You are on page 1of 13

TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

KHOA LUẬT DÂN SỰ

MÔN HỌC: DÂN SỰ 1


BUỔI THẢO LUẬN THỨ NĂM
(QUY ĐỊNH CHUNG VỀ THỪA KẾ)

1
VẤN ĐỀ 1: DI SẢN THỪA KẾ

Tóm tắt Bản án số 08/2020/DSST ngày 28/8/2020 của Tòa án Nhân dân thành phố
Vĩnh Yên tỉnh Vĩnh Phúc
Nguyên đơn: ông Hoà
Người đại diện theo uỷ quyền: ông Toàn, ông Nhân
Bị đơn: anh Nam, chị Hương
Nội dung sự việc: ông Hoà và người vợ quá cố là bà Mai. Tài sản tranh chấp là nhà, đất
tại phường Đống Đa do không thoả thuận được nên ông Hoà là đơn khởi kiện yêu cầu
chia di sản thừa kế bà Mai để lại. Bị đơn yêu cầu xác định diện tích 85,5m 2 chưa được
cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất là tài sản chung của gia đình. Khi bà Mai chết
không để lại di chúc nên số tài sản của bà Mai tính toán được là 3.075.807.250 được
chia theo pháp luật
Quyết định của tòa: Chấp nhận đơn khởi kiện yêu cầu chia thừa kế của ông Hòa

Tóm tắt Án lệ số 16/2017/AL của Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao
Nguyên đơn: chị H1, chị N1, chị H2, chị P
Bị đơn : Phùng Văn T
Khái quát nội dung án lệ:
 Tình huống án lệ: Di sản thừa kế là bất động sản đã được một trong các đồng thừa
kế chuyển nhượng. Các đồng thừa kế khác biết và không phản đối việc chuyển
nhượng đó. Số tiền nhận chuyển nhượng đã được dùng để lo cuộc sống của các đồng
thừa kế. Bên nhận chuyển nhượng đã được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất.
 Giải pháp pháp lý: Trường hợp này, Tòa án phải công nhận hợp đồng chuyển
nhượng quyền sử dụng đất là hợp pháp và diện tích đất đã chuyển nhượng không
còn trong khối di sản để chia thừa kế mà thuộc quyền sử dụng của bên nhận chuyển
nhượng.

Câu 1. Ở Việt Nam, di sản là gì và có bao gồm cả nghĩa vụ của người quá cố
không? Nêu cơ sở pháp lý khi trả lời.
Di sản có thể được hiểu một cách đầy đủ nhất là những giá trị vật chất, giá trị
tinh thần, giá trị tự nhiên và tài sản mà thế hệ trước đã tích lũy, gìn giữ và để lại
cho thế hệ sau.

2
Di sản bao gồm tài sản là bất động sản, động sản, hoa lợi; lợi tức thuộc quyền
sở hữu, sử dụng của người chết.
Căn cứ theo Điều 612 BLDS 2015: “Di sản bao gồm tài sản riêng của người
chết, phần tài sản của người chết trong tài sản chung với người khác”
Di sản không bao gồm cả nghĩa vụ của người quá cố. Căn cứ theo điều 615
BLDS 2015 thì nếu như di sản đã được chia thì mỗi người thừa kế sẽ có trách
nhiệm thực hiện nghĩa vụ về tài sản do người quá cố để lại tương ứng với phần
tài sản mà mình đã nhận; trong trường hợp di sản chưa được chia, thì nghĩa vụ
tài sản do người quá cố để lại được người quản lý di sản thực hiện theo đúng
thỏa thuận của những người thừa kế. Nếu có nghĩa vụ của người chết để lại khi
chia di sản thì dựa vào Điều 658 để xem xét thứ tự ưu tiên thanh toán để trừ
những nghĩa vụ do người quá cố để lại.

Câu 2. Khi tài sản do người quá cố để lại ở thời điểm mở thừa kế bị thay thế
bởi một tài sản mới sau đó thì tài sản mới có là di sản không? Vì sao?

Câu 3. Để được coi là di sản, theo quy định pháp luật, quyền sử dụng đất của
người quá cố có cần phải đã được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất
không? Nêu cơ sở pháp lý khi trả lời.

Câu 4. Trong Bản án số 08, Tòa án có coi diện tích đất tăng 85,5m 2 chưa được
cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất là di sản không? Đoạn nào của bán án
có câu trả lời?
Không được coi là di sản thừa kế, cần tiếp tục giao cho ông Hoà có trách nhiệm
thực hiện nghĩa vụ tài chính với nhà nước để được cấp giấy chứng nhận quyền
sử dụng đất.
Ở đoạn nhận định của toà án trang 217

Câu 5. Suy nghĩ của anh/chị về hướng xử lý nêu trên của Tòa án trong Bản án
số 08 về diện tích đất chưa được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất.
Theo em toà giải quyết vậy là hợp lý vì những lí do sau đây:
Thứ nhất: phần đất chưa được cấp phép sử dụng đã được ông Hoà xây dựng
chung với phần đất ông có giấy phép đàng hoàng, phần đất xây lán lấn ra dù
chưa được cấp phép nhưng nó không có vấn đề tranh chấp, không thuộc diện

3
đất quy hoạch phải di dời, ông Hòa quản lý, sử dụng, ổn định nhiều năm nay
nên việc để ông thực hiện nghĩa vụ đóng thuế cho phần đất 85,5m 2 này để được
cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất là hợp lý.
Thứ 2: không thể coi đây là tài sản của gia đình được tại vì phần đất này được
xây dựng và sử dụng từ lúc anh Nam còn nhỏ nên nó được đưa vào tài sản
chung của vợ chồng trong hôn nhân

Câu 6. Ở Án lệ số 16/2017/AL, trong diện tích 398m 2 đất, phần di sản của
Phùng Văn N là bao nhiêu? Vì sao?
Trong diện tích 398m2 đất thì phần di sản của Phùng Văn N là 133,5m 2. Vì năm
1991, bà Phùng Thị G đã chuyển nhượng 131m 2 trong 398m2 đất cho Phùng Văn
K, còn lại 267m2 đất là tài sản chung của vợ chồng, nên mỗi người được quyền
định đoạt ½ là 133,5m2.

Câu 7. Theo Án lệ trên, phần diện tích đất đã chuyển nhượng cho ông Phùng
Văn K có được coi là di sản để chia không? Vì sao?
Theo Án lệ trên, phần diện tích đất đã chuyển nhượng cho ông Phùng Văn K
không được coi là di sản để chia. Vì theo Toà: “Năm 1991, bà Phùng Thị G
chuyển nhượng cho ông Phùng Văn K diện tích 131m 2 trong tổng diện tích
398m2 của thửa đất trên; phần diện tích đất còn lại của thửa đất là 267,4m 2.
Năm 1999 bà Phùng Thị G đã được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất,
diện tích 267,4m2, bà Phùng Thị G cùng vợ chồng anh Phùng Văn T vẫn quản
lý sử dụng nhà đất này. Việc bà Phùng Thị G chuyển nhượng đất cho ông
Phùng Văn K các con bà Phùng Thị G đều biết, nhưng không ai có ý kiến phản
đối gì, các con của bà Phùng Thị G có lời khai bà Phùng Thị G bán đất để lo
cuộc sống của bà và các con. Nay ông Phùng Văn K cũng đã được cơ quan nhà
nước cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất. Vì vậy, có cơ sở để xác định các
con bà Phùng Thị G đã đồng ý để bà Phùng Thị G chuyển nhượng diện tích
131m2 nêu trên cho ông Phùng Văn K.”

Câu 8. Suy nghĩ của anh/chị về hướng giải quyết trong Án lệ trên liên quan đến
phần diện tích đã chuyển nhượng cho ông Phùng Văn K.
Hướng giải quyết trong Án lệ liên quan đến phần diện tích đã chuyển nhượng cho
ông K là hợp lý. Vì phần đất đó khi được chuyển nhượng các con của bà G đều
4
biết và không ý kiến do số tiền sau khi bán được sẽ được dùng để trang trải gia
đình, nuôi các con, và cũng ông K cũng đã được cấp giấy chứng nhận quyền sử
dụng đất, tức hợp đồng mua bán này không vi phạm pháp luật. Toà án giải quyết
như vậy mới bảo vệ được quyền lợi hợp pháp của ông K.

Câu 9. Nếu bà Phùng Thị G bán đất trên không để lo cuộc sống của các con mà
dùng cho tiền đó cho cá nhân bà Phùng Thị G thì số tiền đó có được coi là di
sản để chia không? Vì sao?
 Trường hợp 1 (di sản của ông N): Nếu bà Phùng Thị G bán đất trên không để
lo cuộc sống của các con mà dùng cho tiền đó cho cá nhân bà Phùng Thị G
thì số tiền đó không được coi là di sản (của ông Phùng Văn N) để chia.
Bởi vì:
Sau khi ông Phùng Văn N chết không để lại di chúc thì phần đất có diện tích
398m2 là tài sản chung của hai vợ chồng ông Phùng Văn N và bà Phùng Thị
G phải được chia đôi là 199m2; Và theo quy định của hàng thừa kế thứ nhất
tại điểm a khoản 1 Điều 651 BLDS 2015 thì những người này được chia
thừa kế như nhau, được hưởng phần di sản bằng nhau.
Nếu bà G tự ý bán 131m 2 đất cho ông K, không có sự đồng ý của các con và
dùng tiền đó cho cá nhân mình chứ không vì lợi ích của các con thì xem như
bà đã bán một phần đất của mình trong khối tài sản chung của hai vợ chồng.
Việc mua bán này sẽ không ảnh hưởng đến phần tài sản mà các đồng thừa kế
khác được hưởng.
 Trường hợp 2 (di sản của bà G): Nếu bà Phùng Thị G bán đất trên không để
lo cuộc sống của các con mà dùng cho tiền đó cho cá nhân bà Phùng Thị G
thì số tiền đó được coi là di sản (của bà Phùng Thị G) để chia sau khi bà mất.
Bởi vì:
Theo Điều 612 BLDS 2015 thì “Di sản bao gồm tài sản riêng của người chết,
phần tài sản của người chết trong tài sản chung với người khác”. Theo đó, ta
hiểu rằng di sản chính là tài sản thuộc sở hữu của người để lại thừa kế lúc họ
còn sống, đó có thể là tiểu, vật, giấy tờ có giá và quyền tài sản.
Cho nên số tiền mà bà G bán và để lại cho cá nhân của bà được xem là di sản
để chia sau khi bà chết đi.

5
Câu 10. Ở thời điểm bà Phùng Thị G chết, di sản của bà Phùng Thị G trong
diện tích đất trên là bao nhiêu? Vì sao?

Câu 11. Việc Tòa án xác định phần còn lại của di sản của bà Phùng Thị G là
43,5m2 có thuyết phục không? Vì sao? Đây có là nội dung của Án lệ số 16
không? Vì sao?
Việc Tòa án xác định phần còn lại của di sản của bà Phùng Thị G là 43,5m 2 là
không thuyết phục. Vì di sản lúc này của ông N (đã trừ đi phần đất bán cho ông K)
là 267m2 : 2 = 133,5m2 sẽ được chia đều cho hàng thừa kế thứ nhất (căn cứ theo
điểm a khoản 1 Điều 651 BLDS 2015) là bà G và 6 người con, nên phần mà bà G
nhận được là: 133,5:7 = ~19,07m 2. Vậy trên thực tế, phần di sản mà bà G để lại
(trừ đi phần diện tích bà cho chị H1) là: 133,5m2 + 19,07m2 - 90m2 = 62,57m2.
Đây không phải là nội dung của Án lệ 16. Vì Án lệ này nói về việc di sản thừa kế
là bất động sản đã được một trong các đồng thừa kế chuyển nhượng. Các đồng
thừa kế khác biết và không phản đối việc chuyển nhượng đó. Số tiền nhận chuyển
nhượng đã được dùng để lo cuộc sống của các đồng thừa kế. Bên nhận chuyển
nhượng đã được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất. Và giải pháp pháp lý là
Tòa án phải công nhận hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất là hợp pháp và
diện tích đất đã chuyển nhượng không còn trong khối di sản để chia thừa kế mà
thuộc quyền sử dụng của bên nhận chuyển nhượng.

Câu 12. Việc Tòa án quyết định “còn lại là 43,5m2 được chia cho 5 kỷ phần còn
lại” có thuyết phục không? Vì sao? Đây có là nội dung của Án lệ số 16 không?
Vì sao?
Tòa án quyết định “còn lại là 43,5m 2 được chia cho 5 kỷ phần còn lại” là không
thuyết phục vì trước khi bà G chết bà có để lại di chúc 90m 2 cho chị H1 là theo
tâm nguyện của bà phần còn lại thì phân chia tài sản 5 kỷ phần còn lại là chưa
hợp lý, không đảm bảo quyền lợi cho chị H bởi căn cứ theo điểm a khoản 1 Điều
651 BLDS 2015 thì: “a) Hàng thừa kế thứ nhất gồm: vợ, chồng, cha đẻ, mẹ đẻ,
cha nuôi, mẹ nuôi, con đẻ, con nuôi của người chết;”
Như vậy chị H1 thuộc hàng thừa kế thứ nhất nên chị H1 vẫn có quyền hưởng thừa
kế đối với phần di sản còn lại của bà G.

6
VẤN ĐỀ 2: QUẢN LÝ DI SẢN

Tóm tắt Bản án số 11/2020/DS-PT ngày 10/6/2020 của Tòa án nhân dân tỉnh Sơn La
Nguyên đơn: Anh Phạm Tiến H
Bị đơn: Anh Phạm Tiến N
Anh Phạm Tiến H và anh Phạm Tiến T, cháu Phạm Tiến N có họ hàng với nhau, anh T
là anh trai ruột của anh H và cháu N là con trai của của anh Phạm Tiến T. Bố mẹ của
nguyên đơn Phạm Tiến H là ông Phạm Tiến Đ, bà Đoàn Thị T sinh được 7 người con,
khi còn sống có tạo dựng một khối tài sản gồm có 311m2 đất và một ngôi nhà gỗ 4
gian. Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất mang tên bà Đoàn Thị T. Năm 1994, ông Đ
chết, đến năm 2012 bà T chết; cả hai ông bà không để lại di chúc. Các thành viên trong
gia đình thay nhau trông coi, quản lý khối tài sản của ông Đ và bà T. Nay anh H tu sửa
lại ngôi nhà và quản lý đất đai bố mẹ để lại để làm nơi thờ cúng bố mẹ chứ không phân
chia, tuy nhiên khi anh có ý định sửa thì cháu N cản trở. Anh H đề nghị Tòa án giải
quyết vụ án quyết buộc cháu N và anh T không được cản trở việc anh tu sửa ngôi nhà,
cháu N không được xâm phạm đến tài sản của bố mẹ anh.Tòa án đã chấp nhận yêu cầu
khởi kiện của anh Phạm Tiến H. Giao cho anh H được quyền quản lý tài sản thừa kế
của ông Phạm Tiến Đ và bà Đoàn Thị T. Anh H có các quyền và nghĩa vụ của người
quản lý di sản theo quy định tại các Điều 616, Điều 617, Điều 618 của Bộ luật Dân sự
2015.

Tóm tắt Quyết định số 147/2020/DS-GĐT ngày 09/7/2020 của Tòa án nhân dân cấp
cao tại TP. Hồ Chí Minh
Nguyên đơn: ông Trà Văn Đạm
Bị đơn: ông Phạm Văn Sơn Nhỏ
Nội dung: giữa ông Đạm và ông Nhỏ có thỏa thuận cho ông Đạm mở lối đi ra đường
công cộng trên phần đất của ông Ngót, nhưng phần đất đó là di sản chưa chia của ông
Ngót nên ông Nhỏ không có quyền định đoạt, nay ông Đạm khởi kiện yêu cầu ông
Nhỏ, bà Chơi cùng những người cùng hàng thừa kế với ông Nhỏ xin mở lối đi ngang
1,5m, dài 21m qua đất ông Ngót
Quyết định của Toà: Toà sơ thẩm và phúc thẩm buộc ông Nhỏ và những người cùng
hàng thừa kế với ông Nhỏ phải mở lối đi cho ông Đạm. Toà giám đốc thẩm huỷ bản án
phúc thẩm, giao hồ sơ cho TAND tỉnh Tiền Giang xét xử phúc thẩm lại.

7
Câu 1. Trong Bản án số 11, Tòa án xác định ai là người có quyền quản lý di sản
của ông Đ và bà T; việc xác định như vậy có thuyết phục không, vì sao?
Tòa xác định anh H là người có quyền quản lý di sản của ông Đ và bà T
Theo em là hợp lý, vì khi chết ông bà không để lại di chúc, nên di sản sẽ được
chia theo pháp luật: chia theo các hàng thừa kế nhưng các hàng thừa kế của ông
bà đều nhất trí xác nhận uỷ quyền cho anh H toàn quyền xử lý vụ việc và giao
di sản thừa kế cho anh H trông coi quản lý (trang 226 đoạn cuối). Bên cạnh đó
ông H cũng thuộc hàng thừa kế thứ nhất nên việc này cũng xem là phù hợp.

Câu 2. Trong Bản án số 11, ông Thiện trước khi đi chấp hành án có là người
quản lý di sản không? Nêu cơ sở pháp lý khi trả lời.
Ông Thiện dù trước khi đi chấp hành án cũng không được xem là người quản lý
di sản vì bố mẹ ông mất không để lại di chúc nên di sản này thuộc về tất cả các
hàng thừa kế bao gồm ông, bên cạnh đó trước khi đi thi hành án, ông cũng
không thực tế ở tại ngôi nhà ấy.
Cơ sở pháp lý: Điều 651 BLDS 2015: "Hàng thừa kế thứ nhất gồm: vợ, chồng,
cha đẻ, mẹ đẻ, cha nuôi, mẹ nuôi, con đẻ, con nuôi của người chết;"
Theo cơ sở pháp lý trên cho thấy di sản đó thuộc quyền quản lý của cả tất các
anh em con ông Đ và bà T chứ không của riêng ông Thiện.

Câu 3. Trong Bản án số 11, việc Tòa án giao cho anh Hiếu (Tiến H) quyền quản
lý di sản có thuyết phục không? Nêu cơ sở pháp lý khi trả lời.
Thuyết phục vì khi chết ông bà không để lại di chúc, nên di sản sẽ được chia theo
pháp luật: chia theo các hàng thừa kế nhưng các hàng thừa kế của ông bà đều nhất
trí xác nhận uỷ quyền cho anh H toàn quyền xử lý vụ việc và giao di sản thừa kế
cho anh H trông coi quản lý (trang 226 đoạn cuối). Bên cạnh đó ông H cũng
thuộc hàng thừa kế thứ nhất nên việc này cũng xem là phù hợp.
Cơ sở pháp lý: Điều 651 BLDS 2015: "Hàng thừa kế thứ nhất gồm: vợ, chồng,
cha đẻ, mẹ đẻ, cha nuôi, mẹ nuôi, con đẻ, con nuôi của người chết;"

Câu 4. Khi là người quản lý di sản, người quản lý di sản có quyền tôn tạo, tu
sửa lại di sản như trong Bản án số 11 không? Nêu cơ sở pháp lý khi trả lời.
Theo như bản án sơ thẩm xác định và đã được xác minh với các bà Phạm Thị L,
bà Phạm Thị N, bà Phạm Thị Nh, bà Phạm Thị H, Phạm Thị H đều là con gái
8
của ông Đ và bà T cũng có quyền quản lý khối di sản thừa kế tuy nhiên đã ủy
quyền toàn bộ cho anh H, nhất trí với việc giao di sản thừa kế cho anh Hiệu
trông coi, quản lý. Như vậy, căn cứ theo Khoản 1 Điều 616 BLDS 2015 quy
định về người quản lý di sản: “Người quản lý di sản là người được chỉ định
trong di chúc hoặc do những người thừa kế thỏa thuận cử ra.” thì anh Hiệu
được xác định là người quản lý di sản do những người thừa kế thỏa thuận cử ra.
Tuy nhiên, theo Khoản 1 Điều 618 BLDS 2015 quy định về quyền quản lý di
sản:
"Người quản lý di sản quy định tại khoản 1 và khoản 3 Điều 616 của Bộ luật
này có quyền sau đây:
a) Đại diện cho những người thừa kế trong quan hệ với người thứ ba liên quan
đến di sản thừa kế;
b) Được hưởng thù lao theo thỏa thuận với những người thừa kế;
c) Được thanh toán chi phí bảo quản di sản."
Thì không có quy định nào về việc người quản lý di sản có quyền tôn tạo, tu
sửa lại di sản. Do đó, trong Bản án số 11, thì anh Hiệu với tư cách là người
quản lý di sản không được tôn tạo, tu sửa căn nhà.

Câu 5. Khi là người quản lý di sản, người quản lý di sản có quyền giao lại cho
người khác quản lý di sản (như trong Bản án số 11 là ông Thiện giao lại cho con
trai) không? Nêu cơ sở pháp lý khi trả lời.
 Căn cứ vào Khoản 1 Điều 618 BLDS 2015 quy định về Quyền của người quản
lý di sản:
"Người quản lý di sản quy định tại khoản 1 và khoản 3 Điều 616 của Bộ luật
này có quyền sau đây:
a) Đại diện cho những người thừa kế trong quan hệ với người thứ ba liên quan
đến di sản thừa kế;
b) Được hưởng thù lao theo thỏa thuận với những người thừa kế;
c) Được thanh toán chi phí bảo quản di sản."
Thì không có quy định nào về việc người quản lý di sản có quyền giao lại cho
người khác quản lý. Do đó người quản lý di sản không được giao lại quyền và
nghĩa vụ cho người khác quản lý.
 Trong trường hợp Bản án số 11, sau khi bà T chết, ông Thiện là người trực tiếp
sinh sống và quản lý di sản của ông Đ và bà T. Khi ông Thiện đi chấp hành án,
9
có giao lại cho anh Nghĩa trông coi di sản của ông bà. Tuy nhiên, theo quy
định tại Điều 616 BLDS 2015 thì “Người quản lý di sản là người được chỉ định
trong di chúc hoặc do những người thừa kế thỏa thuận cử ra.” thì sau khi ông
Đ, bà T chết không để lại di chúc; việc quản lý của ông Thiện không có sự nhất
trí bằng văn bản của các đồng thừa kế. Do đó, ông Thiện không phải là người
quản lý di sản, càng không có quyền giao lại cho con trai là Phạm Tiến N trông
coi, sử dụng di sản của ông Đ, bà T.

Câu 6. Trong Quyết định số 147, Tòa án xác định người quản lý không có
quyền tự thỏa thuận mở lối đi cho người khác qua di sản có thuyết phục
không? Nêu cơ sở pháp lý khi trả lời.
Tòa xác định như vậy là thuyết phục.
Cơ sở pháp lý: điểm b khoản 1 Điều 617 BLDS 2015 về nghĩa vụ của người
quản lý di sản: “Bảo quản di sản; không được trao bán, trao đổi, tặng cho, cầm
cố, thế chấp hay định đoạt tài sản bằng hình thức khác, nếu không được những
người thừa kế đồng ý bằng văn bản;”
Việc ông Nhỏ thỏa thuận mở lối đi cho ông Đạm là quyết định cá nhân của ông
Nhỏ, không có sự đồng ý của những người thừa kế khác, vì vậy, quyền định
đoạt này của ông Nhỏ là không có căn cứ pháp luật.

VẤN ĐỀ 3: THỜI HIỆU TRONG LĨNH VỰC THỪA KẾ

Tóm tắt Án lệ số 26/2018/AL về xác định thời điểm bắt đầu tính thời hiệu và thời hiệu
yêu cầu chia di sản thừa kế là bất động sản

Câu 1. Cho biết các loại thời hiệu trong lĩnh vực thừa kế ở Việt Nam.
Theo BLDS 2105 tại Điều 623 thì có 3 loại thời hiệu:
(1). Thời hiệu để người thừa kế yêu cầu chia di sản là 30 năm đối với bất động
sản và 10 năm đối với động sản, kể từ thời điểm mở thừa kế.
(2). Thời hiệu để người thừa kế yêu cầu xác nhận quyền thừa kế của mình hoặc
bác bỏ quyền thừa kế của người khác là 10 năm, kể từ thời điểm mở thừa kế.
(3). Thời hiệu yêu cầu người thừa kế thực hiện nghĩa vụ về tài sản của người chết
để lại là 3 năm, kể từ thời điểm mở thừa kế.

10
Câu 2. Thời điểm mở thừa kế đối với di sản của cụ T là năm nào? Đoạn nào của
Quyết định tạo lập thành Án lệ số 26/2018/AL cho câu trả lời?
Thời điểm mở thừa kế đối với di sản của cụ T:
Theo khoản 1 Điều 611 BLDS 2015: “1. Thời điểm mở thừa kế là thời điểm
người có tài sản chết. Trường hợp Tòa án tuyên bố một người là đã chết thì thời
điểm mở thừa kế là ngày được xác định tại khoản 2 Điều 71 của Bộ luật này”.
Năm 1972, cụ T chết nên theo khoản 1 Điều 611 BLDS 2015 thì thời điểm mở
thừa kế đối với di sản của cụ T là năm 1972.
Đoạn của Quyết định tạo lập thành Án lệ 26/2018/AL cho câu trả lời trên:
“[7] Như vậy kể từ ngày Bộ luật Dân sự năm 2015 có hiệu lực thi hành, Tòa án
áp dụng quy định tại Điều 623 Bộ luật Dân sự năm 2015 để xác định thời hiệu
đối với trường hợp mở thừa kế trước ngày 01/01/2017. Căn cứ quy định tại
khoản 4 Điều 36 Pháp lệnh thừa kế ngày 30/08/1990 và Bộ luật Dân sự năm
2015, trong trường hợp này thời hiệu khởi kiện chia di sản của cụ T cho các
đồng thừa kế vẫn còn theo quy định của pháp luật.”

Câu 3. Việc Án lệ số 26/2018/AL áp dụng thời hiệu 30 năm của BLDS 2015 cho
di sản của cụ T có cơ sở văn bản nào không? Có thuyết phục không? Vì sao?
Câu 4. Việc Án lệ số 26/2018/AL áp dụng thời hiệu 30 năm của BLDS 2015 cho
di sản của cụ T với thời điểm bắt đầu từ thời điểm Pháp lệnh thừa kế năm 1990
được công bố có cơ sở văn bản nào không? Có thuyết phục không? Vì sao?
Câu 5. Suy nghĩ của anh/chị về Án lệ số 26/2018/AL nêu trên.
Theo nhóm em, Án lệ 26/2018/AL cho ta cái nhìn về thời điểm bắt đầu tỉnh thời
hiệu yêu cầu chia di sản thừa kế nói chung và thời hiệu yêu cầu chia di sản thừa
kế là bất động sản nói riêng, từ đó nhận thức được đây là một vấn đề phức tạp do
sự thay đổi giữa các thế hệ, vấn đề thay đổi văn bản pháp luật, khó khăn trong
việc xác định. Các quyết định mà Hội đồng thẩm phán đưa ra được nhìn nhận trên
nhiều khía cạnh, để mang tính thuyết phục. Đây là một án lệ hay, thực tế, nhưng ít
xảy ra. Án lệ đã có sự thay đổi áp dụng pháp luật nhằm đảm bảo được quyền lợi
của các bên, khắc phục được phần nào thiếu sót của BLDS 2015 và Pháp lệnh
thừa kế năm 1990. Việc ban hành Án lệ số 26/2018/AL giải quyết được rất nhiều
vấn đề tranh chấp về hết thời hiệu chia di sản thừa kế sau này.

11
VẤN ĐỀ 4: TÌM KIẾM TÀI LIỆU

Vấn đề 1. Liệt kê những bài viết liên quan đến pháp luật về tài sản và pháp luật
về thừa kế được công bố trên các Tạp chí chuyên ngành Luật từ đầu năm 2020
đến nay. Khi liệt kê, yêu cầu viết theo trật tự theo tên tác giả và việc liệt kê phải
thỏa mãn những thông tin theo trật tự sau: 1) Họ và tên tác giả, 2) Tên bài viết
để trong dấu ngoặc kép, 3) Tên Tạp chí in nghiêng 4) Số và năm của Tạp chí, 5)
Số trang của bài viết (ví dụ: từ tr.41 đến 51). Các bài viết được liệt kê theo
alphabet tên các tác giả (không nêu chức danh).
Nguyễn Thị Vân, “Khiếu nại về việc trả lại đơn khởi kiện tranh chấp vay tài sản”,
Tạp chí điện tử kiểm sát, ngày 28/02/2024
Lê Thanh Bình, “Một số bất cập về công nhận con nuôi trong vụ án tranh chấp
quyền thừa kế di sản”, Tạp chí điện tử kiểm sát, ngày 10/09/2022
Nguyễn Thị Kim Phượng, “Người trộm cắp tài sản dưới 16 tuổi thì người tiêu thụ
tài sản có phải chịu trách nhiệm hình sự không?”, Tạp chí điện tử kiểm sát, ngày
07/3/2024
Trần Tú-Thế Huynh, “Di chúc không công chứng, chứng thực được công nhận”,
Tạp chí điện tử kiểm sát, ngày 23/06/2023
Lưu Thị Thu Hương, “Phân chia di sản thừa kế là quyền sử dụng đất khi chưa
được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất”, Tạp chí điện tử kiểm sát, ngày
08/05/2023
Nguyễn Phúc Thiện, “Quyền thừa kế của con dâu góa, con rể góa theo Bộ luật
dân sự Trung Quốc- Kinh nghiệm cho Việt Nam”, Tạp chí khoa học pháp lý Việt
Nam, số 09/2022, tr 24
Tưởng Bằng Lượng, “Giải quyết các tranh chấp thừa kế tại tòa án nhân dân trong
thời gian vừa qua”, Tạp chí khoa học pháp lý Việt Nam, 03(10)/2001
Nguyễn Hồ Bích Hằng-Ngô Thị Anh Vân, “Một số góp ý về người thừa kế theo
quy định của BLDS- Bàn về tư cách hưởng thừa kế của người được thành thai và
sinh ra sau thời điểm mở thừa kế”, Tạp chí khoa học pháp lý Việt Nam,
05(90)/2015, Trang 45-50

Vấn đề 2. Cho biết làm thế nào để tìm được những bài viết trên.
Đa phần dựa vào từ khóa để tìm kiếm trên Tạp chí điện tử kiểm sát và Tạp chí
khoa học pháp lý Việt Nam

12
13

You might also like