You are on page 1of 2

PHẠM THỊ THẢO – Di sản thừa kế

1.6. Ở Án lệ số 16/2017/AL, trong diện tích 398m 2 đất, phần di sản của Phùng Văn N
là bao nhiêu? Vì sao?
Ở án lệ số 16/2017/AL, trong diện tích 398m2 đất, phần di sản của ông Phùng Văn N là
133,5m2. Vì năm 1991, bà Phùng Thị G đã chuyển nhượng cho ông Phùng Văn K 131m 2
đất, còn lại 267m2 là tài sản chung của ông Phùng Văn N và bà Phùng Thị K. Vậy nên
phần di sản của ông Phùng Văn N là ½ diện tích trên tổng diện tích 267m 2, tức là
133,5m2.
1.7. Theo Án lệ trên, phần diện tích đất đã chuyển nhượng cho ông Phùng Văn K có
được coi là di sản để chia không? Vì sao?
Theo Án lệ trên, phần diện tích đất đã chuyển nhượng cho ông Phùng Văn K không được
coi là di sản để chia vì phần đât 398m 2 là tài sản chung của vợ chồng ông Phùng Văn N
và bà Phùng Thị G, nhưng bà G đã chuyển nhượng cho ông Phùng Văn K 131m 2 đất và
đã được cơ quan nhà nước cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, các con của bà đều
biết nhưng không ai có ý kiến phản đối gì.
Căn cứ Điều 612 BLDS năm 2015: “Di sản bao gồm tài sản riêng của người chết, phần
tài sản của người chết trong tài sản chung với người khác”. Diện tích 131m2 không phải
là tải sản của bà G hay tài sản chung của bà G với người khác nên phần diện tích đất đã
chuyển nhượng cho ông Phùng Văn K không được coi là di sản để chia.
Đồng thời, trong phần nhận định của Tòa án ở Án lệ số 16/2017/AL cũng có nêu ra:
“Năm 1991, bà Phùng Thị G chuyển nhượng cho ông Phùng Văn K diện tích 131m 2 trong
tổng diện tích 398m2 của thửa đất trên; phần diện tích đất còn lại của thửa đất là
267,4m2. Năm 1999 bà Phùng Thị G đã được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất,
diện tích 267,4m2, bà Phùng Thị G cùng vợ chồng anh Phùng Văn T vẫn quản lý sử dụng
nhà đất này. Việc bà Phùng Thị G chuyển nhượng đất cho ông Phùng Văn K các con bà
Phùng Thị G đều biết, nhưng không ai có ý kiến phản đối gì, các con của bà Phùng Thị
G có lời khai bà Phùng Thị G bán đất để lo cuộc sống của bà và các con. Nay ông Phùng
Văn K cũng đã được cơ quan nhà nước cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất. Vì vậy,
có cơ sở để xác định các con bà Phùng Thị G đã đồng ý để bà Phùng Thị G chuyển
nhượng diện tích 131m2 nêu trên cho ông Phùng Văn K. Tòa án cấp phúc thẩm không
đưa diện tích đất bà Phùng Thị G đã bán cho ông Phùng Văn K vào khối tài sản để chia
là có căn cứ. Tòa án cấp sơ thẩm xác định di sản là tổng diện tích đất 398m 2 (bao gồm
cả phần đất đã bán cho ông Phùng Văn K) để chia là không đúng.”
1.8. Suy nghĩ của anh/chị về hướng giải quyết trong Án lệ trên liên quan đến phần
diện tích đã chuyển nhượng cho ông Phùng Văn K.
Theo nhóm, hướng giải quyết trong Án lệ liên quan đến phần diện tích đã chuyển nhượng
cho ông Phùng Văn K là hợp lý.
Trong Án lệ quyết định không đưa phần diện tích 131m 2 đất bà G đã chuyển nhượng cho
ông K vào phần di sản thừa kế. Vì việc bà Phùng Thị G chuyển nhượng đất cho ông
Phùng Văn K các con bà Phùng Thị G đều biết, nhưng không ai có ý kiến phản đối gì, các
con của bà Phùng Thị G có lời khai bà Phùng Thị G bán đất để lo cuộc sống của bà và
các con. Ông Phùng Văn K cũng đã được cơ quan nhà nước cấp giấy chứng nhận quyền
sử dụng đất. Căn cứ Điều 223 BLDS năm 2015: “Người được giao tài sản thông qua hợp
đồng mua bán, tặng cho, trao đổi, cho vay hoặc hợp đồng chuyển quyền sở hữu khác
theo quy định của pháp luật thì có quyền sở hữu tài sản đó.”. Vậy nên diện tích đất trên
đã thuộc quyền sở hữu của ông Phùng Văn K.
1.9. Nếu bà Phùng Thị G bán đất trên không để lo cuộc sống của các con mà dùng
cho tiền đó cho cá nhân bà Phùng Thị G thì số tiền đó có được coi là di sản để chia
không? Vì sao?
Nếu bà Phùng Thị G bán đất trên không để lo cuộc sống của các con mà dùng tiền đó cho
cá nhân bà Phùng thì số tiền đó không được coi là di sản để chia.
Tài sản chung của ông Phùng Văn N và bà Phùng Thị K là 398m 2 đất, sau khi ông N mất
không để lại di chúc thì tài sản chung này sẽ được chia đôi là 199m 2 đất căn cứ theo
khoản 2 Điều 66 Luật Hôn nhân và Gia đình 2014: “2. Khi có yêu cầu về chia di sản thì
tài sản chung của vợ chồng được chia đôi, trừ trường hợp vợ chồng có thỏa thuận về chế
độ tài sản. Phần tài sản của vợ, chồng chết hoặc bị Tòa án tuyên bố là đã chết được chia
theo quy định của pháp luật về thừa kế.”. Vậy bà Phùng Thị G sẽ được hưởng 199m2 đất.
Căn cứ điểm a khoản 1 và khoản 2 Điều 651 BLDS 2015, bà G và các con chung của 2
vợ chồng đều thuộc hàng thừa kế thứ nhất nên được hưởng phần di sản bằng nhau.
Tại khoản 2 Điều 33 Luật Hôn nhân và Gia đình 2014 quy định về tài sản chung của vợ
chồng: “2. Tài sản chung của vợ chồng thuộc sở hữu chung hợp nhất, được dùng để bảo
đảm nhu cầu của gia đình, thực hiện nghĩa vụ chung của vợ chồng.”. Như vậy, nếu bà G
bán đất trên không để lo cho cuộc sống các con mà dùng cho cá nhân bà thì diện tích
131m2 đất trên được xem như tài sản riêng và sau khi chuyển nhượng bà G còn 68m 2.
Đồng thời, việc mua bán này sẽ không ảnh hưởng tới phần tài sản mà các đồng thừa kế
khác được hưởng vì phần diện tích đất trên sẽ được xem như bà G đã bán một phần đất
của mình trong tài sản chung của hai vợ chồng.

You might also like