You are on page 1of 8

KHOA QUẢN TRỊ

LỚP QUẢN TRỊ - LUẬT 44A1

BUỔI THẢO LUẬN THỨ NHẤT

LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM


PHẦN CÁC TỘI PHẠM
Giảng viên: Ths. Phan Thị Phương Hiền
Nhóm: 02
Họ và tên MSSV
Nguyễn Thúy An 1953401020002
Lâm Huệ Ân 1953401020003
Võ Khánh Dân 1953401020029
Nguyễn Thành Danh 1953401020031
Huỳnh Hương Giang 1953401020047
Trần Nhựt Hào 1953401020061
CỤM 2
CÁC TỘI XÂM PHẠM CON NGƯỜI
 LÝ THUYẾT
 NHẬN ĐỊNH ĐÚNG SAI
1. Hành vi cố ý trực tiếp tước bỏ tính mạng người khác trái pháp luật
không gây ra hậu quả chết người thì không cấu thành Tội giết người
(Điều 123 BLHS).
- Nhận định trên là nhận định sai.
- Hành vi cố ý trực tiếp tước bỏ mạng sống của người khác trái pháp luật dù
không gây ra hậu quả chết người vẫn cấu thành Tội giết người. Tội giết
người là tội phạm có tính nguy hiểm cao nên mặc dù có CTTP vật chất
nhưng dấu hiệu hậu quả chết người chỉ có ý nghĩa xác định thời điểm hoàn
thành của tội phạm. Hành vi cố ý trực tiếp tước bỏ tính mạng người khác trái
pháp luật dù hậu quả chết người chưa xảy ra do nguyên nhân khách quan thì
vẫn cấu thành Tội giết người ở giai đoạn chưa đạt.
- Ví dụ: A cố ý trực tiếp đâm nhiều nhát vào người B nhằm tướt đi tính mạng
B, nhưng B được cấp cứu kịp thời và không chết. A cấu thành Tội giết người
Điều 123 BLHS.
5. Tình tiết “giết 02 người trở lên” luôn đòi hỏi phải có hậu quả hai người
chết trở lên.
- Nhận định trên là nhận định sai.
- Tình tiết “giết 02 người trở lên” không đòi hỏi phải có hậu quả hai người
chết trở lên. Giết 02 người trở lên là trường hợp ý thức chủ quan của người
phạm tội muốn tước đoạt tính mạng của 02 người trở lên, đã thực hiện hành
vi phạm tội. Cũng được coi là giết hai người trở lên trong trường hợp người
phạm tội có ý định giết nhiều người và đã thực hiện hành vi phạm tội, nhưng
hậu quả chết người chưa xảy ra do những nguyên nhân ngoài ý muốn của
người phạm tội.
- Ví dụ: A bỏ thuốc độc muốn giết B và C, B chết ngay tại chỗ, còn C được
cấp cứu kịp thời và qua cơn nguy kịch. A cấu thành Tội giết người Điều 123
BLHS với tình tiết định khung tăng nặng “giết 02 người trở lên”.
7. Hành vi giết trẻ em sinh ra trong vòng 7 ngày tuổi thì chỉ cấu thành Tội
giết con mới đẻ (Điều 124 BLHS).
- Nhận định trên là nhận định sai.
- Vì tội giết con mới đẻ được hiểu là hành vi của người mẹ do ảnh hưởng nặng
nề của tư tưởng lạc hậu hoặc trong hoàn cảnh khách quan đặc biệt mà giết
con mình đẻ ra trong 07 ngày tuổi, như vậy, chủ thể của tội phạm này là
người mẹ sinh đứa trẻ là nạn nhân của hành vi phạm tội, hành vi của giết trẻ
mới đẻ do những người khác thực hiện không cấu thành tội phạm này mà có
thể cấu thành tội giết người được quy định tại Điều 123 BLHS.
8. Mọi trường hợp giết người trong trạng thái tinh thần bị kích động mạnh
đều cấu thành Tội giết người trong trạng thái tinh thần bị kích động
mạnh (Điều 125 BLHS).
- Nhận định trên là nhận định sai.
- Vì theo Điều 125 BLHS, tội phạm này có những dấu hiệu sau: (1) hành vi
giết người thực hiện trong tình trạng tinh thần của người phạm tội bị kích
động mạnh; (2) Nguyên nhân đưa đến trạng thái tinh thần bị kích động mạnh
là do hành vi trái pháp luật nghiêm trọng của nạn nhân; (3) hành vi trái pháp
luật nghiêm trọng của nạn nhân thực hiện đối với người đó hoặc đối với
người thân thích của người đó; do đó nếu không có đủ những dấu hiệu trên
thì không được xem là Tội giết người trong trạng thái tinh thần bị kích động
mạnh (Điều 125 BLHS).
9. Mọi hành vi làm chết người do dùng vũ lực ngoài những trường hợp
pháp luật cho phép trong khi thi hành công vụ đều cấu thành Tội làm
chết người trong khi thi hành công vụ (Điều 127 BLHS).
- Nhận định trên là nhận định sai.
- Căn cứ theo khoản 1 Điều 127 BLHS 2015: “Người nào trong khi thi hành
công vụ mà làm chết người do dùng vũ lực ngoài những trường hợp pháp
luật cho phép, thì bị phạt tù từ 05 năm đến 10 năm”. Qua đó cho thấy, hành
vi ở đầy là dùng vũ lực ngoài trường hợp pháp luật cho phép để thực hiện
công vụ, động cơ là thi hành công vụ. Do đó trong trường hợp người thi hành
công vụ do thái độ hống hách, coi thường tính mạng người khác, lợi dụng thi
hành công vụ gây hậu quả chết người, thì không được xem là cấu thành Tội
giết người trong khi thi hành công vụ.
Ví dụ: Công an bắt được đứa bé ăn trộm 1 chiếc xe đạp, trong quá trình bỏ
chạy đứa bé không hề gây nguy hiểm hay ảnh hưởng đến người khác, tuy
nhiên cảnh sát bắt vào tim làm đứa bé chết tại chỗ. Đây không được xem là
cấu thành Tội làm chết người trong khi thi hành công vụ.
11.Nạn nhân tử vong là dấu hiệu định tội của Tội bức tử (Điều 130 BLHS).
- Nhận định trên là nhận định sai.
- Căn cứ theo Khoản 1 Điều 130 BLHS 2015: “Người nào đối xử tàn ác,
thường xuyên ức hiếp, ngược đãi hoặc làm nhục người lệ thuộc mình làm
người đó tự sát, thì bị phạt tù từ 02 năm đến 07 năm”. Qua đó cho thấy,
hành vi nêu trên cấu thành tội phạm khi có sự tự sát của nạn nhân, bất kể sự
tự sát có gây hậu quả chết người hay không. Do đó nạn nhân tử vong không
phải là dấu hiệu định tội của tội phạm này.
- Ví dụ: A có hành vi ngược đãi B dẫn đến B có xử sự tự sát, tuy nhiên B
không chết. A vẫn bị xem là phạm Tội bức tử theo khoản 1 Điều 130 BLHS.
 BÀI TẬP
Bài tập 1. Khoảng 19 giờ, T ra sân kho HTX xem biểu diễn ca nhạc. Khi đi, T dắt
một lưỡi lê tự tạo (lưỡi lê dài 15cm rộng 2cm). Chưa tới giờ biểu diễn
nên một số thanh niên túm lại với nhau nói chuyện ở phía cổng vào khu
vực biểu diễn, khiến một số cháu nhỏ không thể đi qua được. Thấy vậy,
T liền nói: “Sao các anh đứng ngang thế?”. Hai bên va chạm, chửi nhau.
A và B trong tốp thanh niên đó đã chạy gọi thêm bạn bè để gây sự. Cả
bọn quay trở lại gặp T thì ngay lập tức C túm áo T và thúc gối vào bụng
của T, còn A và B đấm vào mặt T làm môi T bị sưng. Các trật tự viên đã
kịp thời ngăn cản và chấm dứt sự va chạm. Một lát sau, T lại đến gần
chỗ đứng của A,B và C để đôi co dẫn đến tiếp tục xô xát. Trong lúc xô
xát, T rút lưỡi lê ở thắt lưng đâm một nhát vào ngực C rồi bỏ chạy. Kết
luận giám định pháp y xác định: “C chết do vết thương sắc gọn, thấu
ngực trái, rách phổi, thấu lách, đứt động mạch, mất máu cấp tính”.
Hãy xác định tội danh đối với hành vi của T.
Bài làm
Hành vi của T cấu thành tội phạm giết người quy định tại Điều 123 BLHS 2015 sửa
đổi bổ sung 2017.
Hành vi của T đã thỏa mãn đầy đủ cấu thành tội phạm của tội giết người quy định
tại Điều 123 BLHS 2015 sửa đổi bổ sung 2017:
1. Về mặt khách quan:
- Về hành vi: T đâm vào ngực C thấu ngực trái bằng lưỡi lê sắt nhọn rồi bỏ chạy.
-Hậu quả: C chết do vết thương sắc gọn, thấu ngực trái, rách phổi, thấu lách, đứt
động mạch, mất máu cấp tính do T đâm C bằng lưỡi lê.
2 Mặt chủ quan
- Dấu hiệu lỗi: T thực hiện hành vi của mình với lỗi cố ý trực tiếp. T biết hành vi
đâm vào ngực C bằng lưỡi lê là nguy hiểm, có thể dẫn đến hậu quả là C chết nhưng
T vẫn cố ý thực hiện mặc cho hậu quả xảy ra.
3.Mặt khách thể:
- T đã xâm phạm đến quyền được sống và bảo vệ tính mạng, sức khỏe của C.
4. Mặt chủ thể của tội phạm
T là chủ thể thường, T đã 18 tuổi và có đầy đủ năng lực chịu trách nhiệm hình sự.
Vì vậy T thỏa mãn đầy đủ điều kiện chủ thể của tội danh giết người quy định tại
Điều 123 BLHS.
Bài tập 3. A và B là vợ chồng. Trước khi cưới, B đã có người yêu, nhưng do gia
đình éo gả nên phải lấy A. Vì thế, dù đã có chồng nhưng B vẫn gặp C –
người yêu cũ của B. Biết vậy, nên gia đình B khuyên A đưa vợ lên làm
ăn ở TP.HCM. A nghe lời đem vợ lên sống ở thành phố. Dù vậy, B vẫn
lén lút quan hệ với C bằng cách viện lý do đi khám bệnh và lưu lại bệnh
viện điều trị ít ngày, nhưng thực chất là 2 người hẹn hò nhau ở một
khách sạn và sống với nhau. Gia đình B biết được nên đã báo cho A biết
mối quan hệ giữa B và C, đồng thời cho A biết số xe honda của C. Một
hôm, vì mất điện nên A về nhà sớm hơn thường lệ thì thấy B chuẩn bị
quần áo nói là đi chữa bệnh tại bệnh viện. A không tin nên chạy nhanh
ra đường cái, cách nhà khoảng 200m thì thấy một thanh niên đang ngồi
trên một chiếc xe Honda có biển số như gia đình B đã báo trước. Quá
tức giận, A nhặt một khúc gỗ bên lề đường to bằng cổ tay, dài 60cm
phang thẳng vào đầu anh thanh niên đang ngồi trên xe gắn máy nhiều
nhát cực mạnh khiến anh thanh niên nọ bị chấn thương sọ não, chết trên
đường cấp cứu tới bệnh viện. Khi kiểm tra căn cước của người bị hại thì
mới xác định được nạn nhân không phải C mà chính là bạn của C. Do
không biết mặt C nên A đã đánh nhầm người. Lúc đó, C đang mua
thuốc lá gần đó.
Hãy xác định tội danh đối với hành vi của A.
Bài làm
Hành vi phạm tội của A đã cấu thành tội giết người theo Điều 123 BLHS. Để định
tội danh cho hành vi phạm tội của A, ta phân tích các yếu tố cấu thành tội phạm
như sau :
- Về chủ thể:
Dựa theo tình huống, ta thấy không đề cập tới việc A (là chồng của B) là người
không có năng lực trách nhiệm hình sự hay mất năng lực trách nhiệm hình sự.
Có thể mặc nhiên kết luận rằng A hoàn toàn có đủ điều kiện là chủ thể của tội
giết người.
- Về khách thể:
Tuy có sự nhầm lẫn về đối tượng, nhầm tưởng bạn của C là C, nhưng hành vi
giết người của A đã xâm phạm đến tính mạng của người ngồi trên xe máy là bạn
của C. Như vậy, hành vi của A đã xâm phạm tới quyền nhân thân, cụ thể là
quyền được sống của người thanh niên này.
- Mặt khách quan:
 Hành vi khách quan: A đã có hành vi giết H – người mà A nghĩ đó là C.
Hành vi này được diễn ra qua các tình tiết cụ thể như sau : A nhặt một
khúc gỗ bên lề đường to bằng cổ tay, dài 60 cm phang thẳng vào đầu
người ngồi trên xe máy (mà A nghĩ là C).
 Hậu quả của tội phạm: Với dữ kiện của tình huống, hậu quả chết người đã
xảy ra, cụ thể nạn nhân – người ngồi trên chiếc xe máy mà A nghĩ đó là C
đã bị tử vong.
 Hành vi khách quan là nguyên nhân trực tiếp dẫn đến hậu quả. Hành vi
đánh vào đầu của A dẫn đến sự tử vong của thanh niên ngồi trên xe máy.
- Mặt chủ quan:
 Lỗi của người phạm tội : Lỗi của người phạm tội giết người là lỗi cố ý và
trong tình huống này, A mang lỗi cố ý trực tiếp “nhận thức rõ hành vi của
mình là nguy hiểm cho xã hội và thấy trước được hậu quả của hành vi đó
và mong muốn hậu quả xảy ra.”
 Động cơ, mục đích phạm tội : mặc dù đây không phải là dấu hiệu bắt
buộc của CTTP giết người nhưng với tình huống này, A giết người là có
động cơ, mục đích.
Từ các dấu hiệu trên, nhóm em xác định tội danh của A: Tội giết người (Điều 123
BLHS).
Bài tập 4. Hai gia đình là hàng xóm của nhau. Trong một gia đình có bà mẹ là K
và cậu con trai tên là H. Gia đình bên kia có ông cụ là A cùng hay con
trai tên B và C. Ban ngày các con đều đi làm nên ông A thường hay qua
nhà bà K chơi. Sau một thời gian, ông A mang gạo góp với bà K nấu
cơm chung. B và C không đồng ý vì cho là cha mình bị bà K dụ dỗ, đem
tài sản cho bà K nên yêu cầu cha mình chấm dứt quan hệ với bà K
nhưng ông A không nghe và vẫn tiếp tục làm theo ý mình. B và C cho là
sự bất đồng trong gia đình mình là do bà K gây ra nên quyết định gây
án.
Vào 3 giờ sáng, B cầm đuốc và C cầm một con dao lớn đến trước sân
nhà bà K. B và C châm lửa đốt nhà, đồng thời chặn cửa đón đầu hai mẹ
con bà K. Bà K và H chạy ra đến cửa thì thấy B đang quơ đuốc xông tới,
C cầm dao lao vào tấn công H. H xông tới C, giành được con dao từ tay
C và chém đứt bàn tay C. Ngay lúc đó, B dùng đuốc xông tới gần H. H
nhanh chóng chém tiếp vào đầu C khiến C chết tại chỗ, đồng thời H
quay sang đối phó với B thì bà con vừa kịp đến.
Hãy xác định hành vi của H có phạm tội không? Nếu có thì phạm tội gì?
Bài làm
Trong trường hợp trên ta thấy khi C lao vào tấn công H, H xông tới C giành được
con dao và chém đứt bàn tay C. Vậy thì sau khi chém đứt bàn tay C thì C đã không
còn khả năng tấn công H nữa, tức là hành động tấn công này của C không còn hiện
hữu nên quyền phòng vệ của H cũng chấm dứt; tiếp theo đó là hành động chém vào
đầu khiến C chết tại chỗ nên không thể được xem là vượt quá phòng vệ chính đáng
vì quyền tự vệ đã chấm dứt và không được xét xử theo Điều 126 BLHS 2015 về tội
vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng mà phải xét xử tội giết người theo Điều 123
BLHS.
Hành vi của H là hành vi phạm tội, cấu thành tội giết người trong trạng thái tinh
thần bị kích động mạnh (Điều 125 Bộ luật Hình sự 2015).
- Chủ thể của tội phạm: H là người có đầy đủ năng lực TNHS, đạt đủ độ tuổi
chịu TNHS luật định;
- Khách thể của tội phạm: Quyền được tôn trọng và bảo vệ về tính mạng của
con người mà cụ thể là mạng sống của C;
- Mặt chủ quan: Lỗi cố ý trực tiếp. H biết rõ hành vi của mình là gây nguy
hiểm cho xã hội, thấy trước được hậu quả của hành vi và mong muốn cho
hậu quả đó xảy ra;
- Mặt khách quan: Hành vi có khả năng thực tế gây chết người: Hành vi giết
người thể hiện dưới dạng hành động:
 Hành vi gây nguy hiểm cho xã hội: Việc dùng dao chém đứt bàn tay
của C và chém vào đầu khiến cho C tử vong là hành vi gây nguy hiểm
cho XH.
 Hậu quả của hành vi phạm tội: C chết ngay tại chỗ.
 Mối quan hệ nhân quả: Hành vi trái pháp luật của nạn nhân là nguyên
nhân dẫn đến hành vi của H và cái chết của C.

You might also like