You are on page 1of 9

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH


KHOA QUẢN TRỊ
&

BUỔI THẢO LUẬN THỨ NHẤT

Bộ môn: Luật Hình sự phần các Tội phạm


Giảng viên: Ths. Phan Thị Phương Hiền
Nhóm: 07

Thành viên:

1 Nguyễn Đức Mạnh 1953401020112


2 Lương Thị Hoàng Linh 1953401020098
3 Phạm Thị Vy Loan 1953401020106
4 Lê Đặng Phương Nghi 1953401020132
5 Nguyễn Hoàng Thục Nghi 1953401020133
6 Lê Thị Tú Nguyên 1953401020141

Thành phố Hồ Chí Minh, ngày 09 tháng 03 năm 2021


MỤC LỤC
NHẬN ĐỊNH................................................................................................................ 1
1. Hành vi cố ý trực tiếp tước bỏ tính mạng người khác trái pháp luật không gây ra
hậu quả chết người thì không cấu thành Tội giết người (Điều 123 BLHS)...............1
5. Tình tiết “giết 2 người trở lên” luôn đòi hỏi phải có hậu quả hai người chết trở
lên.............................................................................................................................1
7. Hành vi giết trẻ em sinh ra trong vòng 7 ngày tuổi thì chỉ cấu thành Tội giết con
mới đẻ (Điều 124 BLHS)..........................................................................................1
8. Mọi trường hợp giết người trong trạng thái tinh thần bị kích động mạnh đều cấu
thành Tội giết người trong trạng thái tinh thần bị kích động mạnh (Điều 125
BLHS)....................................................................................................................... 2
9. Mọi hành vi làm chết người do dùng vũ lực ngoài những trường hợp pháp luật
cho phép trong khi thi hành công vụ đều cấu thành Tội làm chết người trong khi thi
hành công vụ (Điều 127 BLHS)................................................................................2
11. Nạn nhân tử vong là dấu hiệu định tội của Tội bức tử (Điều 130 BLHS)...........3
BÀI TẬP....................................................................................................................... 3
Bài tập 1....................................................................................................................3
Bài tập 3....................................................................................................................4
Bài tập 4....................................................................................................................6
NHẬN ĐỊNH
1. Hành vi cố ý trực tiếp tước bỏ tính mạng người khác trái pháp luật không gây ra
hậu quả chết người thì không cấu thành Tội giết người (Điều 123 BLHS).
 Nhận định sai.
Tội giết người (Điều 123 BLHS) là hành vi cố ý tước bỏ trái pháp luật tính mạng
của người khác.
Dù rằng CTTP cơ bản không nói rõ là cấu thành tội phạm nào, tuy nhiên cả lý
luận và thực tiễn đều thừa nhận tội giết người có cấu thành tội phạm vật chất. Đã dùng
“giết” thì phải là lỗi cố ý.
Nếu hành vi phạm tội với lỗi cố ý trực tiếp thì Tội giết người có CTTP vật chất,
nhưng hậu quả có ý nghĩa trong việc xác định giai đoạn. Bởi vì người phạm tội nhận
thức được hành vi đó là nguy hiểm, nhận thức được hậu quả tất yếu xảy ra và mong
muốn hậu quả đó xảy ra. Vì vậy, nếu có hậu quả chết người thì tội phạm ở giai đoạn
tội phạm hoàn thành, nếu không chết người thì tội phạm ở giai đoạn phạm tội chưa
đạt.
Ví dụ: A và B mâu thuẫn với nhau, A muốn giết B cho bỏ cơn tức. Nửa đêm, A lẻn
vào nhà B, hướng đến B đâm 2 nhát dao vào ngực rồi bỏ chạy. Sau đó, B được phát
hiện và đưa đi viện kịp thời nên đã qua cơn nguy kịp và được cứu sống. Như vậy, A
muốn giết B nhưng vì B được cứu kịp thời nên B chưa chết. Trong trường hợp này, A
phạm tội giết người ở giai đoạn chưa đạt.
5. Tình tiết “giết 2 người trở lên” luôn đòi hỏi phải có hậu quả hai người chết
trở lên. 
 Nhận định sai.
Dựa vào điểm a Khoản 1 Điều 123 BLHS 2015 quy định tình tiết định khung
tăng nặng của Tội giết người thì tình tiết “giết 2 người trở lên” chỉ cần người phạm
tội có ý định giết 2 người trở lên trong ý thức chủ quan đối với lỗi cố ý trực tiếp và
thực hiện hành vi phạm tội nhưng hậu quả chết người chưa xảy ra (do yếu tố khách
quan) thì người phạm tội vẫn bị truy cứu về tội giết người ở giai đoạn chưa đạt.
7. Hành vi giết trẻ em sinh ra trong vòng 7 ngày tuổi thì chỉ cấu thành Tội giết con
mới đẻ (Điều 124 BLHS).
 Nhận định sai.
Vì căn cứ BLHS thì chỉ áp dụng xét xử theo Điều 124 khi tội phạm thỏa mãn các
dấu hiệu pháp lý bắt buộc theo quy định, trong đó:
- Chủ thể của tội phạm (chủ thể đặc biệt) phải là người mẹ sinh đứa trẻ là nạn
nhân của hành vi phạm tội.

1
- Đối tượng tác động là trẻ mới đẻ - trẻ mới sinh trong vòng 7 ngày tuổi và phải là
con do chủ thể của tội phạm mới sinh ra.
- Hoàn cảnh phạm tội là do ảnh hưởng nặng nề của tư tưởng lạc hậu hoặc trong
hoàn cảnh khách quan đặc biệt mà giết con.
Vì vậy, không phải khi có hành vi giết trẻ em sinh ra trong vòng 7 ngày tuổi thì
sẽ cấu thành Tội giết con mới đẻ (Điều 124 BLHS).
Ví dụ: Người cha do nóng giận ném con mới sinh 5 ngày tuổi của mình từ trên cao
xuống đất, dù có hành vi giết trẻ em sinh ra trong vòng 7 ngày tuổi, nhưng không đáp
ứng được dấu hiệu về chủ thể và động cơ phạm tội nên không cấu thành Tội giết con
mới đẻ (Điều 124 BLHS), trường hợp này sẽ xét xử theo Điều 123 BLHS về Tội giết
người.
8. Mọi trường hợp giết người trong trạng thái tinh thần bị kích động mạnh đều
cấu thành Tội giết người trong trạng thái tinh thần bị kích động mạnh (Điều 125
BLHS).
 Nhận định sai.
Căn cứ vào Khoản 1 Điều 125 BLHS 1 quy định thì đối với nạn nhân phải là
người có hành vi trái pháp luật nghiêm trọng xâm phạm đến lợi ích của người phạm
tội hoặc người thân thích của người phạm tội.
Do đó, nếu hành vi vi phạm pháp luật của nạn nhân chưa đến mức nghiêm trọng
hoặc đối tượng bị tác động bởi hành vi đó không phải là người phạm tội hoặc người
thân thích của người phạm tội thì không thuộc tội phạm này;
Thêm vào đó, hành vi trái pháp luật của nạn nhân phải nằm trong mối quan hệ
nhân quả với trạng thái tinh thần bị kích động mạnh của người phạm tội. Do đó, nếu
như người phạm tội với tinh thần bị kích động mạnh nhưng không phải là nguyên
nhân của hành vi trái pháp luật do nạn nhân gây ra thì cũng không thể xét vào tội
phạm này.
9. Mọi hành vi làm chết người do dùng vũ lực ngoài những trường hợp pháp luật
cho phép trong khi thi hành công vụ đều cấu thành Tội làm chết người trong khi
thi hành công vụ (Điều 127 BLHS).
 Nhận định sai.
Vì xét về mặt chủ quan, động cơ của Tội làm chết người trong khi thi hành công
vụ (Điều 127 BLHS) phải là thi hành công vụ.
Nên nếu như người đang thi hành công vụ lợi dụng động cơ với mục đích đích
cá nhân không xuất phát từ động cơ tốt đẹp thi hành công vụ, coi thường tính mạng

1
1. Người nào giết người trong trạng thái tinh thần bị kích động mạnh do hành vi trái pháp luật nghiêm trọng
của nạn nhân đối với người đó hoặc đối với người thân thích của người đó, thì bị phạt tù từ 06 tháng đến 03
năm.

2
người khác mà có hành vi làm chết người thì ta phải xử vào Tội giết người (Điều 123
BLHS).
11. Nạn nhân tử vong là dấu hiệu định tội của Tội bức tử (Điều 130 BLHS).
 Nhận định sai.
Dấu hiệu định tội là dấu hiệu dùng để mô tả tội phạm và cho phép phân biệt tội
này với tội khác.
Tội bức tử (Điều 130 BLHS) là tội có CTVC mà hậu quả có ý nghĩa trong việc
xác định tội danh. Hậu quả ở đây là việc làm cho người bị hại tự sát. Nếu hành vi đối
xử tàn ác, thường xuyên ức hiếp, ngược đãi hoặc làm nhục người lệ thuộc mình dẫn
đến hậu quả người đó tự sát thì áp dụng Điều 130 BLHS, nếu người đó không tự sát
thì áp dụng Điều 140 hoặc 185 BLHS. 
Vì vậy, việc người bị hại tự sát mà chết hoặc không chết không phải là dấu hiệu
định tội bắt buộc của tội phạm này mà việc người bị hại tự sát mới là dấu hiệu định tội
của tội này.
Ví dụ: B là người giúp việc của A nhưng bị A đối xử tàn ác, thường xuyên ức hiếp,
ngược đãi nên đã bị uất ức dẫn đến B tự sát. Trong lúc tự sát, do được cứu chữa kịp
thời nên B đã không chết. Hành vi của A phạm tội bức tử theo Điều 130 BLHS, mặc
dù B không chết nhưng A đã thỏa mãn các dấu hiệu thuộc mặt khách quan của cấu
thành tội phạm.

BÀI TẬP
Bài tập 1: Khoảng 19h, T ra sân kho HTX xem biểu diễn ca nhạc. Khi đi, T dắt một
lưỡi lê tự tạo (lưỡi lê dài 15cm rộng 2cm). Chưa tới giờ biểu diễn nên một số thanh
niên túm lại với nhau nói chuyện ở phía cổng vào khu vực biểu diễn, khiến một số
cháu nhỏ không thể đi qua được. Thấy vậy, T liền nói: “Sao các anh đứng ngang
thế?”. Hai bên va chạm, chửi nhau. A và B trong tốp thanh niên đó đã chạy gọi thêm
bạn bè để gây sự. Cả bọn quay trở lại gặp T thì ngay lập tức C túm áo T và thúc gối
vào bụng của T, còn A và B đấm vào mặt T làm môi T bị sưng. Các trật tự viên đã kịp
thời ngăn cản và chấm dứt sự va chạm. Một lát sau, T lại đến gần chỗ đứng của A, B
và C để đôi co dẫn đến tiếp tục xô xát. T rút lưỡi lê ở thắt lưng đâm một nhát vào ngực
C rồi bỏ chạy. Kết luận giám định pháp y xác định: C chết do vết thương sắc gọn, thấu
ngực trái, rách phổi, thấu lách, đứt động mạch, mất máu cấp tính”.
Hãy xác định tội danh đối với hành vi của T. 

3
Hành vi của T là hành vi cấu thành Tội giết người (Điều 123 BLHS). Vì hành vi của T
là hành vi cố ý tước bỏ trái pháp luật tính mạng của C.
Các yếu tố cấu thành tội phạm:
Mặt khách quan:
 Hành vi: T rút lưỡi lê tự tạo ở thắt lưng đâm một nhát vào ngực C rồi bỏ chạy –
tước đoạt tính mạng người khác 1 cách trái pháp luật. 
 Hậu quả: C chết do vết thương sắc gọn, thấu ngực trái, rách phổi, thấu lách, đứt
động mạch, mất máu cấp tính – nạn nhân chết.
 Mối quan hệ nhân quả giữa hành vi và hậu quả: Hành vi của T là nguyên nhân
trực tiếp dẫn đến C chết.
Mặt chủ quan:
 Lỗi: Lỗi cố ý trực tiếp. (T nhận thức hành vi của mình là nguy hiểm cho xã hội,
biết trước hậu quả có thể xảy ra nhưng vẫn mong muốn hậu quả đó xảy ra).
 Mục đích: Tước đoạt mạng sống của C
Chủ thể: T là chủ thể thường, đủ tuổi và năng lực TNHS.
Khách thể: Quyền được tôn trọng và bảo vệ tính mạng của C.
 Đối tượng tác động: Con người đang sống - C.
⇒ Định tội danh: T phạm Tội giết người (Khoản 2 Điều 123 BLHS 2015).

Bài tập 3: A và B là vợ chồng. Trước khi cưới, B đã có người yêu, nhưng do gia đình
ép gả nên phải lấy A. Vì thế, dù đã có chồng nhưng B vẫn gặp C - người yêu cũ của B.
Biết vậy, nên gia đình B khuyên A đưa vợ lên làm ăn ở TP. HCM. A nghe lời đem vợ
lên sống ở thành phố. Dù vậy, B vẫn lén lút quan hệ với C bằng cách viện lý do đi
khám bệnh và lưu lại bệnh viện để điều trị ít ngày, nhưng thực chất là 2 người hẹn hò
nhau tại một khách sạn và sống với nhau. Gia đình B biết được nên đã báo cho A biết
mối quan hệ giữa B và C, đồng thời cho A biết số xe Honda của C. Một hôm, vì mất
điện nên A về nhà sớm hơn thường lệ thì thấy B chuẩn bị quần áo nói là đi chữa bệnh
tại bệnh viện. A không tin nên chạy nhanh ra đường cái, cách nhà khoảng 200m thì
thấy một thanh niên đang ngồi trên một chiếc xe Honda có biển số như gia đình B đã
báo trước. Quá tức giận, A nhặt khúc gỗ bên lề đường to bằng cổ tay, dài 60cm, phang
thẳng vào đầu anh thanh niên ngồi trên xe gắn máy nhiều phát cực mạnh khiến anh
thanh niên nọ bị chấn thương sọ não, chết trên đường cấp cứu tới bệnh viện. Khi kiểm
tra căn cước của người bị hại thì mới xác định được nạn nhân không phải là C mà
chính là bạn của C. Do không biết mặt C nên A đã đánh nhầm người. Lúc đó, C đang
mua thuốc lá gần đó.

4
Hãy xác định tội danh đối với hành vi của A.
Hành vi của A cấu thành Tội giết người (Điều 123 BLHS) vì trong trường hợp
trên:
- Chủ thể: A (chủ thể thường) - có năng lực TNHS và đạt độ tuổi luật định.
- Đối tượng tác động: Con người đang sống, A đã có sự sai lầm về đối tượng vì
đối tượng A hướng đến ở trên là C - bạn trai cũ của B nhưng do không biết mặt C nên
A đã đánh nhầm người, đó là bạn của C. 
Nhưng sai lầm về đối tượng không ảnh hưởng đến trách nhiệm hình sự. 
- Khách thể của tội phạm: Quyền được tôn trọng và bảo vệ về tính mạng của
con người.
- Mặt khách quan của tội phạm:
·      Hành vi có khả năng thực tế gây chết người: Hành vi giết người thể hiện dưới
dạng hành động, hành vi của A có sử dụng hung khí “khúc gỗ bên lề đường to bằng
cổ tay, dài 60 cm”, với cường độ tấn công mạnh, mức độ liên tục “phang vào đầu
anh thiên niên ngồi trên xe máy với nhiều phát cực mạnh”, cố tình tấn công vào đầu
là vùng trọng yếu – dễ chết người.
·      Hậu quả chết người: Nạn nhân “bị chấn thương sọ não, chết trên đường cấp
cứu tới bệnh viện”.
·      Mối quan hệ nhân quả giữa hậu quả và hành vi: Việc A nhặt một khúc gỗ bên
lề đường phang thẳng vào đầu anh thanh niên nhiều nhát cực mạnh khiến anh bị chấn
thương sọ não là nguyên nhân trực tiếp dẫn đến việc nạn nhân tử vong.
Về mặt chủ quan, lỗi của A là lỗi cố ý trực tiếp vì dù do quá tức giận nên có
hành vi phạm tội nhưng trong quá trình hành động, A hoàn toàn có đủ khả năng nhận
thức và biết được hành vi của mình là nguy hiểm vì tấn công vào đầu là vùng trọng
yếu của con người nhưng A lại đánh nhiều phát bằng khúc gỗ dài 60cm, biết sẽ làm
nạn nhân chết nhưng vẫn thực hiện. 
Từ các điều kiện trên, có thể thấy hành vi của A đã phạm Tội giết người theo
quy định tại Điều 123 BLHS là hành vi cố ý tước bỏ trái pháp luật tính mạng của
người khác.
Tội giết người có CTTP vật chất, với lỗi cố ý trực tiếp nên hậu quả có ý nghĩa
trong việc chứng minh giai đoạn phạm tội và ở đây là Tội phạm hoàn thành. Thêm
vào đó, xét điểm n Khoản 1 Điều 123 BLHS quy định một số chi tiết định khung
khung tăng nặng thì trường hợp này A giết người có tính chất côn đồ vì mức độ và
cường độ tấn công của A quá hung hãn, coi thường tính mạng của người khác. A đã
dùng gậy gỗ phang thẳng vào đầu nạn nhân nhiều phát mạnh khiến nạn nhân chấn
thương sọ não. 
5
Bài tập 4: Hai gia đình là hàng xóm của nhau. Trong một gia đình có bà mẹ là K và
cậu con trai tên là H. Gia đình bên kia có ông cụ là A cùng hai cậu con trai tên là B và
C. Ban ngày các con đều đi làm nên ông A thường hay qua nhà bà K chơi. Sau một
thời gian, ông A mang gạo góp với bà K nấu cơm chung. B và C không đồng ý vì cho
là cha mình bị bà K dụ dỗ, đem tài sản cho bà K nên yêu cầu cha mình chấm dứt quan
hệ với bà K nhưng ông A không nghe mà vẫn tiếp tục làm theo ý mình. B và C cho là
sự bất đồng trong gia đình mình là do bà K gây ra nên quyết định gây án.
Vào 3h sáng, B cầm đuốc và C cầm một con dao lớn đến trước sân nhà bà K. B và C
châm lửa đốt nhà, đồng thời chặn cửa đón đầu hai mẹ con bà K. Bà K và H chạy ra
đến cửa thì thấy B đang quơ đuốc xông tới, C cầm dao lao vào tấn công H. H xông tới
C, giành được con dao từ tay C và chém đứt bàn tay C. Ngay lúc đó, B dùng đuốc
xông tới gần H. H nhanh chóng chém tiếp vào đầu C khiến C chết ngay tại chỗ, đồng
thời H quay sang đối phó với B thì bà con vừa kịp đến.
Hãy xác định hành vi của H có phạm tội không? Nếu có thì phạm tội gì? 

Hành vi của H là hành vi phạm tội, cấu thành tội giết người trong trạng thái tinh thần
bị kích động mạnh (Điều 125 Bộ luật Hình sự 2015).
- Chủ thể của tội phạm: H là người có đầy đủ năng lực TNHS, đạt đủ độ tuổi
luật định;
- Khách thể của tội phạm: Quyền được tôn trọng và bảo vệ về tính mạng của
con người mà cụ thể là mạng sống của C;
- Mặt chủ quan: Lỗi cố ý trực tiếp. H biết rõ hành vi của mình là gây nguy hiểm
cho xã hội, thấy trước được hậu quả của hành vi và mong muốn cho hậu quả đó xảy
ra;
- Mặt khách quan: Hành vi có khả năng thực tế gây chết người: Hành vi giết
người thể hiện dưới dạng hành động:  
 Hành vi gây nguy hiểm cho xã hội: Việc dùng dao chém đứt bàn tay của C và
chém vào đầu khiến cho C tử vong là hành vi gây nguy hiểm cho XH.
Tuy nhiên, nhóm em cho rằng hành vi này được thực hiện trong khi trạng thái tinh
thần của H bị kích động mạnh bởi những hành vi VPPL nghiêm trọng của B và C, cụ
thể là đốt nhà H và chặn cửa, lao vào tấn công, nhằm vào tính mạng của H và bà K.
Những hành động này của B và C gây ra sự kích động mạnh về tinh thần cho H khiến
H không thể làm chủ được hành vi phạm tội của mình, bằng chứng là ngay khi H
chém đứt tay C thì B cầm đuốc xông tới, lúc này có thể có sự nguy hiểm từ B hướng
đến H, bên cạnh đó C bị đứt lìa tay gần như mất khả năng phản kháng, thì theo lẽ

6
thường H sẽ chuyển hướng tấn công sang B, nhưng H vẫn nhanh tay chém vào đầu C
khiến C chết tại chỗ.
 Hậu quả của hành vi phạm tội: C chết ngay tại chỗ.
 Mối quan hệ nhân quả: Hành vi trái pháp luật của nạn nhân là nguyên nhân
dẫn đến trạng thái tinh thần bị kích động mạnh của người phạm tội và hành vi của H là
nguyên nhân dẫn đến cái chết của C.

You might also like