You are on page 1of 6

ĐOÀN LUẬT SƯ ABC CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM

CÔNG TY LUẬT XYZ Độc lập – Tự do – Hạnh phúc

P, ngày 29 tháng 4 năm 2022


LUẬN CỨ BẢO VỆ QUYỀN VÀ LỢI ÍCH HỢP PHÁP
CHO HỒ THỊ THU TH
(Trong vụ án ly hôn)
Kính thưa Hội đồng xét xử!
Thưa vị đại diện Viện kiểm sát!
Thưa vị luật sư đồng nghiệp!
Thưa toàn thể quý vị có mặt tại phiên tòa ngày hôm nay!

Tôi là Luật sư T, thuộc Văn phòng Luật sư ABC, Đoàn luật sư Tp. Hồ Chí Minh
Nhận được sự tin tưởng của thân chủ của mình là bà Hồ Thị Thu Th - bị đơn trong vụ
án ly hôn và được sự chấp thuận của quý tòa; ngày hôm nay, tôi có mặt tại buổi xét xử
vụ án ly hôn với tư cách là người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho bà Hồ Thị
Thu.
Tại Bản án hôn nhân gia đình sơ thẩm số 20/2021/HNGĐ-ST ngày 18
tháng 10 năm 2021 của Tòa án nhân dân thị xã P đã quyết định:
“Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn ông A
1. Về quan hệ hôn nhân: Công nhận sự thuận tình ly hôn giữa ông A
và bà Hồ Thị Thu Th.
2. Về con chung: Giao con chung tên Nguyễn Hồ Thanh P, sinh ngày
02/01/2014 cho ông L trực tiếp nuôi dưỡng đến khi đủ 18 tuổi và giao con
chung Nguyễn Hồ Thanh T, sinh ngày 12/11/2015 cho bà Th trực tiếp nuôi
dưỡng đến khi đủ 18 tuổi. Về cấp dưỡng nuôi con chung: Ông L và bà Th
không yêu cầu về nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con chung nên Hội đồng xét xử
không xem xét.
3. Về tài sản chung: Chấp nhận một phần yêu cầu phản tố của bị đơn
bà Hồ Thị Thu Th về chia tài sản chung khi ly hôn.
- Giao cho bà Hồ Thị Thu Th được quyền sử dụng, sở hữu thửa đất số
105…và tài sản trên đất gồm: 01 căn nhà cấp IV có diện tích 135m2, cổng sắt
có diện tích 6m2, trụ cổng 02m, tường rào xây 14m2 và tường rào lưới B40
97.6m2, 01 toilet và 01 nhà tắm diện tích 06m2, 01 bồn nước 500 lít.
- Bà Th có nghĩa vụ trả cho ông L giá trị phần chênh lệch về tài sản
được chia là 75.000.000 đồng.
- Ông Nguyễn Văn D được quản lý, sử dụng thửa đất 126...
Về án phí dân sự sơ thẩm: bà Hồ Thị Thu Th chịu toàn bộ.”
Sau khi xét xử ngày 29/10/2021, bà Hồ Thị Thu Th có đơn kháng cáo đề
nghị hủy toàn bộ nội dung Bản án sơ thẩm.
Kính thưa Hội đồng xét xử,
Căn cứ kháng cáo của bà Th cụ thể như sau:
1. Ông S cha ruột bà Th đã tặng cho riêng bà Th thửa đất số 105, tờ bản đồ 20,
diện tích 488,2 m2 và tài sản trên đất tọa lạc tại khu phố Bình Giang 2,
phường S, thị xã P, tỉnh PL nên bà không có nghĩa vụ phải trả cho ông L giá
trị phần chênh lệch về tài sản được chia là 75.000.000 đồng. Vì vậy Quyết
định của bản án sơ thẩm chưa hợp lý.
2. Bản án sơ thẩm chưa thỏa đáng vì thửa đất số 126 đang được ông D quản lý là
tài sản có liên quan trong quá trình giải quyết vụ án ly hôn giữa ông L và bà
Th. Việc ông L ký hợp đồng tặng cho quyền sử dụng đất thửa đất số 126 cho
ông D là hành vi nhằm tẩu tán tài sản.
3. Bà Th muốn được quyền nuôi hai con chung là cháu P và cháu T.
Qua việc việc nghiên cứu hồ sơ vụ án, tài liệu có liên quan và đặc biệt là qua việc
xét hỏi tại phiên tòa hôm nay, tôi có một số ý kiến, quan điểm bảo vệ quyền và lợi ích
hợp pháp cho thân chủ tôi là bà Hồ Thị Thu Th trong vụ án ly hôn như sau:
Thứ nhất, về thửa đất số 126, tờ bản đồ 15, diện tích 338,5m 2 tọa lạc thôn HT, xã
BL, huyện TP, tỉnh PL, đây vốn là tài sản chung của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân
bởi lẽ đây là đất được bà Th và ông L mua bằng tiền chung. Tuy nhiên ông L lại cho
rằng đây là tài sản riêng của ông và đã tặng cho em trai là ông Nguyễn Văn D nhưng
trên thực tế là chuyển nhượng với số tiền 150.000.000 (một trăm năm mươi triệu
đồng) và việc chuyển nhượng bà Th không biết. Theo quy định tại khoản 1 và điểm a
khoản 2 Điều 35 Luật HNGĐ 2014 thì việc định đoạt tài sản chung do vợ chồng thỏa
thuận và việc định đoạt tài sản chung là bất động sản phải có sự thỏa thuận bằng văn
bản của vợ chồng. Ngoài ra, tại Điều 26 Luật HN&GĐ 2014 thì trong trường hợp này
không có cơ sở nào để xác minh thửa đất trên là sở hữu riêng của ông L, cũng không
có bất cứ văn bản ủy quyền nào thể hiện bà Th đồng ý với hợp đồng tặng cho trên. Do
đó, việc ông L tự ý mang thửa đất số 126 thuộc tài sản chung của vợ chồng để tặng
cho cho ông D là trái với quy định của pháp luật, không đáp ứng về điều kiện hình
thức và nội dung. Đây là tài sản chung của vợ chồng nên khi thực hiện bất kỳ giao dịch
tặng cho hay chuyển nhượng đều phải có sự đồng ý của cả hai, mà không có sự đồng ý
của bà Th và cũng không có bất kỳ giấy ủy quyền hay thỏa thuận nào cho ông L toàn
quyền giao dịch đối với tài sản trên mà văn phòng công chứng số 3 tỉnh PL vẫn công
nhận hợp đồng tặng cho giữa ông L và ông D là không đúng quy định pháp luật. Nên
hợp đồng tặng cho thửa đất số 126 cho anh D cần phải bị vô hiệu.
Thứ hai, đối với thửa đất số 105, tờ bản đồ 20, diện tích 488,2 m 2 và tài sản trên đất
tọa lạc tại khu phố Bình Giang 2, phường S, thị xã P, tỉnh PL. Đây là tài sản của ông
Hồ Đình S (cha ruột bà Th) đã viết giấy tay tặng cho riêng bà Th, tuy nhiên do hợp
đồng trên được xác lập bằng hình thức viết tay và cũng không công chứng, chứng thực
theo quy định tại Điều 167 Luật đất đai 2013 nên đây vẫn được xem là tài sản của ông
S (cha ruột bà Th). Vì vậy, thửa đất số 105 không thể coi đó là tài sản chung của ông L
và bà Th và tiến hành chia đôi khi ly hôn.
Thứ ba, về con chung bà Th và ông L có hai con chung là cháu P và cháu T. Khi ly
hôn bà Th yêu cầu được nuôi cả hai con mà không yêu cầu ông L thực hiện cấp dưỡng
nuôi con. Hiện cả cháu đều trên 07 tuổi. Do đó căn cứ theo khoản 2 Điều 81 Luật hôn
nhân và gia đình 2014 thì nếu con từ đủ 07 tuổi trở lên thì phải xem xét nguyện vọng
của các con. Yêu cầu được nuôi cả hai con sau khi ly hôn của bà Th là hoàn toàn phù
hợp. Căn cứ vào quyền lợi mọi mặt của con thì bà Th sẽ chăm sóc và dạy dỗ các con
tốt hơn. Các cháu đang trong giai đoạn phát triển tâm sinh lý thì việc quan tâm, chia sẻ
của người mẹ với con là một trong tác nhân giúp các cháu có thể phát triển một cách
toàn diện. Trên thực tế cho thấy thì người mẹ luôn là người gần gũi, tâm sự, sẻ chia
với các con hơn người cha.
Chính vì lẽ trên tôi kính đề nghị Hội đồng xét xử cân nhắc chấp nhận yêu cầu của
bà Th được trực tiếp nuôi dạy 2 con phù hợp với nguyện vọng và vì lợi ích của các
cháu.
Từ tình hình thực tế, qua 3 nhận định trên, với tư cách người bảo vệ quyền và lợi
ích hợp pháp cho bị đơn là bà Th, tôi kính đề xuất Hội Đồng xét xử phúc thẩm xem xét
áp dụng các điều sau đây:
1. Đề nghị áp dụng Điều 26 Luật Hôn nhân và gia đình 2014 quy định về đại diện
giữa vợ và chồng trong trường hợp giấy chứng nhận quyền sở hữu, giấy chứng nhận
quyền sử dụng đối với tài sản chung nhưng chỉ ghi tên vợ hoặc chồng:
“1. Việc đại diện giữa vợ và chồng trong việc xác lập, thực hiện và chấm dứt giao
dịch liên quan đến tài sản chung có giấy chứng nhận quyền sở hữu, giấy chứng nhận
quyền sử dụng tài sản chỉ ghi tên vợ hoặc chồng được thực hiện theo quy định tại
Điều 24 và Điều 25 của Luật này.
2. Trong trường hợp vợ hoặc chồng có tên trên giấy chứng nhận quyền sở hữu, giấy
chứng nhận quyền sử dụng tài sản tự mình xác lập, thực hiện và chấm dứt giao dịch
với người thứ ba trái với quy định về đại diện giữa vợ và chồng của Luật này thì giao
dịch đó vô hiệu, trừ trường hợp theo quy định của pháp luật mà người thứ ba ngay
tình được bảo vệ quyền lợi”.
2. Đề nghị áp dụng khoản 1 và điểm a khoản 2 Điều 35 Luật Hôn nhân và gia đình
quy định về chiếm hữu, sử dụng, định đoạt tài sản chung:
“1. Việc chiếm hữu, sử dụng, định đoạt tài sản chung do vợ chồng thỏa thuận.
2. Việc định đoạt tài sản chung phải có sự thỏa thuận bằng văn bản của vợ chồng
trong những trường hợp sau đây:
a) Bất động sản;”
3. Đề nghị áp dụng khoản 1 Điều 43 Luật Hôn nhân và gia đình 2014 quy định về
tài sản riêng của vợ, chồng: “Tài sản riêng của vợ, chồng gồm tài sản mà mỗi người
có trước khi kết hôn; tài sản được thừa kế riêng, được tặng cho riêng trong thời kỳ
hôn nhân; tài sản được chia riêng cho vợ, chồng theo quy định tại các điều 38, 39 và
40 của Luật này; tài sản phục vụ nhu cầu thiết yếu của vợ, chồng và tài sản khác mà
theo quy định của pháp luật thuộc sở hữu riêng của vợ, chồng”.
4. Đề nghị áp dụng điểm a khoản 3 Điều 167 Luật đất đai 2013 quy định về Quyền
chuyển đổi, chuyển nhượng, cho thuê, cho thuê lại, thừa kế, tặng cho, thế chấp, góp
vốn quyền sử dụng đất:
“3. Việc công chứng, chứng thực hợp đồng, văn bản thực hiện các quyền của người sử
dụng đất được thực hiện như sau:
a) Hợp đồng chuyển nhượng, tặng cho, thế chấp, góp vốn bằng quyền sử dụng đất,
quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền với đất phải được công chứng hoặc chứng thực,
trừ trường hợp kinh doanh bất động sản quy định tại điểm b khoản này;”.
Trên cơ sở các luận cứ viện dẫn trên, với tư cách luật sư bảo vệ quyền và lợi ích hợp
pháp cho bị đơn, tôi kiến nghị Hội Đồng xét xử chấp nhận yêu cầu phía bị đơn để
tuyên xác nhận thửa đất số 126 là tài sản chung của vợ chồng ông L và bà Th, vô hiệu
hợp đồng tặng cho giữa ông L và ông D. Bà Th được quyền nuôi dưỡng hai con chung
là cháu P và cháu T.
Vậy, kính mong được Quý Tòa nghiên cứu chấp nhận các luận cứ và các kiến nghị
cụ thể hợp tình, hợp lý và thỏa đáng nói trên, để thân chủ tôi được bảo vệ quyền và lợi
ích hợp pháp của mình theo quy định pháp luật và đưa ra được một bản án khách quan
và chính xác, đúng pháp luật.
Tôi xin trân trọng cảm ơn sự quan tâm và chú ý lắng nghe của Hội đồng xét xử và
tất cả các quý vị có mặt trong phòng xử án hôm nay.
CÔNG TY LUẬT XYZ
LUẬT SƯ T

You might also like