

Trả lời:

Nếu hết thời hiệu chia di sản thừa kế và không đủ điều kiện chuyển di sản thành tài sản
chung của các đồng thừa kế thì vẫn chưa có văn bản pháp luật nào quy định tài sản đó thuộc
quyền sở hữu của ai, cơ quan nào có thẩm quyền sử lý. Nên di sản thừa kế sẽ được xử lý theo
từng phiên tòa theo nhiều hướng khác nhau ví dụ như: để người đang quản lý, sử dụng di sản tiếp
tục quản lý, sử dụng di sản là hướng giải quyết hay được các Tòa án áp dụng.

Câu 6: Cần xử lý phần di sản do cụ Tành để lại như thế nào trong tình huống trên? Vì sao?

Trả lời:

Di sản do cụ Tành để lại sẽ được chuyển thành tài sản chung của các đồng thừa kế (do trong tình
huống không nhắc đến chuyện các đồng thừa kế tranh chấp về hàng thừa kế và không ai phủ
nhận di sản là của cụ Tành để lại nên các điều kiện xem như hội đủ). Như vậy, do ông Chanh có
công quản lí di sản nên sẽ nhận được một khoản tiền tương ứng từ giá trị tài sản chung, sau đó tài
sản còn lại sẽ được chia cho các đồng thừa kế.

Câu 7: Câu trả lời cho các câu hỏi trên có khác không khi ông Trạch yêu cầu chia di sản
vào tháng 1/2017? Vì sao?

Trả lời:

Câu trả lời cho các câu hỏi trên sẽ khác nếu ông Trạch yêu cầu chia di sản vào tháng 1/2017 vì
theo quy định trong khoản 1 điều 623 BLDS 2015 về thời hiệu thừa kế thì “Thời hiệu để người
thừa kế yêu cầu chia di sản là 30 năm đối với bất động sản, 10 năm đối với động sản, kể từ thời
điểm mở thừa kế. Hết thời hạn này thì di sản thuộc về người thừa kế đang quản lý di sản đó.
Trường hợp không có người thừa kế đang quản lý di sản thì di sản được giải quyết như sau:

a) Di sản thuộc quyền sở hữu của người đang chiếm hữu theo quy định tại Điều 236 của Bộ luật
này;

b) Di sản thuộc về Nhà nước, nếu không có người chiếm hữu quy định tại điểm a khoản này.”

Mà ở đây, thời điểm mở thừa kế kể từ ngày cụ Tành mất tháng 2/1986 đến tháng 1/2017 là 31
năm, lớn hơn so với 30 năm đối với bất động sản như trong luật quy định nên di sản thuộc về
người thừa kế đang quản lý di sản đó là ông Chanh.

You might also like