You are on page 1of 8

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH


KHOA QUẢN TRỊ
&

BUỔI THẢO LUẬN THỨ HAI

Bộ môn: Luật Hình sự phần các Tội phạm


Giảng viên: Ths. Phan Thị Phương Hiền
Nhóm: 07

Thành viên:

1 Nguyễn Đức Mạnh 1953401020112


2 Lương Thị Hoàng Linh 1953401020098
3 Phạm Thị Vy Loan 1953401020106
4 Lê Đặng Phương Nghi 1953401020132
5 Nguyễn Hoàng Thục Nghi 1953401020133
6 Lê Thị Tú Nguyên 1953401020141

Thành phố Hồ Chí Minh, ngày 09 tháng 03 năm 2021


MỤC LỤC
NHẬN ĐỊNH................................................................................................................ 1
13. Cố ý tước đoạt tính mạng của người khác theo yêu cầu của người bị hại là hành
vi cấu thành Tội giúp người khác tự sát (Điều 131 BLHS).......................................1
16. Hành vi cố ý gây thương tích cho người khác mà tỷ lệ tổn thương cơ thể dưới
11% thì không cấu thành Tội cố ý gây thương tích (Điều 134 BLHS)......................1
19. Mọi trường hợp đối xử tàn ác với người lệ thuộc mình đều cấu thành Tội hành
hạ người khác được quy định tại Điều 140 BLHS.....................................................1
22. Mọi hành vi giao cấu thuận tình với người dưới 16 tuổi đều cấu thành Tội giao
cấu hoặc thực hiện hành vi quan hệ tình dục khác với người từ đủ 13 tuổi đến dưới
16 tuổi (Điều 145 BLHS)..........................................................................................2
23. Mọi trường hợp giao cấu trái pháp luật là giao cấu trái với ý muốn của nạn
nhân........................................................................................................................... 2
25. Mọi hành vi mua bán người đều cấu thành Tội mua bán người (Điều 150
BLHS)....................................................................................................................... 3
BÀI TẬP....................................................................................................................... 3
Bài tập 5....................................................................................................................3
Bài tập 11..................................................................................................................4
Bài tập 14..................................................................................................................5
NHẬN ĐỊNH
13. Cố ý tước đoạt tính mạng của người khác theo yêu cầu của người bị hại là
hành vi cấu thành Tội giúp người khác tự sát (Điều 131 BLHS).
 Nhận định sai.
Theo điểm b Khoản 1 Điều 131 BLHS1 quy định Tội giúp người khác tự sát thì
hành vi khách quan của Tội giúp người khác tự sát là hành vi tạo ra những điều kiện
vật chất hoặc tinh thần để người khác tự sát như cung cấp thuốc độc để nạn nhân tự
đầu độc hoặc chỉ dẫn cách tự sát. Hành vi khách quan này chỉ đóng vai trò là điều kiện
để nạn nhân sử dụng các điều kiện đó mà tự sát. Chủ thể tội phạm không trực tiếp
tước đi tính mạng của nạn nhân.
Còn hành vi cố ý tước đoạt tính mạng của người khác dù có theo yêu cầu của
người bị hại hay không đều là hành vi khách quan của Tội giết người (Điều 123
BLHS).
Như vậy, cố ý tước đoạt tính mạng của người khác theo yêu cầu của người bị hại
không là hành vi cấu thành tội giúp người khác tự sát.
16. Hành vi cố ý gây thương tích cho người khác mà tỷ lệ tổn thương cơ thể dưới
11% thì không cấu thành Tội cố ý gây thương tích (Điều 134 BLHS).
 Nhận định sai.
Căn cứ tại Khoản 1 Điều 134 BLHS quy định thì “Người nào cố ý gây thương
tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác mà tỷ lệ tổn thương cơ thể từ 11%
đến 30% hoặc dưới 11% nhưng thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt
cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm”. 
Như vậy, nếu thuộc các trường hợp được nêu tại Khoản 1 Điều này thì dù cho cố
ý gây thương tích cho người khác mà tỷ lệ tổn thương cơ thể dưới 11% vẫn cấu thành
Tội cố ý gây thương tích theo Điều 134 BLHS. 
19. Mọi trường hợp đối xử tàn ác với người lệ thuộc mình đều cấu thành Tội hành
hạ người khác được quy định tại Điều 140 BLHS.
 Nhận định sai.
Không phải mọi trường hợp đối xử tàn ác với người lệ thuộc mình đều cấu thành
Tội hành hạ người khác quy định tại Điều 140 BLHS.
Giữa người phạm tội và nạn nhân có quan hệ lệ thuộc, nhưng lệ thuộc về hôn
nhân gia đình và nuôi dưỡng như ông bà, cha mẹ, vợ chồng, con, cháu thì phải xử vào
Điều 185 BLHS. Còn lệ thuộc không thuộc hôn nhân gia đình và nuôi dưỡng thì mới
xử vào Tội hành hạ người khác quy định tại Điều 140 BLHS.

1
b) Tạo điều kiện vật chất hoặc tinh thần cho người khác tự tước đoạt tính mạng của họ.

1
Ví dụ: Mẹ của A tuổi già sức yếu, không có khả năng lao động sống dựa vào con là
A. Tuy nhiên A hay hành hạ, đánh đập tệ bạc đối với mẹ của mình. Khi đó, hành vi
của A cấu thành tội tại Điều 185 BLHS.
22. Mọi hành vi giao cấu thuận tình với người dưới 16 tuổi đều cấu thành Tội giao
cấu hoặc thực hiện hành vi quan hệ tình dục khác với người từ đủ 13 tuổi đến
dưới 16 tuổi (Điều 145 BLHS).
 Nhận định sai.
Vì theo quy định tại Điều 145 BLHS về Tội giao cấu hoặc thực hiện hành vi tình
dục khác với người từ đủ 13 tuổi đến dưới 16 tuổi thì chủ thể thực hiện tội phạm là
người đủ 18 tuổi không phụ thuộc giới tính và đối tượng tác động phải là người từ đủ
13 tuổi đến dưới 16 tuổi. 
Trong trường hợp hành vi phạm tội được thực hiện với người dưới 13 tuổi, dù
được sự thuận tình của nạn nhân thì vẫn bị cấu thành Tội hiếp dâm người dưới 16 tuổi
theo Điểm b Khoản 1 Điều 142 BLHS.
Vì vậy, không phải mọi hành vi giao cấu thuận tình với người dưới 16 tuổi đều
cấu thành Tội giao cấu hoặc thực hiện hành vi quan hệ tình dục khác với người từ đủ
13 tuổi đến dưới 16 tuổi (Điều 145 BLHS).
Ví dụ 1:  A(17 tuổi) giao cấu thuận tình với B(15 tuổi) thì A không bị truy cứu TNHS
về tội tại Điều 145 BLHS do chủ thể của tội phạm dưới 18 tuổi.
Ví dụ 2: A (19 tuổi) giao cấu thuận tình với B (12 tuổi), hành vi của A không cấu
thành tội phạm tại Điều 145 mà A phải chịu TNHS theo Điều 142 BLHS vì đối tượng
tác động dưới 13 tuổi.
23. Mọi trường hợp giao cấu trái pháp luật là giao cấu trái với ý muốn của nạn
nhân.
 Nhận định sai.
Không phải mọi trường hợp giao cấu trái pháp luật đều là giao cấu trái với ý
muốn của nạn nhân mà hành vi giao cấu trái pháp luật có thể là hành vi thuận tình.
Ví dụ: Theo điểm b Khoản 1 Điều 142 BLHS thì hành vi giao cấu hoặc thực hiện
hành vi quan hệ tình dục khác với người dưới 13 tuổi dù là hành vi thuận tình hay trái
với ý muốn nạn nhân đều được xem là hành vi trái pháp luật và bị xử lý theo Điều 142
BLHS về tội hiếp dâm người dưới 16 tuổi.

2
25. Mọi hành vi mua bán người đều cấu thành Tội mua bán người (Điều 150
BLHS). 
 Nhận định sai.
Vì nếu hành vi mua bán người nhưng nạn nhân lại dưới 16 tuổi thì không còn cấu thành
Tội mua bán người theo Điều 150 BLHS mà phải xử theo Điều 151 BLHS.

BÀI TẬP
Bài tập 5: A là đối tượng không có việc làm ổn định, thường uống rượu, gây gổ, đánh
nhau và bị cha mẹ rầy la.
Khoảng 17h30’, sau một chầu nhậu về, A bắt đầu chửi ông Th (bố đẻ của A) với
những lời lẽ hết sức hỗn láo: “Ngày trước tao còn nhỏ mày đánh tao, bây giờ tao đã
lớn, thằng nào há miệng tao bóp cổ chết tươi”. Đúng lúc đó, B (anh ruột của A) đi làm
về nghe A chửi cha nên rất bực tức, đã chỉ mặt A răn đe: “Nếu còn hỗn láo với cha
mẹ, có ngày tao đánh chết”.
Dù vậy, A vẫn còn tiếp tục chửi ông Th. Thấy ông A hỗn láo quá mức, không coi lời
nói của mình ra gì nên B chạy ngay vào bếp rút con dao lưỡi bầu mũi nhọn (kích
thước 25cm x 7cm) đâm liên tiếp 4 nhát vào bụng A khiến A gục chết tại chỗ.
Khi định tội cho vụ án có 2 quan điểm:
a. B phạm tội “giết người trong trạng thái tinh thần bị kích động mạnh”
(Điều 125 BLHS)
b. B phạm tội “giết người” (Điều 123 BLHS)
Theo Anh (chị), B đã phạm tội gì? Tại sao?
Theo em, trong tình huống trên thì B phạm Tội giết người (Điều 123 BLHS) vì: 
Thứ nhất, Tội giết người (Điều 123 BLHS) là hành vi cố ý tước bỏ trái pháp luật
tính mạng của người khác. Ở đây, B đã chạy vào bếp lấy con dao và đâm vào bụng 4
nhát khiến A tử vong. 
Thứ hai, chủ thể ở đây là chủ chủ thể thường, đủ tuổi và có năng lực TNHS
Thêm vào đó, để xác định hành vi phạm tội của B là tội giết người trong trạng thái
tinh thần bị kích động mạnh (Điều 125 BLHS) thì phải thỏa mãn 4 điều kiện:
 Phạm tội trong tình trạng tinh thần bị kích động mạnh.
Như vậy, anh B phải phạm tội trong tình trạng tinh thần bị kích động mạnh: “là tình
trạng người phạm tội không hoàn toàn tự chủ, tự kiềm chế được hành vi phạm tội của
mình”. Trường hợp người phạm tội có bị kích động về tinh thần nhưng chưa tới mức
mất khả năng tự chủ thì không gọi là bị kích động mạnh và không thuộc trường hợp
giết người trong trạng thái tinh thần bị kích động mạnh. 

3
 Do hành vi trái pháp luật nghiêm trọng của nạn nhân. 
Mặc dù A chửi bố mình là ông Th theo quy định tại Điều 51 NĐ 167/2013/ NĐ-CP sẽ
bị phạt tiền vì trái pháp luật tuy nhiên trong tình trạng say sỉn không kiểm soát được
hành hành vi của mình nên không được xem là hành vi trái pháp luật nghiêm trọng. 
 Đối với người phạm tội hoặc người thân của người phạm tội
Tình huống trên, A xúc phạm và răn đe bố mình cũng là bố của anh B “Ngày trước
tao còn nhỏ mày đánh tao, bây giờ tao đã lớn, thằng nào há miệng tao bóp cổ chết
tươi”. Mặc dù anh B đã răn đe nhưng anh A vẫn tiếp tục hỗn láo quá mức.
 Nạn nhân tử vong
Bị đâm liên tiếp bởi 4 nhát dao nên A đã tử vong tại chỗ.
Tóm lại, mặc dù A có hành vi xúc phạm đến bố mình cũng là bố của anh B và cũng có
hậu quả chết người nhưng vì anh B không phạm tội trong trạng thái tinh thần bị kích
động mạnh và cũng không do hành vi trái pháp luật nghiêm trọng của nạn nhân. Vì
vậy, B hành vi giết người của B không thỏa mãn các điều kiện của Tội giết người
trong trạng thái tinh thần bị kích động mạnh (Điều 125 BLHS) mà phải xét ở Tội giết
người (Điều 123 BLHS). Tuy nhiên, căn cứ vào điểm e Khoản 1 Điều 51 BLHS quy
định thì anh B có thể được giảm nhẹ trách nhiệm hình sự.

Bài tập 11: A dùng dây điện trần giăng xung quanh luống mía ở trong vườn mía
trước nhà mình để diệt chuột vì mía đã lên cao khoảng 0,08m - 1m, nhưng bị chuột
cắn phá rất nhiều ở phần ngọn. Xung quanh ruộng mía có tường bao quanh cao 1m40
đến 1m50 và không có lối đi tắt. Thường thường, A cắm điện vào lúc 22h đêm và ngắt
điện vào 5h sáng. Việc cắm điện đã được A thông báo cho bà con trong xóm biết.
Những con chuột bị chết do điện giật, A thường đem cho những người trong xóm nấu
cho heo ăn. Khoảng 24h, có một thanh niên khác xã trèo qua tường để vào vườn mía
và bị điện giật chết.
Hãy xác định tội danh đối với hành vi gây chết người của A.
Hành vi của A phạm vào Tội vô ý làm chết người được quy định tại Điều 150
BLHS 2015. Vì hành vi của A đáp ứng đủ các điều kiện cấu thành tội này.
Mặt khách quan:
 Hành vi: A đã vô ý làm chết một thanh niên khác xã do A giăng dây điện bẫy
chuột vườn mía trước nhà. Xung quanh vườn mía có tường cao bao quanh và không
có lối đi tắt. Việc giăng điện, cắm điện được A thông báo cho bà con trong xóm biết.
Những con chuột bị chết do điện giật, A thường đem cho những người trong xóm nấu
cho heo ăn.
 Hậu quả: Một thanh niên xã khác bị điện giật chết.

4
 Mối quan hệ nhân quả giữa hành vi và hậu quả: Hành vi giăng điện của A là
nguyên nhân trực tiếp dẫn đến cái chết của anh thanh niên.
Mặt chủ quan: Lỗi vô ý vì quá tự tin (A tuy thấy trước hành vi của mình có thể gây ra
hậu quả nguy hại cho xã hội nhưng cho rằng hậu quả đó sẽ không xảy ra hoặc có thể
ngăn ngừa được).
Chủ thể: A là chủ thể thường (đủ tuổi và có NLTNHS).
Khách thể: Quyền được tôn trọng và bảo vệ tính mạng của thanh niên xã khác đó.
 ĐTTĐ: một thanh niên xã khác.
⇒ Định tội danh: A phạm Tội vô ý làm chết người (Khoản 1 Điều 128 BLHS 2015).

Bài tập 14: A và B là đồng nghiệp và có mâu thuẫn với nhau. Do tính cách khác biệt
nên hai người không mấy ưa nhau. Trong một cuộc nhậu, A và B cãi nhau, A cầm cổ
chai bia đập bể một phần, dùng phần còn lại đâm vào người của B. B bị thương nặng
đưa vào bệnh viện cấp cứu và phải điều trị ở bệnh viện mất 15 ngày. Khi ra viện, B
mua một con dao với chiều dài 15 cm và rộng 1,5 cm. Sau 3 ngày tìm kiếm, B phát
hiện A đang ngồi uống cà phê cùng với hai người bạn, lưng ngồi quay ra đường. B lao
đến bất ngờ đâm một nhát vào bả vai A rồi bỏ chạy. A được cấp cứu vào bệnh viện
nhưng sau 5 ngày thì chết. Kết luận giám định pháp y xác định A chết do bị tràn khí
phổi vì mũi dao đâm vào đầu đỉnh phổi phải. 
Hãy xác định tội danh đối với hành vi của B. 
Hành vi phạm tội của B cấu thành Tội cố ý gây thương tích theo Điều 134
BLHS, thuộc cấu thành tăng nặng quy định tại Điểm a Khoản 4 Điều 134 BLHS. Vì
trong tình huống của B:
Chủ thể: B – có năng lực TNHS và đạt độ tuổi luật định.
Khách thể: Quyền được bảo vệ về sức khỏe của con người (của A).
Đối tượng tác động: Con người đang sống – A.
Mặt khách quan: 
• Hành vi khách quan: Việc B “đâm một nhát vào bả vai A rồi bỏ chạy” là hành
vi tác động trái phép đến thân thể của người khác, gây ra thương tích cho A.
• Hậu quả nguy hiểm cho xã hội: được thể hiện ở dạng thương tích – những vết
thương để lại trên cơ thể nạn nhân làm suy giảm sức khỏe của họ. B đâm A đã để lại
vết thương trên bả vai A, đồng thời gây ra hậu quả chết người “kết luận giám định
pháp y xác định A chết do bị tràn khí phổi vì mũi dao đâm vào đầu đỉnh phổi phải”.
• Mối quan hệ nhân quả: Hành vi đâm A của B là nguyên nhân khiến A chết theo
kết luận giám định pháp y.

5
Mặt chủ quan:
+ Trường hợp của B là hỗn hợp lỗi vì hỗn hợp lỗi là trường hợp trong cấu thành
tăng nặng của tội có hai lỗi (cố ý và vô ý) được quy định đối với những tình tiết khách
quan khác nhau. Trong đó, người phạm tội có lỗi cố ý đối với hành vi nguy hiểm cho
xã hội của mình và vô ý đối với hậu quả do hành vi đó gây ra.
Xét theo cấu thành tăng nặng được quy định tại Điểm a Khoản 4 Điều 134
BLHS thì hậu quả của tội phạm là thiệt hại về tính mạng. Và để áp dụng được quy
định này, thì lỗi của người phạm tội là hỗn hợp lỗi.
B có lỗi cố ý trong việc gây ra thương tích cho A. B đã có sự chuẩn bị qua các
tình tiết “B mua một con dao với chiều dài 15 cm và rộng 1,5 cm”, “Sau 3 ngày tìm
kiếm, B phát hiện A đang ngồi uống cà phê cùng hai người bạn, lưng ngồi quay ra
đường. B lao vào bất ngờ đâm vào bả vai A…”. B nhận thức được hành vi của mình là
nguy hiểm cho xã hội, thấy trước được hành vi có thể gây thương tích cho A nhưng
vẫn thực hiện.
Tuy nhiên, lỗi của B đối với hậu quả chết người là vô ý, thể hiện ở việc B chỉ
đâm một nhát vào bả vai A, cường độ tấn công không mạnh, mức độ tấn công không
liên tục và không cố ý tấn công vào vùng trọng điểm của cơ thể dù có đủ khả năng để
tấn công (vì lúc này A đang ngồi quay lưng ra đường). Nhưng vì nhát dao của B làm
cho nạn nhân chết do tràn khí phổi vì mũi dao đâm vào đầu đỉnh phổi phải, nên giữa
thương tích và cái chết của nạn nhân có mối quan hệ nhân quả.
Qua các điều kiện trên cho thấy hành vi của A thỏa mãn các dấu hiệu thuộc cấu thành
tăng nặng theo Điểm a Khoản 4 Điều 134 BLHS về Tội cố ý gây thương tích.

You might also like